Trăng Lạnh Như Sương

Chương 23: Giọt nước tích tận tầng mây thanh khiết


Đọc truyện Trăng Lạnh Như Sương – Chương 23: Giọt nước tích tận tầng mây thanh khiết

Chàng sốt cao không hạ, bị bệnh nằm liên tục mấy ngày liền, mê man, khi mộng khi tỉnh. Trong mộng, dường như thanh sương chảy tràn trên mặt đất, trăng lạnh như sương. Dưới ánh trăng, thấy nàng áo trắng còn hơn tuyết, tóc mây lõa xõa trên bờ vai, đen ánh như ngọc, mềm mại buông rủ đến tận gót chân. Khe nước tỏa mù uốn lượn… Thình lình, giấc mơ của những ngay ấu thơ lại ùa về, thời tiết rất lạnh, rất lạnh, Tứ ca dạy chàng tập viết, cầm chiếc bút, giúp chàng nắn nót từng chữ… Nhưng trong điện giống như có vết nứt… Lạnh đến nỗi toàn thân chàng đều phát run.  .. 

Chàng tỉnh lại từ trong giấc mơ hỗn loạn, Đa Thuận nói câu gì, chàng cũng nghe không rõ, bởi vì cả người đều nóng ran, lại nặng nề thiêm thiếp mê man.

Rất xa rất xa có người đang gọi tên chàng  … Định Loan… Định Loan… Hình như là giọng của phụ hoàng… Nhưng phụ hoàng chưa một lần  dịu dàng mà gọi tên chàng như thế… Nhất định là Tứ ca, hồi còn nhỏ, cứ hễ đến thời khắc trong cung tổ chức tiệc mừng quốc khánh, chàng đều lặng lẽ trốn vào một góc, thui thủi không muốn gặp ai. Tứ ca luôn sai người đi khắp nơi tìm chàng, chàng không chịu lên tiếng trả lời, mà thanh âm kia thì vẫn kiên nhẫn không dứt “Định Loan”…

Sau cùng chàng bồn chồn tỉnh giấc, mí mắt nặng nề hé mở, ngọn đèn dầu trong phòng nhỏ như hạt đậu, bóng lửa chờn vờn, ngoài cửa sổ, tiếng mưa rả rích rơi, thu lạnh đến thế. Miễn cưỡng mở to hai mắt, thấy dưới quầng sáng mông lung, hiện ra một khuôn mặt cực kỳ quen thuộc, hoảng hốt cả kinh:

“Tứ ca?!”

Hoàng Đế là cải trang mà đến, Triệu Hữu Trí đứng ngay đằng sau. Thấy chàng tỉnh lại, Hoàng Đế đưa tay đè chàng nằm xuống, hòa nhã nói:

“Nằm đi, đừng động đậy gì cả.”

Chàng lại ngọ nguậy muốn đứng lên, Hoàng Đế vận sức vào tay:

“Lão Thất!”

Kỳ thực toàn thân đã mệt mỏi cùng cực, dùng hết sức vẫn bị Hoàng Đế cản lại, chàng rã rời đổ phịch lên gối:

“Tứ ca… Sao huynh lại tới đây…”

“Ta lo lắng lắm, cho nên đến thăm.”

Hoàng Đế cười thật điềm đạm, mặt mày vẫn thản nhiên ôn hòa, tựa như vẫn là người anh luôn luôn dốc lòng che chở chàng của mười năm trước.

“Đệ làm sao mà bệnh đến mức này?”

Ngoài cửa sổ giọt mưa tí tách, gió thoảng qua lá trúc, Dự Thân Vương lẩm bẩm:

“Trời mưa…”

“Phải, trời mưa, ban đêm trời lạnh…”

Hoàng Đế giúp chàng chỉnh lại chăn cho ngay ngắn, nhẹ nhàng nói:

“Bệnh của đệ đều là do quá cật lực mà ra, nghỉ ngơi thoải mái vài ngày, an dưỡng cho khỏe lại.”

Trong lòng Dự Thân Vương run lên, kêu một tiếng:

“Tứ ca.”

Hoàng Đế nắm tay chàng, hỏi:

“Chuyện gì?”

