Đọc truyện Trái Tim Em Thuộc Về Đất – Chương 35
Martha gặp họ ở bậc cửa, vừa khóc, vừa nấc, vừa như hoá điên.
“Sao thế Martha!” Edward nhìn cô ta trong kinh ngạc. Thường thì chính những nhân vật phụ, không phải nhân vật chính, lại cất cao tiếng khóc than trong cảnh bi kịch, “Sao thế Martha, cô vừa mới mất người thân ư?”
Chàng biết rõ về mất mát đó.
“Tôi chẳng mất gì, thưa ông; ơn Chúa danh tiết tốt đẹp của tôi vẫn là của tôi, không bị mất đi như của một số người; nhưng tôi buộc phải báo nghỉ việc, thưa ông; không phải vì lỗi ở phía ông đâu, ông là một ông chủ tốt. Nhưng nhìn bà chủ ra đi…”
“Bà chủ?”
“Vâng. Người mẹ mà Chúa ban cho ông sẽ ra đi khi chuyến xe sắp tới chạy qua đây, và bà đã viết thư, đã chuẩn bị đâu đấy cả rồi. Và khi nào bà chủ đi, tôi cũng sẽ đi. Bởi vì tôi phải giữ mình là người đứng đắn, và tôi sẽ không phục vụ bất cứ người đàn bà lẳng lơ nào, cũng không sống trong một ngôi nhà đã chìm vào tội lỗi.”
Edward nhìn Martha dưới ánh sáng mới, bởi vì giờ đây chàng đã hiểu rõ mọi chuyện.
“Martha, đầu óc cô thật bẩn thỉu!” chàng nói bằng giọng mệt mỏi, lạ lùng. “Đầu óc của tất cả những người đứng đắn đều bẩn thỉu cả. Cô là người đàn bà tồi tệ!”
Martha kêu ré lên và chạy trốn khỏi ngôi nhà. Sau này cô nói với anh trai cô rằng ông chủ đã hoá điên, đã bị bỏ bùa mê. Cô không bao giờ đặt chân đến ngôi nhà đó nữa.
Edward tìm thấy mẹ chàng ở trong bếp.
“Mẹ, không phải mẹ sẽ đi khỏi nhà chứ?”
“Đúng đấy, Edward ạ, mẹ sẽ đi, trừ phi” – một tia hy vọng loé lên trong mắt bà – “trừ phi con tống khứ nó đi.”
“Mẹ, mẹ hãy để con giải thích. Chuyện hẳn là không giống như trong con mắt của thế gian đâu.”
“Nó là một người đàn bà mắc tội thông dâm. Còn con, Edward ạ, mẹ cứ nghĩ con là một người đàn ông tốt giống như bố của con! Thậm chí con không buồn giữ nhẽ thông thường là đợi cho tới khi đứa con của người đàn ông khác được sinh ra. Tại sao, người nông dân tầm thường nhất cũng còn biết làm thế nữa là!”
Nếu có khuôn mặt nào cùng lúc biểu lộ cả sự tuyệt vọng, sự đau đớn và nỗi kinh hoàng, thì đó là khuôn mặt của Edward lúc bấy giờ. Chàng nhìn mẹ mình hồi lâu cho tới khi bà nói:
“Đừng có nhìn mẹ như vậy, Edward! Con nhìn gì vậy?”
“Thế gian. Mẹ nghĩ về con như thế thật sao?”
“Làm sao mẹ có thể nghĩ khác được cơ chứ? Tại sao con nói từ ‘thế gian’ nghe lạ thế?”
“Thế gian!” chàng nhắc lại. “Một nơi đầy bùn đen và những sinh vật đẻ trứng. Không có tâm hồn, không có Chúa, không có sự khoan dung. Không có gì ngoài hơi thở hôi thối, thèm khát và những ý nghĩ độc ác.”
