Trăm Năm Cô Đơn

Chương 6


Đọc truyện Trăm Năm Cô Đơn – Chương 6

Đại tá Aurêlianô Buênđya đã phát động ba mươi hai cuộc vũ trang nổi dậy và thất bại hoàn toàn. Chung đụng với mười bảy cô gái ở những làng khác nhau, ngài sinh được mười bảy người con trai và tất cả bọn họ đều lần lượt bị giết hại chỉ trong một đêm trước khi người con cả vừa đúng ba mươi lăm tuổi Ngài đã thoát nạn trước mười bốn vụ mưu sát, bảy mươi ba vụ phục kích và một đội hành hình. Ngài sống sót qua vụ đầu độc bằng bột mã tiền hòa trong cà phê với lượng đủ giết chết một con ngựa. Ngài từ chối Huân chương Công Huân do Tổng thống nước Cộng hoà tặng. Ngài trở thành Tổng Tư lệnh các lực lượng vũ trang cách mạng có uy quyền từ nước này sang nước khác và là người buộc chính phủ phải gờm, nhưng không bao giờ ngài cho phép người ta chụp ảnh mình. Ngài khước từ lương hưu trí dành cho mình sau chiến tranh và sống cho đến tuổi già nhờ những chú cá vàng được sản xuất trong xưởng kim hoàn của mình ở làng Macônđô. Mặc dù lúc nào cũng dẫn đầu quân đội của mình trong trận mạc nhưng vết thương duy nhất trên người lại do chính tay ngài gây nên sau khi ký hiệp định đình chiến Neclanđia, kết thức hai mươi năm nội chiến. Ngài tự bắn một phát súng lục vào ngực mình và – viên đạn chui ra ở phía lưng không hề gây tổn hại cho lực phủ ngũ tạng. Cái duy nhất còn lại trong hai mươi năm nội chiến là con đường ở Macônđô mang tên ngài. Tuy nhiên, theo lời tuyên bố của ngài mấy năm trước khi chết vì già lão, ngay điều đó cũng không hề là điều ngài mong đợi trong buổi sáng ngài cùng với hai mươi mốt chàng trai khoẻ mạnh lên đường gia nhập các lực lượng vũ trang của tướng Vichtôriô Mêđina.

– Chúng ta để lại Macônđô cho cháu đấy, – đó là tất cả những gì chàng nói với Accađiô trước lúc lên đường. – chúng ta hài lòng để nó cho cháu. Vậy cháu hãy cố gắng lo cho nó để khi trở về chúng ta thấy nó tốt đẹp hơn.

Accađiô đã đáp lại lời khuyên nhủ ấy theo cách riêng của mình. Cậu may một bộ quân phục với lon và tua ngù cấp nguyên soái, mô phỏng theo hình vẽ trong cuốn sách của Menkyađêt và đeo vào thắt lưng mình thanh gươm có bao khảm vàng của viên đại uý bị hành hình. Đặt hai cỗ pháo ngay ở cổng làng, cho học trò cũ của mình – những kẻ điên khùng bởi nhũng lời tuyên bố nẩy lửa của cậu – mặc đồng phức và cho chúng ngông nghênh mang vũ khí đi đi lại lại trên khắp nẻo đường làng để gây cho những người lạ mặt có cảm nghĩ đây là một vị trí quân sự bất khả xâm phạm. Đó là một trò chơi giống như con dao hai lưỡi bởi vì nhờ nó chính phủ không dám cho quân tấn công quảng trường liền trong mười tháng trời, nhưng cũng vì nó mà khi chính phủ ra lệnh tấn công quảng trường thì quân đội đã dùng một lực lượng lớn được vũ trang cực mạnh đến mức đã tiêu diệt lực lượng đề kháng chỉ trong vòng nửa giờ đồng hồ.

Ngay từ ngày đầu tiên thực thi quyền lực của mình, Accađiô đã lộ mặt la một kẻ hống hách. Hàng ngày, cậu ta đọc lệnh cho tới bốn giờ chiều để ra lệnh và sắp đặt mọi việc theo ý muốn của mình. Cậu ta thi hành lệnh cưỡng bức quân sự đối với những người từ mười tám tuổi trở lên, tuyên bố trưng dụng những súc vật nào còn lang thang ngoài đường sau sáu giờ chiều và bắt buộc những người đàn ông lớn tuổi phải đeo băng đỏ ở cánh tay.

Giam lỏng cha Nicanô trong tu viện với lời đe doạ sẽ đem bắn và cấm cha làm lễ mixa và kéo chuông nếu không phải là để mừng thắng lợi của phái Tự do. Để không còn một ai nghi ngờ tính chất nghiêm túc ở những chủ trương của mình, cậu ta ra lệnh cho một đội hành hình tập bắn thằng bù nhìn ở ngoài quảng trường ngay trước mắt thiên hạ. Lúc đầu chẳng một ai coi trọng điều đó. Chẳng qua là các cậu học trò chơi trò người lớn thôi. Nhưng có một đêm, khi Accađiô bước vào tiệm ăn của bác Catarinô, nghệ sĩ thổi kèn trômpét đã chào cậu bằng một hồi kèn bông lơn khiến cho đám đông cười rộ lên, thế là cậu ra lệnh bắn chết anh ta vì tội không tôn trọng nhà chức trách. Đối với những ai dám phản đối mình, cậu ra lệnh còng tay nhất vào trại giam vốn là một phòng học và cho họ ăn bánh nhạt với nước lã. “Mày là đứa giết người”, Ucsula mắng cậu mỗi khi bà biết được một hành động bạo ngược mới của cháu mình. “Nếu Aurêlianô mà biết thì nó sẽ giết mày và tao sẽ là người đầu tiên trong cái làng này hả lòng hả dạ”. Song những lời la mắng ấy của bà đều vô ích. Accađiô vẫn điên khùng xiết chặt các ốc vít của bộ máy kìm kẹp cho đến khi cậu ta trở thành tên khát máu nhất chưa từng có trong số những nhà chức trách ở làng Macônđô. “Giờ đây mới khổ sở với sự tranh giành”, đông Apôlina Môscôtê nói ra miệng trong một số dịp: “Đó là Thiên đường của những kẻ Tự do mà”. Accađiô biết. Cầm đầu toán quân lùng sục, cậu đột nhập ngôi nhà ở, đập phá bàn ghế giường tủ, đánh đập các cô con gái và lôi xềnh xệch đông Apôlina Môscôtê đi theo. Ngay lúc Accađiô sắp sửa đích thân ra lệnh cho đội hành hình nổ súng vào đông Apôlina Môscôtê thì Ucsula, sau khi đã sượng sùng la thét và giận dữ huơ huơ chiếc roi da sơn hắc ín để rẽ đám đông, làm ồn cả sân trại lính: “Thằng đểu, mày hỗn vừa vừa chứ! ” Trước khi Accađiô kịp phản ứng, bà đã quất cho cậu một roi da, “Thằng giết người. Mày hỗn láo quá thể”, bà thét. “Mày giết cả tao nữa, đồ mất dạy. Như thế tao đỡ phải khóc vì nhục nhã đã nuôi nấng một tên phản phúc”. Bà cứ thế quất lia lịa không thương tiếc, đuổi theo cậu ta đến tận cuối sân mà đánh, làm cho cậu ta phải lăn lộn như một con ốc sên. Đông Apôlina Môscôtê đứng chết khiếp đi, bị trói ghì vào chiếc cột trước đây những thằng hình nộm tan xác pháo do đạn súng của đội hành hình tập.

