Trâm 3: Tình Lang Hờ

Chương 7: Trăng mờ bến nước


Đọc truyện Trâm 3: Tình Lang Hờ – Chương 7: Trăng mờ bến nước

Sau khi tiễn Chu Tử Tần đang bừng bừng hứng khởi vì vớ được vụ án lớn, Hoàng Tử Hà cũng đứng dậy cáo từ Lý Thư Bạch.

Nhưng vừa bước đến cửa, nhìn thấy khóm thục quỳ đung đưa trước mặt, tươi đẹp vô ngần dưới ánh trăng, mắt cô bỗng hoa lên, đứng ngây ra đó hồi lâu rồi sực nhớ đến một chuyện, lòng bỗng lạnh buốt đi, mặt cũng tái nhợt.

Cuối hạ, gió đêm đã bắt đầu lành lạnh. Lý Thư Bạch đứng phía sau, thấy thân hình cô run lên thì hỏi khẽ: “Sao vậy?”

Cô từ từ ngoái lại nhìn y, miệng há ra, nhưng không thốt nên lời.

Thấy mảnh sân trong quán thi thoảng lại có người đi qua đi lại, Lý Thư Bạch bèn nắm tay cô kéo vào trong, đóng cửa lại rồi hỏi: “Ngươi nghĩ gì thế?”

“Cha mẹ ta, còn cả anh trai… bà nội….” Môi cô run lên bần bật, không cất nổi lời.

Lý Thư Bạch hiểu ngay, ghé tai cô hỏi khẽ: “Ngươi nghi ngờ nhà mình cũng chết vì trẩm độc?”

Hoàng Tử Hà cắn mạnh môi dưới, ép mình bình tĩnh lại. Tay cô siết chặt mép bàn đến trắng bệch ra: “Vâng… Ta muốn xác nhận lại một lần…”

“Uống ngụm nước đi đã.” Lý Thư Bạch rót cho cô một chén trà, rồi đứng nhìn cô chằm chằm, “Ngươi muốn xác nhận lại thật sao?”

Hoàng Tử Hà ngước nhìn y, cặp mắt từ từ dâng lên một màn sương, dưới ánh đèn trông càng long lanh tựa thủy tinh, toát lên vẻ hoang mang bơ vơ khôn tả.

Cô cắn chặt môi rồi quả quyết gật đầu: “Vâng.”

Y chẳng nói thêm nửa lời, chỉ giơ tay ấn nhẹ lên vai cô rồi rảo bước rời quán  trọ, đi thẳng ra đầu ngõ.

Xa xa, dưới ánh trăng, Chu Tử Tần đang dắt Tiểu Hà nhảy chân sáo đi về phủ quận thú, trông điệu bộ như chỉ sợ người khác không biết mình vui.

Y liền gọi lớn: “Chu Tử Tần!”

Đêm khuya đường sá vắng hoe, nghe tiếng gọi, Chu Tử Tần vội kéo Tiểu Hà chạy ngược lại: “Vương huynh! Còn chuyện gì ư?”

Lý Thư Bạch buông một câu gọn lỏn: “Chúng ta ra ngoài một chuyến.”

Chu Tử Tần rạng rỡ hẳn lên: “Hay quá, gọi cả Sùng Cổ đi, để ta dắt hai vị đến hàng cá ngon nhất quận Thục! Rắc thêm ít tiêu là thơm nức…”

“Hắn không đi.”

Chu Tử Tần ồ lên, rồi hỏi: “Vậy chúng ta… đi đâu?”

“Quật mộ.”

Chu Tử Tần vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ: “Thích quá! Ta và Sùng Cổ ăn ý lắm! Chúng ta là hai đại cao thủ đào mồ quật mả, phối hợp nhịp nhàng hết ý đấy…”

“Nói nhỏ thôi…” Lý Thư Bạch lạnh lùng nhắc.

Chu Tử Tần vội bưng miệng lại.

Lý Thư Bạch lại nói: “Mấy hôm trước Sùng Cổ vất vả nhiều, hôm nay phải nghỉ ngơi.”

“Lúc gay cấn thế này Sùng Cổ lại ở nhà ngủ à… Đúng là chẳng có đạo đức nghề nghiệp gì cả.” Chu Tử Tần bĩu môi, rồi sực nhớ ra gì đó, vội hỏi: “Vương gia vừa mới đỡ, việc này… chi bằng để ta đi một mình là được, bảo đảm thập toàn thập mỹ, không sai sót một li!”

Lý Thư Bạch nhìn ra bóng đêm mịt mùng, đường sá phủ Thành Đô thảy đều lát đá xanh, trải bao dầu dãi đã bị mài đến nhẵn bóng, phản chiếu ánh trăng lành lạnh.

Y thong thả giải thích: “Đây có thể là chứng cứ có lợi đầu tiên của cô ấy, ta không đi không được.”

Chu Tử Tần ngạc nhiên: “Cô nào cơ ạ?”

Lý Thư Bạch không trả lời, chỉ hỏi: “Ngươi ra khỏi thành được không?”

“Không vấn đề, tuy ta mới tới không lâu, nhưng đã kịp kết bạn với tất cả binh sĩ canh cổng thành rồi, chỉ cần nói ra ngoài tra án ban đêm, bảo đảm họ sẽ mở cửa cho chúng ta.” Đoạn hắn ghé tai Lý Thư Bạch thì thào hỏi, “Đi quật mồ ở đâu cơ ạ?”

Lý Thư Bạch quay đầu nhìn ra ngọn núi phía ngoài thành, đáy mắt phản chiếu ánh trăng, vừa lạnh lùng, vừa tịch mịch.

Cuối cùng, y đáp: “Mộ cả nhà Hoàng sứ quân.”

Đi về phía Tây quận Thục, ngân hạnh mọc thành hàng dài dọc đường lên núi, mặt Nam là vô số mộ phần.

“Nghe nói phong thủy nơi này rất tốt, nên nhiều người khá giả đặt mộ ở đây. Sau khi Hoàng sứ quân qua đời, Hoàng Tử Hà bỏ trốn, dòng tộc họ Hoàng chẳng còn ai lo mai táng, cuối cùng mấy hương thân trong quận đành bỏ tiền chôn ông ấy ở đây.” Chu Tử Tần xách dụng cụ vừa lấy từ nhà, đi vòng quanh phần mộ không lấy gì làm to lớn, đọc chữ trên bia rồi buột miệng than: “Trên bia không có tên Hoàng Tử Hà.”

Lý Thư Bạch lạnh nhạt nhận xét: “Cuối cùng sẽ lại thêm vào thôi.”

“Chẳng biết cô ấy có tới thăm mộ người nhà hay không nữa.” Vừa nói, gã vừa săm soi các ngôi mộ xây đá xanh khum khum, tìm chỗ nứt để ra tay, “Thật ra, ta chỉ muốn ngày ngày nấp ở đây chờ sẵn, chắc chắn sẽ đợi được Hoàng Tử Hà lén lút đến viếng mộ, tới lúc đó ta sẽ lao ra bắt quả tang cô ấy, nói với cô ấy rằng, chúng ta phối hợp phá vụ huyết án của gia đình cô đi! Vương gia bảo, Hoàng Tử Hà có cảm động trước tấm lòng của ta mà ở lại bên cạnh, cùng ta phá giải tất cả những vụ án lạ lùng trong thiên hạ không…”

“Không đâu.” Lý Thư Bạch lạnh lùng cắt lời.

