Trên Sa Mạc Và Trong Rừng Thẳm

Chương 21


Đọc truyện Trên Sa Mạc Và Trong Rừng Thẳm – Chương 21

— —— —— —— —— —— —— —— —— —— —— —— —— —-

– Anh Xtas này, tại sao chúng ta cứ đi mãi, đi mãi, mà không thấy ông Xmai-nơ đâu cả?

– Anh không biết. Chắc là ông ta đi nhanh lên phía trước để mau tới vùng có thể bắt được người da đen. Em muốn chúng mình được nhập ngay vào toán quân của ông ấy hay sao?

Cô bé gật mái đầu hoe hoe của mình tỏ vẻ rất mong muốn điều đó.

– Sao em lại muốn thế?

– Bởi vì có thể là ở cạnh ông Xmai-nơ thì Ghe-bơ-rơ sẽ không dám đánh thằng Ca-li tội nghiệp tàn tệ thế kia đâu.

– Xmai-nơ cũng chẳng tốt gì hơn. Tất cả bọn chúng đều không hề biết thương tiếc gì nô lệ đâu em ạ.

– Thế ư anh? Và hai giọt nước mắt lăn trên gò má đã gầy tọp đi của cô bé.

Đã là ngày đi đường thứ mười. Thoạt đầu Ghe-bơ-rơ – bây giờ là thủ lĩnh của cả đoàn – dễ dàng tìm ra những dấu vết của gã Xmai-nơ. Những vệt rừng cháy và những đống tro lửa trại đầy xương xẩu bị gặm nham nhở cùng với các thứ hài cốt khác chỉ ra con đường y đã đi qua. Nhưng sau năm ngày đi đường, họ gặp phải một khoảng đồng cỏ bị cháy rộng mênh mông, trên đó gió mang ngọn lửa đi khắp mọi hướng. Các dấu vết mờ nhạt đi và rối rắm hơn, vì hẳn là Xmai-nơ chia toán quân của y ra thành nhiều đội nhỏ hơn để dễ dàng vây cầm thú và kiếm lương ăn. Ghe-bơ-rơ không biết phải đi theo lối nào, và nhiều lần hình như là, sau khi đi một vòng tròn lớn, cả đoàn quay trở lại chỗ xuất phát ban đầu. Rồi sau đó, họ gặp phải một khu rừng, sau khi vượt qua rừng, họ tiến vào vùng đá sỏi, nơi mặt đất là những phiến đá lớn hay những cục đá nhỏ trải đầy trên một khoảng không gian to lớn, khiến bọn trẻ nhớ lại những con đường lát đá của thành phố. Ở đây rất ít cây cỏ.

Thảng hoặc, trong các khe nứt mới có một vài cây xương khô, trinh nữ, và hiếm hoi hơn nữa là một loại cây thân gỗ mảnh mai màu lục nhạt mà Ca-li gọi theo ngôn ngữ Kix-va-hi-li bằng cái tên mti, loại cây này lá có thể dùng cho ngựa ăn. Trong vùng hoàn toàn không có khe hoặc suối, nhưng may thay, thỉnh thoảng trời bắt đầu đổ mưa, nên có thể tìm thấy nước trong các hõm đá.

Những toán quân của Xmai-nơ đã xua sạch bọn thú rừng, và đoàn người cơ hồ có thể chết đói, nếu như không có hàng lũ chim pen-tác-ca, bọn này cứ chốc chốc lại từ dưới chân ngựa bay vụt lên, còn về chiều, chúng đậu kín trên các cây, dày đến nỗi chỉ cần nổ súng về hướng thích hợp là đã có ngay vài con rụng xuống đất.

Thêm vào đó, chúng chẳng nhát người chút nào, chúng để cho người ta đến thật gần rồi mới nặng nề và chậm chạp bay lên, đến nỗi con chó Xa-ba, chạy trước đoàn người, có thể gần như ngày nào cũng tóm được loài chim này.