Các chàng trai của đội hành hình tản mát hết vì sợ Ucsula sẽ đánh chết họ. Nhưng bà không thèm nhìn họ. Để mặc Accađiô với bộ quân phức lôi thôi, lếch thếch, rên ri vì đau đớn và giận dữ, bà đi cởi trói cho đông Apôlina Môscôtê rồi dẫn ngài về nhà. Trước khi đi khỏi trại linh, bà còn thả nốt các chính trị phạm.

Kể từ dạo ấy, bà là người cai quản làng Macônđô. Bà khôi phục lễ mixa ngày chủ nhật, bãi bỏ việc đeo băng đỏ, bãi bỏ các đội tuần tra hung bạo. Nhưng vào lúc nghỉ ngơi bà vẫn khóc than cho số phận hẩm hiu của mình. Bà cảm thấy quá ư cô quạnh đến mức bà phải tìm đến người chồng bị lãng quên dưới bóng cây dẻ. “Mình ơi, mình hãy nhìn cảnh ngộ của chúng ta, có thảm không chứ”, bà nói với ông trong lúc những trận mưa rào tháng bảy đe doạ quật đổ túp lều lá cọ. “Mình hãy nhìn ngôi nhà hoang vắng, con cái chúng ta ly tán khắp thế gian, và một lần nữa chỉ có hai chúng ta với nhau như cái thuở ban đầu”.

Hôsê Accađiô Buênđya triền miên trong bể thẳm vô thức, cứ trơ như đá trước những lời thở than của bà. Vào lúc mới điên rồ, ông thường dùng những câu latinh khó hiểu để thông báo cho mọi người biết những nhu cầu tối cần thiết hàng ngày của mình. Trong những lúc tỉnh táo ngắn ngù, khi Amaranta mang cơm cho ông, ông đã báo cho cô biết những phiền toái nhất của mình, và ông ngoan ngoãn uống thuốc cao hạt cải và để cho cô giác máu. Nhưng ở thời kỳ Ucsula thở than bên ông thì ông hoàn toàn mất khả năng tiếp xúc với đời thực. Ông ngồi trên ghế để bà tắm từng bộ phận một cho mình. Trong lúc tắm bà kể cho ông nghe chuyện nhà chuyện cửa. “Đã bốn tháng nay, Aurêlianô đi trận, và chúng ta vẫn chưa nhận được tin tức gì về hắn”, bà nói trong lúc kỳ cọ xà phòng cho ông. “Hôsê Accađiô dã trở về, đó là một người đàn ông thực thụ, cao hơn cả ông ấy, và săm khắp người. Hắn trở về chỉ để mang nỗi nhục cho gia đình mình”. Tuy nhiên, bà quan sát thấy hình như chồng mình buồn trước những tin dữ ấy. Thế là bà đổi giọng khuyển sang nói dối ông “Mình đừng tin những điều tôi vừa nói nhé”, bà nói, trong lúc rắc gio xuống những bãi phân của ông để lấy mo hót đi. “Thượng đế muốn Hôsê Accađiô và Rêbêca lấy nhau và giờ đây chúng nó sống rất hạnh phúc”. Rồi bà trở nên quá thành tâm trong khi nói dối đến nỗi ngay bản thân bà cũng cảm thấy dược an ủi bằng chính những lời mình phỉnh phờ. “Accađiô đã trở thành một chàng trai đứng đắn – bà nói – rất dũng cảm và rất bảnh bao diện bộ đồng phục và đeo kiếm bên hông”. Tất cả những lời ấy được nói ra như thể nói với người chết, bởi Hôsê Accađiô Buênđya thanh thản, rất thanh thản ở ngoài mọi băn khoăn lo lắng. Những bà vẫn không thôi. Bà thấy ông hiền lành quá giống với mọi người quá, đến mức bà cởi trói cho ông. Ông vẫn nằm trên chiếc ghế, như thể những chiếc chạc không còn cần thiết nữa, bởi vì dường như đã có một sức mạnh còn mạnh hơn cả những nút trói buộc mà mắt thịt có thể nhìn thấy đã trói ghì ông vào gốc cây dẻ. Vào khoảng tháng tám, khi mùa đông bắt đầu dài lê thê, Ucsula đã có thể báo cho ông biết một tin:

– Này ông, vận may vẫn đến với chúng ta đấy, – bà bảo ông, – Amaranta và anh người Ý chữa cây đàn pianô tự động ấy sẽ cưới nhau đấy.