“Mẹ sẽ không nghe con nói theo kiểu đó. Mẹ sẽ ở trong phòng riêng cho tới khi mẹ đi.” Bà Marston đứng dậy, đi lên gác. Bà không cần vịn tay chàng. Mặc dầu hai ngày tiếp theo chàng phục dịch bà với sự ân cần vốn có, bà hầu như không nói chuyện, và giữa mẹ con họ có một sự ghẻ lạnh sâu sắc còn hơn cả cái chết. Ngày cũng như đêm bà cầu nguyện cho chàng, nhưng không phải là những lời cầu nguyện của một người có nhiều hy vọng.
Trong khi đó Hazel lo liệu công việc trong nhà. Nàng dồn hết lòng tôn thờ Edward vào công việc, dồn tất cả sự ân cần, dịu dàng của nàng vào đó. Và nàng, người mà trước đây hễ động vào thứ thực phẩm nào là y như rằng làm hỏng thứ ấy, giờ đây lại gần như trở thành người nấu nướng giỏi. Nàng tìm được một chiếc tạp dề của Martha và đem giặt sạch; nàng đọc những công thức làm món ăn của bà Marston cho tới khi đầu nàng đau nhức; nàng đi bộ vượt qua Núi Nhỏ Của Chúa để mua đồ ăn ngon. Khi nàng hỏi tiền Edward đưa cho nàng chùm chìa khoá tủ của chàng. Bốn lần một ngày những bữa ăn ngon miệng được mang lên phòng bà Marston, để rồi lại được mang xuống mà hầu như không được đụng tới. Hazel ăn chỗ thức ăn đó, bởi vì nhu cầu của người đang mang thai, và vì nàng không muốn lãng phí tiền của Edward. Bốn lần một ngày những món ăn ưa thích của Edward được đem vào phòng khách và được đặt cạnh lò sưởi rực lửa. Ngay khi Hazel quay trở vào bếp, Edward ném những đồ ăn ấy vào lửa.
Chính tay Hazel đã chuẩn bị những gói bọc hành lý của bà Marston trong khi bà già đó ngủ, và nhóm lửa trong lò sưởi ở phòng bà vào lúc nửa đêm.
Sau đó, đóng cửa phòng mình lại, nàng ném mình lên giường trong cơn nức nở khi nghĩ chuyện giữa họ sẽ như thế nào nếu nàng có câu trả lời khác để đưa ra khi Edward nói “đêm nay là đêm tân hôn của tôi”.
Nàng biết rằng không kể những lời nàng đã nói thì chẳng có gì có thể tạo chút ấn tượng với Edward; nàng biết rằng chàng không nghe nàng nói. Nàng mừng khi biết điều này. Cảm giác sợ hãi nhất thời đã tan biến trong nàng. Tất cả những điều chàng nói và làm đều đúng đắn. Toàn bộ tình yêu của nàng bây giờ là của chàng. Chàng đã lấp đầy chỗ của nhu cầu tự nhiên, niềm hạnh phúc và những thú vui thơ trẻ. Nàng không được sinh ra cho tình yêu của loài người. Nhưng khi đã trải nghiệm nỗi đau, nàng yêu mãnh liệt hơn cả những người được sinh ra cho tình yêu của loài người.
Tất cả những bản năng ngọt ngào của tình yêu và việc làm vợ; cái đẹp của cảm xúc nồng nàn; niềm kiêu hãnh của sự đầu hàng; tính quên mình làm nên bản ngã; tiếng kêu của tinh thần từ cái tháp cẩm thạch đẹp đẽ vọng tới thể xác trong nơi ẩn náu, và câu trả lời đầy nuối tiếc của xác thịt đối với tinh thần – tất cả những điều ấy giờ đây thuộc về nàng. Và khi nàng nằm đó khóc thổn thức nhớ lại đã bao lần Edward đứng ở ngưỡng cửa phòng nàng, tuy lịch sự nhưng vội vàng, đóng cửa phòng lại, nàng hiểu rằng Edward có nghĩa như thế nào đối với nàng, và chàng vĩ đại ra sao. Sau đó nàng trở dậy, đứng bên cửa sổ, để mặc những con gió thu mơn mởn, và ngước nhìn lên những vì sao sáng trong đêm như những con mắt sắc lạnh.
