Đọc truyện Trên Sa Mạc Và Trong Rừng Thẳm – Chương 19
— —— —— —— —— —— —— —— —— —— —— —— —— —— ——
Cuộc bệ kiến Ma-hơ-đi và việc trò chuyện với y rõ ràng đã không khiến cho I-đrix khoẻ hơn lên chút nào, đến đêm, hắn bị ốm nặng thêm, và đến sáng thì đã bất tỉnh. Kha-mix, Ghe-bơ-rơ và hai tên Bê-đu-in được gọi đến chỗ viên thống lĩnh, tên này giữ chúng lại đó vài tiếng đồng hồ, ca ngợi lòng can đảm của chúng. Nhưng khi trở về, chúng lại rất bực bội và tức giận, vì chúng từng tưởng tượng đến những phần thưởng lớn lao khôn cùng, thế mà Áp-đu-la-hi chỉ thí cho mỗi tên một đồng bảng Ai Cập và một con ngựa mà thôi.
Bọn Bê-đu-in bắt đầu vặc nhau với Ghe-bơ-rơ, suýt nữa thì nện nhau với hắn, và cuối cùng, chúng tuyên bố rằng, chúng sẽ đi cùng với chuyến bưu điện bằng lạc đà tới Pha-sô-đa để đòi Xmai-nơ phải trả tiền. Kha-mix cũng nhập bọn với chúng, tên này hi vọng rằng sự che chở của Xmai-nơ sẽ mang lại cho hắn nhiều lợi ích hơn là việc ở lại Om-đu-a-man.
Đối với bọn trẻ, bắt đầu diễn ra một tuần lễ đói khổ, vì Ghe-bơ-rơ không hề nghĩ đến chuyện nuôi chúng ăn. May mắn là Xtas còn có được hai đồng ta-le có in hình Maria Tê-rê-xa mà em nhận được từ ông cụ người Hy Lạp, em bèn vào phố mua chà là và gạo. Bọn Xu-đan không phản đối gì cuộc đi này vì chúng biết rõ rằng em không thể nào trốn thoát khỏi Om-đu-a-man, và dù sao đi nữa, em cũng không bao giờ rời bỏ cô bé. Tuy nhiên chuyến đi không tránh khỏi những chuyện phiền toái, vì chỉ cần trông thấy một thằng bé mặc áo quần kiểu Âu mua thực phẩm ở chợ là hàng đoàn các tín đồ Hồi giáo nửa phần hoang dã đã kéo tới nghênh tiếp bằng những tràng tiếng cười và hú hét. May thay, nhiều kẻ đã trông thấy em ở chỗ Ma-hơ-đi hôm qua, bọn này bèn ngăn những kẻ định “ra tay” đối với em lại. Chỉ có lũ trẻ con ném cát và đá vào người em, nhưng em không thèm để ý gì tới chuyện ấy cả.
Giá cả ở chợ cao vô cùng. Xtas hoàn toàn không thể mua nổi chà là, còn phần lớn gạo mua được lại bị Ghe-bơ-rơ tước mất, “để dùng cho anh hắn đang ốm”. Cậu bé bèn dùng hết sức chống lại việc cướp đoạt ấy, khiến cho mọi sự kết thúc ở chuyện giằng co và đánh nhau, trong đó kẻ yếu hơn dĩ nhiên phải nhận hàng lô những vết thâm tím và u bướu trên mình. Trong chuyện đó cũng thể hiện rõ sự dã man của Kha-mix. Hắn chỉ gắn bó với con chó Xa-ba và nuôi nó bằng thịt tươi. Ngược lại, đối với bọn trẻ đang đói khổ mà hắn đã quen biết từ lâu, những đứa trẻ đối với hắn bao giờ cũng tốt bụng, thì hắn lại tỏ ra hoàn toàn dửng dưng, và khi Xtas xin hắn ít nhất cũng hãy chia cho Nen chút ít thức ăn, hắn vừa cười mỉa vừa đáp:
– Đi mà ăn mày.
