Đọc truyện Trăng Lạnh Như Sương – Chương 7: Người rời thôi đành ngắm hoa rơi
Yêu nghiệt!
Hoa phi tay vừa bưng chén trà, liền muốn ném thẳng xuống đất. Tay đã giơ lên cao, bỗng nhiên chậm rãi hạ xuống, nghiễm nhiên như không có việc gì, thần tình ngơ ngẩn, cuối cùng nhấp một ngụm. Buông chén trà xuống, gọi cung nữ đứng bên:
“A Tức.”
A Tức khom người về trước:
“Bẩm nương nương.”
“Bảo người chuẩn bị, ta đi đưa tiễn Hàm phi.”
Giọng điệu Hoa phi bình tĩnh như nước.
“Dù sao cũng là chị em bao năm.”
A Tức lặng lẽ lui xuống đi bố trí, Hoa Phi thay đổi trang phục, nhìn phía ngoài cửa sổ, thấy sắc trời đã chạng vạng, hơi nước mịt mờ, vô số lầu gác Thượng Uyển đã chìm trong làn sương mù khói nước tỏa khắp không gian.
Trong cung của Hàm phi đã thu thập đâu đó xong xuôi, kỳ thực cũng chả có gì để thu xếp ngoài mấy hòm quần áo. Bởi vì sự việc xảy ra quá nhanh, trong cung “Vân dung thủy thái” (Sắc nước hương trời -ặc, tên điệu khiếp) đeo một bầu không khí ảm đạm, trên khuôn mặt các cung nữ đều hiện lên vẻ thương xót. Hoa phi nhìn thấy trên mặt Hàm phi còn đọng nước mắt, cũng không khỏi sinh lòng cảm thương mèo khóc chuột, an ủi cô ta:
“Hoàng Thương chỉ là tức giận nhất thời, cho nên mới bắt muội về. Qua hai ngày hoàng thượng nguôi giận, xét tình trưởng hoàng tử, sẽ cho em trở lại thôi mà.”
Hàm phi vốn đang vô cùng đau khổ buồn bực, thế nhưng thấy Hoa phi đến, lập tức trở nên bình thường, thản nhiên đáp lễ:
“Đa tạ những lời an ủi của chị.”
Hoa phi làm vẻ thật tình thương cảm, nói:
“Em đi nhớ bảo trọng. Từ ngày Hoàng quý phi qua đời, chỉ còn ba người chúng ta. Tình phi thì bệnh như thế, hôm trước trong cung sai người đến thăm, nói mười phần không tốt, chỉ sợ không qua nổi tháng sáu. Chị vừa nghe đến tin ấy, trong lòng không khỏi cảm thấy khổ sở. Hồi trước lúc chúng mình còn ở trong vương phủ, cả ngày nói nói cười cười, náo nhiệt biết bao nhiêu.”
Hàm phi cười lạnh, nói:
“Chị nói vậy là không đúng rồi. Trong cung này mỗi ngày còn không phải náo nhiệt quá hay sao? Theo em thấy, lúc này mới thật náo nhiệt lắm, mà có người thì đến dòm ngó, có kẻ lại vào góp vui.”
Hoa phi làm bộ như không hiểu, cười nói:
“Em nói chuyện càng ngày càng sắc bén, lần này đến Vạn Phật Đường học hỏi cùng các thái phi nhất định đạt được thành quả lớn.”
Hàm phi tức giận, song nghĩ lại, lại nở nụ cười:
“Em chỉ là một kẻ phàm phu tục tử, không có tuệ căn, e học cũng chẳng xong. Thật ra thấy chị đây mới là người trí tuệ, luôn làm việc minh bạch, chỉ sợ chị sử dụng trí thông minh không đúng, nhiều năm qua khổ tâm tính toán, ngược lại làm đồ áo cho người ta.”
Hoa phi hé miệng cười, chuyển đề tài:
“Em đi Vạn Phật Đường, nếu thiếu ăn thiếu mặc, cứ cho người đến chỗ chị, chị nhất định bố trí cho đầy đủ.”
Hàm phi cười cười:
“Chị yên tâm, đa tạ đã tới thăm em, vậy em cũng sẽ không khách khí.”