“Nếu có ai ở đó,” nàng nói, “thì xin hãy để thời gian trôi thật nhanh cho tới khi đứa trẻ ra đời, và để Ed’ard có được đêm tân hôn của chàng như chàng đã nói, và được thấy những đứa con của chàng chạy tung tăng trên đồi.”
Và, nhìn quanh phòng tìm những dấu hiệu tình yêu của chàng, nàng bỗng cảm thấy không tài nào chịu đựng nổi cái nhìn trân trân ngây thơ của đám cúc hoạ mi và mao lương vàng trên tường, và nàng giấu mặt vào hai bàn tay, thẹn thùng trước hạnh phúc vô ngần có thể sẽ đến. Rồi nàng ngủ và mơ rằng thêm một lần nữa Edward lại đứng ở ngưỡng cửa, hôn nàng rồi quay gót đi về phía căn phòng riêng lạnh lẽo của chàng; nhưng nàng – nàng đã nhóm lửa ấm trong lò sưởi; và căn phòng ngập đầy hoa, hoa anh thảo màu đỏ trắng, hoa tử định hương; và chiếc đồng hồ treo tường đổ chuông – tiếng chuông huyền diệu khiến người ta say đắm; và những tấm khăn trải giường sạch sẽ như tấm khăn của những ngày xưa cũ. Nàng quên đi sự e thẹn của mình; nàng quên đi cảm giác sợ hãi trước những lời chê trách của chàng; nàng cầm tay chàng. Chàng quay lại. Và trước vẻ đẹp diệu kỳ của khuôn mặt chàng, nàng choàng tỉnh, run rẩy và hạnh phúc.
Bà Marston ra đi mà không chào từ biệt Hazel. Edward mang hành lý của bà ra chỗ đợi xe và giúp bà lên xe. Chàng đứng đó nhìn xe chạy tới lối rẽ, bà Marston ngồi im, như bà đã ngồi trong cái buổi sáng tháng Năm rực rỡ ấy, trang nghiêm trong chiếc mũ được trang trí bằng những hạt huyền. Khuôn mặt và thái độ của bà cho thấy niềm tin sâu sắc không được nói ra rằng Chúa bây giờ “không còn như trước nữa”.
Rồi Edward quay gót, đi về nhà, tê liệt, thiếu sinh khí, không hy vọng.
Một Hazel mới đón chàng ở ngưỡng cửa, không còn sợ sệt, khẩn nài, lúng túng, mà nghiêm trang và dịu dàng như người mẹ. Nàng dẫn chàng vào nhà. Trà đã được đặt lên bàn với sự sùng kính của lễ ban thánh thể.
“Cởi tất ra nào!” Hazel ra lệnh.
Trước sự gợi nhớ đến mẹ chàng và trước tình yêu chu đáo của nàng, chàng sụp xuống, gục đầu vào lòng nàng khóc nức nở.
“Rồi anh sẽ thấy!” nàng thì thầm. “Ed’ard ạ, khi nào mẹ nguôi giận, bà sẽ trở về thôi.”
“Cơn tức giận của người tốt chẳng bao giờ nguôi đâu, Hazel ạ.”
“Em sẽ viết cho bà một bức thư, Ed’ard ạ, và em sẽ nói rằng em là một đứa con gái xấu xa, và bà sẽ dạy em sống sao cho tốt hơn. Bà sẽ trở về giống như Cáo Nhỏ tìm đến với những cục xương, Ed’ard ạ.”
Sự an ủi len lén đi vào trái tim của Edward.
“Edward yêu thương, em sẽ gửi đứa trẻ trả ông ta, và có lẽ sau đó…” Nàng lung túng rồi rơi vào im lặng.
“Gì cơ, Hazel?”
“Ed’ard ạ, có lẽ sau đó… ít lâu sau đó…” Nàng bắt đầu khóc và lấy tay bưng mặt. “Ôi, Edward thân yêu, tại sao anh lại không thấy,” nàng thì thầm, “là em thực sự yêu anh?”
