Đọc truyện Từ Bỏ Thế Giới Vàng – Chương 3
Thật đúng là một đêm của Ánh Sáng Ban Ngày. Anh là trung tâm và là kẻ khơi mào cuộc vui làm nó lây lan từ người này sang người khác mà không tài nào dập tắt được. Anh tự hoá thân mình thành nhiều người, do đó sự huyên náo cũng được nhân lên gấp bội. Không có trò nào anh bày ra là quá bạo và mọi người đều tham gia vào trò chơi đó, trừ những kẻ dở người ngã gục giữa chừng nhưng miệng vẫn hát lảm nhảm bằng một giọng run rẩy.
Ánh Sáng Ban Ngày hình như không biết mệt. Trong lúc chờ nhảy bản kế tiếp, anh chung cho Kearns hai mươi ngàn đô-la bằng vàng bụi và giao cho hắn giấy tờ chủ quyền của anh về Lạch Da Hươu. Anh cũng thu xếp luôn việc nhận chuyển thư cho Billy Rawlins và chuẩn bị hành lý để mai đi sớm. Anh còn phái người đi đánh thức Kama, tay điều khiển chó, một thổ dân thuộc bộ lạc Tananaw nhưng từ lâu đã từ bỏ bộ lạc của mình để phục vụ cho những kẻ da trắng xâm lăng. Kama bước vào quán Tivoli, dáng cao gầy, gân guốc, mặc áo lông thú, trông rõ là tay chì nhất trong cái chủng tộc của hắn. Hắn bước vào quán Tivoli giữa đám người đang chơi bời huyên náo để nhận lệnh của Ánh Sáng Ban Ngày mà không mảy may lúng túng hay sợ sệt.
– Ừ – Kama vừa nói vừa đưa ngón tay ra đếm những chỉ thị mà hắn nhận được – Nhận thư của Rawlins này. Chất thư lên xe kéo này. Lấy thực phẩm dự trữ đủ dùng cho đến Selkirk này. Ừ, này ông, ở trạm Selkirk có kiếm được thực phẩm cho chó không?
– Nhiều lắm, Kama ạ.
– Ừ. Mang xe trượt đến đây lúc chín giờ này. Mang cả giày đi tuyết này. Không cần mang lều này. Chắc phải mang theo bạt chứ?
– Không cần, – Ánh Sáng Ban Ngày trả lời dứt khoát – Lạnh nhiều đấy. Ta đi thật gọn nhẹ, hiểu không? Khi đi mình mang nhiều thứ, khi về cũng nhiều thứ. Cậu chịu đựng giỏi. Lạnh nhiều, đi nhiều cũng chẳng thấm gì, phải không?
– Ðương nhiên, – Kama lẩm bẩm, vẻ cam chịu – Lạnh tôi cũng cóc sợ. Khởi hành lúc chín giờ hả ông?
Hắn xoay người trên đôi giày da đanh của thổ dân và bước ra ngoài, điềm tĩnh như tượng nhân sự không cho mà cũng không nhận một lời chào hỏi nào, cũng không nhìn ngang nhìn ngửa. Mộng Trinh dẫn Ánh Sáng Ban Ngày vào một góc phòng.
– Nghe này, Ánh Sáng Ban Ngày, – nàng khẽ nói, – Anh khánh kiệt rồi…
– Bây giờ anh còn nhẹ hơn cả một con diều giấy nữa đấy.
– Em còn tám ngàn đô-la gửi trong tủ sắt của Mac, – nàng bắt đầu vào chuyện.
Ánh Sáng Ban Ngày lập tức ngắt ngang. Cái dây tạp dề đang lò dò lại gần mà anh thì nhát một chú ngựa non chưa ai cưỡi.
– Không cần, – anh nói – Anh sinh ra có cắc nào đâu, nên đi ra khỏi thế giới này cũng chẳng cần cắc nào cả. Mà anh cũng đã cháy túi nhiều lần nên đã quen rồi. Thôi ta đi nhảy đi…
– Thì anh cứ nghe em đã nào – Mộng Trinh chèo kéo – Tiền em để đấy cũng thế thôi. Em cho anh mượn vậy – gọi là để đóng góp vào việc tìm mỏ thôi mà – nàng nói gấp gáp khi thấy vẻ hoảng bốt lộ trên mặt anh.
– Chẳng ai phải đóng góp cho anh cả. – Ánh Sáng Ban Ngày trả lời, – Anh tự lo liệu lấy, để khi kiếm được tiền ấy sẽ hoàn toàn thuộc về anh. Không, anh xin cảm ơn cô bé. Rất cảm ơn, nhưng để anh tự lo bằng cách chạy thư thì hơn.
– Kìa anh? – Mộng Trinh dịu dàng phản đối.
Nhưng làm như thể đang rất phấn khởi, anh kéo nàng lại phít sàn nhảy. Trong lúc hai. người đang quay cuồng theo điệu luân vũ, Mộng Trinh cứ miên man suy nghĩ về trái tim sắt đá của gã đàn ông đang ôm nàng trong vòng tay và đã tránh né được mọi cạm bẫy của nàng.
