Đọc truyện Trâm 4: Chim Liền Cánh – Chương 40: Ráng chiều như lụa (2)
Tông Chính Tự dù sao cũng không phải nha môn tư pháp, tôi một mình điều tra, không có ai giúp sức, rất khó mở rộng, huống hồ án này liên quan tới hai vị vương gia cùng đủ thứ dây mơ rễ má trong triều, vướng chân vướng tay, biết bắt đầu từ đâu được?”
“Ta sẽ giúp cô! Chúng ta…chúng ta bắt tay từ cách tách lớp mực phía trên đi!” Chu Tử Tần sửa áo ngồi nghiêm ngắn lại, “Lần trước ta tới đập cửa nhà Dịch tiên sinh, ép ông ta dạy cách tách mực, thoạt đầu ông ta không chịu nhưng ta cứ lăn lộn nài xin suốt một ngày, cuối cùng ông ta mới nói đó là phương pháp bí truyền, trừ đệ tử nhập thất ra không truyền cho ai cả.”
“Sau đó thì sao?” Hoàng Tử Hà biết tài đeo bám của Chu Tử Tần là đệ nhất thiên hạ, nhất định không có việc gì không làm được.
Quả nhiên, gã ghé sát lại thì thào: “Ta lập tức chuẩn bị sáu phần lễ vật, quỳ xuống dâng trà dập đầu bái sư, ngay chiều hôm ấy đã moi được phương pháp bí truyền nọ.”
Hoàng Tử Hà chẳng biết nên thán phục hay bỉ bôi, cuối cùng đành cúi đầu lẳng lặng ăn cháo: “Sao công tử không kể cho tôi?”
Nghe cô hỏi, Chu Tử Tần tiu nghỉu đáp: “Đừng nhắc đến nữa, cách đó có thể tác dụng với bức tranh của tiên hoàng, nhưng chẳng có ích gì với lá bùa kia cả.”
“Công tử thử nói nghe xem nào?”
“Là thế này, muốn xóa hết lớp mực bên trên, phải hong giấy trên lửa, khi giấy nóng lên thì liên tục dùng vải mềm tẩm dấm ấm lên, đồng thời vẫn phải hong lửa riu riu để tránh giấy bị ngấm nước lại mủn ra. Nếu giấy dầy thì còn đỡ, nếu mỏng thì hết cách. Để xóa được hết vết mực mà không làm hỏng giấy, thường phải thấm một ngày một đêm, thấm một lúc lại nghỉ một lúc. Sau đó xoá sạch vết mực, lại phải đun trà trong phòng hong tờ giấy một ngày một đêm, mới khử hết được mùi dấm!” Hoàng Tử Hà trầm ngâm: “Tức là, ít nhất cũng mất hai ngày một đêm.”
“Phải, trước đây cô và Quỳ vương đã nói, lá bùa kia có mấy lần chỉ trong vòng nửa ngày đã đổi màu, nên nhất định không thể dùng cách này được.”
“Huống hồ, trí nhớ của Quỳ vương rất rành mạch, nếu lá bùa bị vần vò như thế, sao gia lại không phát hiện ra?” Hoàng Tử Hà nhíu mày, trầm ngâm giây lát mới chậm rãi nói tiếp: “Có lẽ, chúng ta đều nghĩ ngược mất rồi.”
“Ngược cái gì?” Chu Tử Tần gặng.
“Có lẽ không cần phải xóa vết mực son đi, mà thực ra, chúng đã dùng một biện pháp đơn giản hơn nhiều…” Cô cau mày, “Có điều hiện giờ chưa lấy được lá bùa của Quỳ vương, nhất thời tôi cũng không thể khẳng định suy đoán của mình được.”
“Lá bùa giờ ở đâu?”
“Chắc vẫn còn ở gác Ngữ Băng trong phủ Quỳ. Có điều giờ Quỳ vương đang ở ngôi đình của Tông Chính Tự, không về lấy được.”
Chu Tử Tần nghĩ ngợi rồi vỗ trán đề nghị: “Ta cầm cái của ta đi, lén tráo đổi với cái của vương gia, sau đó đưa đến chỗ Quỳ vương, chẳng phải được rồi ư?”
Hoàng Tử Hà nghe nói cũng thấy buồn cười: “Sao phải lén cầm hộp đi tráo đổi? Giờ lá bùa ấy chẳng còn gì quan trọng nữa, công tử nhờ người nói với Quỳ vương một tiếng, xin gia viết cho một tờ giấy rồi đến vương phủ mà lấy, chẳng phải đường hoàng hơn ư?”