Edward nhìn vào mắt nàng, và chàng đã thấy điều đó. Thật lạ lùng như một câu chuyện cổ tích bị lãng quên, chàng cảm thấy niềm hy vọng mong manh về viễn cảnh của niềm vui. Và song hành với nó là niềm tin vào vẻ đẹp và tấm lòng sắt son tột bậc của nàng, một niềm tin bị vùi dập và yếu ớt nhưng vẫn sống sót. Chàng không biết niềm tin đó cụ thể là gì. Chàng chỉ biết đó là niềm tin. Chàng không biết làm thế nào mà nàng, người bị tất cả mọi người chửi rủa, lại trong trắng và sáng ngời trở lại trong mắt chàng, trong khi thế giới đầm mình trong bùn nhơ. Nhưng quả đúng là như vậy.
“Nghe này, Ed’ard!” nàng nói. “Em sẽ làm mẹ của anh cho tới khi mẹ anh quay về. Và một ngày nào đó, khi anh tốt đến mức có thể tha thứ cho em, có lẽ em sẽ không làm mẹ của anh nữa, mà sẽ là… bất cứ gì anh muốn em trở thành. Và có thể sẽ có một đêm tân hôn dành cho anh, anh yêu ạ, và những đứa con của anh sẽ chạy nhảy vui đùa.”
“Đúng, có lẽ thế. Nhưng chúng ta đừng nói tới những chuyện đó vội, nó còn xa xôi lắm. Nói những chuyện đó bây giờ nghe khó chịu lắm.”
Nàng cảm thấy đau lòng, nhưng nàng chỉ nói một cách dịu dàng:
“Không xa xôi lắm đâu, linh hồn của em! Ngay lúc này đây em đang làm mẹ của anh đó!”
“Đó là những gì anh muốn,” chàng nói và thiếp đi trong khi nàng vuốt ve mái đầu mệt mỏi của chàng.
Sự yên bình được lập lại trong nhà thờ và trong ngôi nhà của mục sư, và ở đó còn có cả niềm hạnh phúc thầm lặng. Tiết hè lại đã quay trở lại trong một khoảng thời gian ngắn ngủi. Những con ong sống trong thế giới hoang dã lại say sưa với những bông hoa nở muộn, nhưng chúng tận hưởng thú vui của mình với vẻ buồn bã; bởi hoa kia đã lạt màu và bị nước mưa làm trôi phấn, hương thơm và mật ngọt biến mất.
“Ôi! Ước gì em có thể mang tất cả những con ong kia vào nhà trước khi sương giá kéo tới, và nuôi chúng suốt mùa đông,” Hazel nói. “Nhưng chúng đã có những quãng thời gian vui vẻ. Không quá tệ nếu con người ta chết đi sau khi đã được hưởng những quãng thời gian vui vẻ, hạnh phúc. Ed’ard ạ, em muốn chết trước khi em già, em muốn có những quãng thời gian hạnh phúc với anh trước khi em chết.”
“Thế nào là những quãng thời gian hạnh phúc?”
“Đi dạo vào một buổi sáng tháng Năm, em và anh – có lẽ dắt cả Cáo Nhỏ theo cùng nữa – đi tìm tổ chim, để cho mạng nhện quẩn quanh giày, trồng anh thảo có hoa trắng đỏ và cả hoa tử đinh hương nữa trong vườn của em, rồi em nấu bữa sáng còn anh nướng bánh mì và trong khi đợi bánh chín anh đọc sách cho em nghe, và có lẽ chúng ta sẽ cùng cười vui vẻ. Rồi anh đi đọc Kinh cho người ốm, còn em đợi ở bên ngoài, mãn nguyện như một bà hoàng, và lắng nghe giọng anh vọng ra qua cửa sổ. Chúng ta sẽ đi hái hoa tử đinh hương vào những buổi chiều tối và đi hái nấm vào mùa xuân. Những ngày đó sẽ tới đúng không Edward? Chỉ cần biết những ngày đó sẽ tới là em chẳng phiền gì cả.”