Mỗi ngày, Kha-mix hạ chừng hơn chục con bằng khẩu súng kíp cũ kĩ mà hắn đã lừa lấy được của một trong những tín đồ Hồi giáo dưới quyền ông Ha-tim trong chuyến đi từ Om-đu-a-man tới Pha-sô-đa. Tuy nhiên, đạn thì hắn chỉ còn chừng hai chục viên, nên hắn lo ngại không hiểu sẽ ra sao khi số đạn đó bị cạn đi hết. Tuy các loài thú bị bạt đi, nhưng thỉnh thoảng sau các khối đá cũng vẫn xuất hiện những bầy linh dương a-ri-en, giống linh dương tuyệt đẹp rất phổ biến trong toàn miền Trung Phi. Nhưng muốn săn linh dương a-ri-en thì phải bắn bằng khẩu súng của Xtas, khẩu súng mà Ghe-bơ-rơ không muốn đưa vào tay thằng bé chút nào.

Tên Xu-đan cũng bắt đầu lo ngại về chặng đường quá dài. Đôi khi hắn đã nghĩ tới việc quay trở về Pha-sô-đa, vì nếu như họ vượt qua Xmai-nơ mà không gặp, thì rất có thể họ sẽ bị lạc lung tung trong những vùng hoàn toàn hoang dã nơi chưa kể tới chuyện đói, mà trước hết là họ sẽ bị đe doạ tấn công bởi các loài dã thú cùng những người dân da đen còn hoang dã hơn nữa, những người đang nghẹn thở vì căm thù những cuộc săn lùng mà người ta đã dành cho họ. Song do không được biết rằng Xê-ki Ta-ma-la đã lên đường đi đánh nhau với pa-sa E-min, nên hắn vô cùng lo sợ nghĩ đến chuyện quay trở về sẽ phải đứng đối diện với viên e-mia hùng mạnh, kẻ đã ra lệnh cho hắn phải mang bọn trẻ tới cho Xmai-nơ, đồng thời còn gửi cho ông ta một bức thư và nói rằng, nếu như hắn không hoàn thành đầy đủ nhiệm vụ thì sẽ phải lên giá treo cổ. Tất cả những điều đó gộp lại khiến lòng hắn tràn ngập đắng cay và tức tối. Tuy nhiên, hắn không còn dám giận cá chém thớt trút những nỗi hận của mình lên Xtas và Nen nữa, ngược lại, tấm lưng của cậu bé Ca-li tội nghiệp ngày nào cũng phải toé máu dưới làn roi ngựa của hắn.


Người nô lệ trẻ tiến lại gần ông chủ của mình bao giờ cũng run rẩy và sợ hãi. Nhưng chỉ vô ích thôi việc cậu ôm chân và hôn tay chủ, chỉ vô ích thôi việc cậu rập đầu trước mặt chủ. Trái tim sắt đá không hề bị rung động bởi sự quỵ luỵ cùng tiếng rên than, và y quất roi ngựa vì bất cứ chuyện gì, thậm chí ngay cả khi hoàn toàn vô duyên cớ, xuống tấm thân của cậu bé bất hạnh. Đêm đêm y dùng gông gỗ khoét lỗ gông chặt hai chân cậu bé để nó khỏi chạy trốn. Ban ngày cậu phải đi theo bên cạnh ngựa của Ghe-bơ-rơ, bị dắt bằng sợi dây thừng, chuyện này khiến cho gã Kha-mix rất khoái trá. Nen nhỏ lệ khóc than cho nỗi bất hạnh của Ca-li, còn Xtas phẫn nộ trong lòng và đã mấy lần hăng hái bảo vệ nó, nhưng khi nhận thấy rằng điều đó chỉ càng khiến cho Ghe-bơ-rơ bị kích thích hơn mà thôi, em đành nghiến chặt răng yên lặng.