Hoa phi đứng đầu trong ba cung phi, Hàm phi theo lễ đưa hoa tiễn bước, Hoa phi thật khách sáo nói:
“Không cần tặng, sắp lên đường, nên là chị đưa cho em mới đúng.”
“Đa tạ chị ngày thường vẫn quan tâm.”
Nội quan cung nữ đều đi theo xa xa, chỉ có A Tức đỡ tay Hoa phi. Hàm phi mỉm cười, bỗng nói nhỏ:
“Em sắp đi, cũng không biết ngày nào có phúc được gặp lại chị, thỉnh mong chị càng phải bảo trọng. Có điều yêu nghiệt kia chính là em gái ruột của Hoàng quý phi, chị thấy cô ta, chả nhẽ còn không biết sợ hay sao?”
Trong lòng Hoa phi nhảy dựng, buột miệng nói:
“Bản cung vì sao mà phải sợ cô ta?”
Hàm phi cười nói:
“Chị nói cũng đúng. Chị đây hiện tại là chủ quản hậu cung, sắp tới hoàng thượng sẽ phong chị làm quý phi, rồi cũng sẽ đạt được địa vị hoàng hậu như mong muốn, chị còn phải sợ cái gì? Chị cái gì cũng chẳng phải sợ.”
Trở lại trong cung mình, Hoa phi mới biết lòng bàn tay ra đầy mồ hôi lạnh. Tâm tình cô ta không yên, cầm một chén trà nhỏ, trầm ngâm không nói. A Tức kêu liền mấy tiếng “nương nương”, cô ta mới nhấc mắt lên:
“A Tức, câu nói kia của Hàm phi, ngươi của nghe rồi, ngươi bảo cô ấy là có ý gì?”
A Tức thái độ kính cẩn đáp:
“Nương nương, mặc kệ Hàm phi có ý gì, đều chỉ là ăn nói bậy bạ. Con bé Thù Nhi thiếu kiên nhẫn, làm hỏng đại sự của nương nương, lại còn khiến nương nương rơi vào tình thế nguy hiểm. Hàm phi đi rồi, với nương nương vừa có lợi nhưng cũng vừa có hại. Lợi là, Hàm phi nếu không trừ, một ngày sẽ là chướng ngại cho nương nương. Hại là, Hàm phi vốn tính vội vàng, có thể làm quân cờ. Cô ta đi, nương nương không khỏi mất đi cơ hội lợi dụng. Song cái quan trọng trước mắt là nương nương nên xốc lại tinh thần, ứng phó với Mộ cô nương kia.”
Hoa phi có vẻ hiểu, lúc này mới nói:
“Không thể trách Thù Nhi, chỉ là do chúng ta xem nhẹ con yêu nghiệt kia. Hoàng Thượng xưa nay đối với tình yêu nam nữ vốn lạnh nhạt. Lúc Hoàng quý phi còn sống, dù người đối xử rất tốt, song cũng chỉ thường thôi. Thế nhưng yêu nghiệt kia lại có được ngày hôm nay, ta thực không hiểu rõ.”
A Tức nói:
“Nương nương, qua một chuyện này, đã biết ả ta là họa lớn vô cùng. Hàm phi là mẹ đẻ của hoàng trưởng tử, vậy mà còn bị Hoàng Thượng đối xử như vậy, nương nương cần phải sớm tính toán.”
Hoa phi thở một hơi thật dài:
“Ta vốn muốn mượn tay Hàm phi trừ bỏ ả, không nghĩ tới lại khéo quá hóa vụng. Hàm phi vừa đi, Tình phi lại bệnh nặng quá – mà không bệnh cũng chẳng tích sự gì, trong cung chẳng có một trở ngại nào, chẳng lẽ sẽ để cho ả lật cả trời lên sao?”
A Tức nói:
“Nương nương yên tâm, cơ hội thay đổi còn không ngừng.”
