Đọc truyện Trâm – Nữ Hoạn Quan – Chương 13: Tuyết sắc lan đại
Lan Đại.
Nghe thấy cái tên này, Hoàng Tử Hà lập tức ngồi thẳng người dậy, lộ vẻ kinh ngạc.
Lý Thư Bạch nhìn cô, “Làm sao?”
“Cái tên này… Cái tên này là…” Hoàng Tử Hà kích động đến mức nói không nên lời.
Lý Thư Bạch nhận xét, “Lan Đại. Cái tên này khá đẹp, song lại có ý vị
phong trần, đương nhiên là của một người con gái trong chốn yên hoa.”
Hoàng Tử Hà kích động đáp, “Nhưng… Nhưng đây là tên của một trong Vân Thiều Lục Nữ, xếp hạng thứ ba đó!”
Lý Thư Bạch nhướng mày, “Sao, lại liên quan tới Vân Thiều Uyển Dương Châu ư?”
“Vâng, gia kể tiếp đi, về sau thế nào?” Hoàng Tử Hà giục.
“Đương nhiên ta không đi tìm cô ta, càng không tới Dương Châu tìm một cô gái
lầu xanh. Bởi thế, ta cúi đầu nhìn cô ta nói, ta chỉ tình cờ cứu cô mà
thôi. Ngày sau ta sẽ không đi tìm cô, cũng không muốn nhận đồ của cô.
Nếu cây trâm này rất quan trọng với cô, thì mau cất nó đi đi.
Song cô ta vẫn khăng khăng không chịu bỏ tay xuống, nhất định giơ cây trâm
đó lên trước mặt ta, chĩa đầu nhọn về phía mình, quay đầu kia về phía
ta. Đó là một cây trâm sương lá.”
Hoàng Tử Hà lại ồ lên hỏi, “Sương lá à? Trông thế nào?”
“Thân trâm dài chừng bốn tấc, đầu trâm là một khung lá có tơ bạc quấn quanh,
các đường gân đều tinh xảo, ở giữa chạm rỗng, nhìn sống động như thật.
Bên trên chiếc lá nọ còn khảm hai hạt trân châu nhỏ nhìn như hạt sương.”
“Bằng bạc ư?”
“Phải, ta nhớ không sai đâu.” Lý Thư Bạch đáp, đoạn hỏi, “Ta không hiểu nhiều
về trang sức của phụ nữ, nhưng cảm thấy cây trâm bạc đó rất giống cây
trâm vàng mà Vương Nhược để lại khi mất tích. Chẳng rõ loại trâm hình
gân lá này có phải rất thịnh hành hay không?”
“Không hề, trâm cài bình thường, dù dùng vàng bạc chế thành hình lá, nhưng thường là cả
chiếc lá chứ không chỉ có gân. Thiết kế cây trâm tinh xảo đặc biệt như
thế, tôi cũng mới thấy lần đầu. Nếu theo lời gia kể, lại còn giống nhau
như đúc, thì nhất định bên trong phải có liên quan.”
“Xem ra hai cô gái ta gặp năm xưa có dính dáng đến chuyện này.”
“Tôi cũng nghĩ thế.” Đoạn cô lại hỏi, “Vương gia nhận cây trâm ư?”
“Cây trâm bạc ấy hả?” Lý Thư Bạch bình thản kể, “Không hề. Cô ta thấy ta
không đưa tay ra nhận, bèn ném luôn vào khoang xe, sau đó quay đầu bỏ
chạy. Bấy giờ trời đã ngả chiều, ánh hoàng hôn chiếu vào cây trâm làm ta lóa cả mắt. Ta bèn giơ tay nhặt nó lên rồi tiện thể quăng xuống bên
đường.”
Hoàng Tử Hà chống cằm nhìn y, không hề chớp mắt.
Y hờ hững liếc cô, “Sao hả?”
“Dù định vứt thì vào thành vứt cũng không muộn, vương gia vội gì chứ?”
“Vứt sớm vứt muộn, thế nào chẳng là vứt?” Giọng Lý Thư Bạch vẫn điềm nhiên,
“Huống hồ bấy giờ ta thấy cô Tiểu Thi kia đang nhìn mình. Bởi thế khi ta ném trâm đi, nhất định cô ta sẽ nhặt lấy đem trả lại cô Trình.”
“Nếu là tôi, không bao giờ tôi kể với bạn mình rằng món đồ cô tặng người ta, chỉ chớp mắt đã bị người ta ném đi.” Hoàng Tử Hà nói, “Bằng không, cô
ấy sẽ càng thê thảm đáng thương hơn.”
“Ta không có hứng nghiên cứu cách ứng xử giữa phụ nữ với nhau.” Lý Thư Bạch cười.
Hoàng Tử Hà chẳng muốn thảo luận vấn đề khó hiểu ấy với hạng người phũ phàng
lạnh nhạt lại máu lạnh này nữa. Cô rút cây trâm trên đầu, họa hình cây
trâm sương lá lên bàn.
Lý Thư Bạch nhìn chiếc mũ sa không còn trâm để cố định trên đầu cô, hỏi, “Không sợ rơi à?”
Hoàng Tử Hà liền đưa tay lên giữ, “Không sao.”
“May mà hiện giờ ngươi cải trang làm tiểu hoạn quan, lỡ cải trang làm Sa di trên chùa, còn cầm trâm vạch vẽ sao được nữa?”
“Có mõ còn gì.” Cô vội đáp, ánh mắt thẫn thờ nhìn một điểm trong không khí, chẳng rõ đương nghĩ gì, bàn tay vẫn vô thức cầm cây trâm vẽ loạn trên
bàn, nhìn kỹ mới thấy đang vẽ hình nửa thoi bạc kia. Vừa vẽ, cô vừa lẩm
bẩm, “Thoi bạc khi trước là do thiếu nữ kia cầm, về sau có phải vì họ có hai người, nên mới chia làm hai nửa không?”