Song cậu bé Ca-li vẫn hiểu được rằng hai thiếu niên nọ ủng hộ mình, và do thế, cậu yêu thương họ sâu sắc bằng trái tim tội nghiệp đầy đau khổ của cậu.

Từ hai ngày nay họ đi theo một khe núi đá có hai bờ cao vút dựng đứng. Cứ trông cảnh những khối đá bị mang đi và vứt hỗn độn cũng có thể dễ dàng đoán rằng, trong mùa mưa, khe này đầy nước, nhưng hiện nay lòng khe hoàn toàn khô khốc. Dưới chân hai bức vách đá có một ít cỏ mọc, nhiều cây gai, thảng hoặc đây đó còn có vài cây thân gỗ. Ghe-bơ-rơ chọn cái họng đá này vì thấy nó cứ dốc lên mãi, nên hắn đồ rằng có lẽ nó sẽ dẫn lên một vùng cao nguyên nào đó, trên ấy hắn sẽ dễ nhận ra vết khói về ban ngày hoặc ánh lửa về ban đêm từ trại Xmai-nơ. Nhiều chỗ, khe núi co thắt lại hẹp đến nỗi chỉ vừa đủ cho hai ngựa đi sóng hàng ngang, nhiều chỗ nó lại phình rộng ra thành những lòng thung nho nhỏ hình tròn, dường như được những bức tường đá vây quanh, trên đó những con vượn ngồi đùa nghịch với nhau, vừa kêu léc chéc vừa nhe răng ra với đoàn người.

Lúc đó là năm giờ chiều. Mặt trời đã gần ngả về Tây.

Ghe-bơ-rơ đã nghĩ tới chỗ trú đêm, tuy nhiên hắn còn muốn đi được tới một lũng núi nào đó để có thể dựng hàng rào bằng cây trinh nữ gai và xiêm gai vây quanh đoàn người và ngựa để chống lại sự tấn công của lũ dã thú . Con chó Xa-ba chạy lên phía trước, sủa theo lũ vượn – bọn này trông thấy nó liền nhộn nhạo hoảng loạn – và chốc chốc lại mất hút sau một chỗ ngoặt của khe núi. Tiếng sủa của nó vọng lại to tướng, được dội đi dội lại.

Bỗng nhiên tiếng nó im bặt, rồi lát sau, nó chạy lao trở lại phía đoàn ngựa, lông cổ dựng ngược cả lên, đuôi cụp sát xuống.

Bọn Bê-đu-in và Ga-rắc Ghe-bơ-rơ hiểu rằng có cái gì đó đã khiến nó hoảng sợ, nhưng sau khi liếc nhìn nhau và muốn biết xem cái đó là cái gì, chúng vẫn tiến lên. Song vừa vượt qua một chỗ ngoặt nhỏ, chúng vội kìm ngay ngựa lại và đứng sững như bị hoá đá trước cảnh tượng vừa đập vào mắt chúng.

Trên một phiến đá không lớn lắm nằm ngay chính giữa lòng khe (chỗ này khe khá rộng) là một con sư tử đang nằm.

Khoảng cách từ chỗ chúng đến con thú nhiều lắm là chừng trăm bước. Nhìn thấy người và ngựa, con thú khổng lồ nhổm dậy trên hai chân trước và bắt đầu đăm đăm nhìn chúng. Mặt trời đã xuống thấp chiếu ánh nắng xuống cái đầu to tướng của nó, xuống vòng ngực xù lông, và trong ráng chiều đỏ rực, trông nó giống như một con nhân sư được dùng để trang trí lối vào các đền đài Ai Cập cổ đại.

Lũ ngựa khuỵu hai chân sau xuống, quay lùi trở lại. Người cưỡi thì kinh hồn và hoảng hốt, không hiểu cần phải làm gì, miệng họ chỉ thốt ra những tiếng kêu kinh hoàng và bất lực: “Ôi A-la! Trời ơi! Lạy đức A-la!” Còn vị chúa tể của rừng từ trên cao nhìn xuống, bất động như được đúc bằng đồng.