Thanh âm cực nhẹ:
“Hoàng Thượng cơ trí anh minh, sẽ không sa vào sắc đẹp. Xem tình cảm giữa Hoàng thượng và Hoàng quý phi như thế, Vạn Tuế gia còn có thể ra tay quyết tuyệt, cô ta chỉ là một con bé mồ côi của tên tội thần, có thể giở được trò gì chăng? Dù Hoàng Thượng trước mắt bị yêu nghiệt kia mê hoặc, đó cũng chỉ là nhất thời.”
Hoa phi nhìn con bé a hoàn một lát, chậm rãi vuốt cằm.
***************************
Vốn khẩu dụ của Hoàng Đế là phải tức khắc thi hành, dù trời đã tối muộn, cũng không thể trì hoãn. Kiệu loan của Hàm phi rời Thượng Uyển, được tùy tòng bảo hộ đi tới cửa tây đã là giờ Dậu, cửa thành đã đóng. Quân giữ thành không dám tùy ý, chỉ đành truyền nhau bẩm báo lên cấp trên. Lúc báo cáo đến được hành dinh của Dự Thân Vương, thì đã quá canh ba giờ Tuất.
Dự Thân Vương cai quản chung tất cả các công việc, mỗi ngày tự mình tuần tra việc canh gác. Lúc này vừa từ đại doanh trại Hành Uyển trở về, nghe nói Hàm phi phụng chiếu đêm khuy về kinh, cảm thấy kỳ lạ, hỏi vì sao. Người đến bẩm báo đương nhiên không biết, Dự Thân Vương lại làm việc luôn luôn kỹ càng, sai người đang trực ban quản lý cung điện đến. Nguyên chàng kiêm cả việc lãnh đạo nội vụ đại thần, chính là lãnh đạo trực tiếp của ban quản lý cung điện. Nội quan đang trực không dám giấu giếm, đem toàn bộ sụ tình từ đầu tới cuối nói cho bằng hết. Dự Thân Vương yên lặng nghe xong, ngay đó cũng không nói gì.
Vốn còn đang là thời gian nghỉ ngơi tại Thượng Uyển, nên cũng không có thiết triều, song Dự Thân Vương cai quản nhiều, cho nên mỗi ngày đều phải vào cung yết kiến.
Ngày hôm đó, theo thường lệ sau khi chuyển thẻ bài xin yết kiến, Dự Thân Vương liền theo tiểu thái giám bước vào cửa chính. Lúc đi qua cầu Lạc Hoa, lối nhỏ bên cạnh có hàng cây hòe, hoa hòe chớm nở, từng cụm như mây, hương hoa ngọt như mật. Rồi lại thấy hơn mười tì nữ tay cầm lưỡi hái hình móc câu, còn xách cả giỏ đựng, đang giữ lấy một cây thang để ngắt hoa hòe. Người chỉ huy hái hoa là nội quan trong “Phương nội yến an”, tên Ngô Thăng, trông thấy Dự Thân Vương thì vội tươi cười chào đón:
“Thỉnh an Vương gia.”
Dự Thân Vương liền hỏi:
“Ở đây đang làm cái gì vậy?”
Ngô Thăng cười cười nói:
“Hoàng Thượng bỗng nhiên muốn ăn bánh hoa hòe, nhưng sợ phòng bếp làm không tươi non, cho nên Mộ cô nương sai chúng tôi hái hoa, tự mình chưng bánh.”
Dự Thân Vương thấy trong giỏ đầy nhóc hoa hòe trắng như tuyết, hương thơm ngào ngạt, ngọt say lòng người, không khỏi nói:
“Đã hái được như vậy, còn chưa đủ hay sao?”
Ngô Thăng đáp:
“Vương gia là không hiểu, từng này hoa hòe cũng chưa có đủ dùng đâu ạ. Chỉ ngắt những bông vừa nở một nửa, chỉ cần một chút điểm đen điểm vàng đều không được. Một đóa hoa phải sạch sẽ, cho vào niêu đất chưng lên, tích lấy từng giọt, dùng vải tơ lụa sống trắng tinh mà lọc thành từng giọt sương hòe, cũng không trộn nửa giọt nước.