Chu Tử Tần mù tịt chuyện nhìn mặt đoán ý, vẫn hứng khởi nói tiếp: “Cũng phải. Thế nên cách hiện giờ của ta là hoàn toàn chính xác. Ta định phối hợp với Sùng Cổ phá vụ án nhà họ Hoàng, tới lúc đó Hoàng Tử Hà nhất định sẽ quay về Thục tìm ta tạ ơn, bấy giờ ta sẽ bảo cô ấy rằng…”

Chu Tử Tần cứ thao thao bất tuyệt như thể Hoàng Tử Hà đang đứng ngay trước mặt, còn khoát tay cười ha hả, đầy vẻ hào sảng: “Không cần đa lễ, đây là việc bản bổ đầu nên làm mà! Nếu cô muốn cảm tạ thì ở lại đây đi, chúng ta cùng chung tay phá án, tạo phúc cho dân chúng quận Thục, để tiếng thơm muôn đời!”

Lý Thư Bạch sốt ruột chuyển chủ đề: “Ngươi thấy nên bắt tay từ chỗ nào?”

Chu Tử Tần lại nghiên cứu hai ngôi mộ của Hoàng lão phu nhân và Hoàng Quân, rồi đáp: “Trong một đêm muốn quật cả 5 ngôi mộ thì khó quá. Theo ta thấy, mộ của Hoàng Quân em Hoàng sứ quân tuy cũng xây bằng đá xanh, nhưng nhỏ hơn nhiều. Hơn nữa các hương thân quận Thục chỉ tiện thể an táng cho ông ấy thôi, nên không làm kỹ càng. Chi bằng ta đào một cách ngách chếch phía sau mộ dẫn xuống, trước khi trời sáng chắc cũng kịp quật lên.”

Nói là làm, hai người chiếu theo hướng bia, đào một cái hố chếch xuống phía sau mộ. Dù sao cũng mới hạ táng chưa lâu, đất còn mềm xốp, chẳng mấy chốc đã đào đến mộ, sau khi nạy lớp đá bọc ngoài, một đầu quan tài ló ra.

“Đây hẳn là phần đầu áo quan, chỉ cần cắt ít tóc đem về là được.” Chu Tử Tần vừa cạy ván vừa liến thoắng: “Lần này chúng ta may đấy, lần trước ở Trường An ta cũng gặp một vụ, Đại Lý Tự yêu cầu quật mồ nghiệm thi. Nào ngờ nhà đó giàu quá, còn dùng lòng trắng trứng hòa với nước gạo nếp trộn vào đất đắp lên, sau bao ngày dầu dãi nắng mưa, lớp đất đã cứng lại như sắt, cả đám người của Đại Lý Tự đào suốt bốn năm ngày mới đục được một lỗ, kết quả kẽ đá lại được đổ nồng nung cháy, kín như bưng, giọt nước cũng không chui lọt, cuối cùng chúng ta phải bẩy tất cả lên mới xong…”

“Cha ngươi mắng ngươi một trận hả?”

Chu Tử Tần lè lưỡi: “Gia đúng là liệu sự như thần.”

Rạng sáng, Lý Thư Bạch về đến khách sạn, thấy phòng Hoàng Tử Hà vẫn leo lét ánh đèn. Y thoáng phân vân, thấy nhà bếp đã bắt đầu chuẩn bị đồ ăn sáng bèn bảo họ cho hai bát bánh canh, bưng đến gõ cửa phòng Hoàng Tử Hà.


Hoàng Tử Hà nghe tiếng liền mở cửa ngay, rõ ràng đã thức đợi tin suốt đêm, hai mắt đỏ ngầu.

Lý Thư Bạch đặt đồ ăn lên bàn, ra hiệu cho cô ăn trước đã.

Trời vừa tảng sáng, trong phòng chỉ có một ngọn nến lập lòe. Hoàng Tử Hà bưng bát bánh canh nóng hổi, im lặng nhìn y.

Lý Thư Bạch đăm đăm nhìn cô, cuối cùng lên tiếng: “Là trẩm độc, không sai.”

Hoàng Tử Hà đứng phắt dậy, suýt nữa hất đổ cả bát bánh canh. Lý Thư Bạch thản nhiên giơ tay giữ lấy bát, nhắc nhở: “Nghe ta nói đã.”

Hoàng Tử Hà cắn môi gật đầu, song người vẫn run lên bần bật. Cô gắng gượng day day huyệt thái dương, ép mình bình tĩnh lại.

“Mọi chuyện trên đời, nếu quá bận lòng lại hóa ra rối trí, tuy ngươi xưa nay bình tĩnh, nhưng chuyện liên quan đến người nhà, ắt sẽ rối loạn, nên ta không cho ngươi theo, vì sợ ngươi xúc động quá mức lại không hay.”

“Vâng… ta hiểu.” Cô miễn cưỡng đáp.

“Hiện giờ vụ án gia đình ngươi đã đột phá quan trọng, tin rằng ngày ngươi rửa sạch oan khiên chẳng còn xa nữa.” Nói đoạn, y đẩy bát bánh canh tới trước mặt cô, “Có điều bây giờ quan trọng nhất là ngươi phải chăm sóc bản thân thật tốt, nếu ăn không ngon ngủ không yên, suốt ngày lo buồn rầu rĩ thì làm sao lật lại bản án, rửa sạch mối oan?”

Cô lặng lẽ gật đầu, rồi bưng bát lên, thong thả ăn từng miếng đến hết, đoạn đặt bát xuống nhìn y.

Ánh bình minh đã ló ra phía cuối chân trời, lại là một sớm mùa hè nắng đẹp.

Lý Thư Bạch bảo cô: “Xét theo độc tính của trẩm độc thì người nhà ngươi, cũng giống như Phó Tân Nguyễn và Ôn Dương, đều trúng loại độc chế luyện lần hai. Bởi thế, kẻ hạ thủ không thể là ngươi.”

Cô gật đầu, nuốt nước mắt run rẩy đáp: “Vâng… Bao lâu nay, ta dốc lòng muốn tìm một điểm đột phá, nhưng truy tra thế nào cũng chỉ toàn những chứng cứ bất lợi. Mãi đến giờ mới tìm được chứng cứ quan trọng đầu tiên, có lẽ từ nay có thể gạt bỏ giả thiết ta là hung thủ rồi…”

“Đúng thế, đồng hoang ngàn dặm, cuối cùng cũng xuất hiện một cơ may.” Lý Thư Bạch uể oải đáp. Suốt đêm y cùng Chu Tử Tần đào mồ quật mả, bất chấp bản thân vốn ưa sạch sẽ, thậm chí còn cầm mớ tóc cắt từ tử thi. Tất nhiên trước khi cầm đã đeo găng tay Chu Tử Tần cung cấp.

Hoàng Tử Hà xúc động, quên cả cảm tạ y, chỉ mải hỏi dồn: “Thi thể cha mẹ ta… giờ sao rồi?”

“Vì triệu chứng và thức ăn của 5 người giống nhau, thời gian lại gấp gáp nên chúng ta chỉ cắt tóc của chú và anh trai ngươi đem kiểm nghiệm thôi, đều trúng trẩm độc. Ta nghĩ có lẽ nên để Tử Tần mượn vụ án Phó Tân Nguyễn loan tin ra, sau đó đường đường chính chính kiểm nghiệm lại thi thể cha mẹ ngươi, nếu xác định là trẩm độc, thì có thể rửa oan cho ngươi, đồng thời xóa bỏ bản án cũ, lập án mới điều tra lại.”