Lúc sáu giờ sáng, người nóng ran lên vì men rượu Whisky, nhưng vẫn còn giữ được phong độ, anh đứng ở quầy rượu quật tay mọi người xuống mặt quầy. Ðây là trò gồng tay. Hết người này đến người khác ra đọ sức với anh, nhưng chẳng ai đè nổi tay anh xuống, ngay cả hai người to lớn như Olaf Henderson và French Louis cũng chịu thua. Khi có người cho rằng đó là chẳng qua chỉ là một trò bịp, một mánh khoé do cơ bắp đã được luyện tập nhiều mà thôi, thì anh liền thách đấu sức theo một cách khác.
– Các cậu nhìn đây này, – anh la lên – Tớ sẽ làm hai chuyện sau đây. Trước hết là cân túi vàng của mình xem còn bao nhiêu. Sau đó là đánh cuộc với các cậu là tớ đủ sức nhấc bổng tất cả các bao bột mì mà các cậu có thể nhấc được sau khi đã chất thêm hai bao nữa vào số đó.
– Lạy Chúa, để tớ, – French Louis nói át tất cả các tiếng reo hò.
– Gượm đã! – Olaf Henderson cũng la lên – Tớ với cậu mạnh ngang nhau, vậy cho tớ tham gia nửa số tiền cuộc với.
Trên bàn cân, túi vàng của Ánh Sáng Ban Ngày đánh giá bốn trăm đô-la. Louis và Olaf chia đôi số tiền cuộc. Những bao bột mì nặng năm mười cân Anh được mang vào từ phòng kho của McDonald. Những người khác đòi thẻ trước. Họ đứng dạng chân trên hai chiếc ghế, dưới đất là bốn bao bột mì được cột với nhau bằng dây thừng.
Bằng cách này, nhiều người có thể nhất đến bốn hoặc năm trăm cân. Một số ít khác đạt đến mức sáu trăm cân. Cuối cùng hai gã khổng lồ ra thử sức với các bao bột mì nặng bảy trăm cân. French Louis chất thêm vào một bao nữa thành bảy trăm năm mươi cân và nhấc bổng lên. Olaf cũng làm được như vậy. Nhưng đến tám trăm cân thì họ đành chịu. Họ thử đi thử lại đến nỗi mồ hôi trán vã ra thành giọt; xương cốt kêu răng rắc. Họ có thể rê hoặc giật giật chúng từ chỗ này qua chỗ khác, nhưng nhấc bổng chúng lên thì họ bó tay.
– Nói có Chúa, lần này thì cậu sau lầm lớn rồi. Ánh Sáng Ban Ngày ạ, – French Louis vừa nói vừa đứng thẳng lưng dậy và bước xuống ghế. Có là mình đồng da sắt thì mới nhất nổi thôi. Nhớ là phải thêm một trăm cân nữa, chứ không phải chỉ mười cân đâu nhé ông bạn.
Người ta cởi dây cột mấy bao bột mì ra và định thêm vào hai bao nữa thì Kearns nói xen vào.
– Một bao nữa thói chứ.
– Hai chứ? – có tiếng người la lên – Lúc đầu đánh cuộc là hai cơ mà.
Kearns phản đối:
– Nhưng mà họ có nhấc nổi cái bao cuối cùng đâu. Họ chỉ nhấc bổng được có bảy răm năm mươi cân thôi mà.
Nhưng Ánh Sáng Ban Ngày đã giải quyết cuộc cãi vã một cách hào hiệp:
– Có gì mà các cậu phải nhặng xị lên vậy. Thêm hay bớt một bao thì nhằm nhỏ gì? Nếu tớ không nhấc nổi được ba bao nữa thì tớ cũng chẳng nhấc nổi hai bao. Cứ bỏ hết vào đi.
Anh đứng lên ghế, hơi rùn người và còng lưng xuống cho đến khi bàn tay chạm phải sợi dây thừng. Anh hơi dịch đôi chân một chút, lên gây tay kéo thử, rồi lại nhả ra để sửa lại thế đứng cho thật hoàn hảo.
French Louis la lên với giọng không tin:
– Kéo mạnh lên nào, Ánh Sáng Ban Ngày. Kéo mạnh lên nào!
Ánh Sáng Ban Ngày lại lên gân tay, lần này kéo thật, sức lực của toàn thân được vận lên từ từ cho đến khi cái khối chín trăm cân cồng kềnh được nhấc bổng khỏi mặt đất đong đưa tới lui như một con lắc giữa hai chân của anh.
Olaf Henderson thở hắt ra một hơi rõ to.
Mộng Trinh, lúc nãy cũng vô tình vận sức theo đến nỗi toàn thân nàng đau cứ như dần, thở phào nhẹ nhõm. Còn French Louis thì lẩm lẩm một cách kính nể:
– Thưa ông Ánh Sáng Ban Ngày, cho phép tôi chào thua. Tôi chỉ là một đứa bé to xác. Ông mới thật là một người đàn ông bự con.