Chàng muốn nói lại thôi, cuối cùng chỉ nói:

“Ý chí của Định Trạm không nhỏ, mọi sự Tứ ca đều phải cẩn trọng.”

“Ta biết.”

Khóe miệng Hoàng Đế khẽ cong, phảng phất một ý cười lạnh:

“Hắn liều mạng dâng nửa giang sơn cho bọn giặc Hồ((thời xưa chỉ các dân tộc phía Bắc và phía Tây Trung Quốc), hẳn cũng muốn mưu đồ tạo phản.”

“Con người Kỷ Nhĩ Mậu trời sinh tàn bạo giảo hoạt, kỵ binh tung hoành, Thiên triều phải liên tiếp tấn công mới có cơ may thắng.”

Dự Thân Vương lại hổn hển một hơi.

“Định Trạm chỉ sợ là muốn dẫn sói vào nhà, trọng yếu nhất là hai châu Hoằng, Nhan.”

Trấn thủ hai châu Hoằng, Nhan chính là Định quốc đại tướng quân Hoa Lẫm, vốn sầu não vì sự cố của Hoa phi đã lâu. Hoàng Đế tuy đã dùng nhiều phương thức hòng xoa dịu, thế nhưng Hoa lão tướng quân dường như đã kiên quyết, thời gian không lâu liền đệ trình một bản tấu xin từ quan về ở ẩn. Hoàng Đế vừa nhớ đến lại thấy nhức đầu, song trước mặt Dự Thân Vương cũng chỉ an ủi:

“Hoa Lẫm tuy là cao tuổi, song cũng chẳng đến nỗi già mà hồ đồ, chuyện này đều không phải gấp, đệ cứ an tâm mà tĩnh dưỡng là được.”

Dự Thân Vương vốn phát nhiệt còn chưa hạ, thần trí uể oải đến cực điểm, gắng gượng nói chuyện cùng Hoàng Đế chốc lát, rốt cuộc lại mơ màng thiếp đi. Vì Hoàng Đế cải trang mà đến, ngoại trừ nội quan, chỉ dẫn theo một cấm vệ quân trong ngự doanh làm hộ giá. 


Nhìn mưa rơi vội vã đêm thâu, gió thu mang hơi thu đều lạnh đến thấu xương, tiếng mưa lộp bộp trên rừng trúc, càng làm tăng thêm cảm giác quạnh quẽ, cũng không thể không trú lại chùa một đêm.

Cũng may Đại Phật Tự từ trước nay đều là nơi lễ Phật của hoàng gia, thiền phòng tăng xá sạch sẽ cũng không thiếu, Trí Quang đại sự đã sớm sai người bố trí ổn thỏa. Triệu Hữu Trí đốc thúc tiểu thái giám đi dọn dẹp giường, lau dọn sạch sẽ, lại tự mình hầu hạ Hoàng Đế thay đổi trang phục. Hoàng Đế không buồn ngủ lắm, ngồi dưới bậu cửa sổ, nghe bên ngoài kia mưa sa gió giật, tựa hồ thoáng ngẩn ngơ.

Triệu Hữu Trí biết chàng lo lắng bệnh tình của Dự Thân Vương, không dám lắm mồm khuyên bảo, chỉ chỉnh cho đèn sáng thêm, nói:

“Đã là canh tư, thỉnh Vạn Tuế gia vẫn nên đi ngủ.”

Hoàng Đế ừ một tiếng, ngoài kia gió thét mưa gào, rừng trúc lay động trong rả rích, làm người ta cảm giác như sắp nổi lên phong ba bão táp.

Chàng ngủ không yên giấc, sáng sớm tinh mơ đã thấy tỉnh, mưa vẫn giọt giọt tí tách rơi quá nửa đêm, đến tận bình minh vẫn còn đọng lại chút dư âm, leng keng có tiếng chuông gió đầu hiên, càng như vọng lại hơi lạnh lắng lòng. Lại nhớ đến bệnh tình của Dự Thân Vương, vừa tỉnh dậy đã sai người đi hỏi, báo rằng Dự Thân Vương vẫn chưa tỉnh. Hoàng Đế lo lắng không thôi, Triệu Hữu Trí thấy vậy khuyên nhủ:

“Vạn Tuế gia vẫn nên khởi giá về Thượng Uyển thôi, ở trong chùa này cực kỳ bất tiện, vả lại kinh thành bệnh dịch tràn lan, Hoàng Thượng lại là cải trang đến, khiến lòng Thất gia chỉ có bất an.”