Và cuối cùng, trong mấy ngày sau đó, muốn cứu Nen khỏi chết đói, Xtas đành phải đi ăn xin.(oa! đọc đoạn này ta thật xúc động :cry:) Chuyện đó không phải bao giờ cũng không mang lại kết quả. Thỉnh thoảng một cựu sĩ quan hoặc binh sĩ của phó vương Ai Cập đưa cho em vài đồng piaxt hoặc vài quả chà là khô và hứa hôm sau nữa sẽ giúp thêm. Một lần em gặp được một nhà truyền giáo và cô phước. Nghe em kể chuyện họ than khóc cho số phận của hai đứa, và mặc dù bản thân cũng bị cái đói khiến cho mòn mỏi, họ vẫn chia xẻ với em tất cả những gì họ có. Họ còn hứa sẽ đến thăm hai đứa ở lều, và quả thực hôm sau họ đến với hi vọng là có thể mang được bọn trẻ về nhà cho đến khi chuyến bưu điện lên đường. Nhưng Ghe-bơ-rơ và Kha-mix dùng roi ngựa đuổi họ đi. Song hôm sau, Xtas lại được gặp họ và được họ cho một bơ gạo cùng hai viên thuốc kí ninh mà vị cố đạo dặn em phải giữ thật cẩn thận vì thấy trước rằng, chắc chắn bệnh sốt rét đang chờ hai đứa trẻ tại Pha-sô-đa.
– Bây giờ các con sẽ phải đi dọc theo những vùng ngập nước sông Nin, – ông nói, – nghĩa là dọc theo các xu-đa như người ta hay gọi. Dòng sông không thể chảy tự do vì bị chắn bởi những cái đập chắn tự nhiên gồm cỏ rều và lá cây rụng hợp lại, những thứ này trôi theo dòng nước và đọng lại tại những chỗ nông, tạo nên ở đó những vùng lầy rộng lớn đầy bệnh tật, những nơi mà bệnh sốt rét không tha ngay cả những người da đen. Các con hãy chú ý chớ có ngủ đêm không đốt lửa trên đất trần nhé.
– Chúng con đang muốn được chết đây, thưa cha.
– Xtas đáp lại như rên rỉ.
Nghe thấy thế, vị cố đạo bèn ngước khuôn mặt gầy gò của mình lên cầu nguyện một lúc, sau đó từ biệt cậu bé và bảo:
– Con hãy tin ở nơi Chúa. Con đã không chối Chúa, thì ân phước và sự che chở của Chúa sẽ ở bên con.
Xtas không những chỉ đi ăn mày mà còn cố tìm việc làm thuê nữa. Một hôm, nhìn thấy một đám người đang làm việc trên bãi cầu nguyện, em bèn nhập bọn và cũng bắt đầu vác đất sét đắp hàng rào vây quanh bãi. Người ta cười mỉa em, xô đẩy em, song đến cuối buổi chiều, viên tù trưởng già coi sóc công việc cũ ng phát cho em mười hai quả chà là. Xtas vô cùng sung sướng với phần trả công này, vì ngoài gạo, chà là là thứ thức ăn duy nhất rất bổ cho Nen, mà ở Om-đu-a-man ngày càng khó kiếm.
Vì thế em rất tự hào mang chà là về cho cô em gái nhỏ, em đưa cho cô bé tất cả những gì em kiếm được, còn chính em thì chỉ sống cầm hơi suốt tuần nay bằng số ngô lấy trộm bớt của lũ lạc đà mà thôi. Nhìn thấy những quả cây ưa thích, Nen sung sướng vô cùng, nhưng cô bé muốn cả Xtas cũng cùng ăn. Thế là đứng nhón trên đầu ngón chân, đặt tay lên vai Xtas, cô bé ngẩng đầu nhìn vào mắt Xtas và yêu cầu:
– Anh Xtas, ăn một nửa đi anh, ăn đi anh! Còn cậu bé thì bảo:
– Anh ăn rồi, anh ăn rồi! Ôi, anh no lắm rồi đây này!
Và em mỉm cười, nhưng ngay lập tức vội cắn chặt môi để khỏi phải oà lên khóc, vì quả tình em đang đói thắt ruột. Em tự nhủ là hôm sau sẽ lại đi kiếm việc. Song mọi sự đã xảy ra cách khác. Sáng sớm hôm sau, một viên mu-la-dem được Áp-đu-la-hi phái đến báo rằng, đến đêm chuyến bưu điện bằng lạc đà sẽ khởi hành đi Pha-sô-đa, và theo lệnh của viên thống lĩnh, cả I-đrix, Ghe-bơ-rơ và Kha-mix cùng với hai tên Bê-đu-in phải chuẩn bị để lên đường ngay cùng với bọn trẻ. Mệnh lệnh này khiến cho Ghe-bơ-rơ ngạc nhiên và phẫn nộ, hắn bèn tuyên bố rằng hắn sẽ không đi, vì anh hắn đang ốm không người trông nom, mà nếu anh hắn có khoẻ đi chăng nữa thì cả hai anh em cũng cứ ở lại Om-đu-a-man như thường.
