Trái Tim Em Thuộc Về Đất

Chương 33


Đọc truyện Trái Tim Em Thuộc Về Đất – Chương 33

Đó là một đêm giông tố dữ dội. Undern rung chuyển và rên rỉ; những ống khói tắt lửa gầm lên, còn những cánh cửa dẫn vào hành lang không có người đi lại thì đập thình thịch liên tục khiến ngôi nhà như thể có người ở khắp các phòng. Cứ như thể những người đã từng sống trong ngôi nhà này đã quay trở lại, và trong vẻ đứng đắn buồn rầu của cái chết vĩnh hằng, họ không để ý tới những hồn ma tạm thời của cuộc sống. Hazel luôn sợ nơi này, và nàng cứ ngồi thức chong chong cho tới khi Reddin muốn đi ngủ, để nàng không phải đi trong những hành lang dài một mình. Nhưng đêm nay nàng cũng sợ Reddin – không chỉ là hơi sợ như nàng thường cảm thấy, mà là nỗi sợ hãi choán ngợp không lý giải nổi.

Tất cả mọi thứ trở nên hỗn loạn trong đầu nàng, giống như những âm thanh trong gió; khuôn mặt của Reddin, méo mó vì giận dữ, khi gã hầm hầm tiến đến chỗ Sally với cánh tay giơ lên; tiếng khóc thét của đứa trẻ; tiếng những con ong của nàng cháy trong lửa – nổ như hạt táo. Một cảnh tượng của tuần trước hiện lên trong đầu nàng – cứ như thể nó đã xảy ra từ nhiều năm trước. Hôm ấy họ đi tới một cánh đồng đang vào vụ gặt sau một ngày nắng nóng bị ám ảnh bởi tiếng cắt lúa. Trên cánh đồng chỉ còn một khoảnh lúa mì màu vàng cam nho nhỏ; phần còn lại nằm phơi ra trong tình trạng bừa bãi tan hoang. Hai con ngựa to lớn đứng ở một góc cánh đồng, phơi những tấm lưng đen nhánh trong nắng. Những người đàn ông làm công việc bó lúa đứng rải rác, vài người đàn bà và mấy đứa trẻ bước trên những gốc rạ lởm chởm, mấy con chó nằm trong bóng râm. Tất cả dường như đang chờ đợi. Quả thật họ đang đợi Reddin, người luôn xuất hiện trước sự kết thúc đầy kịch tính của một cánh đồng lúa. Hazel biết vở kịch gì sắp được diễn; biết những cây gậy chỉ huy có mấu được dùng để làm gì; biết những con vật nào núp mình trong đám lúa mì mọc cao, run sợ, không hề hay biết rằng trốn thoát là điều không thể.

“Nhiều thỏ lắm, thưa ông!” một người đàn ông có khuôn mặt dữ tợn hơn cả mặt con chó lai của ông ta nói to.

Hazel biết rằng trong khoảnh lúa mì nhỏ ấy đầy thỏ, những con thỏ nằm yên như chết, những con thỏ, với sự ngốc nghếch như là định mệnh, bị hút vào đây từ những chỗ khác của cánh đồng khi những người gặt lúa xuất hiện ở khắp nơi.

“Jack,” nàng nói, “tôi không bao giờ đòi hỏi một món quà.”

“Đúng vậy. Em không muốn nhận những chiếc vòng đeo tay, cô gái ngốc nghếch ạ.”

“Bây giờ tôi muốn một món quà.”

“Vậy ư?”

“Đúng! Nếu ông tặng tôi món quà đó, Jack ạ, thì tôi sẽ làm điều ông muốn. Ông muốn điều gì nhất trên đời này?”

Gã suy nghĩ. Gã cảm thấy rất sảng khoái, gần như tràn đầy sức sống.

“Lại đến Rừng Của Thợ Săn – lên cái chỗ mà chúng ta trở nên ủ ê ấy.”

Hazel chưa bao giờ muốn nghĩ đến buổi tối hôm đó, cũng không muốn thấy Rừng Của Thợ Săn nữa. Sau đó, có nhiều lúc trong căn phòng màu xám nàng cảm thấy kinh sợ như cái hôm ấy. Nhưng để gợi lại một nỗi ghê gớm đến rùng mình trong tâm trí nàng thì không gì bằng việc nhắc đến cái đêm Chủ nhật đó.