Chỉ dùng sương hòe này hòa cùng mặt làm bánh, ngài nói xem phải bao nhiêu hoa hòe thì mới đủ? Chỉ sợ toàn bộ cây hòe trong cung này, cũng chẳng đủ cho một lần chưng như vậy. Thật khó cho Mộ cô nương, biện pháp khéo như vậy, không biết làm sao mà nghĩ ra được.”
Dự Thân Vương thuận miệng nói:
“Phương pháp dạy nấu ăn như vậy, chỉ có trên công trình điều chế nước xa hoa tột đỉnh mới nghĩ ra. Mộ Trung Bình làm quản đốc sông ngòi đã nhiều năm như vậy, cô ta lại là con gái ruột của Mộ Trung Bình, có biết cũng chẳng lạ.”
Ngô Thăng cười nói:
“Dự Thân Vương nói phải.”
Dự Thân Vương quay về phía tiểu thái giám dẫn đường nói:
“Đi thôi.”
Tới ngoài điện “Phương nội yên an”, Triệu Hữu Trí đã tự mình tiến lên đón, mỉm cười thi lễ nói:
“Thỉnh an Vương gia. Vừa rồi Vạn Tuế gia còn nhớ tới năm nay trà Tuyết Sơn Ngân Nha(chồi non núi tuyết) vừa cống ngon vô cùng, muốn để Vương gia nếm thử.”
Dự Thân Vương vốn đang có việc, thuận miệng đáp ứng, lập tức đi về hướng đông. Triệu Hữu Trí lại không có xoay người đi bẩm báo như trước đây, trái lại tiến lên một bước kêu:
“Vương gia.”
Dự Thân Vương lúc này mới để ý, hỏi:
“Thế nào? Hoa phi nương nương vừa đến sao?”
Hoàng Đế thực ra cũng không ưa sắc, vị trí Hoàng Hậu mặc dù còn trống, cũng không có sắc phong cho bốn vị cung phi. Hoàng quý phi Mộ thị đã qua đời, còn lại ba người Hoa, Hàm, Tình. Hàm phi hôm qua vừa bị điều đi, Tình phi thì bệnh nặng ở lại trong kinh, còn chưa đến Thượng Uyển, cho nên Dự Thân Vương nghĩ là Hoa phi đang ở trong, có điều không tiện nói gì.
Triệu Hứu Trí cười hì hì đáp:
“Hôm nay vừa mới cống trà Tuyết Sơn Ngân Nha liền, Mộ cô nương bỗng nổi hứng tự mình mở trà, lúc này hẳn đang pha trà cho Vạn Tuế gia. Hoàng Thượng chính đang cao hứng, nói pha trà là một công việc nhã nhặn, không được có người vây quanh, nếu không hỏng mất chung trà, lệnh cho bọn nô tì chúng tôi đều lui ra. Thỉnh Vương gia đến thẳng phòng chờ ngồi, lúc nào Vạn Tuế gia uống xong chén trà nhỏ, nô tì lập tức thay Vương gia bẩm báo lại.”
Dự Thân Vương lo lắng, theo lão bước vào phòng. Triệu Hữu Trí tự mình lau ghế dựa, lại tự mình pha trà mang đến rót mời Dự Thân Vương.
Cười nói:
“Vương gia xưa nay là một nhà thưởng thức trà cao tay, nơi này mặc dù không có loại trà gì tốt, cũng không dám làm qua loa có lệ mời Vương gia. Đây không phải là loại trà nổi danh, song là năm nay hái ở trước cửa Vũ cốc, thỉnh Vương gia thưởng thức cái vị non tươi thôi vậy.”
Dự Thân Vương vừa mở nắp, chỉ cảm thấy thơm ngát mũi, loại hương thơm này thanh nhã, không hề thua kém Tuyết Sơn Ngân Nha. Lòng chàng đang không yên, chỉ thuận tiện khen một câu, liền hỏi:
“Tháng sau là lễ Vạn Thọ, ý của Hoàng Thượng là làm ở Thượng Uyển cung hay là hồi kinh?”
Triệu Hữu Trí tươi cười nói:
“Nô tì không dám phán bừa thánh chỉ,có điều…”
Nói tới đây, lại ngừng một lát, do dự tiếp:
“Theo ý kiến ngu muội của nô tì, có lẽ hoàng thượng sẽ ở lại Thượng Uyển qua lễ vạn thọ.”