Ghe-bơ-rơ và Kha-mix đã từng nghe các khách thương buôn ngà voi và nhựa cây từ Xu-đan đến Ai Cập kể rằng, đôi khi sư tử nằm chắn ngang đường người đi, và đoàn người bắt buộc phải đi đường vòng để tránh. Song ở đây chẳng còn biết tránh đi đường nào. Chỉ còn cách thối lui và bỏ chạy, nhưng nếu vậy thì chắc chắn là con vật dữ tợn này sẽ lao đuổi theo họ.

Vì vậy những câu hỏi cuồng hoảng bật ra:

– Làm gì?


– Làm gì bây giờ?

– Lạy đức A-la! Có thể nó sẽ tránh đường chăng?

– Nó không tránh đâu.Rồi im lặng lại bao trùm. Chỉ nghe thấy tiếng thở hổ n hển củ a lồng ngực người và tiếng phì phò của ngựa mà thôi.

– Thả thằng Ca-li ra! – Kha-mix bỗng nói với Ghe-bơ-rơ. – Chúng ta sẽ chạy trốn bằng ngựa, sư tử sẽ đuổi kịp nó trước tiên và chỉ thịt nó mà thôi.

– Làm đi! – bọn Bê-đu-in phụ hoạ:

Song Ghe-bơ-rơ hiểu rằng, nếu làm như thế thì chỉ trong nháy mắt, Ca-li sẽ trèo ngay lên vách đá, còn sư tử sẽ đuổi theo ngựa, nên trong óc hắn vụt nảy ra một ý định khác, vô cùng tàn bạo. Đó là đâm chết cậu bé rồi quẳng ra trước mặt; khi con thú dữ nhảy tới, nhìn thấy cái thây người đẫm máu, nó sẽ dừng lại để cắn xé đã.

Hắn bèn kéo sợi thừng lôi Ca-li lại sát yên và đã vung dao lên, nhưng chính vào giây phút ấy Xtas đã giật ống tay áo rộng thùng thình của hắn lại.

– Mày làm gì thế, đồ khốn nạn?

Ghe-bơ-rơ cố giằng ra, và giá như cậu bé túm lấy tay hắn thì hắn đã giằng ra được ngay lập tức, nhưng với ống tay áo thì không dễ như thế, cho nên vừa giằng nhau hắn vừa gầm lên bằng giọng đã ngạt đi vì điên cuồng:

– Đồ chó, nếu như thằng kia không đủ, thì tao sẽ chọc tiết cả chúng mày nữa! Ôi A-la! Tao sẽ chọc, sẽ chọc!

Xtas tái người đi, vì nhanh như chớp vụt qua óc em ý nghĩ rằng, sư tử, trước hết đuổi theo ngựa, sẽ có thể bỏ qua cái thây Ca-li, và nếu vậy thì chắc chắn trăm phần trăm là Ghe-bơ-rơ sẽ lần lượt đâm chết ngay cả hai đứa.

Sức lực như tăng gấp đôi, em vừa kéo mạnh tay áo của tên kia vừa thét to:

– Đưa cho tôi khẩu súng!… Tôi sẽ giết chết sư tử!


Bọn Bê-đu-in kinh ngạc khi nghe những lời này, nhưng Kha-mix, ngay từ hồi ở Port Xai-đơ đã được biết Xtas bắn như thế nào, liền kêu lên:

– Đưa súng cho nó! Nó sẽ giết được sư tử!

Ngay lập tức Ghe-bơ-rơ nhớ lại những phát súng trên mặt hồ Ca-rô-un, và vì mối nguy hiểm chết người hiện tại, hắn nhanh chóng bỏ qua ý phản kháng. Hắn vội vã trao súng cho cậu bé, còn Kha-mix mở ngay hộp đựng đạn và Xtas vốc đầy một vốc tay.