Quả thật, Amaranta và Piêtrô Crêspi đã có một tình bạn sâu sắc. Cả hai đều được Ucsula đùm bọc yêu thương. Lần này bà thấy không cần thiết phải ngồi canh chừng đôi trai gái chuyện trò. Đó là một mối tình trong buổi hoàng hôn. Anh người Ý với bông hoa dành dành trắng ngà nổi bật trên ve áo đến nhà vào buổi chiều, và dịch ra tiếng Tây Ban Nha cho Amaranta nghe những bài thơ sônê của Petrăcca(1). Hai người ngồi ở hành lang nồng nặc mùi hoa hồng và hoa thu hải đường. Chàng đọc thơ, nàng dệt những tấm đăng ten, không hề biết những sự kiện kinh người và những tin dữ ngoài mặt trận, cho tới khi muỗi đốt dữ dội họ mới chạy vào phòng khách. Tình cảm dịu dàng của Amaranta với những lời âu yếm đầy ý nhị giống như một tấn mạng nhện vô hình ngày một bọc chặt lấy người yêu mến đến mức vào lúc tám giờ tối buộc anh phải lấy những ngón tay mai mái xanh đeo nhẫn gỡ nó ra để về nhà mình. Hai người đã làm một cuốn albom tuyệt vời với những tấm bưu thiếp từ Ý gửi đến cho Piêtrô Crêspi. Đó là những bức ảnh chụp những người yêu nhau trong những vườn hoa vắng vẻ, với hình vẽ trang trí trái tin bị mũi tên xuyên ngang và những dải vàng vương cánh những đôi bồ câu. “Anh biết công viên này ở Phlôrênxi”, anh nói, trong lúc lần giở các tấm bưu thiếp. “người ta vừa chìa bàn tay ra, lập tức chim đã sà xuống để ăn”. Đôi lúc, trước một nhà cây cảnh, nỗi nhớ nhung đã biến mùi bùn và mùi cá thối trong các kênh mương thành phố Vênêxi thành một mùi hoa thơm dìu dịu. Amaranta thở dài, cười, mơ mộng đến một tổ quốc thứ hai gồm những chàng trai và những cô gái đẹp lộng lẫy nói thứ tiếng nói của trẻ thơ, trên những thành phố cổ kính mà thời huy hoàng oanh liệt xưa của chúng giờ chỉ còn lại những chú mèo lẩn quất bên những đống gạch vữa đổ nát. Sau khi vượt qua trùng dương mênh mông trong sự tìm kiếm của mình, sau khi đã nhầm lẫn nó với nỗi đam mê trong những lúc âu yếm mãnh liệt của Rêbêca, giờ đây Piêtrô Crêspi đã gặp được tình yêu. Niềm vui mang theo cả sự giàu có, lúc này cửa hàng của anh chiếm gần hết một ô phố. Đó là một tủ kính khổng lồ kỳ ảo nhận phục chế những chiếc đồng hồ báo thức xứ Phlorênxi mà mỗi bận điểm giờ chúng làm vang lên một bản hợp xướng những tiếng chuông, bày bán những hộp phấn Tàu khiến năm ngón tay thích thú khi mở nắp, và đủ loại nhạc cụ có thể tưởng tượng ra, đủ loại đồ chơi dây cót có thể mơ ước thấy.

Brunô Crêspi, em út của anh, ngồi trông coi cửa hàng, bởi vì cậu chưa đủ khả năng đảm đương lớp học nhạc. Nhờ có Piêtrô Crêspi đường Thổ Nhĩ Kỳ vội sự trưng bày lộng lẫy các thứ hàng quý giá đã trở thành một nơi yên tĩnh du dương để quên đi nhũng hành động tàn bạo của Accađiô và không khí ảm đạm muôn thuở của chiến tranh. Khi Ucsula quyết định phục hồi các buổi lễ mixa ngày chủ nhật, Piêtrô Crêspi đã hiến nhà thờ một cây đàn thiếu nhi, chuẩn bị một bài hát sẽ làm cho buổi lễ mixa trầm buồn của cha xứ Nicanô vui hẳn lên. Không một ai còn nghi ngờ Amaranta sẽ là một người vợ hạnh phức. Cứ để cho tình cảm lứa đôi mặc nhiên nẩy nở từ trái tim của hai người, không cần phải thôi thúc, bọn họ đã đi đến đỉnh điểm của tình yêu chỉ còn thiếu việc định ngày làm lễ cưới. Bọn họ không gặp một trở ngại nào. Ucsula thầm trách mình với việc trì hoãn không thời hạn ngày cưới đã làm thay đổi số phận của Rêbêca. Cho đến bây giờ bà vẫn chưa nguôi nỗi tủi hổ. Việc để tang Rêmêđiôt thật nghiêm túc đã phải lui xuống hàng thử, bởi sự chết chóc do chiến tranh gây nên, bởi sự vắng mặt của Aurêlianô, bởi hành động tàn bạo của Accađiô, bởi việc tống khứ Hôsê Accađiô và Rêbêca ra khỏi nhà. Trước đám cưới sắp đến, chính Piêtrô Crêspi đã khẩn khoản xin được coi Aurêlianô Hôsê vốn được anh quý như con đẻ, là đứa con đầu lòng của mình. Tất cả đều khiến cho mọi người nghĩ rằng Amaranta đang đi tới một hạnh phúc dễ dàng. Nhưng, khác hẳn với Rêbêca, cô không hề để lộ sự thèm khát của lòng mình. Với chính cái tình cảm khi ngồi dệt những tấm khăn trải bàn, những diềm đăng ten kết những con công đính trên cây thánh giá chờ đợi cho Piêtrô Crêspi không thể ghìm được những đòi hỏi khẩn cấp của trái tim anh. Giờ tận số của anh đã đến vào những ngày mưa bất hạnh trong tháng mười. Piêtrô Crêspi gỡ tay cô khỏi khung thêu và hai tay anh cầm thật lâu bàn tay cô. “Anh không thể đợi hơn được nữa”, anh nói với cô. “Chúng ta sẽ cưới nhau vào tháng tới nhé”. Amaranta không run rẩy khi tay cô chạm phải bàn tay lạnh buốt của anh. Cô từ từ rút tay mình ra khỏi hai tay anh. Giống như một con vật lẩn tránh, cô lại tiếp tục công việc.


– Thôi đi đừng có mà ngây ngô quá thế đi Crêspi, – cô cười. – Dù có chết tôi cũng không lấy anh đâu.

Piêtrô Crêspi không tự chủ được bản thân. Anh khóc nức nở không còn biết xấu hổ, gần như bóp nát các ngón tay vì thất vọng. Nhưng anh vẫn không lay chuyển được cô. “Đừng chần chừ mất thời gian nữa”, đó là tất cả những gì mà Amaranta có thể nói. “Nếu quả tình anh yêu tôi tha thiết thì xin đừng bước tới nhà này nữa”. Ucsula tưởng như mình phát điên lên vì xấu hổ. Piêtrô Crêspi trổ hết tài van xin, tự hạ mình tới mức không thể tưởng tượng được. Suốt một đêm anh khóc như một đứa bé trên ngực Ucsula, người có lẽ phải bán cả linh hồn để an ủi anh.