“Giờ… ta rối lắm, chẳng biết làm sao nữa…” Nói rồi, cô rút cây trâm trên đầu, chầm chậm vạch lên bàn.

Thoạt tiên, tay còn run, đường vạch cũng ngập ngừng chậm chạp, nhưng càng về sau, cô vạch càng nhanh, lấy trẩm độc làm cầu nối, suy đoán ra bao nhiêu giả thiết. Vừa vạch, cô vừa lẩm bẩm từng điểm nghi vấn:

“Thứ nhất, trẩm độc từ đâu mà ra, kẻ ra tay có liên quan gì với cung đình không? Có phải cùng một người ra tay không?”

“Thứ hai, đều cùng một loại chất độc, vụ án gia đình ta và Phó Tân Nguyễn có liên quan gì? Manh mối giao nhau ở đâu?”

“Thứ ba, hung thủ làm cách nào bỏ trẩm độc vào bát canh móng dê chính tay ta bưng lên?”

“Thứ tư, trẩm độc trong vụ Phó Tân Nguyễn và Ôn Dương từ đâu ra? Sao họ phải dùng thứ thuốc độc đó để tự vẫn?”

Lý Thư Bạch xem những nghi vấn cô vạch ra, trầm ngâm nói: “Trong số này, dễ tra nhất là điểm thứ ba và thứ tư. Giờ còn sớm, chúng ta nghỉ ngơi đã. Ta đã sai Tử Tần điều tra tất cả những kẻ trong phủ quận thú có khả năng động đến bát canh móng dê, chiều chúng ta tới ắt sẽ có kết quả.”

Phủ quận thú Xuyên Thục nằm giữa Thành Đô, tường bao cao ngất, choán hơn nửa con phố.

Từ cổng lớn đi vào, chính giữa là công đường nha môn, bên trái là nhà kho lớn nhất quận Thục, bên phải là chỗ ở của tam ban nha dịch, phía sau là khu nhà của quận thú, cạnh đó có một khu vườn nhỏ.

Hoàng Tử Hà nhắm mắt cũng có thể đi lại thoăn thoắt ở đây. Cả thời thiếu nữ tươi đẹp của cô đã bị chôn vùi vĩnh viễn tại nơi này cùng vụ thảm án ngày hôm ấy.

Cô cùng Lý Thư Bạch theo cửa ngách đi thẳng vào phòng của bổ khoái. Chu Tử Tần đang ngồi vắt chân ăn thông ngào đường, thấy họ đến bèn chia cho mỗi người một ít, rồi rút trong ngực áo ra một cuộn giấy: “Nào nào, chúng ta nghiên cứu cái này đi.”

Mới cuối giờ Ngọ đầu giờ Mùi, trong phòng bổ khoái ngoài họ ra chẳng có ai.

“Đêm qua ta và vương gia cắt lấy ít tóc, đắp lại phần mộ rồi tức tốc quay về chỗ ta kiểm nghiệm, xác định đúng là trẩm độc.” Chu Tử Tần dương dương tự đắc khoe, “Vương gia lập tức sai ta điều tra tất cả người trong phủ, hì hì, chuyện này giao cho đại bổ đầu vừa thân ái dễ gần vừa có danh phận như ta, há chẳng phải dễ như trở bàn tay ư?”

Nói đoạn, gã trải cuộn giấy ra, bên trên ghi chép rõ ràng đâu ra đấy, chữ Chu Tử Tần tuy cũng bình thường, nhưng được cái ngay ngắn, rất dễ đọc.

Đầu bếp thứ nhất, Lỗ Tùng Nương, cai quản đồ ăn thức uống trong bếp. Trong đêm xảy ra án mạng, đã đem canh móng dê cùng các món ăn thừa cất vào chạn khóa lại. Hiện trạng: Mấy hôm trước con trai bị ốm, phải vay hai quan tiền của A Bát canh cổng.

Đầu bếp thứ hai, Lưu Tứ Nương, cai quản việc bếp núc, bên dưới còn có hai nha đầu chuyên nhóm bếp. Vào ngày xảy ra án mạng, chỉ huy một nha đầu nhóm bếp làm cơm. Hiện trạng: Về cơ bản vẫn như xưa, mới có thêm một chiếc nhẫn bạc, đi khoe khắp nơi.

Đầu bếp thứ ba, Tiền Đại Nương…

Tạp dịch thứ nhất, thứ hai, thứ ba…

A hoàn thứ nhất, thứ hai, thứ ba, thứ tư…

Hoàng Tử Hà đọc mà phục Chu Tử Tần sát đất. Trên dưới phủ quận thú phải đến bốn mươi mấy người, vậy mà chỉ một buổi sáng gã đã hỏi han khắp lượt, hơn nữa còn hỏi rất kỹ, đúng là có thiên bẩm dò la, lợi hại hơn cả mấy bà tám ngoài đường.

“Mấy chuyện này… hằng ngày ta vẫn thường để ý nghe ngóng, cũng là rèn luyện khả năng điều tra, đúng không nào?” Chu Tử Tần nghiêm trang nói: “Ta tin rằng Hoàng Tử Hà cũng sẽ để ý kỹ những chuyện này.”

“Ta nghĩ là không đâu.” Khoé môi Hoàng Tử Hà hơi giật.

Lý Thư Bạch liếc mắt nhìn cô, tựa tiếu phi tiếu, đọc lướt qua bản ghi chép rồi ném xuống bàn, hỏi: “Ngươi điều tra cả một buổi sáng, không thấy ai khả nghi sao?”

Chu Tử Tần bấy giờ mới hơi lúng túng: “Đúng… đúng thế. Trẩm độc là thuốc độc chỉ lưu truyền trong cung, nếu có kẻ nào tuồn ra cho người trong phủ hạ độc thì hung thủ hoặc là đã bị giết, hoặc đã thăng tiến vùn vụt, được kẻ chủ mưu xem là tâm phúc rồi. Nhưng mọi người trong phủ không có thay đổi gì đáng kể, chứng tỏ không ai mượn việc này để lôi kéo quan hệ với quan trên cả.”

Hoàng Tử Hà gật đầu tán đồng: “Tử Tần phân tích rất đúng.”

Chu Tử Tần nghe vậy thì đắc ý hẳn: “Đã bảo ta có thiên bẩm rất cao mà, nếu ngày sau ta phối hợp với Hoàng Tử Hà thì cái danh thần thám đệ nhất kinh thành của Sùng Cổ e là khó giữ đấy hahaha…”

Hoàng Tử Hà và Lý Thư Bạch ngán ngẩm nhìn nhau, nhất trí lờ Chu thiếu bổ đầu đi.

“Thế nên, tiếp theo đây chúng ta phải bắt tay từ vụ Phó Tân Nguyễn và Ôn Dương thôi.”

Nhà Ôn Dương nằm ở ngõ Thạch Lựu phía Tây phủ Thành Đô, trong ngõ trồng rất nhiều thạch lựu. Giờ đang cuối hạ, hoa lựu đã tàn quá nửa, trên cành lúc lỉu những trái lựu to bằng nắm tay, đung đưa nhè nhẹ, nhìn rất thích mắt.