Rồi em nhảy xuống ngựa, lắp hai viên đạn vào súng, tiến lên phía trước.

Trong những bước đầu tiên, em bước đi như bị mê, chỉ nhìn thấy trước mắt cảnh tượng em và Nen với cái cổ bị cắt ngang bởi con dao của Ghe-bơ-rơ. Nhưng mối nguy gần hơn và kinh khủng hơn khiến em quên đi những chuyện khác. Trước mặt em là con sư tử.

Trông thấy con thú, em tối sầm cả mắt lại. Em cảm thấy gò má và mũi lạnh buốt đi, chân nặng trịch như chì và ngực ngột thở. Em sợ. Hồi ở Port Xai-đơ em đã từng được đọc – thậm chí ngay trong giờ học – về những cuộc săn sư tử, nhưng xem tranh trong sách là một chuyện, còn đứng đối diện với con quái vật này lại là chuyện khác hẳn, con vật mà giờ đây đang nhìn em dường như ngạc nhiên, cái trán rộng như một chiếc khiên nhíu lại.

Bọn Ả Rập nín thở, vì trong đời chúng chưa bao giờ trông thấy một cảnh tượng như thế này. Một bên là một thiếu niên nhỏ bé đứng giữa những khối đá cao vút trông lại càng nhỏ bé hơn, còn bên kia là một con dã thú khổng lồ , vàng rực trong ánh chiều, dữ tợn và đẹp tuyệt vời – “ông chủ có cái đầu vĩ đại” như dân Xu-đan thường gọi.

Xtas dồn toàn bộ ý chí cưỡng lại sự bất lực của đôi chân để bước tiếp lên phía trước. Tuy vậy có lúc em tưởng như trái tim em vọt lên tận cổ họng, song cảm giác đó chỉ kéo dài cho tới khi em nâng súng lên ngang mặt. Lúc này cần phải nghĩ tới chuyện khác.

Tiến lại gần hơn nữa hay bắn ngay? Nhằm vào đâu? Khoảng cách càng ngắn thì phá t đạn càng chắc chắn… Vậy thì tiến lên, lên nữa!

Bốn mươi bước hãy còn xa quá!… ba mươi! – Hai hai mươi! Hơi gió đã phả tới mùi hôi lộn mửa của con thú…

Cậu bé đứng dừng lại.

“Hoặc là đạn trúng giữa hai mắt hoặc là mình rồi đời! – Em nghĩ thầm. – Nhân danh Cha và Con!…” Con sư tử đứng dậy, vươn cổ và hạ thấp đầu xuống. Cặp môi của nó bắt đầu hé mở, đôi lông mày nhíu xuống sát mắt. Cái sinh linh nhỏ nhoi kia dám tiến lại quá gần, nó chuẩn bị cho bước nhảy, khuỵu hai chân sau xuống, bắp đùi run run.

Song chỉ trong một chớp mắt Xtas thấy đầu ruồi khẩu súng hạ xuống ngang trán con thú, và em kéo cò.

Tiếng súng vang lên. Con sư tử chồm dậy dựng đứng suốt cả chiều cao thân hình trong một giây rồi đổ vật xuống, bốn chân giơ lên trời.

Trong cơn giẫy chết cuối cùng, nó lăn khỏi tảng đá rơi xuống đất.


Xtas còn nhằm thẳng súng vào nó chuẩn bị sẵng sàng nhả đạn thêm mấy phát nữa, nhưng khi thấy những cái giật sững lại và cái thân màu hoe vàng ưỡn ra bất động, em liền mở súng và nạp thêm một viên đạn nữa.

