Đọc truyện Trái Tim Em Thuộc Về Đất – Chương 26
Ấp Undern đang ở trong tâm trạng tháng Sáu của nó. Hoa cẩm chướng nổi bật trên những hàng rào phân định ranh giới, và những bụi hồng bạch vươn cao cánh tay của mình lên phía trên cánh cổng. Tất cả tỏa ra mùi hương rất đậm, rất gần, làm ngạt các giác quan. Đám cây đứng trầm tư suy nghĩ; ngôi nhà cũng trầm tư; ngọn đồi ở trên cao, chìm trong sự mặc tưởng; những con dơi bay vật vờ. Trang ấp này giống như một nơi bị bỏ bùa được dựng lên trong một giờ hoặc một niên kỷ hoặc một chốc một lát trong thế giới của loài yêu tinh đầy bùa phép và ma thuật cổ xưa, có thể đổ sập trước một tiếng nói, nhưng không gì có thể làm nó đổ sập trừ tiếng nói đó. Mùi hương nồng nực của những cái cây và khu vườn hòa trộn với mùi phân ngựa, phân lợn, cám lợn và mùi thuốc lá Tom Moody của Vessons. Nó làm cho Hazel muốn ngất – một cảm giác lạ lùng đối với nàng.
Vessons đứng trơ trơ nhìn họ như lão đã nhìn trong cái đêm Hazel đến đó lần đầu. “Ông,” cuối cùng lão lên tiếng, vô vàn những nếp nhăn hằn sâu từ lỗ mũi đến miệng lão – “Ông mục sư đâu?” Không nhận được câu trả lời nào ngoài cái quắc mắt từ ông chủ, lão lùi lũi dắt ngựa đi. Reddin, với vẻ lịch sự vụng về, nói, “Tôi sẽ dẫn em đi xem nhà.”
Họ đi qua những căn phòng đầy tiếng vọng, và nhìn ra ngoài một ô cửa sổ thấp lè tè đầy mạng nhện, nơi đám lá thường xuân non tơ mượt mà đầy sức sống đã len lỏi tiến vào các khe nứt. Họ đứng dưới trần nhà nhem nhuốc khói lò sưởi và những chiếc đèn dầu được thắp từ vô số những năm xa xưa cho các cuộc chè chén say sưa diễn ra từ đời nảo đời nào. Trong mấy cái tủ được khép hờ bởi một bàn tay vội vã nào đó thấp thoáng những chiếc váy còn lấm bẩn do hoa hoặc rượu vang gây ra trong những nếp gấp bạc màu. Cánh cửa phát ra tiếng cót két và những tiếng thở dài sau lưng họ, sàn nhà rên rỉ, và ở mọi xó xỉnh của ngôi nhà đều vang vọng tiếng rên của gió mặc dù không khí mùa hè rất êm dịu và tĩnh lặng. Cứ như thể mọi cơn dông đều tập trung đến đây, thổi quanh nhà, cứ như thể mọi nỗi kinh hoàng đã từng được cảm nhận ở đây, những giọt nước mắt đã rơi ở đây, đều lẩn lút ở đây như những linh hồn bị lãng quên trong những nơi sâu kín nhất của căn nhà và giờ đây đang than vãn không ngừng. Một tâm hồn cô đơn trong đêm dông bão có thể nghe thấy những giọng nói kỳ lạ cất lên – tiếng khóc nức nở của trẻ con; bài ca của những người khách dự tiệc; tiếng kêu rên của những người phụ nữ đau đẻ; tiếng hò reo chiến thắng của những chàng trai trẻ; tiếng cầu nguyện dãi dề, ngâm nga; tiếng nấc của người hấp hối.
Và khi Reddin cùng Hazel – chắc chắn cuộc gặp gỡ của tất cả những đôi trai gái đã sở hữu và bị sở hữu bởi ngôi nhà này – đi qua những căn phòng tối, họ dường như không đơn độc. Cảm giác có người đang nhìn mình, một cảm giác khó chịu khi bị theo dõi, làm Hazel sợ. Một tiếng động vang lên nghe như tiếng của cả một đám đông đang bò theo bước chân họ dọc các hành lang.