Hoàng Đế nhìn mưa ngoài cửa sổ, nói:

“Trẫm ra ngoài một chút.”

Triệu Hữu Trí không biết làm sao, đành phải gọi tiểu thái giám đi lấy ô to bằng giấy dầu, nhắm mắt nhắm mũi mà theo đuôi Hoàng Đế. Hoàng Đế như tùy ý mà đi, dọc theo con đường lát gạch ngập nước hướng về phía nam. Vòng qua rừng trúc, xa xa trông thấy một tòa tháp cổ màu gạch xanh, hình tháp như cây bút, thấp thoáng vài đám đỏ sẫm như lửa… chính là hai gốc cây thích đại thụ sau tháp, lá cây đỏ rực như bùng lên.

Hoàng Đế chắp tay đứng lặng hồi lâu, ngưng mắt nhìn lá đỏ dưới chân tháp, không biết đang nghĩ gì. Triệu Hữu Trí cũng chẳng dám nhúc nhích, chỉ là cánh tay cầm dù đã vừa tê vừa mỏi, lại không dám lên tiếng. Ngay lúc còn đang không biết làm sao, chợt thấy từ trong rừng trúc một bóng người bước ra, không khỏi lắp bắp kinh hãi.

Hoàng Đế hình như cũng đã phát hiện, quay đầu, chỉ thấy người kia áo trắng tóc đen, tay xách một cái làn trúc nho nhỏ, bên trong đựng đầy hoa cúc vàng, càng bước càng gần. Gót sen khoan thai, dung mạo so với hoa cúc kia lại càng trong trẻo mà lạnh lùng, Hoàng Đế chợt cảm thấy lóa mắt.

Nàng bắt gặp Hoàng Đế đứng đó, nghiêng đầu khẽ liếc, bỗng nhiên hé cười, hai lúm đồng tiền lồ lộ. Cũng không cầm quạt, bèn đưa cành hoa cúc lên che mặt, lúng liếng xinh đẹp, lại cúi đầu, đi về phía trước. Hoàng Đế vừa ngạc nhiên vừa nghi hoặc, buột miệng thốt lên:

“Chậm đã.”

Đôi mắt đen trầm lắng của nàng nhìn chàng, tràn đầy vẻ thắc mắc. Hoàng Đế rốt cuộc gọi một tiếng:

“Như Sương.”

Đầu mày của nàng khẽ nhíu, qua một lúc sau mới thẹn thùng cười. Trong lòng Hoàng Đế chấn động, mà khóe miệng nàng vẫn cười dịu dàng như thế. Vạt áo trắng hơi ẩm, càng làm tăng thêm vẻ mong manh yếu đuối, chỉ có sắc mặt là vẫn điềm đạm bình thản, tựa như rất lâu rất lâu về trước đã từng gặp ở nơi nào.

Chàng thảng thốt nghĩ, chẳng lẽ là nàng?

Không, sẽ không là nàng, không thể nào là nàng. Không thể nghĩ nhiều, mà cũng không muốn nghĩ nhiều.

Chàng ngước mắt nhìn lên hai bóng cây lá đỏ sau tháp, đoạn thấp giọng thì thào:

“Hận mệnh ấy dài, mình quạnh quẽ, biết hay chăng.”

Nàng cũng thuận miệng ngâm nga:

“Lá cành liền nhánh tự bao thuở, chung mưa gió.”

Hai câu này xuất từ tập thơ “Đề diệp tập” của Tiên hoàng Thắng Vũ Đế.