Đám thợ gặt lại di chuyển. Chỉ lát nữa thôi những con thỏ sẽ bắt đầu chạy lồng lên.

“Tôi sẽ làm bất cứ việc gì và đi bất cứ đâu nếu ông làm điều này theo mong muốn của tôi, Jack ạ.”

“Điều gì?”

“Bảo họ hoãn công việc lại! Hãy để tới sáng mai hãy gặt nốt. Hãy để cho lũ thỏ chạy trốn trong đêm và để chúng sống lâu hơn đi!”

“Vớ vẩn!”

“Hãy bảo họ đi chỗ khác đi, Jack! Ông có thể làm điều đó mà. Ông là ông chủ kia mà!”

“Không.”

Nàng khóc. “Vậy thì tôi sẽ rời bỏ ông.”

“Không. Em phải ở lại. Em sẽ phải chữa trị cái bệnh ngờ nghệch của em đi và học cách tỏ ra biết điều.”

Trong khi nàng vùng vẫy để thoát ra khỏi nắm tay của gã, hai con thỏ nhảy dựng lên, và thế là chuyện kinh hồn xảy ra. Người ta sẽ không nghĩ rằng buổi chiều yên ả đó, dưới vòm trời đang cúi rạp xuống, dưới những tán cây yên tĩnh và thấu suốt, giữa những sắc màu mãn nguyện và trang nghiêm, lại có thể chịu đựng được sự ghê tởm đó. Đám đàn bà trẻ con thét lên những tiếng kinh hoàng, còn Hazel thì đứng một mình – đại diện duy nhất của Thượng đế trong một thế giới tàn nhẫn. Hoặc phải chăng thế giới là đại diện của Thượng đế, còn nàng thuộc một thế giới khác, một tiếng nói bất tán thành bị buộc phải câm lặng?

Những cảnh tượng như thế, những cảnh tượng được nhân lên vô vàn, khiến trí óc của một con người đặt ra câu hỏi đó.

Một con thỏ chạy vụt ra khỏi vạt lúa mì để tới gần chỗ họ đứng, và Reddin vội buông tay nàng ra giơ gật quật nó. Ánh mắt của con thỏ, đôi mắt trắng mở trừng trừng khi nó chạy trốn qua chỗ nàng với tốc độ điên cuồng, và hình ảnh con thỏ co giật, tỉnh lại sau cú đánh, giờ đây lại hiện lên trong tâm trí nàng; rồi cú đánh tiếp theo giáng xuống – Nàng chạy trốn khỏi cái nơi đáng sợ đó.


Nàng nghĩ lại những gì Sally đã nói, và cảm giác phẫn nộ âm ỉ ăn sâu trong nàng bởi những gì gã đã làm với nàng – sự hành hạ mà theo Sally nói là do gã đã cố ý bắt nàng phải chịu.

Giờ đây khi nàng biết rõ gã hơn, những hành động tàn nhẫn diễn ra hằng ngày của gã khiến nàng đau khổ. Nàng sẽ đi. Nàng không muốn ở đây. Sally đã nói như vậy. Nàng đã nhận được thư của bác nàng, của mục sư của Reddin, của cô gái lớn nhà Clomber. Trong tất cả những bức thư đó nàng được người ta nói đến như một kẻ có tội khi đến sống tại Undern. Ôi, nàng không muốn sống ở Undern. Nàng sẽ đi.

“Hazel, cô bé, có chuyện gì vậy?” Reddin hỏi, rời mắt khỏi những cuốn sổ kế toán. “Sao em không mạng tất hay làm dây buộc tóc?”

“Có nhiều chuyện đấy.”

“Lại đây, tôi sẽ xem xem liệu tôi có thể giải quyết được chúng không nào.”

“Nghe đi!” bỗng nhiên nàng nói. “Có tiếng gì như tiếng của đàn chó săn ma đang gào lên trong gió.”

“Nếu ai mà nghe thấy em nói thế người ta sẽ tưởng đầu óc em có vấn đề, Hazel ạ. Đến đây nào, đến đây nói xem em có chuyện gì nào.”

“Chính ông đã gây ra chuyện.”

“Hừm, em cứ việc hờn dỗi bao lâu tùy thích.”

Bực tức, gã quay trở lại với đống sổ sách của mình. Ở trong bếp, Vessons đang hát bài “Ba người thợ săn vui vẻ”.