– Chung đi, – Ánh Sáng Ban Ngày kêu lên, rồi thẩy túi vàng của mình lại chỗ bàn cân. Ở đó vàng từ hai chiếc túi của hai kẻ thua cuộc được trút vào chiếc túi ấy cho đủ số bốn trăm đô-la.
– Vô nào! Vô nào!- Ánh Sáng Ban Ngày lại nói- Ai muốn uống gì cứ gọi. Người thắng xin bao.
Mười phút sau, anh lại la lên:
– Ðêm nay là đêm của tớ. Tớ là một con chó sói già cô độc. Tớ đã chững kiến ba mươi mùa đông rồi. Hôm nay là sinh nhật của tớ, cả năm chỉ có một lần. Tớ có thể quật cho mọi người ngã ngửa. Ði nào, mọi người. Tớ sẽ cho các cậu ngã ngửa trên tuyết. Ði nào, ma mới cũng như ma cũ ra đây tớ làm lễ rửa tội cho nào.
Tất cả đám người đang chè chén đều kéo nhau ra khỏi quán, chỉ trừ mấy gã phục vụ và những kẻ đã say bí tỉ lúc này vẫn lè nhè giọng hát, McDonald muốn giữ thể diện nên hắn giang rộng vòng tay tiến về phía Ánh Sáng Ban Ngày.
– Sao? Cậu muốn thử trước à? – Ánh Sáng Ban Ngày vừa nói vừa cười cùng lúc ấy tay anh nắm lấy tay Mac như thể họ đang chào nhau vậy.
– Không phải, không phải! – Mac chối bai bải. – Tớ chỉ muốn chúc mừng sinh nhật của cậu thôi. Dĩ nhiên là cậu có thể cho tớ ngã ngửa trên tuyết rất dễ dàng. Ai mà dám cự lại một người đã nhấc bổng chín trăm cân bao giờ? McDonald nặng một trăm tám mươi cân, ấy mà Ánh Sáng Ban Ngày ch nắm một tay và chỉ giật một cái là đã nhấc bổng hắn lên và ném hắn ngã sóng xoài úp mặt xuống tuyết Liền sau đó anh chộp khoảng sáu người đứng gần và ném xuống tuyết. Không ai cưỡng lại được Anh cứ tóm và hất một cái là họ bay ào ào rồi rơi xuống tuyết mềm theo đủ tư thế một cách lạ lùng nhưng vô hại. Chẳng mấy chốc anh khó phân biệt được ai là người bị ném rồi và ai là người còn đang đợi tới phiên trong cái ánh sao lờ mờ nên anh đành phải rờ lưng và vai họ xem có bị dính tuyết hay chưa.
– Ðã được rửa tội chưa nào? – anh cứ lập lạ câu hỏi này mỗi khi chìa đôi bàn tay khủng khiếp của mình ra.
Hàng chục người nằm sóng xoài theo mối hàng dài trên mặt tuyết. Nhiều người khác quỳ gối với vẻ khiêm tốn trông thật buồn cười, vọc tuyết xát lên đầu, và thề rằng họ đã được làm lễ rửa tội rồi. Nhưng có một nhóm năm người là vẫn đứng hiên ngang. Họ là những kẻ chuyên sống trong rừng sâu và vùng biên thuỳ, và họ sẵn sàng cự lại những ai muốn tỏ ra khỏe hơn họ vào ngày sinh nhật của mình.
Tuy là những tay cự phách thuộc các lò đào tạo khắc nghiệt nhất, những cựu chiến binh của hàng trăm trận loạn đả, những con người chịu đựng giỏi, sẵn sàng đổ máu và mồ hôi, họ vẫn thiếu cái mà Ánh Sáng Ban Ngày có và có rất nhiều: sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa đầu óc và bắp thịt. Bởi vậy, anh chỉ vừa ra tay một cái, đối thủ chưa kịp hiểu và kháng cự, thì anh đã đạt được mục đích của mình rồi. Cũng vậy, khi có ai vừa chạm đến anh là anh liền biết phản ứng và đánh trả lại ngay nhanh như chớp.
– Ðứng chờ ở đó mà làm gì, – Ánh Sáng Ban Ngày vừa nói vừa tiến lại phía năm người đang đợi – Các cậu đến nhận lễ rửa tội của tớ đi cho rồi. Các cậu có thể cho tớ đo ván vào bất kỳ ngày nào khác trong năm, nhưng vào ngày sinh nhật của tớ thì tớ muốn các cậu thấy tớ là vô địch. Có phải cái bản mặt của Pat Hanrahan đang nhìn tớ một cách khao khát và tự nguyện kia không? Lại đây nào, Pat.