“Thứ này từng được dùng làm hung khí, theo lẽ thường có khi họ đã đem đổi thành bạc vụn rồi.”
“Cũng có thể…” Nói đến đây, Hoàng Tử Hà lại nhìn y,“Vương gia còn nhớ hình dáng hai thiếu nữ ấy không?”
“Hai người bọn họ đều cố tình để đầu tóc rũ rượi, tro bụi đầy đầu, mặt bê
bết bùn đất, cả người lại loang lổ vết máu, ta và họ chẳng qua chỉ gặp
nhau một chốc một lát, không có ấn tượng gì cả. Huống hồ bấy giờ họ mới
mười ba mười bốn tuổi, sau khi trưởng thành con gái sẽ thay đổi rất
nhiều, đến giờ có khi họ đứng ngay trước mặt ta cũng không nhận ra đâu.”
“Ừm…” Hoàng Tử Hà gật đầu, nào ngờ chiếc mũ sa trên đầu vừa lay động đã rơi xuống.
Lý Thư Bạch nhanh tay nhanh mắt tóm lấy, đoạn cau mày ném vào tay cô, “Ta đã bảo hay là ngươi đóng giả hòa thượng đi mà?”
Cô lặng thinh giơ tay giữ tóc, chợt một lọn tóc rũ xuống trước mặt, cô vừa thẹn vừa giận bèn tóm lấy quấn hai vòng quanh búi tóc, rồi chỉnh lại mũ mãng.
Lý Thư Bạch khinh khỉnh nhìn cô, “Ta chưa từng thấy ai hễ nghĩ ngợi là phải vạch vẽ lung tung như thế cả.”
“Giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời mà…” Cô đành lí nhí đáp.
Y cười khẩy, “Sao lại có người có thói quen đó chứ?”
“Biết làm sao được… Trước đây theo cha tôi ra ngoài tra án, có việc cần
tính toán thường không tìm được giấy bút, bấy giờ còn mặc đồ con gái mà, luôn có một hai cây trâm trên đầu, bèn rút ra vạch lên mặt đất, thế là
rõ cả vụ án. Về sau tôi không bỏ được thói quen ấy, luôn cảm thấy phải
vạch vạch mấy cái mới nghĩ thông được.”
“Về sau thì sao?”
“Về sau cái gì?”
“Chính là cây trâm ngươi vạch lên nền đất đó.” Y rất để ý những chuyện nhỏ nhặt thế này.
Hoàng Tử Hà ngơ ngác nhìn y, “Thì rửa sạch lau khô cắm lại lên đầu là được mà.”
Lý Thư Bạch “ồ” một tiếng, thấy cô vẫn nhìn mình chờ câu trả lời, liền
đáp, “Khi ta gặp Chu Tử Tần lần đầu tiên gã đang ôm một bao hạt thông và lạc ngào đường, vừa say sưa ngồi cạnh thi thể trong nghĩa trang xem ngỗ tác nghiệm thi, vừa lăng xăng lấy hộ cái này cái kia nữa.”
Hoàng Tử Hà hỏi, “Vương gia dùng từ say sưa để chỉ việc gã ăn hay nghiệm thi?”
Lý Thư Bạch liếc cô, “Ngươi thấy sao?”
“Tôi cảm giác được mà.” cô nói khẽ.
“Bấy giờ nghe nói con gái Hoàng Mẫn rất giỏi phá án, lại là thần tượng của
Chu Tử Tần, cảnh tượng đầu tiên hiện lên trong tâm trí chính là một cô
gái ngồi bên cạnh thi thể ăn hạt thông và lạc ngào đường.”
Hàng mi Hoàng Tử Hà bất giác nhướng lên, “Giờ thì sao?”
“Ta rất mừng, ngươi chẳng qua chỉ thích vạch vẽ lung tung, hơn nữa còn biết phải rửa sạch cây trâm sau khi vạch xuống đất.”
Hoàng Tử Hà rầu rĩ nói, “Đừng gộp chung tôi vào với Chu Tử Tần.”
Lý Thư Bạch điềm nhiên nói, “Nhưng dường như ngươi chính là mục tiêu gã theo đuổi.”
“Đó chẳng qua là ảo tưởng về một thứ chưa từng thấy thôi, giống như người
ta luôn cảm thấy phong cảnh đằng xa đẹp hơn, giấc mộng hồi nhỏ mới là
đẹp nhất. Thực ra nếu Chu Tử Tần biết tôi chính là Hoàng Tử Hà, nhất
định sẽ vừa bực bội vừa khó chịu, không chừng cuối cùng mộng tưởng bấy
lâu nay cũng sụp đổ.”
Nghe cô nói, khóe môi Lý Thư Bạch thoáng
cong lên thành một nụ cười. Y gật đầu, “Có lẽ. Bởi thế ngươi cứ làm một
tiểu hoạn quan trước mặt hắn thì tốt hơn.”
“Đúng vậy… Tốt nhất
đừng phá vỡ mộng tưởng của Chu công tử.” Hoàng Tử Hà gật đầu, chợt cảm
thấy một luồng sáng xói vào mắt mình, cô vội giơ tay che mắt, phát hiện
ra là nắng đã xiên ngang.
Thì ra bàn bạc hồi lâu, đã gần đến hoàng hôn. Cô vội cáo lui, rời khỏi gác Ngữ Băng đi về phòng mình.
Hành lang quanh co, nhà cao cửa rộng. Hoàng Tử Hà buông thõng tay áo, bàn
tay vô thức siết chặt tấm lệnh tín Đại Đường Quỳ Vương kia, ngẩng đầu
trông thấy ráng chiều rơi rớt cuối trời, lòng bỗng trào lên một niềm
thương cảm.