“À…cũng đúng nhỉ.” Chu Tử Tần nói đi là đi, lập tức đứng dậy bước ra, “Cứ vậy đi, đợi ta lấy được lá bùa sẽ đem đến cho cô xem.”
Hoàng Tử Hà bất lực nhìn theo bóng gã đi thẳng ra cửa. Đối với kẻ đến đi ào ào như gió thế này, cô đành gọi với theo: “Nhớ cẩn thận đấy!”
Lời vừa ra khỏi miệng, cô bỗng sững sờ, ánh chớp vụt lóe lên trong đầu khiến cô sực nghĩ ra gì đó, nhưng hết sức hư vô mờ mịt, cơ hồ không thể nắm giữ.
Hoàng Tử Hà lẩm bẩm nhắc lại lời Chu Tử Tần: “Ta cầm cái của ta đi, lén tráo đổi với cái của vương gia…”
Thình lình cô đứng phắt dậy gọi to: “Chu Tử Tần!”
Chu Tử Tần đã ra khỏi phòng, nghe tiếng cô thì giật bắn mình, hớt hải trở vào: “Sao thế sao thế?”
“Công tử đợi cho một lát.” Nói rồi cô rút cây trâm trên đầu, vạch lên mặt bàn. Chu Tử Tần nghi hoặc hết sức, nhưng biết đây là thói quen của cô, đành dựa vào khung cửa nhìn cô vạch loạn cả lên, vết vạch rất nông, không hề để lại dấu tích. Gã nhìn mãi vẫn chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì.
Cuối cùng, Hoàng Tử Hà cắm cây trâm ngọc vào chỗ cũ, đứng dậy: “Đi thôi.”
“Đi đâu?”
“Tiệm đồ gỗ Lương Ký, tìm Tôn sư phụ.”
Tháng Giêng vốn là mùa ế ẩm của các tiệm đồ gỗ, nhưng Lương Ký vẫn làm ăn phát đạt, mấy mảnh sân chất đầy vật liệu thượng đẳng, mọi người vừa làm vừa tán gẫu: “Lần này là nhà nào mà làm nhiều đồ xa hoa thế?”
“Họ Vương Lang Gia cưới dâu, chú rể chính là Vương Uẩn, hữu thống lĩnh của Ngự Lâm quân, em họ hoàng hậu, con trai Vương thượng thư đấy mà. Nghe nói là cưới con gái của Hoàng sứ quân, nguyên là thị lang bộ Hình, về sau đến Thục làm quận thú đó.”
Ai nấy đều gật gù tán thưởng: “Ồ, đúng là môn đăng hộ đối, trời xe duyên lành!”
Chu Tử Tần ngạc nhiên quay sang Hoàng Tử Hà.
Hoàng Tử Hà cũng không ngờ lại gặp phải việc này ở đây, nghe họ bàn luận cuộc hôn nhân giữa mình và Vương Uẩn, lòng cô ngổn ngang trăm mối, đành quay đi, vừa buồn bã vừa thẹn thùng.
Song Chu Tử Tần lại sán đến hỏi nhỏ: “Thì ra cô đến xem đồ cưới hả?”
Mặt Hoàng Tử Hà đỏ bừng lên, vừa ngượng vừa tức, trừng mắt lườm gã rồi quay ngắt đi vào trong, tìm Tôn sư phụ.
Chu Tử Tần còn nghe thấy đám người phía sau bàn tán: “Nhưng thường thì đồ cưới là do nhà gái chuẩn bị, sao giờ lại đến lượt nhà họ Vương làm?”
“Ài, cả nhà Hoàng sứ quân chỉ còn lại một cô con gái mồ côi ấy thôi, ai chuẩn bị những thứ này cho cô ấy được? Còn chẳng phải nhà họ Vương chuẩn bị sẵn, tới lúc đó đưa đến ngoại thành cho đội rước dâu, để cô ấy được vẻ vang gả vào nhà chồng hay sao.”
“Hoàng tiểu thư tuy gặp nhiều trắc trở, nhưng được nhà chồng như thế đúng là có phúc!”
Chu Tử Tần lẳng lặng ngó sang, thấy Hoàng Tử Hà bịt tai giả điếc, xăm xăm đi về phía Tôn sư phụ đang cắm cúi với nào ống mực nào dùi đục.