Trong những đêm mưa người ta bắt gặp anh đội chiếc ô lụa lảng vảng quanh nhà cố lòng bắt gặp ánh sáng trong phòng Amaranta. Chưa bao giờ anh mặc diện như lúc ấy. Mái đầu đẹp lộng lẫy như của một vị hoàng đế qua cơn sóng lòng đã mang vẻ lạ lẫm hẳn đi. Anh đón đường các bạn gái của Amaranta, những cô gái vẫn thường đến thêu ở hành lang, để nhờ họ khuyên giải Amaranta. Anh không còn lòng dạ nào chăm lo tiệm buôn. Suốt ngày anh ở nhà trong viết những bức thư nhàm chán để gửi đến Amaranta cùng với những cánh hoa và những con bướm ướp khô. Nhưng cô vẫn để nguyên gửi trả anh. Đóng cửa phòng, anh ngồi lỳ ngày nọ qua ngày kia để chơi đàn lục huyền. Có một đêm anh hát. Macônđô thức dậy trong nỗi thảng thốt đặc biệt mà tự cảm thấy mình được thần thánh lựa bởi tiếng đàn lục huyền vang lên rền rĩ không phải từ thế gian này mà bởi một giọng hát nỉ non chan chứa tình yêu thương dường như không thể có trên mặt đất này. Thế là lúc đó Piêtrô Crêspi nhìn thấy ánh sáng ló ra từ cửa sổ khắp các nhà trong làng chỉ trừ cửa sổ phòng Amaranta. Ngày mồng hai tháng mười một, ngày lễ của tất cả các vong linh, em trai anh mở cửa hàng và bắt gặp tất cả các ngọn đèn đều thắp sáng, tất cả các hộp nhạc đều mở, tất cả đồng hồ đều dừng lại ở một giờ vô tận, và trong quang cảnh ngổn ngang ấy cậu thấy Piêtrô Crêspi ngồi bên bàn viết ở nhà trong với bàn tay các ngón đều bị dao cắt ngâm trong chậu cánh kiến.

Ucsula quyết định sẽ quàn thi hài anh trong nhà mình để làm lễ viếng. cha Nicanô khước từ làm lễ rửa tội cho anh và mai táng anh ở đất thánh. Bà Ucsula đương mặt với cha. “Cả cha cả con, chúng ta không thể hiểu được rằng con người ấy là một vị thánh”, bà nói. “Trái với ý nguyện của cha, con sẽ chôn anh ta ở ngay cạnh ngôi mộ của Menkyađêt”. Bà làm đúng những điều mình nói. Được cả làng ủng hộ, bà tổ chức lễ tang thật trọng thể cho anh. Amaranta không bước ra ngoài phòng mình. Nằm trên giường cô nghe rõ tiếng khóc của Ucsula, tiếng chân đi lại và lời than thở sụt sùi của đám đông và tiếng rú rùng rợn của những người đàn bà khóc mướn vọng vào nhà và sau đó là khung cảnh yên tĩnh trầm mặc vương mùi hoa bị chà đạp. Ucsula từ bỏ cô. Ngay cái buổi chiều Amaranta vào bếp thọc tay vào bếp than đỏ rực để nguyên cho tới khi cô không còn biết đau đớn mà chỉ cảm thấy mùi khét lẹt của chính da thịt mình đang xèo xêo cháy, bà cũng chẳng thèm ngước mắt nhìn để thương xót con gái. Đó là rách chữa hiệu nghiệm những nỗi ăn năn dằn vặt. Trong vài ngày liền, với bàn tay bỏng ngâm trong một bát lòng trắng trứng gà, cô đi đi lại lại trong nhà và khi chữa khối những vết cháy bỏng thì dường như lòng trắng trứng gà cũng chữa lành những vết cháy bỏng trong trái tim cô. Dấu vết bên ngoài duy nhất còn lại của tấn bi kịch là tấm băng đen băng trên bàn tay bị bỏng và cô đã phải mang nó cho đến khi chết.

Qua việc ra lệnh chính thức để tang Piêtrô Crêspi, Accađiô đặc biệt tỏ ra là người cao thượng. Ucsula giải thích hiện tượng đó như là sự trở về của một con chiên lầm đường. Song bà nhầm to. Bà đã để mất Accađiô không chỉ từ khi cậu ta mặc bộ quân phục mà đã từ lâu rồi. Bà những tưởng mình nuôi dưỡng nó như nuôi dưỡng một đứa con trai, như nuôi dưỡng Rêbêca, không quá chiều chuộng cũng không quá tệ bạc. Tuy vậy, Accađiô vốn là một đứa trẻ đơn độc và hoảng sợ trong suốt thời kỳ dịch mất ngủ hoành hành, trong hoàn cảnh Ucsula mải mê làm giàu, Hôsê Accađiô Buênđya điên rồ, Aurêlianô lầm lỳ ít nói, Amaranta và Rêbêca thù nhau. Aurêlianô dạy nó học đọc và học viết, mà tâm tưởng anh cứ để ở tận đâu đâu ấy, cứ như thể anh biến nó thành một kẻ lạ lẫm. Anh cho nó quần áo sắp rách để Visitaxiôn chữa lại cho vừa. Accađiô khổ sở với những đôi giày quá rộng, với những chiếc quần chữa lại, với bộ mông đàn bà của mình. Chẳng bao giờ nó giãi bày tâm sự với ai ngoại trừ với Visitaxiôn và Cataurê qua ngôn ngữ của họ. Trên thực tế Menkyađêt là người duy nhất bận tâm tới nó. Cụ ngâm cho nó nghe những bài nhã ca khó hiểu cũng như giảng giải cho nó về nghề ảnh. Không ai biết nó đã khóc thầm trước cái chết của cụ như thế nào và nó đã cố lòng làm sống lại cụ qua việc nghiền ngẫm những trang viết của cụ mà không kết quả. Trường học, nơi cậu ta dốc lòng dốc sức làm việc và được mọi người kính trọng, sau đó là chức quyền được giao với những mệnh lệnh dứt khoát và bộ quân phục vinh quang, những thứ đó đã giải thoát cậu ta khỏi nỗi đắng cay trước đấy. Có một đêm nọ, ngay trong tiệm bác Catarinô, một ai đó đã dám nói thẳng với cậu ta: “Anh không xứng với tên họ của mình!”. Trái với điều mọi người mong đợi Accađiô đã không ra lệnh bắn người đó:

– Rất hân hạnh, – cậu ta nói. – May quá, tôi lại không phải là một Buênđya.