Pat Hanrahan, cựu võ sĩ quyền anh đấu tay không và là cao thủ trong các trò vui mạnh bạo, bước tới trước. Hai người chộp lấy tay nhau, và hầu như anh chàng Ái Nhĩ Lan chưa kịp động thủ thì đã thấy tay mình bị khoá chặt đau điếng và bị ném đến nỗi đầu và vai họ vùi hẳn trong tuyết. Joe Hines, trước làm nghề xẻ gỗ, cũng bị quật xuống đất mạnh y như thể vừa ngã từ tầng lầu hai xuống. Rõ là hắn đã bị anh chộp ngay bàn toạ, nhấc lên, và ném xuống khi chưa kịp trở tay. Doc Watson, cái gã có bộ râu cằm xám, mình rắn như thép, không biết trước kia gã làm gì, chỉ biết là g rất kinh khủng trong một vật lộn, cũng bị hất ngã trong tích tắc trước khi hắn kịp tấn công. Olaf Henderson, biết là tới phiên mình, tính lợi dụng lúc Ánh Sáng Ban Ngày đang khom người đưa ta đỡ Doc Watson dậy để ra đòn bất ngờ về phía hông. Nhưng Ánh Sáng Ban Ngày đã lập tức bò toài ra trên mặt đất. Ðà lao của Olaf rất mạnh, mà đầu gối lại đột nhiên bị tư thế của Ánh Sáng Ban Ngày ngáng lại, nên bị hất lao rất xa về phía trước. Trước khi hắn kịp ngồi dậy thì Ánh Sáng Ban Ngày đã lật ngửa hắn ra, vọc tuyết chà lên mặt và ta hắn, lại còn tọng tuyết vào mồm cho đến khi lọ vào cuống họng mới thôi.
– Tớ cũng khoẻ chẳng kém gì cậu, Ánh Sáng Ban Ngày ạ! – Olaf nói lúng búng khi đã đứng dậy được – Nhưng nói có Chúa, tớ chưa thấy ai có cái gì mạnh như vậy.
French Louis là người cuối cùng trong số năm người lúc nãy. Hắn đã chứng kiến nhiều rồi nên hề sức cảnh giác. Hắn cứ lòng vòng né tránh cả phú trước khi chịu nắm tay Ánh Sáng Ban Ngày. Rồi họ vận sức bẻ tay nhậu qua lại nghiêng ngửa cả phút nữa mà chẳng ai chiếm được ưu thế. Rồi ngay lúc cuộc chiến đấu đang đến phần hào hứng thì Ánh Sáng Ban Ngày đã lẹ làng tăng thêm lực và vận hết gân cốt. French Louis gượng chống đỡ cho đến khi xương cốt hắn kêu răng rắc và người hắn từ tù nghiêng hẳn qua cho đến khi ngã bệt xuống đất.
– Kẻ thắng đãi nữa nào! – Ánh Sáng Ban Ngày vừa nói vừa đứng thẳng dậy và dẫn đoàn người trở vào quán Tivoli – Vào đi, theo ngã này vào phòng “độc dược” đi!
Họ đứng thành hàng dọc theo chiếc quầy dài. Bettles, tay cứng cựa nhất trong số những người tiên phong về khả năng và óc mạo hiểm, ngừng lè nhè bài ca “Rễ Cây De Vàng” để chào đón Ánh Sáng Ban Ngày, nhưng nửa chừng lại thấy cần phải phát biểu đôi lời nên liền cao giọng một cách rất ư là hùng biện:
– Tôi xin báo cho quý vị biết là tôi rất hãnh diện được gọi Ánh Sáng Ban Ngày là bạn. Trước kia tôi và anh ta là bạn đồng hành. Từ chân lên đến đầu anh ta là vàng mười tám cara, mặc dù anh ta còn là một chú nhóc. Còn quý vị khi bằng tuổi đó thì chùi tai cũng còn chưa sạch. Anh ta không bao giờ là một đứa con nít cả. Ngay khi mới ra đời, anh ta đã là một người trưởng thành hoàn toàn rồi. Mà quý vị phải biết, vào thời đó đàn ông phải tỏ ra mình là đàn ông đấy nhé, chứ chẳng phải như cái thời đại văn minh thối rữa bây giờ đâu, – Bettles ngưng một lúc lâu để quàng tay mình qua vai Ánh Sáng Ban Ngày theo kiểu một chú gấu – Khi cậu với tôi phiêu lưu vào cái vùng sông Yukon này trong những ngày xa xưa tươi đẹp ấy thì trời đâu đã mưa ra súp và làm gì có những trạm ăn trưa khỏi mất tiền như bây giờ nhỉ? Hễ săn được thú chỗ nào làm phải đốt lửa nấu ăn ngay chỗ đó. Mà lúc đó mình chỉ sống nhờ vào cá hồi và thịt thỏ ai thôi, và phải xơi luôn cả ruột gan của chúng. Tôi nói có phải không nào?
Khi thấy mọi người phá lên cười vì thấy mình nói nhầm, Bettles buông tay đang khoác trên va Ánh Sáng Ban Ngày ra và giận dữ quay về phía đám đông.