Hơn mười năm về trước, thuở Hoàng Đế vẫn còn là hoàng tử, vốn thiếu niên tính hay tò mò, từng gạt thái phó(thầy dạy) đọc trộm cuốn từ tập này, bấy giờ thốt nhiên nghe nàng thuận miệng ngâm nga, trong lòng chấn động, dường như tự chất vấn, chỉ ngơ ngẩn nhìn nàng. Mà nàng thì thản nhiên như không, khoé miệng nở một nụ cười nhạt:

“Truyền thuyết rằng hai gốc cây thích đại thụ này, chính là do Thắng Vũ Đế tự tay trồng, cảnh sắc mùa thu trong kinh thành, hàng năm vẫn lấy đó làm tiên phong.”

Chàng hỏi:

“Nàng rốt cuộc… nàng rốt cuộc là ai?”

Nàng nhẹ nhàng “ừm” một tiếng, nhưng không trả lời.

Lòng bàn tay Triệu Hữu Trí đã sớm thấm đẫm mồ hôi lạnh, lúc này thấy sau lưng cũng hơi lạnh hiu hiu, thì ra ngay cả áo trong cũng đã ướt đẫm.

Như Sương như không nghe không thấy, Hoàng Đế nhìn nàng đứng trong mưa, mưa phùn như tơ thấm ướt mái tóc mai của nàng, mà ngón tay thon thon của nàng như ngọc, vờn qua làn tóc, đôi mắt ngước lên, lại cười.

Hoàng Đế cũng không nhịn được mỉm cười theo, tiếp lấy ô trong tay Triệu Hữu Trí, vẫy vẫy nàng, nói:

“Đến đây,  cùng ta đi ngắt lá đỏ.”


Như Sương vui vẻ đáp ứng, Triệu Hữu Trí muốn nói gì lai thôi, lại thấy Hoàng Đế xua tay ý bảo lão không cần đi theo, đành phải đứng nguyên chỗ cũ,trơ mắt nhìn Hoàng Đế cầm ô, Như Sương đứng bên cạnh chàng. Hai người sóng vai mà đi, càng lúc càng xa, hơi nước mát dịu như sương, sau cùng đi qua ngọn tháp, đã mất hút.

Hai gốc cây thích sau tháp, lá đỏ rực như ngọn lửa bùng cháy, Như Sương chỉ vận trang phục như một nữ nhi khuê các, xiêm y áo lụa đều một màu xanh lơ thuần khiết, đứng dưới lá đỏ, càng toát lên dáng người thướt tha yểu điệu. Nàng ngẩng đầu ngắt một phiến lá, lá cây đỏ sẫm như máu, ghé bên sườn mặt, càng như tôn lên gò má rạng rỡ ẩn hiện sắc trắng nõn nà.

Hoàng Đế nói:

“Quả thực chưa từng thấy nàng vận trang phục như thế này.”

Miệng nàng khẽ nhếch, thoáng ý cười, Hoàng Đế bắt gặp trên trán nàng có vết thương mới chưa lành, một vết thẹo hồng mờ nhạt, nhớ lại bức thư của Dự Thân Vương, trong ngực lại thoáng động.

Như Sương bỗng quay mặt đi, khe khẽ thở dài. Hoàng Đế cũng không hỏi, qua thật lâu, ngưng mắt nhìn giọt mưa rả rích trên tàng lá đỏ, đoạn nói:

“Thì ra nàng cũng từng đọc “Đề diệp tập”.

Nàng cúi đầu vuốt vuốt mặt lá trong tay, hàng mi thật dài buông xuống, chấp chới tựa cánh bướm run rẩy, giọng nói cũng rất nhỏ, tựa một tiếng thở dài:

“Cũng chưa đọc xong được.”

Chàng chợt hỏi:

“Nàng có biết tập từ này vì sao gọi là “Đề diệp tập”?

Mưa vương trên lá, đọng lại như sương, nàng lau bọt nước trên phiến lá đỏ, ngẩng đầu cười yếu ớt:

“Tiên hoàng Thắng Vũ Đế dùng lá đề thơ, nên gọi “Đề diệp tập”.

Hoàng Đế nhìn nàng, như thể trước giờ chưa từng biết nàng, khóe miệng khẽ cong, trên mặt cũng không tỏ vẻ gì, chỉ nhìn nàng, hồi lâu sau, mới quay mặt đi, nói:

“Lá đỏ này… nếu như đề lên trên mặt lá đỏ, quả thực là thích hợp.”