Vài phút sau Hazel đứng dậy đi thắp nến. Khi nàng bước ra cửa trong chiếc váy may bằng vải muslin mỏng tang, nàng trông giống như bóng ma của một người đàn bà đau khổ đã khuất.


“Em đi đâu thế?” Reddin hỏi.

“Tôi đi ngủ.”

“Nhưng tôi chưa muốn ngủ.”

“Tôi sẽ đi ngủ một mình.”

“Được, cứ hờn dỗi đi! Hờn dỗi cũng chẳng làm tổn thương tôi được đâu!”

Nhưng nó đã làm gã tổn thương. Gã muốn nàng thích gã, bám dính lấy gã. Khi mà cuối cùng gã cũng đi lên gác, gã nghĩ nàng đã ngủ. Nàng nằm im trên chiếc giường lớn, không phản ứng gì.

Chỉ lát sau Reddin đã ngáy khò khò bởi công việc tính toán sổ sách khiến gã mệt óc. Đáng lẽ gã để việc đó cho Vessons, nhưng Vessons luôn phải dùng que tính để làm các phép tính, và bất cứ phép tính nào liên quan đến những đồng bảng được thực hiện theo kiểu lao động chân tay như thế đều gây trở ngại cho các công việc khác của lão. Việc tính toán sổ sách cho hội chợ pho mát thường ngốn mất nhiều thời gian. Có thể nghe rõ tiếng lão đếm oang oang, “một cộng một cộng một…” cho đến khi chuỗi đếm đó kết thúc bằng câu, “Chết tiệt thật! Tất cả là bao nhiêu nhỉ?”

Vậy nên Reddin tự tính toán lấy rồi ngủ giấc ngủ của một người lao động trí óc.

Hazel nằm trong màn nhìn ra căn phòng tối đầy những tiếng kẽo kẹt và màn đêm tối hơn rít róng tiếng gió gào. Trời càng về khuya nàng càng cảm thấy sợ Reddin và Undern hơn.

Sự xuất hiện của Reddin đã xé nát những thứ mà nàng yêu mến – những thứ mỏng manh như lá cây – cứ như thể chúng là tấm giấy lụa và gã đã bước chân lên. Khi gã ở bên nàng những niềm vui của nàng dường như chẳng còn có ý nghĩa gì, và trước tiếng cười ầm ĩ của gã những ngày huyền diệu của nàng sợ hãi lùi xa. Tất cả những gì nàng biết là, bây giờ nàng sống ở Undern, nàng không bao giờ còn có thể đi dạo vào buổi bình minh xanh tươi hoặc về nhà với vòng hoa păng xê và hoa mõm chó ở trên đầu nữa.

Reddin đã áp đặt lên nàng một sự thay đổi sâu sắc hơn cả sự thay đổi từ một thiếu nữ thành một người vợ. Gã đã cướp đi của nàng một thứ mỏng manh hơn, hiếm hoi hơn cả sự trinh bạch – tình yêu thiêng liêng của Tự Nhiên. Chỉ có sự giao phối công bằng nhất, cao thượng nhất, trọn vẹn nhất mới không cướp đi linh hồn của tình yêu này, ngay cả khi nó là một niềm vui xưa cũ đã được chứng minh. Gã đã đối xử bất công với nàng ở mức tồi tệ nhất mà một con người có thể cư xử với một con người. Hành động đánh cắp của gã tàn bạo như hành động của một kẻ phá hủy Chúa của một con người. Và điều lạ lùng là, chừng nào gã còn sống, gã sẽ không bao giờ nhận thức được rằng gã đã làm như vậy, thậm chí không thể nhận ra thứ quý giá trong con người nàng. Khi về già gã có thể sẽ ăn năn về những tội lỗi thuộc về thể xác. Tuy nhiên tội lỗi về thể xác không nghiêm trọng bằng tội lỗi về tinh thần. Thực ra, nếu gã có thể giành được tình yêu của nàng, thì những gì gã đã làm không phải là hành động tội lỗi mà là việc làm chính đáng.

Trong sự tiến hóa của cuộc sống, việc một người phụ nữ thôi không làm trinh nữ để trở thành một người mẹ là điều rất tự nhiên và hoàn toàn dễ hiểu, điều này hầu như không cần phải bàn cãi; nhưng việc cái phần bất diệt của nàng bị đánh cắp, việc nàng thôi không còn là một phần của sự tồn tại trong một thế giới nơi nhân cách là thứ hiếm hoi và đáng quý duy nhất – thì lại là một bi kịch.