Nhà họ Ôn cũng khá giả, xây theo kiểu tứ hợp viện với ba dãy nhà bao quanh một mảnh sân, giữa sảnh chính treo một bức tranh vẽ cảnh nghe đàn bên suối, hai bên đặt đôi liễn: “Trúc vũ tùng phong cầm vận, trà yên ngô nguyệt thư thanh.” (Mưa qua bụi trúc, gió lùa rặng thông, tiếng đàn vi vút; khói trà bảng lảng, trăng treo ngô đồng, giọng đọc vang vang)


Quản gia nhà họ Ôn, một ông già râu tóc bạc phơ, mặt mày rầu rĩ ra đón họ, khom lưng hành lễ: “Tham kiến Chu bổ đầu.”

Chu Tử Tần vội đỡ ông ta dậy: “Lão nhân gia không cần đa lễ.”

Lão quản gia mời họ vào phòng khách ngồi, sai tiểu đồng pha trà rồi gọi tất cả đầu bếp và người hầu trong nhà ra gặp họ.

“Tổ tiên lão gia ta từng làm thứ sử Tịnh Châu, về sau từ quan về quê. Lão gia năm nay 37 tuổi, hơn 10 năm trước còn tha thiết công danh, tiếc rằng cứ thi trượt mãi, nên cũng nguội lòng. Sau khi lão thái gia, lão phu nhân và phu nhân qua đời, lão gia càng ít ra ngoài, chỉ đóng cửa ở trong nhà đọc sách Lão Trang, trồng hoa trong vườn, ít tiếp xúc với người ngoài.”

Chu Tử Tần gật đầu hỏi: “Vậy làm sao ông ấy quen được Phó Tân Nguyễn, chính là tình nhân cùng tự vẫn ấy?”

“Tổ tiên họ Ôn để lại sản nghiệp ở trong rừng, thu hoạch hằng năm cũng khá, sau khi phu nhân qua đời, lão gia không tục huyền, cũng không nạp thiếp. Xưa nay ông ấy thích nhất thơ Vương hữu thừa, nói rằng Vương hữu thừa cũng không tục huyền, sau này chọn trong hàng cháu chắt một đứa thông minh nhận làm con thừa tự là được.” Nói đến đây, quản gia hoang mang hỏi: “Bổ đầu có biết Vương hữu thừa là ai không?”

Chu Tử Tần đáp: “Chính là Vương Duy Vương Ma Cật.”

“Ồ ra thế.” Quản gia đáp, rõ ràng chẳng biết Vương Duy là ai, lại kể tiếp, “Lão gia không có người nâng khăn sửa túi nên thỉnh thoảng cũng đến giáo phường tìm vài cô nương, có điều xưa nay chưa từng đưa những cô gái phong trần đó về nhà, nên ta chẳng biết ai với ai cả.”

Chu Tử Tần hạ giọng thì thào: “Đã thích Vương Duy sao không học ông ấy đóng cửa ở ẩn cho rồi, còn qua lại những chỗ đường hoa ngõ liễu?”

Hoàng Tử Hà chẳng buồn đếm xỉa đến gã, quay sang hỏi lão quản gia: “Xin hỏi lão nhân gia, hôm ấy trước khi lão gia nhà các vị ra ngoài có căn dặn gì không?”

“Hôm ấy… hình như lão gia có hẹn, nói rằng phải đến phố Tùng Hoa, ta cũng không nhớ rõ lắm… Ôi, lão gia tuy có chút sản nghiệp nhưng hai năm nay thu nhập hơi kém, vốn dĩ bên cạnh vẫn có một thư đồng theo hầu, nhưng mấy năm trước cũng cho nghỉ rồi. Giờ trong nhà chỉ có 4 người là ta, một đầu bếp, một người hầu với thằng cháu ta thỉnh thoảng theo ra ngoài.” Đoạn lão trỏ tiểu đồng đang pha trà, thở dài kể: “Các vị bảo trong nhà không có bàn tay đàn bà sắp xếp, làm sao hưng vượng nổi? Mấy hôm trước có vài vị trong thi xã của lão gia tới viếng, một đại quan, hình như họ Tề thì phải, còn nấn ná trong thư phòng lão gia hồi lâu rồi than vãn, lão gia nhà các ngươi phải tìm một người phụ nữ lo liệu việc nhà từ lâu rồi mới phải.”

“Nói vậy là các vị không biết gì về chuyện của lão gia ở bên ngoài?”

“Lão gia xưa nay không nhắc đến, cũng không dẫn chúng ta theo… quả thật không ai biết gì cả.”

Thấy lão quản gia hoàn toàn mù tịt, đầu bếp, người hầu và tiểu đồng cũng lắc đầu quầy quậy, Chu Tử Tần đành dẫn Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà ra phía sau xem xét.

Phía sau nhà là thư phòng, cả khoảnh sân chỉ thấy bóng trúc hiu hiu, ngô đồng biêng biếc, tùng bách xanh um, non bộ lởm chởm, toát lên vẻ thanh cao cô ngạo.

Chu Tử Tần buột miệng: “Trông cảnh này ta lại thấy quen quen, giống nơi nào ấy nhỉ…”

Gã còn đang gãi đầu gãi tai nghĩ ngợi thì Lý Thư Bạch đứng cạnh nói ngay: “Ngạc vương phủ.”

“Đúng đúng, chính là ngôi đình Ngạc vương gia hay ngồi uống trà! Ý cảnh cố tình bày đặt này, đúng là sởn da gà!” Chu Tử Tần sờ sờ lớp gai ốc mới nổi trên tay rồi xăm xăm đi thẳng vào thư phòng xem xét.

Vừa bước qua cửa đã thấy đập vào mặt một giá đồ cổ, phải đi vòng qua mới thấy hai hàng giá sách và một án thư. Sau án thư đặt một bức bình phong, chép bài Sơn cư thu minh của Vương Duy, nét chữ như rồng bay phượng múa, lạc khoản đề: Tịnh Tế cư sĩ.

Mặt tường bên phải bình phong treo bức tranh vẽ một cánh bướm đậu trên đoá hồng tú cầu. Màu mực đã phai, hẳn là đồ cũ. Cả phòng chỉ có bức tranh này là diễm lệ, níu được ánh mắt Hoàng Tử Hà thêm một thoáng.

Trên bàn có mấy tờ giấy, được xếp lại đặt ở đầu bàn.

Chu Tử Tần cầm lên xem, thấy chữ đầu tiên ở tờ thứ nhất là “Đề”, mấy chữ sau đó là “nghĩ thế nào, Tu Đà Hoàn có ý”, thì ngơ ngác chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì, nhìn sang Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà. Hoàng Tử Hà đang nhíu mày, Lý Thư Bạch đã ứng khẩu đọc ngay: “Tu Bồ Đề nghĩ thế nào? Tu Đà Hoàn có ý nghĩ rằng ta tu được đạo quả Tu Đà Hoàn chăng?”

Hoàng Tử Hà hiểu ra ngay, liền đọc tiếp: “Tu Bồ Đề thưa, Không, bạch thế Tôn. Tại sao vậy? Vì Tu Đà Hoàn là hoà vào dòng nước, thế nhưng thật ra không có cái gì nhập vào đâu cả: không nhập sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, nên được mệnh danh là Tu Đà Hoàn. “

Chu Tử Tần đối chiếu những lời họ đọc với ghi chép trên giấy thấy giống y hệt, nhưng vẫn chưa hiểu đầu cua tai nheo: “Các vị đọc gì thế?”

Hoàng Tử Hà giải thích: “Là một đoạn trong kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật, xem ra Ôn Dương từng chép một đoạn kinh này. Có điều các trang giấy sắp xếp lộn xộn nên công tử đọc không hiểu đấy thôi.”