Như Sương nhẹ nhàng “ừm” một tiếng, nói:

“Người con gái ấy họ Diệp.”

Đây là cấm kỵ trong cung hơn mười năm qua, Hoàng Đế nghe nàng bỗng nhiên đề cập, chỉ thấy tiếng mưa rả rích vang lên, mưa rơi càng lúc càng nặng hạt. Giọng Như Sương thỏ thẻ, như hòa vào trong tiếng mưa:

“Bởi vì hận nước thù nhà, bảo nàng phải cư xử như thế nào đây? Dù cho hai trái tim cùng nhịp đập, tình sâu tựa bể, cuối cùng cũng không tránh khỏi dứt áo đoạn tình,  bất cần ra đi.”

Nửa người nàng đã ở ngoài ô, đầu vai thấm ướt, Hoàng Đế không thể không nắm lấy tay nàng, kéo nàng vào sát mình, chỉ cảm thấy bàn tay nàng lạnh ngắt.

Giọng điệu Hàng Đế buồn bã như thở dài:

“Ký ức ngày trong Tây Giác này, trúc sâu tựa bể, lá đượm lá tình, mới hay chợt bừng cơn mộng.”

Câu mà chàng ngâm chính là lời bạt trong “Đề diệp tập”, hai người đứng dưới tán ô, lặng nhìn hai gốc cây đỏ lạ, trong khoảnh khắc ngôn từ đều tan biến.

Hai người đều biết Diệp thị cuối cùng tự vận mà chết, mà Thắng Vũ Đế trị vì suốt hai mươi năm trời không hề bước chân đến Đại Phật Tự nửa bước. Mãi tới về già trọng bệnh, mới hạ lệnh cho người xây dựng một tòa tháp trong chùa, sau đó thân hành tới chùa, tự tay vun  trồng  hai gốc cây thích bên sườn tháp.

Mỗi đợt thu về, hai cây thích đại thụ luôn luôn là báo hiệu trời thu bằng những tàng lá đỏ rực, nhen lên khắp kinh thành Tây Trường một cảnh sắc thiên thiên thu rực lửa. Bởi vì hai cây lá đỏ nồng đượm, đứng kế bên những hàng phong từa tựa lại càng nổi bật lên sắc nồng cháy, cho nên được nhân gian gọi là Huyết Thích.

“Chính tại nơi này Diệp thị đã tự kết liễu sinh mạng mình, trong cung vẫn truyền nhau nghe rằng, bởi vì bóng thích được nhuốm máu nàng, cho nên mới mang một màu đỏ kỳ lạ đến thế.”

Hoàng Đế ngước mắt nhìn chuông đồng bên góc tháp, tiếng leng keng âm hưởng trong gió:

“Xây một tòa tháp như vậy, thì có làm được cái gì?”

Bắt gặp một đôi con ngươi sáng như sao của Như Sương nhìn mình, thoắt nhiên hứng thú rã rời:

“Một lời vô nghĩa như vậy, cũng không nhất thiết phải trả lời.”

Mưa bụi điểm lạnh, thoảng hoặc có làn gió vờn qua mặt, Như Sương chỉ nhìn chàng, trong đáy mắt vô thương vô bi, cũng không chút hỉ nộ ái  ố, cứ đơn giản là nhìn chàng như vậy.

Chàng nhớ lại cơn dông đêm ấy, chớp lằn rạch ngang như xé toạc bầu trời, sấm nổ đùng đùng kéo theo bóng đêm vô cùng vô tận, một mình đứng lặng trên lầu thành, tường thành cao cao bao bọc, hết thảy đều bị bóng tối mịt mờ mông lung nuốt chửng.


Chính là như thế, hóa ra, đúng là như thế.

Cuộc đời như một bàn cờ, sớm nắng chiều mưa, có ai ngờ trong chốn u minh sáng tối lại đã định sẵn là thế. Chắng qua đã quá mệt mỏi, sự mỏi mệt chồng chất dâng lên từ tận sâu đáy lòng, chàng nhàn nhạt nói:

“Cùng trẫm về kinh đi thôi, mặc kệ nàng có phải thật sự đã quên hay không, trẫm cũng luôn hy vọng nàng sẽ đứng ở bên cạnh mình.”