“Phải, có lẽ những ngày đó sẽ tới,” chàng nói, thoáng mỉm cười trước những hi vọng đơn sơ của nàng, và thậm chí chính bản thân chàng đã bắt đầu nhìn thấy viễn cảnh của tương lai dành cho họ.
Hai ngày trôi qua trong yên ổn, bởi vì không ai đến gần họ, và trong khi ở một mình với nhau họ có được sự bình yên. Không kể những lúc Hazel đi mua thực phẩm, họ không đi đâu xa hơn khu vườn của mình. Edward không ra ngoài cùng nàng; chàng cảm thấy bối rối khi phải gặp gỡ bất cứ ai.
Vào các buổi tối, bên lò sưởi phòng khách, Edward đọc sách cho nàng nghe. Tuy nhiên chàng không đọc những lời cầu nguyện, và nàng cứ thầm băn khoăn về sự thay đổi này. Nàng cảm thấy rõ sự bình yên trong những buổi tối như thế, với Cáo Nhỏ nằm dưới chân nàng trên tấm thảm trải trước lò sưởi. Không ai trong hai người bọn họ nhìn lại phía sau hay nhìn lên phía trước mà chỉ sống với hiện tại được bao bọc trong thiên đường có tháp canh với sự phòng thủ chẳng bao lâu sẽ sụp đổ.
Vào buổi sáng thứ ba Reddin mò đến. Lúc đó Hazel đã ra ngoài mua thực phẩm và trên đường trở về nàng nấn ná chốc lát ngắm những con chim nhạn bay thành đàn cả trăm con quanh những vách núi ở mỏ đá. Ức chúng ngời lên trong không trung. Chúng không để ý đến nàng, say sưa trong niềm vui, chao liệng không ngừng quanh những vách đá trắng nhẵn thín, được nhân lên bởi những cái bóng màu xanh của chúng. Chúng làm tổ trên những khe nứt trên vách đá, giống như những nùi bông được giắt trong bãi cỏ, và ở đó chúng tắm nắng, kêu chíp chíp. Có hàng trăm con chim nhạn, và những cái bỏng của chúng nhân chồng lên nhiều đến nỗi chúng dường như không giống những con chim mà giống một giấc mơ về một thiên đường chim. Chúng thật nhanh nhẹn, thật ấm áp với những cái ức có vệt đỏ, thân mình có ánh xanh: chúng dệt thành những mỏ bình quanh co không biết mệt mỏi, giống như những suốt chỉ dệt nên thứ đăng ten vô hình, đến mức chúng trì hoãn được cả mùa đông. Chúng an ủi Hazel một cách khôn tả. Tuy nhiên, rất có thể chỉ ngày mai thôi, chúng sẽ biến mất, thậm chí không còn một bóng chim nào. Hazel ước gì nàng có thể bắt chúng khi chúng bay qua, những cái ức lấp lánh đó sẽ chạm xuống mặt cỏ. Nàng biết rằng chúng là những con chim liệng, “những con chim có đuôi chia nhánh và có lửa trên mình”. Nếu sự thiêng liêng tương xứng với sức sống và niềm vui, thì Hazel và bầy chim nhạn hẳn phải là những vị thánh đáng nhớ.
Trong khi nàng đi vắng Reddin đến gõ cửa nhà mục sư, và Edward ra mở cửa. Có cái gì đó toát lên từ vẻ mặt của Edward khiến Reddin nói thật nhanh. Gã đã thắng trong cuộc đối đầu giữa họ bằng cơ bắp, Edward đã thắng bằng sự tuyệt vọng toát lên từ con người chàng.
“Cậu Marston, tôi cảm thấy rằng tôi buộc phải đến đây. Tình hình cho thấy, việc tôi nên làm là cưới cô ấy – nếu cậu ly dị cô ấy.”