Cha mẹ người nhà đã chết được nửa năm mà hung thủ vẫn mịt mù tăm tích, vụ án trước mắt lại khó mà tra xét, muôn ngàn manh
mối, chẳng biết ngày nào mới vén được bức màn bí mật
Lần đầu
tiên, cô sinh lòng hoài nghi chính mình. Cô thầm nhủ, Hoàng Tử Hà, nếu
cứ thế này thì cả đời ngươi có cơ hội cởi bỏ bộ đồ hoạn quan, khoác lên
người xiêm y nữ nhi, kiêu hãnh nói với mọi người trên đời rằng, ta họ
Hoàng, ta là một cô gái, ta chính là Hoàng Tử Hà nữa hay không?
Cả đêm trằn trọc suy diễn ra đủ loại khả năng song không cách nào giải
thích được Vương Nhược biến đi đằng nào, cái xác thân phận không rõ ràng kia lại từ đâu xuất hiện.
Bởi thế hôm sau lúc trở dậy, Hoàng Tử
Hà bước đi loạng choạng hẳn, chưa kể đầu đau như búa bổ, thắt lưng mỏi
như dần. Cô ngồi xuống bàn soi gương, thấy sắc mặt mình tái nhợt, chẳng
khác nào bóng ma.
Nhưng có sao, dù gì hiện giờ cũng đang là một
tiểu hoạn quan, ai thèm để ý một tiểu hoạn quan có giống ma hay không
chứ. Cô đành cam chịu, đi lấy nước rửa mặt chải đầu rồi xuống nhà bếp
ngó nghiêng. Bà phụ bếp vừa nhác thấy cô liền tươi cười niềm nở, dúi cho cô mười bảy mười tám cái nem, “Dương công công, chúc mừng chúc mừng
nghe nói cuối cùng vương gia cũng ban danh phận cho rồi phải không?”
“Phụt…” Hoàng Tử Hà đang nhai miếng nem trong miệng, tức thì phun ra, “Danh phận… gì cơ?”
“Sáng nay trong phủ đã bàn tán xôn xao, nói rằng hiện giờ công công đã được
đưa vào biên chế vương phủ, trở thành một hoạn quan chính thức rồi nha.”
“Ồ…” Cô lặng lẽ cầm một chiếc nem nữa đưa lên miệng, lúng búng hỏi, “Là hoạn quan hạng bét hả?”
“Ô, sao lại gọi là hạng bét, phải gọi là sơ cấp, công công tiền đồ vô lượng mà!” Bà phụ bếp hớn hở nói, “Mấy năm trước Tùy Châu gặp nạn đói, rất
nhiều người không còn đường sống, bèn tự thiến hòng làm hoạn quan mà
không được đâu! Công công nhìn tôi này, ở nhà bếp hai chục năm nay, vẫn
là chân chạy vặt tạm thời, không được vào danh sách gia nô. Vậy mà công
công mới đến một hai tháng đã trở thành hoạn quan thuộc biên chế vương
phủ rồi.”
Hoàng Tử Hà chẳng biết nói sao, thì ra làm một tên hoạn quan trong vương phủ cũng có nhiều người ghen tị đỏ cả mắt như vậy, nếu mình phí phạm chức danh quý báu này thì thực đáng tiếc quá.
Cô đang vừa đối đáp với bà phụ bếp vừa ăn sáng thì nghe bên ngoài có người gọi, “Dương Sùng Cổ, Dương Sùng Cổ đâu rồi?”
Cô húp vội một hớp bơ đặc rồi thưa, “Tôi ở đây!”
“Vương gia lệnh cho ngươi mau tới hiên Xuân Dư, có người đợi.”
Sáng sớm ngày ra, ai đã đến tìm cô nhỉ?
Hoàng Tử Hà hối hả chạy đến hiên Xuân Dư, nhận ra Trần Niệm Nương đang ôm đàn đứng đợi.
“Trần nương, sao lại đích thân tới tìm tôi thế này?” Cô ngạc nhiên bước đến
nghênh đón, đỡ lấy cây đàn trong tay bà ta, đoạn giúp bà ta đặt lên kỷ
đàn.
Trần Niệm Nương cười đáp, “Đương nhiên là do công công học
đàn không chuyên tâm, hai ba hôm chẳng thấy đến lần nào, ta đành phải
tới đây tìm.”
“Trần nương à, thực rất xin lỗi.” Rõ ràng biết bà
ta nói đùa, song Hoàng Tử Hà vẫn xin lỗi rối rít, “Dạo nàytôi bận quá,
cứ chìm đắm trong đủ việc thế tục, quên cả tiếng thanh tao rồi.”
Ta cũng có nghe nói Quỳ vương phi quả là phúc mỏng, vốn dĩ đang được muôn
người ngưỡng mộ, nào ngờ chớp mắt lại chết thảm như thế, đồn rằng di thể tang thương đến không nỡ nhìn, thực khiến người ta đau xót mà.” Trần
Niệm Nương vừa so lại dây đàn vừa than thở.
Hoàng Tử Hà thầm
nghĩ, Trần nương, bà đâu biết thi thể Ức Nương của bà cũng thê thảm khôn xiết, khiến người ta xót xa nào kém cái xác vô danh kia.
Nhìn
gương mặt cúi thấp của Trần Niệm Nương, cô chợt thấy thôi thúc muốn trao miếng ngọc dương chi lấy được trong mình Phùng Ức Nương ra, nói với bà
ta rằng, Ức Nương đã chết rồi, bà đừng ở đây tìm kiếm chờ đợi nữa. Song
nhìn tóc mai Trần Niệm Nương chỉ trong dăm ngày đã lốm đốm sợi bạc, cô
lại không sao thốt nên lời.
Trần Niệm Nương cúi đầu, thuận tay
gảy nửa khúc Bái tân nguyệt. Dường như cả không gian bên trong bên ngoài phòng đều thánh thót ngân lên theo tiếng đàn của bà ta, cảm giác như
màn đêm tĩnh lặng theo về.
Hoàng Tử Hà cảm thán, “Tiếng đàn của Trần nương quả là thiên hạ vô song.”