Những ai biết gốc gác của cậu ta qua cuộc đấu khẩu này thảy đều nghĩ rằng cậu ta đã hiểu. Thực ra cậu ta vẫn không hay biết gì về gốc gác của mình. Pila Tecnêra, bà mẹ cậu ta, người từng làm cho cậu ta nổi máu dê ở trong phòng làm ảnh, là một sự thèm khát không thể cưỡng lại nổi đối với cậu ta, cũng như thuở ban đầu đối với Hôsê Accađiô và sau đó đối với Aurêlianô. Mặc dù thị đã để mất đi vẻ duyên dáng và tiếng cười phấn kích trước đây, cậu ta vẫn tìm kiếm thị và đã gặp thị trong mùi khói khen khét phả ra từ thân xác thị. Nhưng trước ngày nổ ra chiến sự, có một buổi trưa thị đến trường muộn hơn cả để tìm thằng con út của mình thì Accađiô đang đợi thị tại phòng nghỉ và sau này là phòng giam. Trong lúc đứa trẻ đang nô đùa ở ngoài sân, cậu ta nằm trên võng chờ đợi thị mà người cứ run bắn lên vì thêm khát và biết rằng thị sẽ qua đây. Thị đến thật. Accađiô cầm lấy cổ tay thị định lôi lên võng với mình.

“Chịu thôi! Chịu thôi!”, Pila Tecnêra run rẩy sợ hãi nói. “Cậu không biết rằng tôi cũng muốn chiều cậu lắm chứ. Nhưng có Thượng đế làm chứng cho: tôi không thể thỏa mãn cậu được”.

Với sức mạnh cha truyền, Accađiô đã quàng tay ôm lấy thắt lưng thị và cảm thấy trời đất ngả nghiêng khi chạm phải da thịt thị. “Thôi đi, đừng có mà làm bộ ta đây…”, cậu ta nói. “Cuối cùng cả bàn dân thiên hạ ai cũng biết tỏng mình làm điếm rồi”.

Pila Tecnêra cố quất nỗi nhục nhã mà số phận bi thảm đã dành cho mình.


– Bọn trẻ con sẽ biết mất, – thị nói. – Tốt hơn hết là đêm nay cậu hãy để ngỏ cửa.

Đêm ấy, nằm trên võng người cứ nóng ran như có lửa tràm, Accađiô đợi thị. Cậu ta không ngủ để chờ đợi mà dõi theo tiếng trong đêm khuya và tiếng vạc ăn đêm. Càng đợi cậu ta càng vô vọng và nghĩ rằng mình đã bị “một quả lừa”. Đương lúc sự thèm khát ngày một nguội dần và lúc cơn giận dữ ngày một bốc lửa, thì bỗng nhiên cửa mở. Sau đó mấy tháng, đứng trước họng súng của đội hành hình, Accađiô đã làm sống lại trong ký ức mình những bước chân chệnh choạng đi trong phòng học, những cú va chạm ghế băng, rồi cuối cùng một bóng hình nổi đậm trong phòng mờ tối và tiếng đập thình thình của một con tim vốn không phải là của mình. Cậu ta chìa tay ra và bắt gặp một bàn tay khác đeo hai chiếc nhẫn trên cùng một ngón tay của một người sắp chết chìm trong bóng tối. Cậu ta cảm thấy máu mình chảy giần giật trên các huyết quản, nỗi bất hạnh của mình đang đập rối loạn và cảm thấy bàn tay mình, với đường đời bị thần chết chém ngang trên gò ngón tay cái, sâm sấp ướt mồ hôi. Vậy là cậu ta hiểu ngay rằng người đàn bà ấy không phải là người mình đợi chờ, bởi vì người đàn bà ấy không phả ra mùi khen khét mà phả ra mùi brigiăngtin, bởi vì người đàn bà ấy có bộ vú chũm cau, có cái mòng đóc cứng và tròn như hạt bồ đào và thân thể người ấy run run vẻ hoảng loạn của người chưa từng trải mùi đời. Người ấy là một cô gái trinh và có cái tên đến là khó tin: Santa Sôphia đê la Piêđat(2). Pila Tecnêra trả cho cô năm mươi đồng pêsô, một nửa số tiền thị đã ki cóp trong cả cuộc đời, để cô làm cái việc đang làm. Accađiô từng nhìn thấy cô nhiều lần trong lúc trông nom cửa hiệu thực phẩm của cha mẹ, và chưa bao giờ cậu để mắt tới cô bởi vì cô chưa thực sự ở tuổi thanh xuân. Song kể từ ngày đó trở đi, cậu ta như một con mèo cứ rúc vào nách cô gái. Cô đến trường vào giờ nghỉ trưa trong sự đồng lõa của cha mẹ mình vốn là những người đã được Pila Tecnêra cho nốt số tiền ki cóp được. Về sau này, khi quân chính phủ tống khứ bọn họ ra khỏi trường học, thì hai người làm tình với nhau giữa những thùng bơ và những tải ngô trong kho hàng. Trong thời kỳ Accađiô được phong làm Quan Tổng trấn coi các vấn đề quân sự và dân sự ở làng Macônđô, họ đã có chung một đứa con gái.

Những người thân duy nhất biết chuyện là Hôsê Accađiô và Rêbêca. Họ là những người mà Accađiô lúc đó giữ được các quan hệ mật thiết không chỉ dựa trên tình ruột thịt mà cả trên sự đồng lõa. Cái ách vợ chồng buộc Hôsê Accađiô hoàn toàn phải quy phục. Tính cách cứng rắn của Rêbêca, cái bụng háo ăn của cô sự tham lam vô độ của cô, đã hút cạn sức lực cường tráng của người chồng, buộc anh vốn là kẻ lười nhác và trai lơ phải trở thành một con vật khổng lồ chịu thương chịu khó làm lụng.

Anh có một ngôi nhà sạch sẽ và gọn gàng ngăn nắp. Cứ mỗi bận sáng dậy, Rêbêca mở toang cửa và gió từ nghĩa địa qua các cửa sổ ùa vào rồi lại cuốn ra ngoài theo cửa canh để lại hơi diêm sinh của người chết làm cho những bức tường bệch bạc ra và khiến cho những bàn, tủ, giường xám đen lại. Cơn đói đất, tiếng kêu lộc cộc, lộc cộc, lộc cộc của hai bộ hài cốt của cha mẹ cô, sự nôn nóng của cô trước thái độ quá ư điềm tĩnh của Piêtrô Crêspi đã lùi vào dĩ vãng. Cả ngày cô ngồi thêu bên cửa sổ, xa lạ trước mọi dư âm của chiến tranh. Cho tới khi các nồi sành bắt đầu rung lên trong chạn, cô mới đứng dậy đi hâm lại thức ăn. Cô làm việc ấy trước lúc xuất hiện những con chó bê bết lấm bùn hay khịt mũi đánh hơi và người đàn ông vâm váp đi ủng có đinh thúc ngựa, khoác khẩu súng hỏa mai hai nòng: “Người này có lúc vai vác một chú nai, còn hầu như lúc nào cũng mang về một xâu thỏ hoặc vịt trời… Có một buổi chiều nọ, đúng vào dịp nắm quyền, Accađiô bỗng dưng đến thăm họ. Tất khi ra khỏi nhà, bọn họ không nhìn thấy cậu nhưng cậu đã biểu lộ một tình cảm nồng nhiệt và thân thiết đến mức vợ chồng họ đã mời cậu ở lại cùng nếm món thịt thú rừng vừa được xào nấu.