Dự Thân Vương dùng hai ngón bàn tay trái xoay xoay cái chén, đăm chiêu “À” một tiếng. Triệu Hữu Trí lại cười nói:
“Nô tì cũng có nghe hoàng thượng ngày ấy nói chuyện với Mộ cô nương, vạn tuế gia nói rằng, trở về cung thì nhiều quy củ, sẽ không được tự do như hiện giờ nữa.”
Dự Thân Vương đang chờ những lời này của lão, ngẩng đầu lên, ánh mắt sáng ngời nhìn lão:
“Con gái của tội thần, theo tổ huấn không được phong làm phi.”
Triệu Hữu Trí đáp:
“Vương gia nói phải lắm. Nhưng là vào thời hoàng đế Cảnh Tông cũng có trường hợp đặc biệt. Con trai thứ năm của Cảnh Tông là Khang Thân Vương, chính là do con gái của tội thần Phong Dật sinh ra, Cảnh Tông từng có chiếu dụ đặc biệt, vì sinh được hoàng tử mà phong cho nàng làm Phúc phi.”
Dự Thân Vương khẽ cau mày. Hoàng đế còn trẻ, Hàm phi sinh được hoàng tử trưởng năm nay còn chưa tới ba tuổi, Tình phi cũng từng sinh một người nhưng chưa qua được kỳ trăng tròn thì đã chết non, còn Hoa phi thì chưa có động tĩnh gì. Hoàng tử trưởng tuổi nhỏ, chưa nhìn ra được tư chất thế nào, đại cục trong tương lai rất khó nói được. Triệu Hữu Trí xem vẻ mặt Dự Thân Vương khó lường, cũng không nhiều lời, nhắc tới chuyện kia cũng vừa ý, giúp Dự Thân Vương mách nước:
“Việc nay cứ cho là đã có tiền lệ, song điều quan trọng nhất chính là, Phúc phi là mẹ đẻ của hoàng tử, cho nên mới được đặc cách. Nô tì thiết nghĩ, chỉ e kẻ khác thì không có được cái phúc đó, có thể sinh cho hoàng đế một hoàng tử.”
Dự Thân Vượng nhìn Triệu Hữu Trí, chỉ thấy lão sụp đôi mi hạ đôi mắt, thái độ vô cùng kính cẩn, trong lòng đột nhiên xẹt qua một ý chán ghét không thành lời, đẩy nhẹ tách trà, nói:
“Tứ ca là một người cực kỳ có tình có nghĩa, phàm là người nào huynh ấy thật tình đối đãi, tất sẽ không dung tha cho bất kỳ chuyện nào xảy ra. Nếu có kẻ dám tính toán sau lưng huynh ấy, chỉ sợ mất đầu thôi là vẫn còn ân huệ lắm.”
Triệu Hữu Trí vẫn kính cẩn như trước, đáp:
“Vương gia dạy phải.”
Dự Thân Vương yên lặng thở dài. Chàng vĩnh viễn sẽ không thể quên được cái giá rét của một mùa đông ấy, tuyết lớn rơi liên miên mấy ngày, thời tiết lạnh đến nỗi đầu óc cũng như bị đóng băng. Củi đốt dự trữ ngay cả phần than vụn cũng bị các nội quan gom lại. Trong điện chỉ đốt hai chậu than nho nhỏ, cả cái cung Vĩnh Thái to như vậy chẳng khác nào hầm băng. Chàng mặc thật nhiều quần áo, nhưng rốt cuộc vẫn cứ lạnh phà ra hơi trắng.
Mẫu phi bệnh càng ngày càng nặng, đến nỗi không thể rời giường, mà nhóm nội quan cung nữ hầu hạ thì luôn lười nhác né tránh, cuối cùng chỉ còn mình chàng ở bên chăm sóc. Mẫu phi có lúc ngủ mê man, có lúc cũng thanh tỉnh được đôi chút. Bên ngoài cửa sổ tuyết rơi đập vào trên cửa giấy, nghe được cả tiếng vang, mẫu phi thì thào hỏi:
“Là tuyết rơi sao?”