“Sao có thể chứ!” Trần Niệm Nương đặt hờ đôi tay lên dây đàn, ngẩng đầu chậm rãi nói, “Nếu bàn về nghề đàn ta chẳng qua chỉ mới là chạm ngõ, bằng
Cẩm Nô vậy thôi.”
Hoàng Tử Hà tiện miệng hỏi, “Trần nương gần đây có gặp Cẩm Nô chăng?”
“Không có, đây cũng là nguyên nhân hôm nay ta tới tìm công công.” Bà lo lắng
nói, “Hôm qua ta đến Hữu giáo phường ở phường Quang Trạch tìm Cẩm Nô,
thì nghe nói đã nhiều ngày nay cô ấy không đến giáo phường.”
“Ồ?” Hoàng Tử Hà ngạc nhiên, “Không tìm thấy Cẩm Nô ư?” Câu Cẩm Nô nói hôm
trước cô vẫn canh cánh trong lòng, còn định mượn cớ tới tìm nàng dò hỏi
nữa.
“Ừm. Đằng giáo phường rất nhiệt tình, cho mở cửa phòng cô ấy tìm kiếm. Nào ngờ mấy món quần áo trang sức mà cô ấy thích đều biến
mất, cả cây tỳ bà do sư phụ tặng mà cô ấy trân trọng nhất cũng bị đem
đi. Người trong giáo phường đành giậm chân bực bội, nói rằng có lẽ lại
vừa mắt gã lông bông nào đó nên bỏ theo gã rồi. Nghe nói từ sau thời
Huyền Tông, việc quản lý của giáo phường ngày càng lơi lỏng, những năm
gần đây, chuyện thế này chẳng phải hiếm hoi gì.”
“Cô ấy cũng… mất tích rồi ư?” Hoàng Tử Hà không khỏi kinh ngạc, thêm cả Cẩm Nô thì đây đã là người thứ ba vô cớ biến mất rồi.
Trần Niệm Nương vội đáp, “Đúng thế, hôm qua ta đợi cô ấy mãi mà không được
cũng đâm lo. Ta cảm thấy dù cô ấy bỏ theo ai thì tình hình cũng không
như thế, cô ấy chỉ thân thiết với mỗi Chiêu vương mà thôi, ta đã khuyên
ngăn mấy lần, song cô ấy không nghe…”
“Trần nương đừng cuống,
bà kể tỉ mỉ cho tôi về chuyện Cẩm Nô đi, đặc biệt là động tĩnh của cô ấy mấy ngày trước khi mất tích ấy.” Hoàng Tử Hà vội bê một chiếc ghế lại
ngồi xuống bên cạnh bà ta.
Trần Niệm Nương than thở, “Ta hỏi kỹ
người ở giáo phường thì họ nói lần cuối cùng gặp Cẩm Nô là buổi tối ba
hôm trước, sắp đến giờ giới nghiêm, cô ấy ngà ngà say trở về, nghe nói
là đến Chuế Cẩm Lâu uống rượu.”
Hoàng Tử Hà gật đầu, “Hôm ấy tôi
cũng ở đó, bấy giờ vì cô nương họ Vương ở trong cung xảy ra chuyện nên
cả đám người mượn cớ bàn luận vụ án, kéo nhau đi ăn.Chẳng biết ai gọi
Cẩm Nô đến, hình như cô ấy cũng thích náo nhiệt, tối hôm đó cô ấy rất
hăng hái, còn giúp chúng tôi gói anh đào lại nữa – có điều đôi tay cô ấy giữ gìn hết sức cẩn thận, rõ ràng xưa nay không phải làm gì, bị cuống
anh đào đâm phải mà cũng xuýt xoa trách móc.”
“A đầu này là thế đấy, khẩu xà tâm Phật, tính tình rất tốt song nói năng hơi khó nghe.” Trần Niệm Nương nói.
Hoàng Tử Hà lại hỏi, “Trần nương, lần trước bà bảo sẽ viết thư cho Lan Đại, giờ đã có hồi âm chưa?”
“Vội gì chứ, dù Lan Đại nhận được thư lập tức bảo Tuyết Sắc lên kinh ngay thì cũng phải mất mấy ngày, sao giờ đã đến được?”
Hoàng Tử Hà im lặng lắng nghe bà ta than thở, chợt xen vào một câu, “Tuyết Sắc hẳn phải gọi Lan Đại là cô cô nhỉ?”
“Đúng vậy, Lan Đại và Mai Vãn Trí là tỷ muội, đương nhiên là cô cô của Tuyết
Sắc.” Trần Niệm Nương gật đầu, “Lan Đại xếp hàng thứ ba trong sáu người, đứng đầu về vũ điệu ở Dương Châu, mấy điệu Lục yêu, Hồi ba, Xuân oanh
chuyển, nghe nói là thiên hạ vô song.”
Hoàng Tử Hà lại hỏi,
“Chẳng rõ Trần nương còn nhớ không, năm xưa Tuyết Sắc một mình đến Dương Châu ư? Hẳn còn có một thiếu nữ đi cùng chứ?”
Trần Niệm Nương
“à” lên một tiếng, “Nói mới nhớ, bấy giờ Tuyết Sắc đi cùng Tiểu Thi.
Nghe nói cha mẹ Tiểu Thi đều chết trong chiến loạn, kết nghĩa tỷ muội
với Tuyết Sắc ở Từ Châu, đôi bên thề sống chết có nhau, nên cùng tới
Dương Châu.”
Hoàng Tử Hà lẳng lặng gật đầu, sau khi kiểm chứng
được suy luận của mình, cô lại đâm ra bối rối, không biết suy luận ấy có giúp ích gì cho vụ án này hay không, chỉ lờ mờ cảm thấy, đó rõ ràng là
một manh mối quan trọng mà mình chưa bao giờ dò ra được.