– Cười đi mấy thằng đầu bò kia, cứ cười đi! Nhưng tao nói thẳng tuột cho bọn bay nghe, đứa khá nhất trong bọn bay cũng chẳng xứng đáng cọ giày cho Ánh Sáng Ban Ngày đây. Nói vậy có đúng không hử, Campbell? Nói vậy có đúng không hử Mac? Ánh Sáng Ban Ngày là một tay vệ binh kỳ cựu một tay đào vàng thực sự. Lúc đó chẳng có tàu chạy bằng hơi nước mà cũng chẳng có chỗ bán buôn gì cả, và bọn tớ chỉ toàn sống bằng cá hồi và thịt thỏ mà thôi.
Nói xong, hắn nhìn khắp lượt một cách đắc thắng trong tiếng vỗ tay tán thưởng, sau đó có cả mấy giọng nói cất lên đòi Ánh Sáng Ban Ngày phả phát biểu. Anh ra hiệu đồng ý. Người ta liền nhắc ghế ra và giúp anh trèo lên. Anh thật cũng chẳng tỉnh táo gì hơn cái đám người đứng dưới – một đán người ồn ào, ăn mặc thô kệch, chân mang giày da đanh kiểu thổ dân hoặc giày kín bằng da hải cẩu viền lông thú, bao tay đeo ở cổ lủng lẳng, đầu độ mũ da có vành che tai được cuộn lên trông giống như những cái nón sắt có đinh cánh của người Bắc Âu. Ðôi mắt đen láy của Ánh Sáng Ban Ngày loé sáng và máu dồn lên do men rượu làm đôi má màu đồng của anh xâm thêm. Anh được đón chào nồng nhiệt nhiều lần bằng những lời hoan hô đến độ hình như anh phải ứa nước mắt, dù rằng có rất nhiều tiếng hoan hô chỉ là những tiếng phều phào hoặc lè nhè.
– Các bạn, bây giờ tớ chẳng biết phải nói gì với các bạn cả – Ánh Sáng Ban Ngày bắt đầu một cách lừng khừng, cố kiểm soát cái đầu lúc nay đang quay cuồng của mình – Tớ nghĩ tớ sẽ kể cho các bạn nghe một câu chuyện. Trước kia tớ có một người bạn cũng làm việc chung ở Juneau. Anh ta từ Bắc Caroliney đến và anh ta thường kể cho tớ nghe câu chuyện này. Chuyện xảy ra trong một đám cưới ở một vùng núi thuộc quê hương anh ta. Cả gia đình và bạn bè đang tề tựu đông đủ. Ông cha xứ sắp hoàn tất lễ cưới và bảo: – Họ Thượng đế đã kết hợp đừng để ai chia rẽ(l) – thì đột nhiên chú rể đứng lên nói: “Thưa Cha, con xin phép đứng lên để chất vấn về ngữ pháp của Cha trong câu Cha vừa nói. Con muốn đám cưới của con phải được làm cho đúng”. Khi khói súng tan đi, cô dâu mới nhìn quanh thì thấy cha xứ đã chết, chú rể chết, anh trai chết, hai ông cậu chết, năm người khách cũng chết. Cô dâu bèn thở dài và nói: “Mấy khẩu súng lục tự động loại mới này là thế đã cho đi đời nhà ma tất cả dự định về tương lai của mình rồi!”. Vì thế cho nên tớ muốn nói với các bạn điều này – Ánh Sáng Ban Ngày nói tiếp khi tiếng cười ồn ào đã lắng xuống – rằng bốn quân già của Jack Kearns cũng đã cho đi đời nhà ma tất cả dự định tương lai của tớ rồi, thành thử tớ đành phải lên đường đi Dyea.
– Bỏ trốn khỏi đây à? – Có ai đó hỏi to.
Một cơn giận bỗng bừng lên làm mặt anh cau lại, nhưng chỉ một thoáng sau anh đã vui vẻ trở lại.
– Tớ biết các bạn hỏi câu đó chỉ là để đùa thôi. – Ánh Sáng Ban Ngày mỉm cười nói – Dĩ nhiên là tớ không bỏ đây mà đi rồi.
– Vậy thề đi, Ánh Sáng Ban Ngày, – cũng người nào đó la lên.
– Dĩ nhiên tớ thề. Lần đầu tiên tớ vượt đèo Chilcoot là vào năm 88. Trận bão tuyết mùa thu năm đó buộc tớ phải trở ra, chỉ còn độc có chiếc sơ mi tơi tả và một cốc bột sống. Mùa đông năm đó tớ lại lấy thêm lương thực ở Juneau và đến mùa xuân thì lại vượt đèo lần nữa. Rồi cái đói lại tống cổ tớ ra. Mùa xuân năm sau tớ lại trở vào, lần này thề rằng sẽ không trở ra nếu chưa tìm thấy được gia tài. Cho đến bây giờ tớ vẫn chưa tìm thấy nó nên còn ở đây. Nhưng tớ sẽ không bỏ cuộc. Ðưa thư xong, tớ sẽ quay về ngay, không nghỉ lại đêm ở Dyea. Rồi tớ sẽ lại vượt đèo Chilcoot ngay sau khi đã đổi chó mới, nhận thư và thực phẩm. Bởi vậy tớ xin thề một lần nữa, có quỷ thần và đầu thánh John chứng giám, tớ sẽ không bao giờ bỏ nơi này mà đi khi chưa kiếm được gia tài. Mà tới báo cho các bạn ở đây vào giờ này biết là gia tài sẽ rất lớn.