Như Sương vẫn không đáp, đôi con ngươi như nước, loang loáng bóng sáng. Nàng ngoảnh đầu nhìn lá đỏ, trong cơn mưa bụi rả rích kéo dài, hai ngọn cây như hai bó đuốc, thiêu đốt cả tầm mắt con người.

**************************************

Như Sương tựa hồ đã thật sự quên hết toàn bộ sự việc trước kia, sau khi trở về Thượng Uyển, đối với mọi người cũng đều không nhớ gì, cái tính bướng bỉnh kiêu ngạo trước đây dã không còn, hiện giờ trở nên ôn hòa rất nhiều.

Triệu Hữu Trí tuy là lo lắng trùng trùng, song Hoàng Đế vẫn lạnh nhạt như trước, cũng không khôi phục lại danh phận cho Như Sương. Nàng ngày ngày vẫn ra vào cung Chính Thanh, có vẻ không giống phi tần, lại mang dáng dấp của một nữu quan. Mọi người trong cung đều xấu hổ không biết xưng hô với nàng ra sao, chỉ đành gọi “Mộ cô nương”, dần dần về sau lại thành “Mộ nương”.

Hoàng Đế đối với nàng mặc dù không còn cưng chiều một cách vô cớ như trước, song cũng đặc biệt khác xa so với tất thảy trong hậu cung, thường xuyên ở bên bầu bạn.

“Chiêu nghi nương nương nếu không so đo, trước mắt yêu nghiệt kia chính là mối tai họa của hậu cung, nương nương thoạt tiên không biết, họ Mộ kia ngày xưa bày kế độc cưỡng chết Hoa phi, bức điên Hàm phi, hại chết Tình phi, cư nhiên về sau bá chủ cả hậu cung, trong đây ai ai mà không biết cô ta chính là một con đàn bà tâm địa rắn rết?”

Người nói dần dần nghiêng mình qua, khe khẽ như thì thầm:

“Nương nương nếu không thừa dịp chỗ đứng của ả chưa vững, một tay quét sạch, bằng không hậu hoạn về sau e khó lường.”

Chiêu nghi Ngô thị nửa ngồi nửa dựa trên lò  sưởi, mái  đầu nghiêng nghiêng, bối  tóc đen nhánh như ngọc lưa thưa lõa xõa, cây trâm nạm vàng mười hai nhánh gài ngang bím tóc, sợi tua màu hoàng kim được kết tinh xảo thoáng đong đưa, làm ánh lên những đợt sóng màu vàng kim lấp lánh. Nghe người ta trình bày mối nguy cơ có vẻ nguy ngập như thế, cô ta cũng chỉ vươn cánh tay, những ngón tay ngọc ngà thanh thoát  che đôi môi anh đào ngáp một cái, vẻ mặt lười biếng:

“Rồi sao?”

“Rồi sao ư?”

Người nói dường như thoáng bất ngờ, chần chừ nói:

“Nương nương, ả ta là đồ yêu nghiệt.”

“Yêu nghiệt?”

Trục Hà như cười như không.

“Hình như ta nghe người ta nói, trong cung này cũng thường gọi ta là yêu nghiệt cơ đấy.”

Người kia tái mặt, gượng gạo kêu lên:

“Nương nương.  ..”

Đôi môi hồng của Trục Hà hé mở, không buồn để ý gọi một tiếng:

“Người đâu!”

Hai gã nội quan theo gọi mà vào, nàng tiện tay chỉ:

“Tên này châm ngòi ly gián, không thể lưu lại, tha ra ngoài cho ta.”

Hia gã nội quan lập tức tiến lên bắt người, kẻ kia hoảng hốt kêu lên:

“Nương nương! Nương nương ban ơn… nương nương…”

Rốt cuộc cũng bị tha ra ngoài, hình như đã bị nhét cái gì vào miệng, tức khắc đã không còn nghe một âm thanh nào vọng lại. Giây lát trong điện trở về yên tĩnh, chỉ có cái lư đốt hương là cứ phun ra hết đun khói này đến đụn khói khác. Trục Hà vươn tay, chậm rãi xoa xoa trên đỉnh lư hương một vòng, hoa văn tinh xảo nhẵn nhụi, trơn mát bàn tay.