Mẫu phi nói ngôn ngữ của vùng đất Hồi Hột (vùng gần Mông Cổ), ở trong cung này cũng chỉ có cậu bé chưa đầy bảy tuổi là chàng hiểu được. Cậu ôm lấy tay mẫu phi, cũng dùng tiếng Hồi Hột kêu bà một tiếng “Mẹ”.
Khuôn mặt từng sáng ngời như ánh trăng của mẫu phi, nay chỉ còn lại sắc u ám tiều tụy, con ngươi từng tinh anh như minh châu lấp lánh, cũng chỉ còn đượm mãi một vẻ ưu buồn, lẩm bẩm những lời vô nghĩa:
“Nếu chúng ta trở về trên thảo nguyên mênh mông ngày trước, vào thời điểm tuyết rơi, bà ngoại con sẽ sai bọn nô lệ nấu chè lạc Dương Canh( một loại điểm tâm nấu bằng bột đậu đỏ, va-ni, đường cát), hương thơm ấy mỗi lần ta nằm mơ vẫn đều nghe thấy”.
Trong lòng cậu vô cùng đau khổ, ngoài mặt lại phải cười thật tươi:
“Mẹ muốn ăn, vậy Loan nhi sẽ bảo nhà bếp đi nấu nhé.”
Mẫu phi nhẹ nhàng lắc đầu nói:
“Ta cũng không phải muốn ăn.”
Nhưng cậu vẫn biết, cậu biết vì sao mẹ cậu lại nói như vậy. Ở trong cung trên dưới đều là một bọn chuyên bợ đỡ nịnh hót, nhà bếp ngay cả ba bữa mỗi ngày cũng chỉ làm cho có lệ, ở đâu còn có chuyện đi nấu cho bọn họ chè Dương Canh?
Mẫu phi vươn tay, xoa xoa mặt cậu, lòng bàn tay nóng bỏng, chẳng khác nào cái bàn ủi đặt trên mặt cậu. Thanh âm của mẫu phi cũng giống như bông tuyết, nhẹ tênh không chút sức lực:
“Con trai ngoan, đừng buồn, là tại mẹ làm khổ con, đây đều là số kiếp cả mà.”
Trong khoảnh khắc dòng lệ trào ra, cậu không phải buồn, mà là phẫn nộ, một sự phẫn nộ không thể đè nén được. Cậu bỗng đứng bật dậy, lớn giọng nói:
“Mẹ, đây không phải là số kiếp, bọn họ không thể đối xử với chúng ta như vậy.”
Không để mẫu phi nói thêm nữa, đã xông thẳng ra cửa. Vô số bông tuyết cuồn cuộn lên đầy trời, gió bắc gào thét táp vào trên mặt. Cậu bé chạy một mạch như điên, hai bên là tường cung điện cao cao chạy dài như những ngọn núi liên tiếp, vĩnh viễn không dừng lại. Cậu nghe được cả tiếng nước tuyết tan bị đạp văng tung tóe, nghe được cả trái tim mình đập cuồng loạn, nghe được hơi thở gấp gáp của mình. Trong đầu cậu chỉ có duy nhất một ý niệm, cậu muốn đi phòng bếp, muốn đem cho mẫu phi một bát chè lạc Dương Canh. Cậu là hoàng tử, là con trai của đương kim hoàng đế, mẫu phi bệnh như vậy, cậu không thể để người ngay cả một bát chè lạc cũng không được ăn.
Cổng Chính Hòa, cổng Kinh Thái, cổng Vĩnh Phúc… từng cái từng cái đều bị cậu bỏ lại phía sau. Bỗng nhiên dưới chân trơn trượt, cả thân hình ngã ập xuống đất, đầu gối bị đau đến thấu xương, sau một lúc lâu vẫn không thể đứng lên nổi. Có tiếng bước chân lộn xộn từ từ tiến lại gần, rồi bỗng nghe một tiếng cười phì.