Chu Tử Tần ồ lên, đặt mấy tờ giấy xuống.

Hoàng Tử Hà nghĩ ngợi rồi bước đến sắp lại mấy trang giấy cho đúng thứ tự. Chợt cô ngạc nhiên kêu lên: “Đoạn đầu kinh văn đâu mất rồi?”

“Hả?” Chu Tử Tần đang săm soi giá sách quay sang nhìn cô: “Thứ này cũng có người lấy đi ư? Chữ Ôn Dương viết cũng xoàng thôi mà?”

“Ừm, nhưng câu vừa rồi công tử đọc chính là câu đầu tiên, theo bản chép tay này.” Sắp lại đống giấy xong, cô đặt xuống bàn, chèn một con sư tử mã não lên trên rồi lục tìm khắp trên giá lẫn trong ngăn kéo, nhưng không hề thấy mấy đoạn trước.

“Còn mấy phong thư đây này?” Cả bọn tìm được mấy phong thư cất trong hộp gấm, bèn mở ra xem, Chu Tử Tần lập tức kích động hẳn lên: “Là của Phó Tân Nguyễn gửi cho Ôn Dương!”

Ôn lang thấy chữ như người.

Mưa dầm nhiều ngày, nước ngập phố xá, không thể lặn lội. Nghĩ đến hoa quế trước sân, chỉ còn đôi ba phần, thương tiếc hương ấy nên gom lại, chưng nước quế hoa cho chàng.

Đất Thục nắng ít, mây nhiều. Hôm nay mở hộp phấn chàng tặng khi trước, hương thơm thoang thoảng, màu sắc tươi đẹp, chẳng khác bức tranh bướm vờn tú cầu trước án thư của chàng. Mong chàng mau đến thăm, chớ để hoài nhan sắc. Thiếp đã quét sẵn cửa đợi bóng chàng.

Tân Nguyễn kính thư.

Chu Tử Tần cảm thán: “Đúng là ân ái mặn nồng.”

Lại tiếp tục xem, ngoài mấy phong thư của Phó Tân Nguyễn, còn lại phần lớn là những chuyện qua lại thù tạc ở thị xã, chẳng có gì đặc biệt.

Chu Tử Tần nhận xét: “Xem ra nửa đầu bộ kinh Kim Cương mất thật rồi. Nói không chừng người hầu trong nhà lại tưởng là giấy vụn đem vứt đi. Cứ nhìn người trong nhà này, từ già đến trẻ, hình như đến chữ còn không biết, làm sao biết được cái gì có ích cái gì vô dụng chứ?”

Hoàng Tử Hà lắc đầu: “Chính vì không biết chữ, nên họ nhất định sẽ giữ gìn cẩn thận từng trang giấy có chữ, để khỏi vứt lầm, tránh bị chủ nhân mắng. Nhất là vị chủ nhân này hình như còn rất tự hào về thư pháp của mình.”

“Sao Sùng Cổ biết?” Thấy cô nói ra điều mình chưa nhận thấy, Chu Tử Tần có phần không phục.

“Nét chữ trên giấy và trên bình phong giống nhau đúng không? Tự viết bình phong tự thưởng thức, chẳng phải là rất tự hào về thư pháp của mình ư?”

“Nhưng lạc khoản trên bình phong là Tịnh Tế cư sĩ cơ mà?”

“Ôn là nhu, Dương là cương, Ôn Dương cảm thấy tên mình vừa nhu vừa cương, cương nhu phối hợp (nguyên văn: cương nhu tịnh tế), nên lấy hiệu này đó mà.”

“Thật không đấy?” Chu Tử Tần nửa tin nửa ngờ, đi ra sân, vẫy gã hầu đang dọn dẹp bên ngoài: “Này này, huynh qua đây chút!”


Người hầu vội chạy lại hỏi: “Bổ đầu có gì căn dặn?”

“Bức bình phong trong thư phòng do ai viết vậy?”

“Là bút tích của lão gia, viết hỏng hai mươi mấy cuốn lụa mới được một bức, có vẻ lão gia rất thích nên đã gọi người tới hồ rồi căng lên làm bình phong.”

Hoàng Tử Hà đứng phía sau hỏi: “Hằng ngày các ngươi dọn dẹp có vứt các trang giấy viết chữ đi không?”

“Thưa có, nhưng phải được lão gia cho phép. Mấy năm trước có lần tôi trót vứt lầm một bài thơ của lão gia, từ đó về sau muốn dọn dẹp thư phòng phải đợi khi lão gia có nhà, xem qua từng tờ rồi mới cho vứt hay giữ lại.”

Chu Tử Tần nhìn Hoàng Tử Hà đầy ngưỡng mộ, chỉ thiếu chưa viết lên mặt mấy chữ “chúng ta phối hợp đánh bại Hoàng Tử Hà đi” mà thôi.

Lý Thư Bạch quan sát khắp thư phòng một lượt, rồi hỏi gã hầu: “Bức tranh hồ điệp tú cầu kia treo lên từ khi nào thế?”

“Cái đó thì tôi không rõ… Lão gia có mấy bức hoạ, bức có non nước, bức có sông suối, mỗi khi cao hứng lại chọn một bức treo lên, bọn người hầu chúng tôi cũng khó biết tranh treo lên lúc nào.”

“Theo ngươi nhớ thì bức tranh này treo đã lâu chưa?”

“Ừm… hình như mới được mấy hôm thôi, tóm lại là chưa lâu, trước đây cũng chưa từng thấy.”

Đợi gã hầu đi khỏi, Chu Tử Tần nhìn quanh, nhận xét: “Xem ra không có gì khác thường, chúng ta có định điều tra thêm gì ở đây không?”

Hoàng Tử Hà trỏ về phía phố Tùng Hoa: “Đến hiện trường vụ án thử xem.”

Vừa ra khỏi cửa nhà họ Ôn, thoáng trông thấy người đứng ở đầu kia con ngõ, bước chân Hoàng Tử Hà chợt khựng lại.

Bóng người dong dỏng gầy gò ấy đang đứng dưới khóm trúc bên bờ sông.

Lá trúc lay lay, bóng hắn gầy gầy, càng tôn lên phong thái của nhau.

Hoàng Tử Hà đứng lặng nhìn hắn, còn Chu Tử Tần vẫy tay rối rít: “Ồ? Chẳng phải Vũ Tuyên Vũ học chính ư? Huynh còn nhớ ta không? Chúng ta từng gặp nhau ở kinh thành đấy!”

Vũ Tuyên gật đầu với hắn, ánh mắt nán lại nơi Hoàng Tử Hà một thoáng rồi quay sang hành lễ với Lý Thư Bạch, đoạn mới đáp lời Chu Tử Tần: “Ta có việc muốn tìm thiếu bổ đầu.”

“Huynh nói đi, cứ nói.” Chu Tử Tần nhảy chân sáo đi đến.

Hắn trỏ bình trà rỗng và giỏ trúc trên tay nói: “Sáng nay ta đến chùa Quảng Độ xin ít tịnh thuỷ để cúng tế Hoàng quận thú.”

Hoàng Tử Hà run bắn lên, vô thức siết chặt hai tay lại. Dây cương hằn lên lòng bàn tay thành một vệt tím tái, nhưng cô không nhận ra.

Thấy vậy, Lý Thư Bạch im lặng vỗ nhẹ lên vai cô. Hoàng Tử Hà sực tỉnh, từ từ buông lỏng dây cương, nhưng thân mình vẫn cứng đờ.