Nghĩ ngợi thất thần, đoạn kêu:

“Huệ nhi, thay quần áo.”

Huệ nhi giúp cô đứng lên, cười bồi nói:

“Nương nương muốn đi dạo vườn một chút?”

“Chúng ta đi thăm Mộ nương một cái.”

Huệ nhi nói:

“Nương nương, Vương gia dặn dò, chưa được hành động thiếu suy nghĩ.”

Trục Hà đáp:

“Ta biết chứng mực.”

Như Sương là phế phi, còn chưa được phục vị, cho nên cũng chỉ ở nơi một gian vũ phòng, tuy là bày biện sạch sẽ, song giữa phòng cũng chỉ có một cái giường. Trục Hà vừa mở cửa đã bắt gặp Như Sương đang ngồi dưới cửa sổ thêu hoa, cái khung thêu giăng ngang bên khung cửa. Trong phòng cũng không có bao nhiêu chỗ trống, nghe tiếng bước chân, nàng quay đầu lại nhìn. Thấy Trục Hà đang vịn lấy Huệ nhi mà bước vào, Như Sương cũng chưa đứng dậy, lại tiếp tục cúi đầu mà thêu.


Trục Hà thấy nàng đnag thêu hoa mai, mai đen, tuồn những sợi tơ đen lên nền gấm trắng, hai màu đen trắng phân minh, trông như một bức thủy mặc. Tà tà mấy nhánh, phía trên lại treo lơ lửng một diềm trăng lạnh lẽo, sắc trăng kia cũng cực nhạt, thêu dát như bức họa. Phương thức đưa mũi kim cực kỳ linh hoạt, kỳ thực thiếu nữ con nhà thế gia vọng tộc trong kinh thành đều là một tay thêu thùa cực giỏi, mà con gái Mộ gia, đương nhiên sẽ không ngoại lệ.

Như Sương vẫn cứ thản nhiên cúi đầu mà thêu, Trục Hà ngồi bên mé giường, làm ý ra hiệu, Huệ nhi liền đóng cửa lại, chính mình đứng canh bên ngoài.

Trong phòng cực im ắng, tựa hồ còn nghe được cả tiếng kim khâu đâm xuyên qua tấm vóc, qua một hồi lâu, Trục Hà mới cười:

“Mộ nương thật sự là có một đôi tay khéo léo, chẳng trách Hoàng Thượng thích như thế.”

Như SƯơng mỉm cười:

“Chiệu nghi hiện thời danh vị cao nhất cái hậu cung này, dĩ nhiên Hoàng Đế lại càng yêu thích hơn nữa.”

Trục Hà nói:

“Thôi, nơi này cũng chẳng có người noài, hai người chúng ta hẳn cũng không phải xa lạ đến mức đó chứ?”

Như Sương thờ ơ như không, vẫn cúi đầu tiếp tục thêu.

“Ngày đó thật ra là Vương gia bày kế hãm hại cô cùng Kính Thân Vương, có điều KÍnh Thân Vương là em trai cùng một mẹ với Hoàng Thượng, nếu không có chuyện như vậy, động đến hắn tuyệt không được. Trong lòng cô cũng phải hiểu, không nên oán Vương gia. Huống chi hiện thời cô cũng yên ổn mà ở trong này, Hoàng Đế đối đãi với cô, cũng chưa nảy sinh hiềm khích gì.”

Nhụy hoa rất nhỏ, kim càng nhỏ, một sợi tơ mà xẻ àm bốn phần, nếu không cẩn thận, xé sẽ bị đứt. Như Sương luồn chỉ, hơi hơi dẩu miệng, chăm chú cần thận kéo sợi chỉ ra thật nhẹ.

“Vương gia muốn tôi truyền đạt một câu, nếu cô chịu sửa lại ý định, Vương gia cũng sẽ như trước, toàn tâm toàn ý hỗ trợ cho cô.”