Gã nhìn Edward bằng ánh mắt dò hỏi, nhưng Edward chỉ nhìn đăm đăm ra xa xăm với vẻ mặt lạnh lùng thể hiện sự kinh tởm tột cùng, nỗi mất mát vô vọng, và cảm giác chán ghét tất thảy mọi thứ. Reddin tiếp tục nói:
“Chỗ của cô ấy là ở bên tôi. Bây giờ tôi có trách nhiệm chăm sóc cô ấy bởi vì cô ấy đang mang thai đứa con của tôi.”
Gã không thể không đặt sự cường dương bên cạnh sự thiếu sinh lực đàn ông. Ngoài ra, nếu hắn có thể làm cho Marston nổi giận thì có lẽ họ sẽ lại đánh nhau lần nữa, và thà đánh nhau còn hơn là phải chịu đựng sự im lặng khó chịu này.
“Dĩ nhiên tôi sẽ thanh toán mọi chi phí ăn ở cho những ngày qua của cô ấy; tôi luôn sẵn lòng chi trả cho sự vui vẻ của mình.”
Ánh mắt của Edward biểu lộ sự căm hờn, nhưng chàng không nói gì.
“Tất nhiên, ở vị trí của mình cô ấy không thể mong đợi ai trong chúng ta chăm lo cho cô ấy” (Edward nắm tay thành quả đấm), “nhưng tôi muốn cư xử cho phải lẽ. Tôi chưa bao giờ đối xử khắc nghiệt với một người đàn bà đang ở trong tình trạng đó; một số người đàn ông thì vẫn làm thế đấy; nhưng tôi có trí nhớ, và tôi biết ơn vì những đặc ân mà tôi nhận được.”
Không hiểu tại sao gã lại bộc lộ cái xấu xa tồi tệ nhất của gã trước Edward, cũng có thể sự im lặng tuyệt đối luôn tác động đến thần kinh, và sự căng thẳng khiến người ta bộc lộ ra con người thật của mình.
“Hãy nghĩ kĩ đi,” gã kết luận. “Hôm nay hình như cậu định sẽ đi giảng đạo. Thứ Bảy này tôi sẽ quay lại – chúng ta sẽ gặp nhau ở trong rừng. Khi nào đến tôi sẽ gọi cậu và từ giờ đến lúc đó cậu có thể quyết định. Hiện tại tôi không quan tâm cô ấy có đến hay không. Sau này, nếu tôi không thể sống mà không có cô ấy, thì chắc chắn tôi sẽ lại thuyết phục được cô ấy đến với tôi. Nhưng nếu cậu tuyên bố ly dị cô ấy, tôi sẽ đến đưa cô ấy đi ngay lập tức, và cưới cô ấy ngay khi hai người ly dị xong. Khỉ thật, cậu Marston? Cậu không mở miệng ra nói được à? Liệu tôi có thể nói một cách thẳng thắn hơn, giữa đàn ông với nhau được không?”
Edward nhìn gã, và đó là một cái nhìn khiến mặt và tai gã đỏ bừng lên.
“Ông không phải là con người,” Edward nói, với sự dửng dưng tuyệt đối. “Ông chẳng là gì cả, chỉ là một bộ máy sinh dục mà thôi.”
Chàng đi vào nhà và đóng cửa lại.
Edward không nói gì với Hazel về việc Reddin đến. Khi nàng về nhà bản thân chàng đã quên đi chuyện đó: nó lẫn vào mớ hỗn độn của cuộc sống, đó là toàn bộ cuộc sống, ngoại trừ cuộc sống của Hazel. Sự tàn bạo, dâm dục, tàn nhẫn – những thứ đó khắc họa thế giới của người tốt và người xấu. Chàng thích những người xấu hơn: mắt họ ít đáng sợ hơn, ít vẻ lấp lánh của loài rắn hơn và nhiều sự đểu cáng của loài khỉ hơn.
Chàng không co rúm người lại trước Reddin như chàng đã co rúm người lại trước mẹ của chàng.
Hazel chạy qua những ngôi mộ đến với chàng. Nàng có một cái hộp nhỏ được gói một cách đặc biệt, và bằng tình yêu nàng đã viết chữ lên đó một cách khó nhọc. Đó là một hộp thuốc lá. Nàng quyết định rằng chàng cần phải hút thuốc, bởi vì thuốc lá sẽ xoa dịu chàng.