Chu Tử Tần chẳng hề nhận ra vẻ khác thường của họ, chỉ ồ một tiếng rồi hỏi: “Hôm nay là ngày giỗ chạp gì ư?”

Vũ Tuyên lắc đầu: “Không.” “Vậy thì…” Chu Tử Tần ngạc nhiên nhìn hắn.

“Hễ ở Thành Đô, ngày nào ta cũng tới quét mộ.” Ánh mắt hắn lướt qua Hoàng Tử Hà. Đôi mắt trong veo, còn trong hơn dòng nước chảy bên bờ, giọng nói khe khẽ, còn nhẹ hơn làn gió lao xao qua rặng trúc: “Tối qua ngẫu nhiên mơ thấy chuyện cũ, chạnh lòng tưởng nhớ nên mới đến xin Mộc Thiện đại sư ít tịnh thuỷ, mua thêm hương hoa tới cúng tế.”

Chu Tử Tần xưa nay thích hóng hớt những chuyện đồn đại kiểu này, liền hỏi ngay: “Tịnh thuỷ của Mộc Thiện đại sư có tiếng lắm à? Hình như rất nhiều người tới xin.”

Vũ Tuyên gật đầu: “Mộc Thiện đại sư đạo hạnh cao thâm, là cao tăng nổi danh nhất đất Thục. Gần đây ở Thành Đô đồn rằng sau thiền phòng của pháp sư có một mạch nước nhỏ, qua nhiều năm nghe ngài tụng kinh cảm hoá, chỉ trong một đêm đã cuồn cuộn tuôn trào, trở thành một con suối, ai cũng bảo là kỳ tích. Bởi thế mọi người đua nhau tới xin nước, nghe nói nếu nước lại được Mộc Thiện đại sư trì tụng nữa thì có thể trở thành tịnh thuỷ, khiến người sống lục căn thanh tịnh, cũng có thể giúp vong hồn siêu độ vãng sinh.”

Hoàng Tử Hà dắt ngựa, đứng bên rặng trúc, nghe hắn rủ rỉ kể, bất giác mơ màng nhớ lại khi xưa họ từng cùng lang thang khắp đường lớn ngõ nhỏ ở Thành Đô, mỗi cành cây cọng cỏ qua lời hắn kể đều có điển cố, sự tích, khiến người ta nghe mà mê mẩn.

Chu Tử Tần gật đầu: “Hôm sau ta cũng tới xin ngụm nước uống mới được.”

Vũ Tuyên gật đầu rồi khom người hành lễ với Chu Tử Tần: “Chu thiếu bổ đầu, hôm nay ta từ mộ cha nuôi về thẳng nha môn tìm bổ đầu, nghe người ở đó chỉ lại tìm đến tận đây, là vì có chuyện quan trọng phải trình báo.”

“Chuyện gì vậy?”

“Vừa rồi ta quét dọn phần mộ, phát hiện mộ em trai của Hoàng sứ quân và Hoàng công tử có dấu hiệu bị đào xới, may mà nấm và đá đắp phía trong vẫn nguyên vẹn, chỉ là vạt đất bên ngoài bị xới lên. Có khi nào có kẻ gian định quật mộ không?”

Chu Tử Tần đang tươi cười nghe thế thì đờ mặt ra, bất giác ngoái lại nhìn Hoàng Tử Hà, ngượng nghịu nhếch mép với cô.

Thật uổng cho hắn hằng ngày khoe khoang tay nghề đào mồ quật mả, không ngờ Vũ Tuyên chỉ thoáng nhìn đã nhận ra. Có điều hắn nghĩ chắc hẳn Vũ Tuyên không biết, những kẻ quật mộ đều đang đứng ngay trước mặt y, hơn nữa, một trong đó là Quỳ vương gia, kẻ còn lại chính là Chu thiếu bổ đầu mà hắn bẩm báo.

Vũ Tuyên đương nhiên không biết Chu thiếu bổ đầu vẻ mặt phức tạp trước mặt chính là thủ phạm, thong thả nói tiếp: “Ta nghĩ dân chúng Thành Đô đều biết Hoàng sứ quân liêm khiết thanh bần, trong mộ chủ yếu là thư tịch bút mực, sao lại bị đám trộm dòm ngó chứ?”

Chu Tử Tần hào sảng gật đầu: “Không sai! Vũ huynh nói đúng lắm! Ta nghĩ việc này ắt có nội tình!”

Hoàng Tử Hà chỉ biết cúi đầu nín lặng, nhìn chằm chằm cành trúc bên cạnh.

Lý Thư Bạch bèn vít cành trúc nọ xuống, săm soi gân lá, như thể trên đó viết lời vàng ý ngọc.

Chu Tử Tần lén liếc hai người, thấy cả hai trầm tĩnh thản nhiên, không mảy may sơ hở, cũng không buồn nói đỡ cho mình nửa câu, đành vặn lại Vũ Tuyên: “Vậy Vũ huynh cho rằng… sao chúng lại muốn quật mộ Hoàng quận thú?”

Vũ Tuyên lắc đầu: “Ta không rõ, nhưng chắc phải có nguyên nhân. Ví như muốn mượn chuyện này để gây bất lợi cho Chu quận thú mới nhậm chức, hoặc là, Chu thiếu bổ đầu cũng biết đấy, Hoàng Tử Hà là con gái Hoàng quận thú bỏ trốn đến giờ vẫn chưa rõ tung tích, biết đâu có kẻ làm vậy để dụ Hoàng Tử Hà xuất đầu lộ diện, hòng hãm hại cô ấy?”

Vừa nghe nhắc đến Hoàng Tử Hà, Chu Tử Tần ngạc nhiên hỏi ngay: “Không thể nào? Còn có thể có ý đồ này nữa sao?”

“Ta không biết… Có điều mong Chu thiếu bổ đầu để ý giùm xem có kẻ nào rắp tâm làm bậy hay không. Hoặc là…” Hắn nhìn sang Hoàng Tử Hà, hơi cao giọng: “Để Hoàng Tử Hà biết, có lẽ còn có thế lực nào đó mà cô ấy chưa thấy được đứng sau vụ này, đang chuẩn bị đối phó với cô ấy.”

“Ừm… Chúng ta sẽ chú ý, nha môn bảo đảm sẽ lưu tâm bảo vệ phần mộ Hoàng quận thú nguyên vẹn.” Vừa nói, Chu Tử Tần vừa nháy mắt với hai người kia, ra ý bảo: “Hai người xem, hắn nghĩ tới nghĩ lui, lại không ngờ do chính chúng ta gây ra, hahaha!”

Nhưng Hoàng Tử Hà phớt lờ thái độ đắc ý của y, cô đứng dưới rặng trúc, trước cơn gió hiu hiu, đắn đo một thoáng rồi ngẩng đầu nhìn thẳng vào Vũ Tuyên, ánh mắt trong suốt thản nhiên: “Đa tạ huynh đã có lòng nhắc nhở, cũng đa tạ huynh lo lắng cho sự an nguy của Hoàng Tử Hà. Song việc này… ta nghĩ không có thế lực nào đứng sau cả, không cần phải lo.”

Vũ Tuyên ngỡ ngàng nhìn cô.

Nhưng Hoàng Tử Hà ngoảnh mặt đi, né tránh ánh mắt hắn, nói tiếp: “Là chúng ta làm đấy.”