Cuối cùng Như Sương cũng ngẩng đầu lên, lạnh nhạt nói:

“Mấy tháng không gặp, Chiêu nghi nương nương quả nhiên khiến người ta phải nhìn với cặp mắt khác xưa.”

Con ngươi nàng cực đen, phải gọi là hai tròng mắt sánh nước, phản chiếu bóng Trục Hà toàn thân vận áo gấm hoa mỹ, mà dưới đáy đen thẳm kia tựa như lấp lánh ánh vàng kim chói lóa, khẽ liếc:

“Ta không oán Vương gia, càng không oán hận cô.”

Trục Hà mỉm cười:

“Tôi biết trong lòng cô thấu hiểu.”

“Hoàng Thượng kỳ thực là con người thông minh hiếm có, vì tiết kiệm sức mình, thường ưa mượn đao giết người.”

Như Sương cúi đầu thêu hoa, sắc mặt điềm tĩnh mà chuyên tâm, tựa như chính mình chỉ đang tự tại mà ngồi trong khuê phòng:

“Vương gia hiện thời tuy có binh quyền trong tay, vẫn phải đề phòng cẩn thận từng bước, từng bước, không thể vọng động.”

Trong tay Trục Hà nắm một tấm khăn thêu hoa hải đường vàng kim, xoắn chặt nơi đầu ngón tay:

“Đại sự đã được thu xếp cả rồi, tuyệt đối không sai sót.”

Như Sương ung dung mà thêu từng cánh hoa mai, động tác nhẹ nhàng, dường như kia chẳng pahỉ thêu, mà chính là đang thảo từng nét họa, sắc đen trên tấm vóc tựa như mây khói nhuốm đẫm, đáy mắt nàng ẩn hiện một nét cười:

“Trên đời này nào có cái chuyện tuyệt đối không sai sót, huống chi, hiện tại nương nương thật sự nhẫn tâm xuống tay sao?”

Trục Hà dường như vừa hít một ngụm khí lạnh, chưa kịp nói gì, chợt nghe gian ngoài Huệ nhi ho khan hai tiếng, biết có người đến, lập tức không phát ra một lời nào, chỉ nghe tiếng bước chân lộn xộn, nàng kêu “Huệ nhi”, cũng không thấy ai trả lời. Vừa đẩy cửa ra nhìn, đã thấy nội quan vậy quanh Hoàng Đế trong chốc lát đã bước nhanh vào trong viện, không ki[j suy nghĩ nhiều, buộc lòng uyển chuyển bái lạy, khéo nở nụ cười thật tươi:

“Hoàng Thượng.”

Mấy ngày nay nàng chưa gặp Hoàng Đế, sắc mặt Hoàng Đế vẫn hòa ái như vậy, ra ý cho hai bên đợ nàng đứng dậy, đoạn hỏi:

“Sao nàng lại tới đây?”

“Nô tì đến thăm Mộ cô nương, chỉ sợ một mình sống ở trong này, e thiếu người chăm sóc.”

Hoàng Đế cười cười:

“Nàng làm việc quả thật chu toàn.”

Quay mặt về phía Như Sương:

“Không ngờ nàng thật sự trốn trong phòng mà thêu hoa, bất quá trẫm chỉ nói đùa một câu, lại làm chuyện phí công như vậy, thời tiết thì lạnh, thân thể nàng không khỏe, đừng để cho mình lại mắc bệnh.”

Như Sương nhoẻn miệng cười:

“Thần thiếp đã đáp ứng với Hoàng Thượng, huống hồ nhàn rỗi cả ngày, thêu thùa âu nó cũng để giết thời gian.”

Trục Hà nói:

“Phương pháp thêu này quả thực nô tì chưa từng gặp qua, thật không nghĩ Mộ cô nương còn có tay nghề cao như vậy, nô tì ngưỡng mộ còn muốn sau này học hỏi đôi điều.”

Hoàng Đế nhìn hai người sóng vai mà đứng, dưới song cửa sổ chúm chím cười xinh, tươi đẹp là thế, quả thực chẳng khác nào một cặp song sinh, không kìm được mỉm cười.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.