Chỉ đến khi uống cà phê Accađiô mới nói rõ mục đích mình đến chơi: cậu đã nhận được một lá đơn tố cáo Hôsê Accađiô. Lá đơn nói rằng Hôsê Accađiô cày sân mình và cày lấn sang đất đai lân cận, phá đổ rào và lùa bò của mình vào chuồng người khác, dùng sức mạnh chiếm đoạt những trang trại trù mật nhất ở xung quanh. Đối với những người nông dân không bị tước đoạt vì ruộng đất của họ xấu, y buộc họ phải đóng thuế. Vào thứ bảy hàng tuần y dùng chó săn và khẩu súng hỏa mai hai nòng để thu thuế. Y không phản đối những lời ấy. Y khẳng định quyền lợi của mình trên những đất đai chiếm đoạt được từng bị Hôsê Accađiô Buênđya phân chia từ thời lập làng và tin tưởng có thể chứng minh rằng cha mình đã điên rồ từ thời ấy, bởi vì cụ đã đem phân phát của cải trên thực tế thuộc về gia đình mình. Đó là một lý lẽ không cần thiết bởi vì Accađiô đến đây không phải để phân xử đúng sai mà chỉ đơn thuần mặc cả thôi.

Về phần mình, cậu lập ra một văn phòng luật sư trông coi của cải tư hữu sẽ cấp cho Hôsê Accađiô các văn tự để y hợp pháp hoá những đất đai chiếm đoạt được và ngược lại y phải để cho chính quyền địa phương được quyền thu thuế. Hai người thỏa thuận với nhau. Những năm sau này khi đại tá Aurêlianô Buênđya kiểm tra các văn tự ruộng đất, chàng đã thấy rằng tất cả đất đai kể từ sân nhà Hôsê Accađiô cho tới tận chân trời kể cả nghĩa địa của làng đều thuộc quyền sở hữu của ông anh mình; và rằng trong mười một tháng nắm quyền bính, Accađiô đã thu không chỉ tiền thuế mà còn cả tiền của nhân dân muốn được chôn cất người thân của mình trên điền sản của Hôsê Accađiô.

Vài tháng sau Ucsula mới biết cái việc đã trở thành quyền lực công khai, bởi vì dân chúng giấu không cho bà biết để khỏi khiến bà đau khổ thêm. Bà bắt đầu nghi ngờ cậu ta. “Accađiô đang xây một ngôi nhà”, bà tự hào khẳng định với chồng mình trong lúc cố nhét vào miệng ông một thìa canh bí. Tuy nhiên, bất giác bà lại thở dài: “Không hiểu vì sao tôi cảm thấy không yên lòng đối với tất cả những việc như thế”. Và sau này khi bà biết rằng Accađiô không những đã xây xong nhà mà còn mua sắm giường tủ bàn ghế sản xuất ở Viên thì bà càng khẳng định cậu ta đang biển thủ công quỹ, điều trước đây bà đã hồ nghi.

“Mày là nỗi nhục của dòng họ nhà tao”, bà chửi cậu ta như thế vào lúc kết thúc lễ mixa một ngày chủ nhật, khi bà thấy cậu đang chơi bài trong ngôi nhà mới. Accađiô không đếm xỉa tới lời bà. Chỉ đến lúc ấy Ucsula mới biết cậu ta đã có một đứa con gái sáu tháng và rằng Santa Sôphia đê la Piêđat, người cậu ta cùng chung sống không làm lễ cưới, lại một lần nữa đang có thai.

Ucsula định bụng viết thư cho đại tá Aurêlianô Buênđya, dù chàng ở đâu đi nữa, để chàng tỏ tường mọi chuyện trong nhà ngoài ngõ. Nhưng các sự kiện ồn ào lúc đó không chỉ cản trở mọi ý định của bà mà còn khiến cho bà ân hận vì đã lượm lặt được chúng. Chiến tranh, cho đến lúc ấy vẫn chỉ là một từ để chỉ một hoàn cảnh trống trải và trì đọng, đã được cụ thể hóa trong một thực tại bi thương. Vào cuối tháng hai có một bà già tóc bạc cưỡi trên lưng một chú ngựa thồ chổi đã đến làng Macônđô. Nom bà quá ư hiền lành đến mức các đội tuần tra đã để bà vào làng mà không xét hỏi, như đã từng không xét hỏi những người bán hàng rong thường vẫn qua lại các làng quanh vùng đồng lầy. Bà đi thẳng đến trại lính, Accađiô tiếp bà ngay ở nơi trước đây là lớp học và hiện nay là lán nghỉ của quân lính trong đó những chiếc võng được cuộn lại và treo trên những chiếc móc, những ba lô chồng chất lên nhau ở các xó, và súng trường, súng cacbin, súng săn ngổn ngang khắp sàn nhà. Bà già giơ tay chào theo kiểu nhà binh trước khi tự giới thiệu mình:

– Tôi là đại tá Grêgori Stêvensơn.


Ngài mang tới các tin dữ. Những ổ đề kháng cuối cùng của phe Tự do, theo như lời ngài nói, đang bị tiêu diệt. Đại tá Aurêlianô Buênđya người đang bị quân đội Bảo hoàng truy kích ở ngoại vi thành phố Riôacha, đã giao cho ngài sứ mạng đến nói chuyện với Accađiô, khuyên cậu cần phải nộp lại quảng trường cho quân chính phủ bằng cách đặt điều kiện họ phải hứa danh dự đảm bảo tính mạng và tài sản cho những người Tự do.

Accađiô với đôi mắt nghi ngờ dò xét vị sứ giả kỳ dị ấy, người có thể nhầm lẫn với một bà già hoảng sợ đang chạy trốn.

– Vậy xin hỏi chẳng hay ngài có mang theo giấy tờ không? – cậu hỏi.

– Rất tiếc, – vị sứ giả trả lời, – tôi không mang theo. Dễ hiểu rằng trong điều kiện hiện nay thật khó mang theo trong người bất kỳ một thứ gì khiến người ta khả nghi.