Reddin không thể kìm hãm được sự cường dương quá mức của mình, cũng không thể bỏ được cái bản năng tự nhiên thiếu nhạy cảm cho phép gã tận hưởng lạc thú của tình dục mà không cần quan tâm đến tâm hồn; có lẽ gã không thể ngăn mình là loại người bổ sung cho lực lượng những kẻ theo chủ nghĩa đế quốc, những kẻ phản động, những kẻ thực dụng điên cuồng nhất. (Gã luôn nói về lũ Tàu khựa ngu dốt, những tầng lớp thấp kém, những kẻ ngoại bang đáng tởm, những kẻ cuồng tín và những người can đảm ngốc nghếch, ấy là những kẻ chẳng bao giờ bộc lộ lòng nhân từ.) Dường như gã không thể ngăn nổi cái thói không nhìn thấy gì ngoài tầm nhìn hạn hẹp của mình.

Nhưng thật đáng tiếc là gã chẳng bao giờ cố thay đổi dù chỉ chút ít. Thật đáng tiếc là sau nhiều thế kỷ, sau nhiều cuộc giao phối và sinh nở, tổ tiên của gã lại sản sinh ra Reddin, một con người giống y như họ.


Mưa táp vào cửa sổ và gió gào rú trong đám cây du. Những cái cây quanh hồ Undern cúi gập mình về phía trước, lắc lư như những người thợ gặt. Hazel biết rằng đêm nay dông tố ở Núi Nhỏ còn dữ dội hơn. Nhưng Núi Nhỏ lại ngời lên những sắc màu của thiên đường – khu vườn nhỏ của nàng ; đồ đan của nàng; những ngày Chủ nhật yên ả; những lời cầu nguyện ban đêm; trên hết, sự có mặt của Edward trong ánh hào quang mà không tai họa nào có thể đến gần – bởi tất cả những điều mà nàng khao khát.

Tất cả những thứ ấy đối với nàng không phải là nhà như thế giới hoanh dã, mà là thiên đường. Những thứ ấy không phải là niềm vui sướng mê ly mà là sự yên bình.

Trong cảm giác ghê sợ Reddin và trong nỗi khiếp sợ Undern, nàng đã quên đi tất cả trừ ý thức về sự che chở mà Edward dành cho nàng. Nàng đã quên sự chỉ trích kiểu hạ nhục ngấm ngầm của bà Marston và kiểu đứng đắn lạnh lùng của Martha. Nàng đã quên rằng nàng đã mang tội với Núi Nhỏ đến mức cuộc sống trước đây không bao giờ có thể quay trở lại với nàng được nữa.

Nàng nhớ cái đêm nàng cưới – những bông anh thảo đỏ xen trắng cùng những bông tử đinh hương; mùi thơm dịu nhẹ, ngọt ngào của chăn đệm mới, cái mùi khiến nàng cảm thấy mình trở nên mộ đạo; tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ treo tường; tiếng bước chân lệt xệt của bà Marston; Cáo Nhỏ, thỏ con, con chim két và con mèo một mắt.

Nàng khẽ đánh diêm và rón rén bước tới chiếc tủ có ngăn kéo cao được đóng bằng gỗ gụ. Nàng sờ sẩm lấy ra bức thư của Edward từ bên dưới đám quần áo. Nàng đọc thư rất chậm, bởi vì nàng, như Abel nói, không phải là người sáng dạ. Edward muốn có nàng, rõ ràng là thế. Niềm an ủi tràn ngập từ vài dòng thư ngắn ngủi của chàng.

Những quy tắc đạo đức không có chỗ trong tâm trí của nàng.

Nàng không được sinh ra cho những tiện nghi hay bổn phận của đời sống xã hội, và mặc dù nàng được giáo dục phải tính đến tác động của những hành động của mình đối với đồng loại – trong nàng không có – hoặc từ trước đến giờ không có – cái ý thức ấy. Loài người không ưa nàng.