Một vụ
án cũng như một gốc đại thụ, phần phía trên lớp đất mà người ta nhìn
thấy được, vĩnh viễn chỉ là một bộ phận nhỏ, bên dưới bao giờ cũng có
những đoạn rễ khổng lồ chằng chịt đan cài vào nhau, nếu không nhổ bật
lên thì mãi mãi không biết đươc hình dạng thật sự chôn sâu dưới đất kia.
Nhắc đến Tuyết Sắc và Tiểu Thi, dường như Trần Niệm Nương lại nhớ ra chuyện
gì đó, cứ thần thờ nhìn gốc cây lẻ loi ngoài cửa sổ hồi lâu, rồi bỗng
ròng ròng nước mắt.
Hoàng Tử Hà vội vỗ nhẹ vai bà ta, nhỏ giọng an ủi, “Trần nương, bà đừng quá đau lòng.”
“Sao có thể không đau lòng kia chứ… Thực ra ta cũng biết, Ức Nương không
trở về được nữa rồi” Trần Niệm Nương đờ đẫn nói mà nước mắt lăn dài,
“Đêm qua ta lại mơ thấy Ức Nương, thân hình trong suốt như lưu ly lơ
lửng trước mắt ta. Ức Nương nói: Niệm Nương, hoa thơm bao độ, cảnh đẹp
dễ tàn, ngày sau chỉ còn một mình muội lênh đênh giữa cõi đời thôi… Ta giật mình tỉnh dậy, chỉ thấy gió đùa bóng trúc ngoài song, lời Ức Nương nói trong mơ vẫn văng vẳng bên tai. Ta biết Ức Nương đã không còn trên
đời nữa rồi…”
Hoàng Tử Hà thấy lòng trống rỗng, cô rút trong
tay áo ra một chiếc khăn lau nước mắt cho Trần Niệm Nương, nào ngờ một
vật nho nhỏ bọc bằng giấy cũng lăn ra theo. Bao giấy nọ tựa như có mắt,
lăn ngay đến trước mặt Trần Niệm Nương. Trần Niệm Nương nhận lấy chiếc
khăn Hoàng Tử Hà đưa, cầm lên chặm nước mắt, khuỷu tay tỳ ngay lên bao
giấy.
Đầu óc đang không tỉnh táo, bà ta cũng không cảm giác được cánh tay mình bị cấn.
Hoàng Tử Hà thoáng do dự, cảm thấy tiếp tục giấu giếm chuyện này cũng chẳng
được tác dụng gì, bèn rút bao giấy nhỏ từ dưới khuỷu tay Trần Niệm Nương đưa cho bà ta, “Trần nương mở cái này ra đi.”
Trần Niệm Nương bưng mắt nghẹn ngào hỏi, “Cái gì vậy?”
Hoàng Tử Hà không đáp, chỉ nhìn bà ta.
Trần Niệm Nương chần chừ, rồi chậm chạp giơ tay mở tờ giấy trắng bọc bên ngoài.
Bên trong lộ ra một miếng ngọc trắng muốt, trong veo không tì vết, tuy chỉ
bằng móng tay, song nhỏ như vậy lại càng thêm lung linh khả ái.
Tay Trần Niệm Nương run lên bần bật, bà ta vội giơ viên ngọc soi ra ánh sáng, trông thấy chữ “niệm” khắc trên đó.
Nắng từ cửa sổ rọi vào, khiến chữ “niệm” càng rạng ngời, lấp lóe ánh vàng, làm người ta chói cả mắt.
Trần Niệm Nương nhắm nghiền mắt lại, tựa hồ đã bị chữ “niệm” nhỏ bé kia làm
lòa mắt, từ nay không thể thấy bất cứ thứ gì trên đời nữa.
Thật lâu, thật lâu. Bà mới run run hỏi, “Tìm, tìm được ở đâu vậy?”
“Trong đám dân lưu vong U Châu chết vì bệnh dịch có một thi thể chừng bốn mươi tuổi. Không như những người khác, bà ta trúng độc mà chết. Nhưng khi
chúng tôi tìm đến, thi thể bà ấy đã được hỏa táng, chỉ còn lại viên ngọc này.” Cô không nói bọn họ tìm được nó trong bụng Phùng Ức Nương, sợ
Trần Niệm Nương bị choáng váng quá độ.
“Hơn hai mươi năm trước,
ta với Ức Nương vẫn còn là thiếu nữ, chưa có tên tuổi, tài nghệ cũng
chưa có gì xuất chúng, phải dành dụm mãi mới mua được hai miếng ngọc
dương chi, chia ra khắc lên hai chữ ức và niệm, trao cho nhau. Bấy
giờ còn nói, cả đời nương tựa, vĩnh viễn bạn bầu…” Trần Niệm Nương nắm chặt miếng ngọc, nói đến đây, đã khóc lặng đi.
Hoàng Tử Hà lặng
lẽ ngồi cạnh bà, nhìn những tia nắng xuyên qua khe cửa rọi lên mặt Trần
Niệm Nương, khiến những sợi bạc bên mai cùng mấy nếp nhăn nhỏ trên mặt
càng hằn rõ, đâu còn là người phụ nữ xinh đẹp mặn mà cô gặp tháng trước.
“Là kẻ nào, kẻ nào đã giết Ức Nương?” Trần Niệm Nương chậm rãi hỏi.
Hoàng Tử Hà hít sâu một hơi, đoạn lắc đầu đáp, “Trước mắt vẫn chưa biết được. Nhưng tôi nghĩ việc này có liên quan đến vụ án cô nương họ Vương mất
tích.”
“Cô nương họ Vương ư?”
“Chính là Quỳ vương phi mấy ngày nay người ta vẫn bàn tán xôn xao đấy.”
Trần Niệm Nương nắm chặt miếng ngọc trong tay, đờ đẫn gật đầu.
“Tôi đã tra được, con gái người bạn cũ mà Ức Nương hộ tống lên kinh chính là Vương Nhược, con gái nhà họ Vương. Thực ra tôi từng gặp Ức Nương ở chỗ
Vương Nhược một lần, đã biết chuyện này từ lâu, có điều bấy giờ sợ bà
đau lòng nên không dám nói ra.”