– Gia tài đó khoảng bao nhiêu nào? – đứng ở dưới, Bettles hỏi với lên và quàng tay quanh chân Ánh Sáng Ban Ngày một cách thân thiết.
– Ừ, bao nhiêu? Gia tài khoảng bao nhiêu nào? – Những người khác cũng la lên.
Ánh Sáng Ban Ngày chờ cho mình bớt kích động đi rồi nói:
– Khoảng bốn hoặc năm triệu đô-la, – anh nói chậm rãi, và khi thấy mọi người ồ lên chế giễu câu nói của mình, anh giơ tay ra hiệu cho họ im lặng.- Tớ sẽ bảo thủ ý kiến đó, và vạch mức kiếm được thấp nhất là một triệu đô-la. Khi còn dưới mức đó, dù chỉ một cắc, tớ cũng chưa chịu rời bỏ vùng này.
Mọi người lại ồ lên chế giễu, bởi vì toàn bộ số vàng cho đến nay đã tìm được ở khu vực Sông Yukon cũng chưa tới năm triệu và chẳng ai một mình mà kiếm được đến một trăm ngàn đô-la, nói chi đến một triệu. Các bạn nghe đây. Ðêm nay các bạn đã thấy Jack, Kearns có linh cảm như thế nào rồi đó. Trước khi rút thêm bài, nước bài của chúng tôi lớn hơi của hắn nhiều. Ba con già hắc ám của hắn chả là cái quái gì cả. Nhưng hắn biết trước rằng một con già nữa sẽ đến – đó là linh cảm của hắn- và hắn đã chộp được nó thật. Tớ báo cho các bạn biết là tớ cũng đang xuất hiện ở vùng sông Yukon này, và thời gian đã điểm rồi đấy. Tớ không muốn nói về cái thứ gia tài hắc ám mà tớ đã tìm thấy ở Lạch Da Hươu hay ở Lạch Cây Dương đâu. Tớ muốn nói đến một gia tài mà ai nghe nói đến cũng phải dựng tóc gáy. Tớ báo vớ các bạn, cái gia tài đó đang lờn vờn trong không khí và đang chọn mặt gửi vàng đấy. Nó sẽ đậu đâu đó ở chỗ các nguồn sông, và chẳng ai có thể cản ngăn nó được. Sau này nếu các bạn muốn tìm tớ thì cứ theo dấu giầy của tớ mà lần đến vùng sông Steward, sông Indian hoặc sông Klondike thì sẽ thấy. Khi đã đem thư về đây rồi, tớ sẽ lập tức ra đi theo hướng đó, nhanh đến để các bạn không còn thấy tớ nữa vì sương mù bao phủ. Các bạn, cái gia tài đó đang đến thật đấy. Cú bật rễ cỏ lên là đã thấy vàng, cứ xúc một rá là đã được một trăm đô-la. Sẽ có đến năm chục ngàn người từ bên ngoài đổ về nơi áy. Ðến cả địa ngục cũng sẽ phát hoảng lên vì số vàng tìm được.
Ánh Sáng Ban Ngày nâng ly lên môi:
– Xin chúc cho tinh thần của chúng ta. Hy vọng là các bạn cũng sẽ tham gia vào cuộc tìm kiếm gia tài đó.
Anh uống cạn ly rồi bước xuống ghế. Bettles lại đưa tay quàng lấy cổ anh.
– Nếu tớ là cậu, tớ sẽ không lên đồng vào hôm nay đâu – Joe Hines khuyên sau khi đã xem cái hàn thử biểu treo ngoài cửa – Một đợt giá lạnh lại ập đến đây. Nhiệt độ bây giờ là sáu mươi hai độ F dưới không rồi, mà nó vẫn còn đang xuống nữa đấy. Ðợi qua đợt giá lạnh này rồi hãy đi, cậu ạ.
Ánh Sáng Ban Ngày phá lên cười.
– Ðúng là giọng lưỡi mấy thằng nhát gan – Bettles rống lên – Có tí giá lạnh mà đã sợ. Nếu mày nghĩ là cái giá lạnh có thể cản Ánh Sáng Ban Ngày thì hoá ra mày chẳng hiểu cái cóc gì về nó cả.
– Thì cứ đi đi để phổi nó đông cứng lại, – Joe đáp.
– Có cái bình sữa và cây kẹo ngậm của cậu đông thì có. Nghe đây này, Joe, cậu mới đến vùng này được ba năm. Cậu chưa được tôi luyện đủ. Tớ thì tớ đã thấy Ánh Sáng Ban Ngày đi năm mươi dặm trên sông Koyokuk vào cái ngày nhiệt độ xuống đến bảy mươi hai độ F dưới không rồi đấy.