Vách đá còn vang âm tiếng vọng, Ghe-bơ-rơ, Kha-mix và bọn Bê-đu-in không thể thấy ngay được chuyện gì đã xảy ra, vì đêm trước trời mưa, không khí còn ẩm khiến khói che mờ cả khe núi hẹp. Mãi tới khi khói tan đi, bọn chúng mới vui sướng kêu lên và muốn lao tới phía cậu bé, nhưng vô hiệu, vì không sức mạnh nào có thể khiến lũ ngựa tiến thêm một bước lên phía trước.

Còn Xtas quay người lại đưa mắt nhìn bốn tên Ả Rập, rồi chĩa thẳng cái nhìn vào Ghe-bơ-rơ.

– Ôi, đủ rồi! – Cậu rít qua hai hàm răng nghiến chặt. – Mày đã vượt quá mức rồi! Mày sẽ không bao giờ giết nổi Nen, không bao giờ giết thêm một ai nữa!

Và bỗng nhiên em cảm thấy mũi và gò má lại lạnh toát đi, nhưng là một thứ lạnh khác hẳn, cái lạnh không phải nẩy sinh từ nỗi sợ mà từ một quyết định kinh khủng không gì lay chuyển nổi, với quyết định ấy trái tim trong lồng ngực em hiện thời như biến thành sắt thép.

Phải! Đây là bọn khốn nạn, bọn đao phủ, lũ giết người, còn Nen thì đang nằm trong tay chúng!…

– Mày sẽ không thể giết được Nen nữa đâu. – Em nhắc lại. Em tiến lại phía bọn chúng – đứng lại – và đột nhiên, nhanh như chớp, nâng súng lên ngang mặt.

Hai phát súng nối nhau vang động khe núi: Ghe-bơ-rơ nhào xuống đất như bị cát, còn Kha-mix gục đầu xuống yên, đập trán vào cổ ngựa.

Hai tên Bê-đu-in thét lên một tiếng khủng khiếp vì kinh hoàng, chúng nhảy phắt xuống ngựa lao lại phía Xtas. Chỗ ngoặt chỉ cách phía sau chúng không bao xa, và giá như chúng chạy trốn về phía sau – điều mà Xtas thầm mong – thì hẳn là chúng đã có thể tránh được cái chết. Nhưng mù quáng vì hãi hùng và điên giận, chúng tưởng là sẽ tới được chỗ cậu bé trước khi cậu kịp tháo đạn và sẽ dùng dao băm vằm cậu. Bọn ngu xuẩn! Chúng vừa kịp chạy được hơn mười bước chân thì khẩu súng ghê gớm lại khạc đạn, khe núi lại vang âm những tiếng nổ mới, cả hai ngã gục mặt xuống đất, lăn lộn giãy giụa như cá bị vứt lên cạn.

Một tên – bị bắn không được chính xác lắm trong lúc vội vã – còn cố chống tay nhổm dậy, nhưng ngay lúc đó, Xa-ba đã cắn ngập răng vào gáy hắn.

Một sự im lặng đầy chết chóc bao trùm.

Mãi sau, sự im lặng mới bị gián đoạn bởi tiếng thổn thức của Ca-li, nó quỳ sụp xuống đất, đưa hai tay ra trước mặt và kêu lên bằng tiếng Kix-va-hi-li đứt đoạn:

-Bvana kubva (ông lớn) giết sư tử, giết người xấu, đừng giết Ca-li.

Song Xtas chẳng để ý gì tới tiếng kêu van của nó. Cậu bé đứng lặng một lúc, sững sờ, rồi khi nhìn thấy khuôn mặt trắng nhợt ra của Nen và đôi mắt nửa tỉnh nửa mê mở rộng đầy thảng thốt của cô bé, em liền nhảy vọt tới phía Nen:

– Nen! Đừng sợ!… Nen! Chúng ta được tự do rồi…

Quả thực các em đã được tự do, nhưng đang bị lạc trong vùng rừng thẳm hoang vu không một bóng người, trong những vực sâu khôn cùng của “lục địa đen”.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.