Trần Niệm Nương hoang mang, “Song hiện giờ, nghe nói Vương Nhược đã chết….”
“Đúng vậy, tôi nghi ngờ cái chết của Ức Nương có liên quan đến cái chết của
Vương Nhược. Chân tướng vẫn chưa phơi bày, tôi cũng chưa có manh mối gì
cả.”
“Có thể tra ra chân tướng sao?” Trần Niệm Nương ngẩn ngơ lẩm bẩm.
Hoàng Tử Hà đáp, “Ít nhất, tôi cũng sẽ dốc hết sức mình.”
Trần Niệm Nương rời vương phủ trong trạng thái thẫn thờ ngơ ngẩn. Bấy giờ đã sắp đến trưa, Hoàng Tử Hà tiễn bà về xong, vừa quay vào trong vừa mải
ngẫm nghĩ vụ án nên bước hụt, suýt nữa ngã nhào, khó khăn lắm mới vịn
được một gốc cây để trụ vững lại.
Mấy người canh cửa vội vã phủi
ghế mời cô ngồi, còn rót cho cô một ly trà. Bên cạnh là mấy tên hoạn
quan rảnh rỗi đang tán gẫu, cô cũng thấy miệng khô rang, bèn ngồi xuống
cạnh họ, uống ừng ực hết ly trà, lại rót thêm chén nữa.
Lư Vân
Trung, hoạn quan phụ trách quét dọn hiên Duyên Hi tuổi mới hai mươi, rất ưa những chuyện vụn vặt trong nhà ngoài ngõ, thấy Hoàng Tử Hà ngồi
xuống bèn huých huých cô, háo hức hỏi, “Này này, Sùng Cổ nói xem, ngươi
hay qua lại đằng nhà họ Vương nhất, có cảm thấy cái chết của Vương cô
nương lần này là tổn thất lớn nhất của nhà họ trong mấy năm trở lại đây
không?”
Hoàng Tử Hà ngẩn ra, còn chưa kịp hiểu tên này đang nói gì, “Hở?”
“Không phải à? Sau loạn Hầu Cảnh, nhân tài nhà họ Vương Lang Gia rơi rụng cả,
nhất là mấy đời nay chẳng có gương mặt nào xuất chúng, tiếng nói trên
triều không còn trọng lượng, cả nhà duy trì được uy thế chỉ nhờ vào hai
vị hoàng hậu người trước kẻ sau, song nghe nói hiện giờ họ chẳng còn cô
gái nào xuất sắc nữa đâu. Khó khăn lắm mới nảy ra một cô tàm tạm được
chọn làm Quỳ vương phi, giờ lại chết mất. Đó, giờ không bấu víu vào Quỳ
vương phủ nhà ta được nữa rồi, sau này chỉ dựa vào một mình Hình bộ
thượng thư Vương Lân cáng đáng thôi.”
Bên cạnh có người chen vào, “Chẳng qua vì là nhà họ Vương nên mới bị nói sa sút, chứ người ta vẫn
còn một hoàng hậu một thượng thư đương triều kia mà.”
“Đâu nào,
từ khi triều ta mở nước đến giờ, nhà họ Thôi ở Bác Lăng đã có đến hơn ba mươi tể tướng, ngươi xem họ Vương Lang Gia phong quang vô hạn triều
trước thì sao? Dù cộng thêm cả họ Vương ở Thái Nguyên, hiện giờ cũng
chẳng bì được họ Thôi đâu.”
Hoàng Tử Hà làm thinh uống trà, bụng bảo dạ, thúc phụ của Thôi Thuần Trạm là Thôi Ngạn Chiêu
cũng vang danh trong triều, phong thái rất xứng đứng đầu trăm quan. Nếu
không có gì bất ngờ, hẳn nhà họ Thôi lại sắp có thêm một tể tướng nữa
rồi.
“Vậy cũng đỡ rồi, ngươi coi họ Tạ ở Trần quận xem? Sau loạn Hầu Cảnh, bọn họ gần như bị diệt môn kia.” Lại có người xen vào.
Rồi có người khăng khăng phản đối, “Cũng không hẳn, nếu họ Vương sa sút đến thế thì vương gia đâu thể kết thân với họ? Phải nhớ rằng họ Vương vẫn
còn đích tôn Vương Uẩn kia kìa, người này thực là văn nhã phong lưu,
luận tướng mạo, luận khí chất, tuy không bì được Quỳ vương gia nhà ta
song cũng là nhân vật cực kỳ xuất sắc. Huống hồ vương gia cũng khá thân
thiết với y, thường cùng nhau ra ngoài, quả là nhật nguyệt cùng tỏa
sáng, lần nào cũng khiến thiếu nữ kinh đô phải nhao hết ra đường, chen
nhau xem mặt đấng trượng phu hoàn mỹ vào hàng nhất nhì thiên hạ.”
Nói cũng phải, nghe đồn Vương Uẩn có phong phạm đại gia, lại thêm văn võ
song toàn, chưa hết, hai tháng trước y còn dẫn theo binh mã ty Phòng vệ
trong kinh truy bắt thổ phỉ ở ngoại ô, giành được toàn thắng, tiêu diệt
tất cả bọn chúng rồi quay về!”
“Ồ, chuyện này ta cũng biết.” Lư
Vân Trung nói, đoạn ra hiệu cho mọi người chụm đầu lại gần, hạ giọng
thật thấp, làm bộ thần bí kể, “Nghe nói đám thổ phỉ này có liên quan đến Bàng Huân! Là một toán tử sĩ dưới trướng hắn tụ lại, hòng lẻn vào kinh
thành ám sát Quỳ vương gia!”
Quả nhiên tin này khiến tất cả đều kinh ngạc, “Ôi cha… Sao chúng ta chỉ nghe nói là thổ phỉ thôi mà?”