Joe lắc đầu một cách thảm hại.
– Cái lạnh này sẽ làm phổi đông cứng lại thôi, – Hắn than thở não nùng – Nếu Ánh Sáng Ban Ngoài ra đi vào lúc này thì chẳng bao giờ đi thoát được. Mà hắn lại chẳng mang lều mang bạt gì cả.
– Từ đây tới Dyea xa đến một ngàn dặm, – Bettles vừa tuyên bố vừa trèo lên ghế, tay bá lấy cổ Ánh Sáng Ban Ngày để đỡ cho cái thân hình siêu vẹo của mình – Một ngàn dặm đấy, mà đường đi chưa có sẵn. Tớ xin dành cuộc với mấy tay ma mới muốn cuộc gì thì cuộc – là Ánh Sáng Ban Ngày đi Dyea chỉ mất ba mươi ngày mà thôi.
– Nghĩa là trung bình mỗi ngày phải đi được ba mươi dặm, – Doc Watson cảnh giác – Tôi cũng đã có chút ít kinh nghiệm đi đường rồi. Chỉ cần một trận bão ở đèo Chilcoot là đủ cầm chân hắn đến cả tuần lễ rồi.
– Ðúng vậy, – Bettles đáp ngay – mà Ánh Sáng Ban Ngày sẽ phải đi thêm một ngàn dặm khác và mất thêm ba mươi ngày nữa mời quay về đây được. Tớ xin cuộc năm trăm đô-la đấy. Chấp luôn cả bão tuyết.
Ðể nhấn mạnh thêm lời mình nói, Bettles lôi trong túi ra một gói vàng to như khoanh xích xích hỗn hợp và quẳng nó xuống quầy rượu đánh thịch một cái. Doc Watson cũng quẳng túi vàng của hắn ngay bên cạnh.
– Gượm đã, – Ánh Sáng Ban Ngày la lên – Bettles nói đúng đấy, nên tớ cũng muốn đánh cuộc. Tớ cuộc năm trăm đô-la là sau sáu mươi ngày tính từ ngày hôm nay tớ sẽ dừng xe trước cửa quán Tivoli với toàn bộ thư tín của tỉnh Dyea.
Cả phòng ầm lên một cách nghi ngờ, và có đến chục người móc túi vàng của họ ra. Jack Kearn áp sát lại để gây sự chú ý cho Ánh Sáng Ban Ngày:
– Tớ bắt cậu đó, Ánh Sáng Ban Ngày, – hắn la lên, – tớ cuộc hai ăn một là cậu không làm được, dù trong bảy mươi lăm ngày đi nữa.
– Tớ không cần cậu bố thí đâu, Jack ạ, – Ánh Sáng Ban Ngày đáp – Ðã đánh cuộc là phải một ăn một. Mà chỉ cần sáu mươi ngày thôi.
– Tớ cứ cá hai ăn một là trong bảy mươi lăm ngày cậu không đi về nổi, – Kearns vẫn khăng khăng – Trại Năm Mươi Dặm đã bị bỏ trống, mà tuyết ở đó lại rất tệ hại.
– Tiền cậu ăn được của tớ là tiền của cậu, – Ánh Sáng Ban Ngày như không để ý, nói tiếp – Mẹ kiếp, Jack, cậu không được cho lại tớ theo cách đó. Tớ không cuộc với cậu đâu. Tớ biết tỏng là cậu muốn gì rồi, Jack, cậu nghe tớ nói đây này, tớ cũng có một linh cảm lờ một ngày nào đó tớ sẽ ăn lại của cậu đấy. Cứ đợi đến lúc tớ tìm thấy gia tài đã. Lúc đó tớ với cậu sẽ chơi cho cháy túi để rõ mặt anh hào. Dám không nào?
Hai người bắt tay nhau.
– Dĩ nhiên là cậu thắng cuộc thôi, – Kearns nói nhỏ vào tai Bettles, rồi nói lớn cho mọi người nghe – Tớ cuộc năm trăm đô-la là Ánh Sáng Ban Ngày sẽ trở về trong vòng sáu mươi ngày.
Billy Rawlins liền nhận cuộc, và Bettles ôm lấy Kearns một cách rất cao hứng.
– Mẹ kiếp, tớ cuộc với cậu đó – Olaf Henderson vừa nói vừa kéo Ánh Sáng Ban Ngày ra khỏi chỗ Bettles và Kearns.
Sau khi nhận lời đánh cuộc, Ánh Sáng Ban Ngày lại la lên:
– Người thắng lại bao nào! Nhất định tớ sẽ thắng, mà đợi đến sáu mươi ngày mới được uống rượu thì lâu quá nên ngay bây giờ tớ xin bao luôn. Ai uống gì cứ gọi, nào các bạn, gọi đi nào.