Cậu ngẩng đầu lên, thấy rõ đang đứng từ trên cao nhìn xuống chính là Nhị hoàng tử Định Đường. Tên đó mặc một bộ áo gấm lông cừu, trên đầu đội mũ chụp có gắn lông chim, che mất đi phân nửa cái mặt tròn tròn của nó.
Định Đường trông thấy toàn thân cậu đều dính nước tuyết bẩn thỉu thì khoái lắm, vỗ tay cười to:
“Thằng nhóc Hồi Hột, vồ ếch đẹp lắm, một cái chổng vó y như con rùa.”
Trong đầu cậu nổ đùng một tiếng, máu nóng đầy đầu ngùn ngụt bốc lên như muốn ồ ạt xông ra. Không kịp nghĩ ngợi gì, cậu chụp lấy tay Định Đường dùng hết sức kéo một cái thật mạnh. Bị bất ngờ không kịp đề phòng, Định Đường rốt cuộc bị kéo ngã từ trên xuống, dập mặt ngay tức khắc, bật khóc oe oe.
Bọn nội quan tức tốc xông tới nhưng tách sao nổi hai người. Cậu ôm ghì lấy Định Đường, còn Định Đường thì vừa khóc vừa chửi, cả hai quay cuồng trong đám bùn tuyết, cậu cứ một đấm lại tiếp một đấm, liên tiếp như mưa giáng xuống. Định Đường ra sức giãy giụa, cũng tay đấm chân đá. Mà Định Đường so với cậu còn lớn hơn vài tuổi, thế nhưng không biết sức mạnh ở đâu ra, cậu vẫn kiên quyết không chịu buông. Định Đường phát hoảng, miệng vừa gào khóc vừa mắng dọa:
“Cái thằng Hồi Hột khốn kiếp kia, có thả tao ra không, tao kêu mẫu hậu giết chết mày! Giết mày!”
Lửa giận hừng hực bốc lên, vốn là đã cháy từ rất lâu, trên đường đi gặp tất cả cành khô que củi nào đều đốt cho thành tro bụi, khí thế ào ạt như dời non lấp biển. Cậu cứ để cho ngọn lửa trong lòng bùng lên đến nỗi hai mắt đỏ ngầu, cưỡi lên người Định Đường, dùng hai bàn tay mà kẹp lấy cổ tên nhóc kia. Định Đường lập tức thở không nổi.
Bọn nội quan cũng tay chân hoảng loan, kéo ra không nổi, chỉ đành cạy từng ngón tay của cậu. Cậu thà chết cũng không buông, hai mắt Định Dường dần dần trắng dã. Bọn nội quan hoảng quá, tay cũng dùng hết sức, chỉ nghe “rắc” một tiếng, ngón trỏ tay phải của cậu bị đau đến điếng óc, đau muốn ngất xỉu tại chỗ. Bọn nội quan cuối cùng cũng lôi cậu ra được, vội đỡ Định Đường dậy.
Ngón trỏ buông thõng xuống, cậu chưa từng đau đến như vậy, cơn đau cơ hồ lan đến tận tim.
Bọn nội quan đang sốt ruột lo lắng kiểm tra xem Định Đường có bị thương ở đâu không, còn cậu bé đang ngã trong vũng nước, thì chẳng có lấy một người thèm để mắt đến.
Xương ngón tay trắng hếu bị gãy đâm ra bên ngoài da thịt, máu chảy theo từng đốt ngón tay nhỏ xuống từng giọt từng giọt rơi trên tuyết, nở ra những đóa hoa đỏ rực.
Cậu không khóc, cậu tuyệt đối không muốn khóc. Chẳng sợ hôm nay bọn chúng có đánh cho gãy tay què chân, cậu cũng không muốn khóc một tiếng.
Mẫu phi đã từng nói, hồi ấy trên vùng thảo nguyên mênh mông, binh sĩ Hồi Hột từ xưa tới nay chỉ có đổ máu chứ không rơi lệ.
Cậu cố gắng ngửa mặt lên, trong vô số bông hoa tuyết từ trên trời cao rơi xuống, mỗi một bông thanh khiết trắng trong đều như một ánh mắt dịu dàng hiền hậu của mẹ.