“Đương nhiên là triều đình cố ý bưng bít rồi! Thuộc hạ của Bàng Huân bị giết
từ ba năm trước còn khơi lại đống tro tàn, chuyện này lộ ra há chẳng làm rối loạn lòng người ư? Bởi thế, hữu đô úy Vương Uẩn của ty Phòng vệ
kinh thành vừa nghe nói là lập tức dẫn người mai phục ở ngoại ô, nửa đêm đón địch, trong nháy mắt đã giết sạch bọn chúng, bộ Binh cho chôn ngay
tại chỗ, chỉ nói là giết một toán thổ phỉ thôi!”
“Ồ? Vậy sao ngươi biết được?”
“Ha ha, đại ca đây có người quen trong bộ Binh mà…” Lư Vân Trung dương
dương tự đắc, “Đừng quên Tiền Đại ở đối diện nhà tiểu đệ của Tứ thẩm ta
làm ở bộ Binh, chính là người phụ trách chôn cất thi thể lần đó đó!”
“Ai biết mà quên!” Tất cả cùng cười nhạo.
“Nếu Vương Uẩn thực sự lợi hại như thế, tại sao con gái nhà họ Hoàng đã hứa hôn từ nhỏ lại nhất quyết cự tuyệt y?”
“Ồ… chuyện này thì…”
“Phải đấy, nghe nói vì không muốn về với Vương Uẩn, cô ta đã hạ độc giết chết cả nhà! Gả cho Vương Uẩn đáng sợ đến thế à?”
“Cái đó… có thể là cô ta bị điên!”
“Bất kể cô ta có điên hay không, ta chỉ biết về sau Vương Uẩn chắc sẽ khó lấy vợ.”
“Sợ gì chứ, cùng lắm thì chọn một nhà gia thế kém hơn chút thôi! Đổi lại là ngươi, cao lớn hoành tráng như thế, đã lấy được vợ chưa hả?”
Giữa tiếng cười ha hả của mọi người, Hoàng Tử Hà đành cười hùa theo. Đợi họ
cười chán, chuyển sang câu chuyện ngồi lê đôi mách tiếp theo, cô mới
bưng ly trà trong tay lên nhìn chằm chằm hoa văn men đen trên đó, hồi
lâu chẳng hề cử động.
Những chuyện cô vẫn nén chặt trong lòng,
qua lời đàm tiếu vô ý của người khác, chẳng khác nào nước ao tù bị khuấy động, nổi lên toàn những vẩn đen.
Cha mẹ qua đời đã hơn nửa năm, vụ án kéo dài càng lâu thì càng khó phá giải, hy vọng lật ngược bản án cũng càng xa xôi.
Mà điều duy nhất cô có thể làm bây giờ chỉ là nỗ lực tháo gỡ vụ án hiện
tại, có vậy mới đủ tư cách để được Lý Thư Bạch hỗ trợ, giành lấy cơ hội
lật lại bản án gia đình, rửa sạch oan khuất cho mình.
Thấy cô lặng thinh, Lư Vân Trung bèn xích lại bắt chuyện, “Sùng Cổ, lúc cô nương họ Vương kia mất tích, ngươi cũng ở đó hả?”
Hoàng Tử Hà gật đầu.
Lư Vân Trung hỏi ngay, “Nghe nói ngay trước mắt một ngàn tám trăm binh sĩ, Quỳ vương phi đột nhiên tỏa ra một làn khói xanh rồi biến thành tro bụi bay mất phải không?”
Hoàng Tử Hà toát cả mồ hôi, lời đồn hình như quá phóng đại rồi thì phải?
“Rõ là nhảm nhí.” Cô đành đáp.
“Đúng thế, ta đã bảo không thể nào mà.” Bên cạnh có người chen vào, “Nghe nói đã phát hiện di thể rồi, cả người nghi ngút khói đen, trong vòng ba
trượng xung quanh, ai hít phải đều chết cả! Sao có thể biến thành tro
bụi bay mất được?”
Hoàng Tử Hà càng không còn lời nào để nói. Cô
đành đáp, “Hình bộ và Đại Lý Tự đang điều tra, trước khi quan phủ kết
án, tất cả phán đoán đều là đoán bừa, mong mọi người đừng tin vào lời
đồn nhảm, kẻo lại nghe sai đồn bậy.”
Dù cô nói vậy cũng chẳng ai
buồn để tâm, chỉ hỉ hả lục vấn, “Nghe nói sau khi Vương cô nương qua
đời, Triệu thái phi lại muốn hứa gả Kỳ Lạc quận chúa cho Quỳ vương gia,
có thật không?”
Hoàng Tử Hà không nhịn nổi nữa, đành chắp tay bảo mọi người, “Xin lỗi các vị, vụ án này còn đương trong vòng thẩm tra,
tất cả đều phải đợi chân tướng rõ ràng mới công bố được.” Sau đó lại đem bộ Hình và luật vương phủ ra răn đe, bảo những người không can dự đều
không được suy luận bừa bãi, để tránh tung tin đồn nhảm ảnh hưởng đến
người vô tội. Người của vương phủ càng phải giữ mồm giữ miệng, cẩn thận
thị phi.
Mọi người đều vào làm trước Hoàng Tử Hà, đa số còn giữ
chức cao hơn cô, song cô đương là tâm phúc của vương gia, lại được tham
dự điều tra vụ này, bởi thế ai nấy đều vâng dạ nghe lời, không dám phản
bác.
Hoàng Tử Hà lại nhất loạt rót trà cho tất cả để cảm tạ, nức
nở khen loại trà này thơm mát đã khát, sau đó lấy cớ bận việc đi trước.
Cô ra khỏi vương phủ, đứng trước cổng ngẩng đầu lên trời cao, lại tẩn mẩn
nghĩ đến vụ án phức tạp. Còn đương mải suy tư, chợt nghe tiếng chuông
leng keng rồi một cỗ xe ngựa từ trên phố lừ đừ chạy đến, dừng ngay trước mặt.