Bettles tay cầm ly Whisky, lại trèo lên ghế, và trong lúc người hắn cứ lảo đảo qua lại, hắn cất giọng hát bài hát duy nhất mà hắn biết:
“Ô cái anh chàng Henry Ward Beecher
Và mấy ông thầy dạy giáo lý
Tất cả đang ngợi ca rễ cây Dẹ Vàng
Nhưng bạn có thể chắc chắn rằng
Nếu như phải gọi nó bằng tên nào cho đúng
Thì phải gọi nó là thứ nước ép ta từ trái cấm”.
Cả phòng lập tức đồng than rống lên:
“Nhưng bạn có thể chắc chắn rằng
Nếu nhu phải gọi nó bằng tên nào cho đúng
Thì phải gọi nó là thứ nước ép ra từ trái cấm”.
Có ai đó chợt mở cánh cửa trước, và một tia nắng lờ mờ lọt vào phòng.
– Trời sáng rồi, trời sáng rồi? – có ai đó loan báo như nhắc nhở.
Ánh Sáng Ban Ngày không thèm nghỉ một chút để lấy sức, quay đầu đi liền ra cửa, vừa đi vừa kéo vành nón xuống che phủ tai. Kama đang đứng bên ngoài, cạnh chiếc xe trượt tuyết. Chiếc xe hẹp và dài, ngang sáu inch(2) dọc bảy foot(3) rưỡi; thùng xe bằng gỗ cách mấy cái bánh xe bọc thép sáu inch. Trên xe chất những túi vải nhẹ đựng thư, đựng thực phẩm và các dụng cụ khác dùng cho người và chó, được ràng chặt bằng những đai da hươu. Phía trước xe là năm chú chó lấm lem những tuyết nằm co ro thành một hàng. Chúng là giống chó Eskimo, về hình dạng và màu sắc giống nhau, lông xám, rất to lớn và khoẻ mạnh. Từ cái mõm trông dữ dằn đến cái đuôi xù, chúng đều giống hệt như mấy con sói rừng. Dù đã được thuần hoá, chúng vẫn giữ được các đặc tính của những con sói. Nằm trên những túi vải là hai đôi giày đi tuyết được cài dưới mấy sợi dây ràng.
Bettles chỉ vào một chiếc áo choàng bằng da thỏ vùng Bắc Cực nằm ló khỏi miệng bao và nói:
– Giường của hắn đấy. Dúm lông thỏ ấy chỉ nặng có sáu cân. Nó là cái chăn ấm nhất của hắn đấy. Tớ mà đắp thì chẳng thấy ấm tí nào cả, ấy là tớ cũng đã có tí dày dạn phong trần rồi đấy. Ánh Sáng Ban Ngày thật đúng là một cái lò lửa của địa ngục. Hẳn là như thế.
– Tớ không thích được như cái gã mọi ấy đâu, – Watson nói.
– Ánh Sáng Ban Ngày rồi đến giết chết gã mọi ấy thật. Rồi cũng đến giết chết gã thật – Bettle nói một cách khoái trá – Tớ biết, bởi vì tớ cũng đã từng đi đường với Ánh Sáng Ban Ngày rồi. Hắn chẳng bao giờ thấy mệt mỏi cả. Tớ chẳng hiểu ra làm sao cả. Tớ đã thấy hắn đi găng ướt ngoài trực lạnh dưới bốn mươi lăm độ âm. Chẳng có người sống nào có thể làm như vậy cả.
Trong lúc họ nói chuyện thì Ánh Sáng Ban Ngày đang bận từ giã những người đứng vây lấy anh. Mộng Trinh muốn hôn anh, và mặc dù đã rượu làm cho đờ đẫn, anh vẫn tìm cách thoát được sợi dây tạp dề mà không phải nhượng bộ. Anh hôn Mộng Trinh, nhưng cũng ôm hôn ba người phụ nữ khác một cách nhiệt thành không kém. Anh xỏ tay vào găng, đánh thức mấy con chó, rồi nắm lấy cần lái phía trước xe.
– Ði đi nào, các nàng, – anh la lên.
Ngay lập tức mấy chó chó phóng mình tới trước, ngực đập mạnh vào sợi đai chắn phía trước, thân hình rùn xuống, móng vuốt bấu chặt và tuyết. Chúng tru lên một cách hăm hở, và trước khi chiếc xe chạy được khoảng chục bước thì Ánh Sáng Ban Ngày, theo sau là Kama, đã vội chạy theo cho kịp. Người và chó cứ thế lao qua bờ xuống đến lòng sông Yukon giờ đã đóng băng và mất hút trong cái ánh sáng xám xịt.
Chú thích:
(l) Nguyên văn “They as the Lord have Jined let no man put asunder”. Câu nói này của ông cha xứ không chỉnh về âm và ngữ pháp nên chứng tôi tạm dịch như trên để độc giả có thể thấy được những điểm sai về âm và ngữ pháp trong câu dịch tiếng Việt.
(2) inch (in sơ): đơn vị đo chiều dài Anh bằng 2,54 cm.
(3) foot (foot): đơn vị đo chiều dài Anh bằng 0,3048m.