Hoàng Tử Hà nhìn lướt qua bệ gỗ nơi Tôn sư phụ làm việc, cũng như lần trước, trên đó lổng chổng hết búa lại bào cùng cơ man mảnh gỗ vụn và mùn cưa, khiến người ta không sao tưởng tượng nổi những rương hòm, chậu chén tinh xảo kia đều từ đây mà ra.
Tôn sư phụ thoạt nhìn đã nhận ra Chu Tử Tần, vồn vã chào hỏi: “Đến đấy à? Hôm nay công tử muốn làm gì?” Chu Tử Tần nhìn Hoàng Tử Hà, thấy cô đang chăm chú quan sát bệ gỗ, bèn đáp: “Hôm nay ta theo cô ấy đến tham quan thôi.”
“Thế ư?” Tôn sư phụ xoa tay cười nói: “Chiếc hộp lần trước công tử mua của tôi, dùng vẫn tốt chứ?”
“Tốt lắm.” Chu Tử Tần đáp bừa.
“Phải rồi, năm xưa sư phụ tôi dạy rằng, một nghề cho chín còn hơn chín nghề. Dĩ nhiên tôi chẳng dám mong phát tài to như lão nhân gia, chỉ cần nhờ phúc các quý khách, có bát cơm ăn là đủ.”
Nghe ông ta nói vậy, Hoàng Tử Hà liền hỏi: “Hoắc sư phụ là thợ mộc nổi tiếng kinh thành, đương nhiên khấm khá, nhưng dù sao cũng là người làm việc tay chân, hẳn phải vất vả lắm nhỉ?”
“Ai dám bảo không nào? Cả đời ông ấy luôn tay luôn chân, nhưng cũng chỉ nhận bạc cắc, ba bốn năm trước mới mua được mười mấy mẫu đất ở quê và một căn nhà lớn, sư phụ bấy giờ tuyên bố không làm nữa, muốn về quê hưởng an nhàn…” Kể tới đây, Tôn sư phụ thở dài lắc đầu: “Tiếc rằng lão nhân gia chẳng có cái phúc ấy, trên đường về quê lại gặp cướp, cả nhà lớn bé đều…Ôi!”
Chu Tử Tần vội hỏi: “Vậy đất đai nhà cửa thì sao?”
“Bị người trong tộc xâu xé cả, tôi cũng không rõ lắm.”
Hoàng Tử Hà hờ hững góp lời: “Tiếc thật đấy, mười mấy mẫu ruộng và một gian nhà rộng, người bình thường làm quần quật cả đời chẳng kiếm nổi chừng ấy, vậy mà ông ta thoắt cái đã mua được, nhưng cuối cùng cũng không có phúc hưởng.”
“Đúng vậy, có lẽ đó là tiền sư phụ tôi gom góp cả đời…Thế mà bình thường tôi chẳng nhìn ra.” Nói đoạn, Tôn sư phụ lại quay sang lấy lòng Chu Tử Tần, “Hay là công tử làm một cái hộp nữa như thế đi?”
“Thôi thôi, ta dùng cái hộp phiền phức ấy làm gì? Muốn mở ra cũng phải vật vã nửa ngày, chỉ hợp với người trí nhớ siêu phàm thôi, ta chịu thua không thể mở nó thoăn thoắt như thế được.” Chu Tử Tần chê bôi.
Hoàng Tử Hà nhìn cách bày biện trong phòng, hỏi dò: “Ở đây có còn di vật của Hoắc sư phụ không?”
Tôn sư phụ lắc đầu: “Ông ấy đã quyết rời kinh, đời nào còn để lại đồ đạc. Chỉ cho tôi tất cả công cụ hành nghề, nói rằng về sau không dùng đến nữa.”
Hoàng Tử Hà đề nghị: “Cho tôi xem các công cụ ấy được không?”
“Được thôi, nhưng có mấy thứ mấy năm nay tôi dùng cũng hỏng hóc, vứt bỏ mất rồi…” Tôn sư phụ dẫn bọn họ ra phía sau, ngồi xuống mở hòm đồ nghề ra, lần lượt lấy từng thứ bên trong bày xuống đất.
Hoàng Tử Hà nhìn qua một lượt những thước lỗ ban, ống mực, dây gai…đã cũ, rồi dừng ở mấy miếng keo ong(1): “Thợ mộc cũng dùng thứ này ư?”
(1) Hỗn hợp gồm một loại nhựa cây trộn với chất tiết ra từ tuyến nước bọt của ong. Ong sử dụng loại keo này để trát kín tổ, qua đó giúp bảo quản mật ong, bảo vệ sự phát triển của ấu trùng và trứng khỏi sự tấn công của vi rút cũng như bảo vệ bản thân ong khỏi sự tấn công của các loài chuột bọ.