Tối hôm đó họ ngồi bên lò sưởi, tay trong tay, và nàng kể cho chàng nghe về bác Prowde của nàng, về lần đầu tiên nàng biết Reddin, và về chuyện gã đã đe dọa sẽ nói cho chàng biết cái lần đầu tiên nàng đến Udern như thế nào. Nàng kinh ngạc trước vẻ rạng ngời của chàng.
“Tại sao trước đây em không nói cho anh biết chuyện đó, em yêu? Nếu em kể cho anh biết trước thì mọi chuyện đã thay đổi rồi. Trước hết, việc em đi đến đó không phải là sự lựa chọn của em. Hắn ta đã cài bẫy em.”
“Thế giới này dường như chẳng là gì ngoài là một cái bẫy, Edard ạ.”
“Đúng thế. Nhưng anh sẽ dành trọn đời mình để lo cho em được an toàn, Hazel bé nhỏ ạ. Anh hy vọng rằng em sẽ không buồn khi phải rời khỏi Núi Nhỏ?”
“Rời khỏi Núi Nhỏ ư?”
“Đúng. Anh phải từ bỏ vị trí mục sư.”
“Tại sao?”
“Bởi vì bây giờ anh biết rằng, Jesus không phải là Chúa, mà chỉ là một trái tim dũng cảm đầy yêu thương bị săn đuổi cho đến chết mà thôi.”
“Đó là lý do tại sao anh không đi cầu nguyện cho mọi người nữa ư?”
“Đúng. Anh không thể kiếm tiền bằng cách nói dối.”
“Nếu không làm mục sư nữa thì anh sẽ làm gì, Edard?”
“Đập đá… hoặc làm bất cứ việc gì.”
Hazel vỗ tay.
“Em cũng có thể kiếm một chiếc búa nhỏ và đi đập đá.”
“Một ngày nào đó. Chúng ta sẽ chỉ có những bữa ăn đạm bạc và một ngôi nhà đơn sơ thôi, Hazel ạ.”
“Cuộc sống ấy giống như thiên đường!”
“Chúng ta sẽ ở bên nhau, em ạ.”
“Tại sao mắt anh lại ướt, Edard?”
“Vì cảm giác ngọt ngào khi anh biết được rằng em đến với hắn không phải do em muốn.”
“Tại sao anh lại run rẩy?”
“Vì sức mạnh đen tối của đồng loại chống lại chúng ta.”
“Bây giờ em không sợ bọn họ nữa, Edard ạ. Có lẽ mọi chuyện rồi sẽ ổn thôi, và anh sẽ có tất cả những gì anh muốn có.”
“Anh chỉ muốn có em thôi.”
“Em cũng chỉ muốn có anh thôi.”
Đêm đó cả hai người đều có những giấc mơ đẹp.
Ngoài trời, trong sương giá những vì sao trở nên hung dữ. Thế giới trở nên khắc nghiệt. Trong không khí im lìm và u buồn, dưới ánh trăng xanh nhợt nhạt, nhà thờ và ngôi nhà của mục sư toát lên vẻ hư ảo, như thể chúng được xây dựng bằng những chất liệu đang dần tiêu biến, và như thể chúng đứng ở nơi nào đó bên ngoài vụ trụ trên một bờ biển hoang tàn, lạnh lẽo.
Ở bên ngoài, những người chết đã ngủ, ngủ riêng từng người, không mơ. Ở trong nhà, hai người yêu nhau đã ngủ, ngủ riêng từng người, nhưng mơ về một ngày kia đêm sẽ đưa người này đến với người kia.
Khi trăng lặn, bóng của những ngôi mộ đổ dài, bò, trườn trông thật kinh dị như thể chúng sẽ thống trị thế giới.
Nửa đêm Cáo Nhỏ thức dậy, sủa và rên ư ử trong nỗi kinh hoàng không thể xoa dịu.