Vũ Tuyên kinh ngạc đến nỗi phải loạng choạng lùi lại mấy bước mới trụ vững. Khó khăn lắm, hắn mới thốt ra được mấy tiếng: “Các… các vị đã quật mồ cả nhà Hoàng quận thú ư?”

Hoàng Tử Hà gật đầu: “Phải. Chúng ta còn tìm thấy chứng cứ chứng minh Hoàng Tử Hà không phải hung thủ nữa.”

Vũ Tuyên trợn tròn mắt nhìn cô, lắp bắp hỏi lại: “Huynh… chính tay… quật mồ người nhà họ Hoàng?”

“Thật ra hôm đó Sùng Cổ ngã bệnh không đi, ta muốn khám nghiệm lại tử thi để lật lại vụ án, nên cùng… nên đi một mình.” Che giấu được cho Lý Thư Bạch, Chu Tử Tần đắc ý: “Ta làm gọn gàng đấy chứ? Quật mộ khám nghiệm xong, ta lại đắp lại như cũ đấy. Nếu không phải huynh ngày ngày đến quét tước, ta dám đảm bảo chỉ mấy hôm nữa, hoặc chỉ sau một cơn mưa, là không ai mảy may phát hiện được dấu vết.”

Vũ Tuyên chẳng buồn để ý đến những lời huênh hoang của y, rảo bước đi thẳng tới trước mặt Hoàng Tử Hà, nắm chặt vai cô nhìn chằm chằm vào mắt hỏi: “Kết quả khám nghiệm thế nào? Căn cứ vào đâu để chứng minh Hoàng Tử Hà không phải hung thủ? Nếu thế thì hung thủ là ai? Hắn ra tay như thế nào? Tại sao lại phải vu oan giá hoạ? Hắn giá hoạ bằng cách nào?”

Thấy đôi mắt vốn trong veo của hắn thoắt chốc đỏ vằn tia máu, gần như mất trí, cô thở dài đáp: “Huynh bình tĩnh đi, chúng ta vẫn chưa tìm ra hung thủ.”

“Nhưng… đã chứng minh được Hoàng Tử Hà vô tội rồi ư?” Hắn gặng lại lần nữa.


Hoàng Tử Hà im lặng nhìn Vũ Tuyên, từ từ gỡ tay hắn ra khỏi vai mình, không đáp.

Lý Thư Bạch chợt quay sang bảo Chu Tử Tần: “Vừa rồi ta quên mất không để ý bức tranh tú cầu hồ điệp của Ôn Dương có mấy đoá hoa.”

Chu Tử Tần vã mồ hôi: “Hả? Chuyện này cũng.. liên quan đến vụ án à?”

“Không, nhưng bản vương muốn đếm thử.” Nói rồi y quay người đi thẳng.

Chu Tử Tần đành nhăn nhó vẫy tay với Hoàng Tử Hà rồi chạy theo Lý Thư Bạch.

Thấy Lý Thư Bạch thoăn thoắt bước đi, Hoàng Tử Hà mới yên tâm quay lại, gật đầu với Vũ Tuyên: “Đúng, người nhà muội không phải trúng độc tỳ sương.”

“Không phải tỳ sương? Lẽ nào…” Dù đã đoán được, nhưng Vũ Tuyên vẫn không khỏi kinh ngạc, chỉ biết đứng sững ra, cơ mặt hơi giật, kinh hãi, hối hận, mừng rỡ và hoảng hốt đan vào nhau như một dòng nước xiết, khiến hắn gần như không đứng nổi, vô thức lùi liền hai bước, mãi tới khi lưng đụng phải khóm trúc, tìm được chỗ dựa, ngước mắt chăm chú nhìn Hoàng Tử Hà đầy vẻ hoang mang và đau đớn, run run hỏi: “Ta… ta sai rồi ư?”

Hoàng Tử Hà cũng nhìn hắn, bình thản đáp: “Phải. Tuy muội có mua tỳ sương, tuy huynh kể từng trông thấy muội cầm gói tỳ sương với vẻ mặt rất lạ, nhưng tất cả những chuyện đó đều không liên quan tới cái chết của người nhà muội. Vì họ không trúng độc tỳ sương.”

“Ta… trách oan muội rồi.” Hắn hoang mang lặp lại, cả người run lên.

“Phải. Hơn nữa huynh còn đem bức thư muội gửi trình lên như tội chứng, khiến tội trạng muội càng nặng thêm, khó mà rửa sạch.” Hoàng Tử Hà không hề né tránh ánh mắt Vũ Tuyên, trái lại còn nhìn thẳng vào hắn, giọng trầm thấp mà bình thản: “May mà bọn muội đã tìm ra sự thật không thể chối cãi, nhất định sẽ có một ngày muội rửa sạch tất cả oan khuất.”

Vũ Tuyên mở to mắt, chăm chú nhìn cô.

Lúc này đây, cô đứng ngay trước mặt hắn, đôi mắt trong veo, toàn thân toát lên sức sống mãnh liệt của mùa hạ. Ánh dương phủ lên mình khiến cô càng lộng lẫy chói loà, cơ hồ làm hắn loá mắt.

Hắn phải giơ tay lên che mắt, che cả bóng hình người con gái trước mặt, cũng giấu luôn bức màn mờ mịt vừa giăng ngang mắt, để cô không trông thấy vẻ hối hận và mất bình tĩnh.

Hắn nhớ lại nỗi hận hôm ấy, hận cô chỉ trong nháy mắt đã giết hại cả nhà mình. Mái nhà duy nhất, hơi ấm duy nhất hắn tìm được sau bao năm lênh đênh trôi dạt lại bị người mình yêu thương nhất chính tay phá nát. Trong đầu hắn, ngày cũng như đêm, chỉ đau đáu nhó hình ảnh cô cầm gói tỳ sương, vẻ mặt lạnh lùng đến quái dị, không cách nào xua tan được… Bao nhiêu yêu thương đều đã hoá thành vũng máu đen đặc nhấn chìm hắn, khiến hắn đờ đẫn cả người. Đến khi sực tỉnh, hắn đã thấy mình ở phủ tiết độ sứ, bức thư tình kia cũng đã được trình lên Phạm Ứng Tích.

Vũ Tuyên dựa lưng vào bụi trúc phía sau, thấy mồ hôi đầm đìa, số mệnh đã chia thế giới trước mắt hắn ra thành hai vùng ảo ảnh, khiến cả người hắn run bắn, ngực đau như bị dao cứa.

Một bên là cảnh tượng năm hắn 16 tuổi, khoảnh khắc trông thấy Hoàng Tử Hà chân trần lội xuống hồ sen, ánh mặt trời dường như cũng rực hồng, cả trời đất đều nhuốm một màu đỏ thắm như máu. Đó là lần đầu tiên họ gặp nhau, diễm lệ biết mấy, cũng ẩn giấu điềm không lành biết mấy.

Bên kia là cảnh tượng năm hắn 14 tuổi, mở mắt trông thấy ánh mặt trời len qua khe cửa cũ nát, bốn bề lặng phắc như tờ, yên ắng đén đáng sợ. Hắn từ giường ngồi dậy loạng choạng chạy ra ngoài, trông thấy trên vách tường loang lổ bong tróc, bóng mẹ hắn được ánh mặt trời đỏ gắt hắt lên, lủng lẳng trên xà nhà, hình như còn đung đưa nhè nhẹ.

Đời người vốn là vậy, gặp được một ai đó, vĩnh biệt một ai đó, hình như đều mang màu sắc giống nhau, cũng chẳng thể phân biệt được số phận ấy rốt cuộc là buồn hay vui, sắc đỏ trước mặt là vết máu, hay là ánh dương.