Trong khi nói, ngài rút trong yếm ngực ra một con cá vàng và đặt nó lên bàn. “Tôi tin rằng với thứ này đã đủ lắm rồi”, ngài nói. Accađiô xác nhận rằng đó là một trong những con cá vàng được đại tá Aurêlianô Buênđya làm ra. Nhưng một người nào đó đã mua nó trước lúc nổ ra chiến tranh hoặc đã ăn cắp được và thế là nó không còn giá trị của tờ giấy thông thành. Lúc này, vị sứ giả buộc lòng phải vi phạm bí mật quân sự để lộ chân tướng của mình. Ngài kể rằng mình có nhiệm vụ đi về Curaxao để chiêu mộ tất cả những người bị lưu đày của toàn bộ vùng Caribê, tìm mua cho đủ vũ khí và quân trang quân dụng để mưu tính một cuộc đổ bộ vào cuối năm nay. Mặc dù tin tưởng kế hoạch ấy nhưng đại tá Aurêlianô Buênđya không đồng ý cho rằng trong thời điểm ấy nên tiến hành những hoạt động xả thân vô ích. Nhưng Accađiô là kẻ nhẫn tâm. Cậu đã bỏ tù vị sứ giả để tiến hành công việc xác nhận gốc gác của ngài và quyết định sẽ bảo vệ quảng trường đến hơi thở cuối cùng.

Không cần phải đợi chờ lâu. Những tin tức về sự thất bại của phái Tự do ngày một xác thực hơn. Trong một buổi nửa đêm về sáng vào cuối tháng ba trời đổ những trận mưa sớm, không khí yên tĩnh nặng nề của những tuần trước đây bỗng nhiên tan biến cùng với tiếng kèn cornêt rùng rợn và tiếng nổ dữ dội của một quả pháo đã làm sập đổ tháp chuông nhà thờ. Trên thực tế, ý nguyện kháng cự của Accađiô là một ý nghĩ điên rồ. Cậu chỉ có trong tay không quá năm mươi người vũ trang kém cỏi với cơ số đạn không quá hai mươi viên mỗi cây súng. Nhưng trong số những người kháng chiến, những học trò cũ của cậu từng náo nức trước những lời tuyên bố hoa mỹ đang quyết chí chiến đấu đến phút cuối cùng vì một sự nghiệp đã phá sản. Trong khung cảnh những tiếng ủng chạy nháo nhác, những mệnh lệnh mâu thuẫn trái ngược nhau, những tiếng đại bác làm rung chuyển mặt đất, những tiếng súng nổ loạn xạ, và những hồi kèn cornêt không có ý nghĩa, ngài đại tá bị giam Stêvensơn xin được nói chuyện với Accađiô. “Hãy tránh cho ta nỗi nhục phải chết trong nhà tù mặc nguyên quần áo đàn bà đi”, ngài nói với cậu. “Nếu ta phải chết thì ta sẽ chết trong chiến đấu”. Accađiô ra lệnh phát cho ngài một cây súng với hai mươi viên đạn, và để cho ngài cùng năm người nữa bảo vệ trại lính, trong khi đó, cùng với bộ chỉ huy của mình cậu ta đi lên tuyến đầu của trận đề kháng. Những chướng ngại vật bị phá vỡ và những người chiến đấu bảo vệ làng phải chiến đấu trong một cuộc đọ súng không cân sức trên các đường phố. Đầu tiên họ dùng súng trường chiến đấu cho tới khi hết đạn, sau đó dùng súng lục chống lại súng trường và cuối cùng đánh giáp lá cà. Trước sự thất bại sắp xảy ra, một số chị em phụ nữ, người cầm gậy kẻ cầm dao thái thịt, cùng đổ ra đường. Trong khung cảnh hỗn độn ấy, Accađiô bắt gặp Amaranta mặc áo ngủ, tay cầm hai khẩu súng lục cũ kỹ của Hôsê Accađiô Buênđya, đang hoảng hốt tìm cậu. Accađiô liền đưa khẩu súng của mình cho một viên sĩ quan vừa bị mất súng trong trận chiến đấu, rồi cùng với Amaranta lẩn vào một con đường cạnh đó để đưa cô về nhà. Ucsula đứng ở cửa ra vào, đang đợi chờ, bất chấp những tiếng súng nổ đì đùng và một viên đạn lạc khoét một cái lỗ trên bức tường mặt tiền của ngôi nhà ngay cạnh. Mưa tạnh hẳn nhưng đường cái ngầu bùn như bọt xà phòng và người ta phải dò tìm khoảng cách trong bóng tối Accađiô để Amaranta ở lại với Ucsula, và định bụng chiến đấu mặt đối mặt với hai lính chính phủ từ một góc phố đang đi vào lùng sục. Những khẩu súng lục để quá lâu trong ngăn kéo khô dầu không nổ đạn được. Lấy thân mình che cho Accađiô, Ucsula định kéo cậu về tận nhà mình.

– Về ngay! Vì Thượng đế hãy về nhà ngay – bà thét cậu ta. – Hãy bỏ thói điên khùng đi nào.

Bọn lính nhả đạn về phía họ.

– Bà già hãy buông người kia ra, – một tên lính thét, – nếu không chúng tôi sẽ không chịu trách nhiệm trước cái chết của bà.

Accađiô đẩy Ucsula về phía nhà, còn mình giơ tay đầu hàng.

Sau đó ít lâu, tiếng súng ngừng bặt và chuông nhà thờ bắt đầu đổ hồi. Cuộc đề kháng đã bị đè bẹp trong không đầy nửa giờ.

Không một người nào của Accađiô sống sót sau trận tấn công, nhưng trước khi chết bọn họ đều bị dẫn diễu qua trước mặt ba trăm lính chính phủ. Pháo đài bị tiêu diệt sau cùng là trại lính.


Trước khi nó bị tấn công, đại tá bị giam Grêgôriô Stêvensơn, đã thả hết các tù nhân, ra lệnh cho những người dưới quyền ra ngoài đường chiến đấu. Sự thay đổi vị trí chiến đấu đến là linh hoạt của ngài, cũng như đường đạn chính xác của hai mươi viên đạn được ngài bắn đi từ các cửa sổ khác nhau đã đem lại cái cảm giác trại lính được phòng thủ rất tốt, và những kẻ tấn công đã phải dùng đại bác để câu vào phá sập nó. Viên đại uý chỉ huy cuộc chiến đấu phải ngạc nhiên trước quang cảnh những mảng tường nhà rơi đổ ngổn ngang, chỉ có một người đàn òng mặc độc một chiếc quần đùi đã chết và một khẩu súng hết đạn được một cánh tay bị chặt lìa khỏi thân xác ôm lấy. Người ấy có bộ tóc dầy cộm uốn súng ôm lấy vai và trên cổ đeo một sợi dây mang con cá vàng. Vào lúc lấy mũi ủng lật ngửa để nhìn cho rõ mặt người ấy, viên đại uý giật mình hoảng sợ: “Đồ cứt đái”, ông ta thốt lên. Một số sĩ quan khác cũng ào tới.