Vòng luân hồi của sự sinh ra, giao phối, chết đi, thật dễ hiểu đối với hầu hết những người đàn bà, lại chẳng là gì đối với nàng. Tự do, sống như cây cỏ, niềm thích thú của việc phát hiện ra bụi dương xỉ, những đám rêu, sự vắng mặt của cái đói hoặc cảm giác đau đớn, sự có mặt của Cáo Nhỏ và những con vật khác được cứu giúp bởi lòng trắc ẩn dồi dào của nàng – tất cả những thứ đó là thực tại quan trọng đối với nàng. Hơn hầu hết mọi người, nàng sợ chết và sợ bất cứ kiểu bạo lực hay đau đớn nào xảy ra với nàng và những con vật bé bỏng của nàng. Ý niệm về Chúa Trời luôn mơ hồ, nhưng giờ đây nó đã trở nên rõ nét, giờ đây Chúa Trời giống như Edward, cao siêu vô hạn.

Đọc xong bức thư đó, nàng đi ra cửa sổ. Bình minh bị hành hạ đã rón rén hiện ra trên bầu trời. Những đám mây đen khổng lồ trông giống như những cái đe, nằm ngổn ngang nơi chân trời, và rồi, sau đó, vùng trời phía Đông hửng lên như một xưởng rèn. Gió không dịu đi mà mạnh lên thành một loạt những cơn gió giật, mỗi cơn là một trận bão tuyết. Hazel không sợ gió, cũng không sợ cánh rừng đang gào thét. Gió luôn là bạn của nàng. Bình nguyên rộng lớn trải ra phía trước những ô cửa sổ được khâm liệm trong mưa – không phải mưa rơi mà mưa quất mạnh. Hàng liễu, mới hồi chiều còn duyên dáng khoe sắc thu vàng, giờ đã trơ trụi như những tù binh của một kẻ chinh phạt tàn ác. Không trung đầy những cánh lá bị gió cuốn thành các vòng xoáy sôi sục như trong một vạc dầu. Từ khắp các cánh đồng và bụi rậm, từ những vùng đất rộng lẻ loi trên dải đồi phía sau nhà, từ vườn cây cảnh cho tới vườn cây ăn quả, đâu đâu cũng vang lên tiếng rền rĩ của vạn vật bị đánh bại.

Một cây du ở gần hồ đổ xuống đánh rầm ngay trước mắt nàng. Reddin trở mình trong giấc ngủ và lẩm bẩm điều gì đó. Nàng đợi, cứng người vì căng thẳng, cho tới khi gã im lặng trở lại.

Nàng có thể nghe thấy tiếng sủa bâng quơ của con chó săn đang hoảng sợ trước những tiếng động của cây cối. Nàng vội mặc váy áo vào, rón rén lần xuống thang gác và ra khỏi nhà bằng lối cửa sau, bỏ lại ngôi nhà với những ô cửa sổ chong chong, với sự im ắng cổ xưa không hề yên bình, và những màn mưa xám xịt khép lại sau lưng nàng.

Đi trên lối nhỏ giữa hai hàng cây nàng tránh được chút mưa, nhưng khi đi tới cánh rừng dẫn đến Núi Nhỏ nàng thấy gió đốn cây đổ như đốn ngô. Những cây thông rụng lá nằm đó, cây nọ chồng lên cây kia, như trong trò chơi nhặt gỗ. Vài cây dựa vào những cây khác còn đứng vững, và trên ngọn của những cây thông còn sót lại ấy vang lên tiếng gầm nghe như tiếng sóng thủy triều vỗ vào bờ đá. Những tiếng răng rắc, và rên rỉ, tiếng đổ rầm bất ngờ, tiếng nổ vang rền như tiếng súng, vây lấy nàng trong lúc nàng leo lên đồi – một con người bé nhỏ giữa quang cảnh hỗn loạn.

Khi nàng tới nghĩa địa, sự tàn phá cũng hiện hữu ở đó. Mấy cây thánh giá đổ gãy, vỡ tan thành nhiều mảnh; cây kim nước chi chít những quả xám nằm sõng xoài, và khi đổ xuống nó đã kéo theo cả nửa ngôi mộ, để giờ đây ngôi mộ đó há hoác ra, cứ như thể người được chôn dưới mộ đá đội mồ sống lại. Một bia mộ bị đổ xuống giữa lối đi, và dòng chữ “Trong niềm hy vọng sâu sắc vào sự phục sinh” đã bị xóa mờ một nửa.

Hazel rón rén đi tới cổng nhà nguyện để trú mưa trong tình trạng kiệt sức. Nàng thiếp đi, để rồi sau đó bị đánh thức bởi tiếng chuông báo giờ dùng điểm tâm. Nàng lê bước tới cửa trước và gõ cửa.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.