Giọng Hoàng Tử Hà văng vẳng bên tai hắn: “Muội đã điều tra toàn bộ những người ở trong phủ lúc ấy, nhưng chưa tìm được kẻ tình nghi. Bởi thế, giờ phải bắt tay vào vụ án giết người tại ngôi nhà ở phố Tùng Hoa trước.”

Vũ Tuyên gắng gượng hít thở, lồng ngực phập phồng dữ dội, cố ép mình bình tĩnh lại. Giọng hắn run run, nhưng vẫn cố nói thành lời: “Muội nói đã chứng minh được mình không phải hung thủ, bởi… mọi người không trúng độc tỳ sương ư?”

“Là trẩm độc, tình trạng lúc phát tác giống hệt tỳ sương, nên lão ngõ tác nổi tiếng nhất Thành Đô cũng lầm lẫn đến hai lần.” Hoàng Tử Hà gật đầu.

Hắn đăm đăm nhìn cô, thật lâu sau lại hỏi: “Trẩm độc đó từ đâu ra vậy? Bỏ vào bằng cách nào? Nếu là trẩm độc, sao muội không tăng liều lượng thêm một ít, há chẳng phải tác dụng nhanh hơn tỳ sương nhiều ư?”

Hoàng Tử Hà phản bác: “Muội lấy đâu ra trẩm độc? Loại độc này chỉ có trong cung, dân gian rất hiếm. Hơn nữa hung thủ cố ý dùng loại độc có biểu hiện phát tác giống hệt tỳ sương, ắt là muốn đổ tội cho muội.”

“Vậy… bức thư kia giải thích thế nào đây?” Giọng hắn, kể cả lúc run rẩy, vẫn có vài phần nghi hoặc, khiến cô nhận ra, hắn trước giờ vẫn chưa thật sự tin mình.

Hoàng Tử Hà thoáng ngẩn người, sực nhớ đến phong thư viết cho Vũ Tuyên lúc ở Long Châu, bèn đáp: “Bức thư đó… muội chỉ nói vậy thôi, huynh đa nghi rồi.”

“Thế sao…” Hắn nói, ánh mắt nhìn cô cuối cùng cũng dịu lại, “Có lẽ lúc trước ta đã sai khi khăng khăng cho rằng muội là hung thủ… Nếu có gì cần muội cứ tìm ta, ta cũng muốn chung tay cùng muội tra rõ cái chết của cha mẹ muội.”

“Ừm, trong vụ án tự vẫn ở phố Tùng Hoa có vài chuyện cần huynh giúp. Dù sao một trong hai người chết cũng là người quen của huynh.” Hoàng Tử Hà thở hắt ra, nói khẽ: “Vụ tự vẫn này có thể liên quan đến vụ án gia đình muội. Bởi… chất độc dùng trong hai vụ giống nhau.”

“Trẩm độc hiếm lắm à?”

“Phải.” Hoàng Tử Hà gật đầu.

Vũ Tuyên day day huyệt thái dương, đợi cơn choáng váng qua đi mới nói: “Ôn Dương cũng không qua lại nhiều với ta, nhưng trước đây từng tham gia cùng một thi xã, thỉnh thoảng có chạm mặt.”

“Huynh có biết chuyện y qua lại với Phó Tân Nguyễn không?”

Vũ Tuyên ngẩn người một thoáng, rồi như sực nhớ ra gì đó, vội hỏi: “Nghe nói… Ôn Dương tự vẫn cùng một ca kỹ?”

Hoàng Tử Hà gật đầu, lại hỏi: “Bình thường y là người thế nào?”

Vũ Tuyên cúi xuống né tránh ánh mắt cô, đáp khẽ: “Ôn Dương trước mặt mọi người thì trầm tính ít nói, nhưng đời tư… khá tai tiếng.”

“Tai tiếng thế nào?”

Vũ Tuyên ngập ngừng mãi, nhưng thấy cô hỏi riết không buông, đành đáp: “Y không đứng đắn, nên ta thường kính nhi viễn chi.”

Hoàng Tử Hà vỡ lẽ, hẳn là việc Ôn Dương lui tới những chốn đường hoa ngõ liễu bị người ta phát hiện, với cá tính của Vũ Tuyên, đương nhiên không muốn qua lại cùng y.

“Những người khác có biết việc y làm không?”

Vũ Tuyên lắc đầu: “Không nhiều. Bằng không người trong thi xã đó đa phần giữ mình trong sạch, sao chịu giao lưu với hạng người ấy?”

Hoàng Tử Hà gật đầu, rồi sực nhớ ra một chuyện: “Dạo này huynh thường tới chỗ Mộc Thiện đại sư ở chùa Quảng Độ ư?”

Vũ Tuyên gật đầu: “Việc đời lắm biến ảo vô thường. Gần đây ta hay xem kinh Phật, cảm thấy trời đất mênh mang mà bản thân chỉ như hạt cải, những khổ ải trên trần thế mà người ta phải chịu, chẳng qua chỉ là hạt bụi nhỏ nhoi trên hạt cải mà thôi. Có lúc nghĩ ngợi như thế cũng thấy nhẹ nhõm chốc lát.”

“Nhưng cũng chỉ là chốc lát thôi, đúng không? Chỉ có tra rõ chân tướng, đem tế trước hương hồn người thân, mới được yên lòng mãi mãi.”

Vũ Tuyên đăm đăm nhìn nét mặt quật cường của cô, đáp khẽ: “Đúng vậy. A Hà, nói cho cùng ta cũng chẳng thể thấu tỏ thông suốt như muội được.”

“Muội không thấu tỏ, cũng không thông suốt, muội không hứng thú với việc xuất thế.” Hoàng Tử Hà lắc đầu, “Sống trên đời, đau khổ cũng thế mà vui sướng cũng vậy, xưa nay muội chưa hề có ý định trốn tránh. Điều gì đến ắt sẽ đến, dù là tốt hay xấu, muội cũng phải đón nhận, ngày nào còn chưa tra rõ trắng đen, muội sẽ không buông tay.”

Vũ Tuyên lặng lẽ gật đầu. Hai người đứng dưới rặng trúc, nghe tiếng nước rì rào, không ai nói thêm lời nào nữa.

Ở đầu kia con ngõ, Lý Thư Bạch và Chu Tử Tần đã vòng về.

Lý Thư Bạch bình thản bảo cô: “Đi thôi.”

Chu Tử Tần thì hào hứng hỏi cô: “Sùng Cổ có biết cụm tú cầu trên bức hoạ kia có bao nhiêu hoa không?”

Hoàng Tử Hà chẳng buồn ngoái lại, lạnh nhạt đáp: “Rất nhiều.”

“Ôi dà, cứ xem thái độ của Sùng Cổ là biết nhất định không thể thành thần thám như Hoàng Tử Hà rồi! Hoàng Tử Hà sẽ nắm rõ từng li từng tí trên hiện trường như lòng bàn tay ấy, đâu có giống Sùng Cổ, thái độ chẳng ra sao cả…”

Vũ Tuyên hành lễ với họ rồi xách giỏ đồ lễ đi mất.

Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà vờ như không nghe thấy họ Chu nói, nhảy lên ngựa đi thẳng.

Họ Chu bĩu môi hậm hực lẩm bẩm: “Sùng Cổ đúng là nhỏ mọn! Không bằng Hoàng Tử Hà thì thôi, còn không chịu thừa nhận!”


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.