– Các vị hãy nhìn xem, cái con người này đến từ đâu vậy? – viên đại uý nói với họ. – Đó là Grêgôriô Stêvensơn.

Vào lúc rạng sáng, Accađiô bị bắn ở trước bức tường nghĩa địa sau khi hội đồng quân sự họp khẩn cấp. Trong hai giờ cuối cùng của đời mình, cậu vẫn chưa hiểu nổi vì sao cái nỗi sợ chết từng dằn vặt mình ngay từ thuở thơ ấu đã biến mất. Với vẻ bình thản lạnh lùng, không hề bận tâm tới việc chứng tỏ lòng dũng cảm mới nảy sinh, cậu nghe những lời luận tội dài dòng.

Cậu nghĩ tới Ucsula mà giờ này có lẽ bà đang cùng uống cà phê với Hôsê Accađiô Buênđya dưới bóng cây dẻ. Cậu nghĩ tới đứa con gái tám tháng vẫn chưa được đặt tên và tới đứa trẻ sẽ ra đời vào tháng tám tới. cậu nghĩ tới Santa Sôphia đê la Piêđat đêm qua đã ướp thịt một con hươu cho bữa cơm trưa ngày thứ bảy, nhớ mái tóc dài buông xõa xuống hai vai cô, nhớ những hàng mi dài của cô giống như những bờ mi được làm giả. Cậu nghĩ tới những người của mình không mảy may thương tiếc. Trong lẽ công bằng cần phải trang trải với cuộc đời, cậu bắt đầu hiểu được trên thực tế cậu yêu biết nhường nào những người cậu từng căm ghét. Ngài chủ tịch hội đồng quân sự bắt đầu bài phát biểu cuối cùng của mình trước lúc Accađiô chợt nhớ rằng đã qua đi hai giờ đồng hồ rồi. “Mặc dù các chức vụ được giao cho y không có gì đáng kể, – ngài chủ tịch nói, – nhưng với thái độ hung hăng vô trách nhiệm và độc ác y đã đẩy những người dưới quyền của mình tới những cái chết vô ích thì điều đó cũng đủ để khép y vào tội tử hình”… Tại trường học rạn nứt vốn là nơi lần đầu tiên cảm nhận sự chắc chắn của quyền lực, cách mấy mét thì tới phòng học mà lần đầu tiên biết đến thứ tình yêu ngỡ ngàng, Accađiô bắt gặp hình thức nực cười của thẩn chết. Trên thực tế, đối với cậu lúc này, cái có tầm quan trọng không phải là cái chết mà là sự sống và bởi thế, cái cảm giác mà cậu cảm nhận khi người ta tuyên án tử hình mình không phải là cái cảm giác sợ hãi mà là cái cảm giác nhớ nhung. Cậu vẫn im lặng cho tới khi được hỏi nguyện vọng cuối cùng của mình là gì.

– Hãy nói với vợ tôi, – cậu trả lời với giọng nói sang sảng, – rằng đặt tên cho con gái tôi là Ucsula, – cậu nghĩ rồi khẳng định: đúng là Ucsula tên của bà nội. Và hãy nói với vợ tôi rằng nếu đứa trẻ sắp ra đời là con trai thì đặt tên là Hôsê Accađiô nhưng không phải lấy tên của ông bác mà là tên của ông nội nó.

Trước lúc người ta mang cậu tới bức tường ở nghĩa địa, cha xứ Nicanô định rửa tội cho cậu. “Tôi không có gì phải ân hận cả”, Accađiô nói, và làm theo lệnh của đội hành hình sau khi uống hết tách cà phê đen. Người chỉ huy đội hành hình, một người chuyên thi hành các bản án tử hình, có tên rất đúng với nghề của mình: đại uý Rôkê Cacnixêrô(3). Trên con đường đi tới nghĩa địa, dưới trời mưa lất phất, Accađiô nhận thấy rằng một ngày thứ tư rạng sáng đang loé lên ở chân trời. Nỗi nhớ nhụng hoà tan trong sương mờ và để lại một sự tò mò khủng khiếp.

Chỉ đến khi người ta ra lệnh cho cậu dựa lưng vào tường, Accađiô mới nhìn thấy Rêbêca với mái tóc ướt, mặc bộ váy áo hoa màu hồng đang mở toang cửa nhà. Cậu cố lòng thầm khấn để Rêbêca nhận ra mình. Quả nhiên, vừa lúc ấy Rêbêca nhìn ra bức tường nghĩa địa và bỗng đứng đần ra vẻ hoảng hốt. Hầu như cô mới chỉ kịp ra hiệu để chào từ biệt Accađiô. Accađiô đã đáp lại cũng bằng điệu bộ tương tự. Giữa lúc ấy những họng súng bốc khói nhả đạn vào Accađiô và cậu nghe rõ ràng từng lời từng lời một bản nhã ca được cụ Menkyađêt ngâm và cảm thấy những bước chân chệnh choạng của Santa Sôphia đê la Piêđat, cô thiếu nữ trinh tiết, vang trong phòng học và cảm thấy trên mũi mình có cái lạnh cứng của nước đá, cái mà cậu đã chú ý tới khi thấy nó trong hốc mũi của tử thi Rêmêđiôt. “À, con c… – cậu vừa kịp nghĩ ra, – ta quên mất không nói rằng nếu sinh con gái hãy đặt tên là Rêmêđiôt”. Vậy là lúc ấy, cậu đã cảm thấy nỗi sợ hãi từng tra tấn mình suốt cả cuộc đời. Viên đại uý ra lệnh nổ súng. Hầu như Accađiô vừa kịp ưỡn ngực và ngẩng đầu lên mà không hiểu từ đâu chảy ra một dòng nước đằng đặc nóng bỏng đang thiêu đốt các cơ bắp mình:

– Đồ dê cụ, – cậu thét – Đảng Tự do muôn năm!

Chú thích:

(1) Francisco Petrarca (1304-1374) nhà thơ Ý, một trong những nhà nhân văn vĩ đại

(2) Nghĩa là: bà Thánh Sôphia của lòng hiếu thảo.

(3) Nghĩa là Rô kê – Tên đồ tể.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.