“Đúng vậy, tôi cũng lấy làm lạ, hơn nữa miếng keo ong này chẳng dính mấy, hình như có lẫn mùn cưa.” Tôn sư phụ giải thích, “Lúc tôi mới ra nghề, sư phụ từng nói có những thợ mộc tay nghề kém, ghép mộng không khớp, lung lay như răng bà lão, đành phải trét keo ong vào mối ghép để lừa khách. Như vậy lúc khách mới lấy về thì vững chãi, nhưng dùng ít lâu keo ong long ra, mộng ghép không chắc, nhẹ thì bàn ghế lung lay, nặng thì đổ sập. Sư phụ bấy giờ còn kiêu hãnh nói, từ lúc ra nghể đến giờ là ba mươi năm, chưa bao giờ dùng đến keo ong!”
Hoàng Tử Hà giơ ngón tay chạm nhẹ vào miếng keo ong, để qua vài năm, trời lại rét buốt, miếng keo đã cứng lại thành một cục đen sì cứng ngắc, lẫn nhiều mùn cưa, trông rất khó coi.
Chu Tử Tần nhận xét: “Xem ra Hoắc sư phụ tay nghề cũng không ổn lắm, làm bấy nhiêu năm mà vẫn phải dùng loại keo ong này.”
Tôn sư phụ giận dữ phản bác: “Không có chuyện đó! Tay nghề sư phụ vô cùng khéo léo, chưa bao giờ có vấn đề! Có lẽ ông ấy dùng vào việc khác thôi!”
“Còn dùng vào việc gì được nữa? Trên miếng keo nhiều mùn cưa thế này, thoạt nhìn đã biết là dùng để dán gỗ rồi.” Chu Tử Tần vặc lại.
Tôn sư phụ đỏ mặt tía tai, nhưng không sao cãi được. Hoàng Tử Hà vặt một miếng keo ong, dùng giấy dầu gói lại rồi đứng dậy: “Đa tạ Tôn sư phụ, tôi nghĩ Hoắc sư phụ là thợ mộc có tiếng, ắt sẽ cần nó vào việc khác, chứ không dùng vào những việc bình thường đâu.”
“Hẳn là thế…” Tôn sư phụ hậm hực đáp.
Thấy Hoàng Tử Hà quay người trở ra, Chu Tử Tần theo sau hỏi: “Cô lấy cái này làm gì?”
“Có gì đâu.” Hoàng Tử Hà hờ hững trả lời. “Có lẽ đây là chìa khóa để mở hộp cửu cung.”
“Gì cơ? Keo ong mở được hộp cửu cung ư?” Chu Tử Tần thất thanh hỏi lại.
Hoàng Tử Hà gật đầu.
Chu Tử Tần bám theo sau cô, băng qua đám thợ mộc đang tất bật trong sân, thấy cô đi thẳng ra cổng thì cuống quýt gặng: “Nói cho ta đi mà, rốt cuộc là chuyện gì thế?”
Song Hoàng Tử Hà không đáp, chỉ rảo bước ra khỏi xưởng đồ gỗ, đứng giữa ngọn gió đầu xuân lạnh buốt, thở hắt ra một hơi rồi ngoái lại nhìn gã: “Tử Tần…”
Chu Tử Tần vội sán ngay đến, chỉ thiếu điều chưa vẫy đuôi: “Tử Hà?”
“Công tử còn nhớ trung thu năm ngoái, chúng ta đã phá vụ án một nhạc kỹ gảy không hầu ở Thục không?”
“Hả? Vụ đồ đệ Úc Lý giết sư phụ Bích Đào ấy à?” Chu Tử Tần ngỡ ngàng không hiểu sao cô lại đột nhiên nhắc tới vụ này.
Hoàng Tử Hà nhìn ráng chiều cuối trời, gật đầu: “Bấy giờ chúng ta thấy trên mu bàn tay Bích Đào có một vết xước mới, nên suy đoán rằng nhất định có thứ gì đó đã bị tuột ra khỏi cổ tay cô ta đúng không?”
“Phải phải, chính là xâu vòng một gã đàn ông tặng, hại hai thầy trò họ tàn sát lẫn nhau, ôi, cả hai cô đều xinh đẹp nữa chứ, đúng là khiến người ta thương tiếc.” Chu Tử Tần đương nhiên chỉ biết nghĩ đến chuyện thương hoa tiếc ngọc.