Viên mu-la-dem liền trả lời:
– Ma-hơ-đi chỉ có một ý muốn, và ngài Áp-đu-la-hi, vị thống lĩnh của Người, ông chủ của ta, không bao giờ thay đổi mệnh lệnh đã ban. Một tên nô lệ sẽ coi sóc anh ngươi, còn ngươi phải đi Pha-sô-đa ngay.
– Vậy thì tôi sẽ đến thưa với ngài rằng tôi không đi đâu cả.
– Chỉ có những kẻ mà chính ngài thống lĩnh muốn gặp là được vào chỗ ngài thôi. Nếu như nhà ngươi cố tình xông vào chỗ ngài khi không được phép thì người ta sẽ điệu nhà ngươi ra, và đưa tới thẳng giá treo cổ đấy.
– Lạy đức A-la! Thế thì anh cứ nói trắng ra rằng tôi là một thằng nô lệ cho xong chuyện.
– Câm đi và hãy tuân lệnh! – Viên mu-la-dem đáp.
Tên Xu-đan đã nhìn thấy ở Om-đu-a-man những giá treo cổ oằn xuống dưới sức nặng của những xác người treo, và ngày ngày, theo lệnh của tên Áp-đu-la-hi tàn ác; giá treo cổ lại được thay bằng những thây người mới, nên hắn hoảng sợ. Điều mà viên mu-la-dem nói với hắn, rằng Ma-hơ-đi chỉ có một ý muốn, còn Áp-đu-la-hi chỉ ra lệnh có một lần, được các tín đồ Hồi giáo truyền khẩu cho nhau. Không có cách nào khác là phải đi thôi.
“Mình sẽ không còn được gặp lại anh I-đrix nữa đâu!” – Ghe-bơ-rơ nghĩ thầm. Và trong trái tim lang sói của hắn vẫn còn tiềm ẩn một sự gắn bó nào đó với người anh ruột, bởi cái ý nghĩ sẽ phải bỏ anh đang bệnh hoạn khiến hắn đau lòng. Mặc dù Kha-mix và bọn Bê-đu-in cố sức thuyết phục hắn rằng ở Pha-sô-đa có thể sẽ tốt hơn ở Om-đu-a-man, và rằng Xmai-nơ có thể sẽ thưởng công chúng hậu hĩnh hơn là viên thống lĩnh, song chỉ vô ích. Không có lời nào có thể làm dịu bớt nỗi uất ức và cơn giận dữ của Ghe-bơ-rơ, cơn giận đó lại đổ phần lớn xuống đầu Xtas.
Quả thực đó là một ngày khổ hạnh đối với cậu bé. Em không được phép đi ra chợ, nên không thể kiếm được hoặc xin được gì cả, mà phải lao động cật lực như một tên nô lệ để chất buộc vào gùi hàng mà người ta chuẩn bị đi đường. Công việc này đối với em càng khó khăn hơn, bởi em đã bị yếu sức đi nhiều vì đói và mệt.
Em chắc rằng dọc đường em sẽ chết, nếu không phải chết dưới làn roi ngựa của Ghe-bơ-rơ thì cũng vì quá kiệt sức.
May thay, ông lão người Hy Lạp, vốn có trái tim nhân hậu, chiều hôm đó đã đến thăm và từ biệt bọn trẻ, đồng thời cung cấp cho chúng chút gì đó để đi đường. Ông còn mang đến cho chúng vài viên kí ninh, một ít chuỗi hạt cườm bằng thuỷ tinh và chút lương thực. Tuy nhiên điều quan trọng nhất, sau khi được biết về bệnh tình của Iđrix, ông nói với Ghe-bơ-rơ, Kha-mix và hai tên Bê-đu-in:
– Các ngươi hẳn biết là ta đến đây theo lệnh của Ma-hơ-đi. – Ông bảo chúng.
Nghe thấy thế chúng liền rập trán xuống đất, ông bèn nói tiếp:
– Dọc đường, các ngươi phải cho bọn trẻ con ăn uống và đối xử với chúng thật tử tế. Bọn chúng sẽ báo cáo lại cho ngài Xmai-nơ rõ cách đối xử của các ngươi, sau đó ngài Xmai-nơ sẽ viết cho Đấng tiên tri rõ về chuyện đó. Nếu như có lời phiền nào về các ngươi thì chuyến bưu điện sắp đến sẽ mang tới cho các ngươi bản án tử hình đấy, nghe chưa?