Cô ngoảnh ra nhìn, thấy người trên xe đã bước xuống chào hỏi, “Dương công công.”
Quả là không phải oan gia không gặp mặt, chẳng mấy khi cô đứng ở cổng, nay vừa đứng thì kẻ tới thăm lại chính là Vương Uẩn.
Vì đang cư tang Vương Nhược nên hôm nay y ăn vận rất giản dị, chỉ khoác
một chiếc áo đơn trắng bằng tơ mỏng rất hợp thời tiết, cổ và tay áo điểm xuyết hoa văn kỷ hà xanh biếc, đơn sơ mà thanh nhã. Miếng ngọc bội
trắng đeo bên mình được buộc bằng dây tơ màu lục, tay cầm một chiếc quạt gấp nan ngọc xanh, bên trên họa một nhánh trúc thanh tao, càng tỏ rõ
cốt cách cao quý được hun đúc nhờ vọng tộc đã có cả trăm năm lịch sử.
Hoàng Tử Hà vốn vẫn xốn mắt mấy bộ quần áo xanh đỏ lòe loẹt của Chu Tử Tần,
nay nhìn phục sức của Vương Uẩn thì không khỏi than thầm, cùng là thế
gia công tử, sao giữa người với người lại khác nhau trời vực?
Thấy chóp mũi Hoàng Tử Hà lấm tấm mồ hôi, Vương Uẩn tiện tay trao cây quạt
cho cô, “Ta định tìm vuơng gia thông báo việc ma chay của Vương Nhược.
Vừa hay lại gặp Dương công công, vậy phiền công công dẫn ta vào tham
kiến vương gia.”
Hoàng Tử Hà thấy cây quạt của y cứ chìa ra trước mặt, bản thân quả thực cũng hơi nóng liền nhận lấy, vừa quạt vừa gật
đầu, “Mời vào.”
Lúc hai người bước vào, đám canh cổng đã thôi
huyên thuyên, có điều trông thấy nhân vật trong câu chuyện ngồi lê đôi
mách của mình xuất hiện ngay trước mặt, ai nấy đều chột dạ, vội vã đứng
dậy hành lễ.
Vương Uẩn chẳng biết nội tình, chỉ đưa mắt nhìn thoáng qua bọn họ rồi tươi cười theo Hoàng Tử Hà đi về phía hiên Tịnh Dữu.
Cảnh Dục và Cảnh Hữu đang đợi sẵn ở tiền sảnh, vừa uống trà vừa nói chuyện
tầm phơ. Thấy Vương Uẩn đến, Cảnh Hữu vội mời ngồi, còn Cảnh Dục đứng
dậy băng qua sân đi bẩm với Quỳ vương.
Chẳng bao lâu sau, Lý Thư Bạch đích thân ra đón, mời y vào phòng.
Hoàng Tử Hà đang ngần ngừ, không biết có cần theo vào không thì thấy Lý Thư
Bạch đi đến giữa sân chợt ngoảnh lại liếc mình, cô đành lúc cúc chạy
theo.
Hai người ngồi xuống trước song Tây, Cảnh Hữu mang lò đun
trà ra sân, Hoàng Tử Hà tự giác bày mấy ly trà sạch sẽ lên rồi lui ra
giúp Cảnh Hữu thêm cành thông vào lò.
Ở bên khung cửa, Vương Uẩn
nói, “Gần đây tiết trời bắt đầu nóng nực, vương gia cũng biết đấy, thi
thể A Nhược lại không được dễ coi gì, bởi vậy hôm qua người trong họ đã
họp lại bàn bạc, cho rằng ba hôm nữa là nhất tuần, chúng tôi chuẩn bị
đậy nắp quan tài đưa về quê, để sớm ngày an táng. Tuy rằng gấp gáp nhưng cũng chẳng còn cách nào khác, hiện giờ đành xử lý như thế mà thôi.”
Lý Thư Bạch thoáng trầm ngâm, “Đã chọn được chỗ chôn chưa?”
Vương Uẩn lộ vẻ cảm thương, “A Nhược còn trẻ, lấy đâu ra đất chôn? Trước mắt
mới bàn rằng lấy tạm mảnh đất sắp sẵn năm ngoái cho bà cô của muội ấy
trong nghĩa địa gia tộc. Còn như bia mộ, đã sai người về quê thuê khắc
gấp rồi.”
Lý Thư Bạch nói, “Tiểu muội ngươi dẫu sao cũng đã nhận sính lễ của Quỳ vương phủ, ba ngày nữa ta sẽ đích thân tới bái tế.”
“Đa tạ vương gia.” Vương Uẩn cảm kích.
Nhà họ Vương đang gấp rút lo tang ma, công việc bộn bề nên Vương Uẩn chỉ uống xong ly trà đã phải vội vã cáo từ.
Thấy bóng áo trắng thanh khiết của Vương Uẩn băng qua bụi ngọc trâm trước
sân, Hoàng Tử Hà vội cầm cây quạt đuổi theo, “Vương công tử, quạt của
công tử đây.”
Y quay lại mỉm cười với cô, “Không dùng quạt lò ư?”
“Không có không có.” Cô vội xòe ra cho y xem, “Công tử nhìn này, tôi sợ lấm tro bếp nên vẫn nhét trong ngực áo.”
“Mùa này còn phải đun trà, thảo nào công công đầm đìa mồ hôi.” Vương Uẩn
không giơ tay ra nhận, chỉ cúi đầu nhìn cô, “Công công cứ cầm lấy mà
dùng.”
“…” Hoàng Tử Hà vẫn khăng khăng chìa cây quạt cho Vương
Uẩn, song y đã quay lưng bỏ đi, chỉ xua tay nói, “Công công giữ lấy, lần sau trả ta cũng được.”
Hoàng Tử Hà đứng giữa mảnh sân đầy ngọc
trâm, vô thức giơ chiếc quạt đã mở sẵn ra quạt quạt mấy cái, tự dưng
càng thấy nóng nực hơn.