“Thực ra mọi thứ trên đời này, chỉ cần nghĩ cách, ắt sẽ tìm thấy dấu vết tương ứng, phải không?” Hoàng Tử Hà quay đầu nhìn gã, ánh mặt trời từ sau lưng hắt lại, khiến đôi mắt cô càng thêm sáng rỡ, cả người cũng sáng bừng lên, “Ví như bất luận là tám mươi thanh đồng của người thợ mộc đóng hay tám mươi mã chữ ngẫu nhiên do Quỳ vương chọn lựa, chỉ cần cố ý, đều có thể để lại dấu vết, phải không nào?”
Chu Tử Tần ngẫm nghĩ hồi lâu rồi ngơ ngác nhìn cô: “Ý cô là…mấu chốt nằm ở keo ong ư?”
Hoàng Tử Hà gật đầu nói khẽ: “Đúng vậy. Sau đây tôi phải kiểm chứng lại một việc nữa. Nếu việc này là thật, thì mọi thứ có thể kết thúc.” Nói dứt câu, vẻ mặt cô cũng chẳng biết là vui hay buồn, song cặp mắt đã giăng đầy sương khói.
Dưới ánh nắng chiều nhàn nhạt, Trường An cổ kính toát lên vẽ đìu hiu quạnh quẽ, những thân cây trút hết lá đứng ủ rủ bên đường, cả thế gian dường như chỉ có dung mạo cô sáng bừng lên. Mắt cô ánh lên vẻ cố chấp kiên nghị, không lùi một bước, khiến Chu Tử Tần thấy vừa thân thuộc vừa xa lạ, vừa kính sợ lại vừa thương xót, nhưng chẳng biết phải diễn tả thế nào, đành lặng lẽ nhìn cô, nói hùa theo: “Kết thúc…thì tốt quá.” Gã đưa cô về đến nhà rồi mới một mình lủi thủi quay về, đi giữa phố phường Trường An, chợt ngẩng lên nhìn bầu trời âm u nhạt nắng, sực nhớ ra vì sao lúc nãy lại thấy ánh mắt Hoàng Tử Hà quen đến vậy.
Có một năm, vào mùa đông, gã hẹn với một đám lính Ngự Lâm thân thiết ra ngoại ô đi săn. Thảo nguyên mùa đông rộng mêng mông, họ thúc ngựa phi như bay, xua bầy hươu vào giữa vòng vây rồi quây lại bắn giết. Những con hươu sao hoảng loạn chạy trốn lần lượt ngã xuống, không con nào thoát được số phận bị tên bắn xuyên mình.
Vòng vây của họ càng lúc càng thu hẹp lại, cuối cùng chỉ còn một con duy nhất, đứng bên thi thể đồng loại, mở to mắt nhìn đoàn người thúc ngựa áp sát.
Đôi mắt nó trong suốt mà sáng rực, dưới hàng mi dày cong vuốt, trông còn to tròn, gần như có thể thấy rõ bóng kẻ đi săn đang giương cung lắp tên in trong đó.
Chẳng biết vì lẽ gì, Chu Tử Tần lại từ từ hạ cung tên xuống, ngây ra nhìn con hươu.
Giữa đống xác hươu, tứ chi thon dài và bốn nhánh sừng vươn cao đẹp đẽ trên đầu nó càng thêm nổi bật. Mười mấy người đều kéo căng dây cung, nhắm chuẩn vào nó.
Vào khoảnh khắc đối mặt với cái chết, nó bỗng tung người nhảy lên, vượt qua xác tất cả đồng loại, lao đi như bay. Hai mũi tên bay sát qua sườn, khiến bộ lông tuyệt đẹp của nó đầm đìa máu, con hươu mang theo vết thương chạy biến vào khe núi, mất tăm mất tích.
Chỉ có đôi mắt ấy, vẫn đọng lại trong ký ức Chu Tử Tần.
Giống như vẻ kiên cường cố chấp không lùi một bước dù đã sắp rơi vào đường cùng trong mắt Hoàng Tử Hà vậy.
Chu Tử Tần bỗng ngẩn ngơ, mọi thứ trên đời dường như đều lùi ra xa, không cách nào đến gần được. Gã đành dựa vào gốc cây phía sau, đứng lặng giây lát, thầm nghĩ, chẳng biết cô ấy có thể liều chết tung người nhảy khỏi vòng vây như con hươu nọ, trở về thế giới của mình không?
Mà con hươu bị thương bỏ trốn vào trong núi ấy, cuối cùng có sống được hay không?