Một cái lạy nữa là câu trả lời duy nhất đáp lại lời ông, còn Ghe-bơ-rơ và Kha-mix có vẻ mặt như những con chó bị người ta tròng rọ bịt mõm vào vậy.
Ông lão Hy Lạp ra lệnh cho chúng đi, rồi nói bằng tiếng Anh với bọn trẻ:
– Ta bịa ra tất cả những chuyện đó, vì bản thân Ma-hơ-đi không ra thêm lệnh nào nữa đối với các cháu. Song vì y đã nói là các cháu phải đến Pha-sô-đa, nên cần phải làm sao cho các cháu sống được đến đấy. Ta cũng đồ rằng không tên nào trong bọn còn được gặp Ma-hơ-đi hay viên thống lĩnh trước khi lên đường nữa.
Rồi ông nói với Xtas:
– Ta đã và đang phật lòng về anh đấy, anh bạn trẻ ạ. Anh có biết là chút nữa thì anh giết cả ta không? Ma-hơ-đi giận lây sang cả ta, và để được y tha thứ, ta đã phải dâng cho Áp-đu-la-hi phần lớn tài sản của ta, ấy thế nhưng ta cũng vẫn chưa dám chắc liệu có cứu thân ta được lâu dài hay không nữa kia. Dù sao đi nữa, ta cũng không còn có thể cưu mang tù binh như ta đã làm được từ trước đến nay. Nhưng ta thương các cháu, nhất là (ông trỏ Nen) thương con bé… ta cũng có một đứa con gái vào tuổi như nó… mà ta yêu hơn cả mạng sống của bản thân… Vì nó, ta đã làm tất cả mọi chuyện như ta đã làm… Chúa Crix-tô sẽ phán xét ta về chuyện đó… Cho tới nay nó vẫn mang trên ngực, giấu dưới làn áo, một cái thánh giá bằng bạc… Nó cũng cùng tên với cháu đấy, cháu bé của bác ạ. Giá như không có nó, ta thà chết, hơn là phải sống trong một cái địa ngục như ở đây.
Và ông xúc động. Ông nín lặng một lúc lâu, rồi đưa tay lau trán, nói tiếp về chuyện khác.
– Ma-hơ-đi gửi các cháu tới Pha-sô-đa vì tin chắc rằng ở đó các cháu sẽ chết. Như vậy là ông ta có thể trả thù các cháu về sự bướng bỉnh của anh đấy, anh bạn trẻ ạ, sự bướng bỉnh đã xúc phạm sâu sắc tới ông ta. Đồng thời ông ta vẫn không bị mất đi quang vinh của một “đấng từ bi”. Ông ta bao giờ cũng thế… Nhưng ai mà biết được cái chết sẽ dành cho kẻ nào trước. Áp-đu-la-hi mớm cho ông ta cái ý định nên cử những con chó đã bắt cóc các cháu đi cùng với các cháu. Hắn đã thưởng công cho bọn chúng quá ít ỏi, giờ đây hắn lại sợ là chuyện đó lan rộng ra. Cả hắn ta lẫn tiên tri đều không muốn bọn người này sẽ loan tin rằng ở Ai Cập hãy còn nhiều quân, đại bác, tiền của và người Anh… Đường đi xa xôi và khó khăn lắm đấy. Các cháu sẽ đi qua một vùng đất không người và đầy sơn lam chướng khí, nên các cháu hãy gìn giữ những viên thuốc mà ta đưa cho như giữ gìn con người mắt vậy.
– Bác ơi, bác hãy ra lệnh thêm lần nữa cho Ghe-bơ-rơ để hắn không dám bỏ đói và đánh đập em Nen! – Xtas nói.
– Các cháu đừng lo. Bác đã gửi gắm các cháu cho một người tù trưởng già, người sẽ đi áp tải chuyến bưu điện này. Đó là một người quen cũ của bác. Bác đã cho ông ta một chiếc đồng hồ, nhờ đó đã cậy ông ta chăm sóc các cháu.
Nói xong, ông bắt đầu từ biệt. Bế xốc Nen lên tay, ông ghì chặt cô bé vào ngực và lặp đi lặp lại:
– Cầu Chúa ban phước lành cho con, con của ta…
Mặt trời đã lặn, đêm đã hiện lên đầy sao. Trong bóng đêm dậy lên tiếng ngựa thở rừ rừ và tiếng bước chân lạc đà thồ nặng hàng.