“Nhà có ma phải không?” nàng thì thào. “Tôi thà ngủ đưới tán cây xanh còn hơn. Ở cái nơi tối tăm này tôi thấy rợn người.”
“Người ta đồn ngôi nhà này bị ma ám, nhưng tôi không tin điều đó.” Gã liếc nhìn qua vai mình.
“Ma nào ám?”
“Những kẻ thất bại. Những kẻ yếu đuối. Những gã đàn ông đánh mất tiền hoặc đánh mất người đàn bà của mình, và những bà vợ và con gái của các gia đình chết trẻ.”
“Tai sao họ lại thất bại.”
“Vì những ý tưởng ngốc nghếch. Họ không biết mình muốn gì.”
“Trời ơi! Cáo Nhỏ và tôi luôn không biết mình muốn gì.”
“Em muốn tôi.”
“Có lẽ thế.”
“Nếu không muốn thì em phải học cách để muốn. Và nếu em không biết mình muốn gì thì em sẽ thất bại.”
“Nhưng khi tôi biết mình muốn gì, người ta lại tước mất cái tôi muốn.”
Một tiếng kêu thê lương kéo dài vang lên từ các hành lang.
Hazel thét lên.
“Có phải là người đàn bà mất trí đó không?” nàng thì thầm.
“Không đâu, cô gái ngốc nghếch ạ. Đó là một con chim lợn. Người ta nói hồn ma của người đàn bà kia thường than khóc, ở ngoài bãi trồng cây làm củi đốt vào đêm Hạ chí.”
“Đám chim đó kêu như thể chúng đang phải chịu đau đớn vậy.” Hazel lẩm bẩm. “Đêm nay là đêm Hạ chí. Người đàn bà đó cũng nhỏ bé như tôi đúng không?”
“Tôi không biết.”
“Một thế lực rất mạnh đã khiến bà ta ra nông nỗi ấy phải không?”
“Một người đàn ông.” Gã cười.
“Bà ta chết trẻ phải không?”
“Đúng, bà ta chết năm mười chín tuổi.”
“Vậy thì chuyện đó cũng có thể xảy ra với tôi!” nàng kêu lên thảng thốt. “Vậy thì chuyện đó cũng có thể xảy ra với tôi! Bóng tối và sức mạnh tràn ngập trong cuộc sống này.”
Nàng ném mình xuống một chiếc trường kỷ bọc nệm màu xanh dương bạc phếch và khóc thút thít.
Cảm giác về sự có mặt của người khác – của những người nói thầm đang ló ra, những bàn tay chìa ra, sức hút không thay đổi của vô vàn con mắt vô hình – rõ rệt đến nỗi Hazel không thể chịu đựng nổi, và ngay cả Reddin cũng cảm thấy nhẹ người khi đi cùng nàng đến khu vực phía sau của ngôi nhà, nơi có người ở.
“Đây là phòng ngủ,” Reddin nói, mở cánh cửa một căn phòng rộng được trang trí bằng giấy dán tường xám đã ngả màu nhợt nhạt, và tràn ngập thứ mùi của dĩ vãng. Một chiếc giường bốn cọc có màn che bằng vải in những bông hồng sặc sỡ trên nền đen khiến nàng kinh ngạc. Reddin mở một ngăn tủ và lấy chiếc váy màu xanh lá cây ra. Gã ngắm nàng với cái kiểu thể hiện quyền sở hữu đầy hãnh diện khi nàng mặc chiếc váy vào. Nàng đi xuống những bậc thang thấp tựa như một chiếc lá rơi từ trên cây xuống.
Vessons, mỗi tay cầm một chai mật ong, sửng sốt trước sự xuất hiện của nàng trong chiếc váy xanh đến nỗi suýt nữa buông rơi cả hai chai mật.
“Mình cứ nghĩ đó là một con ma,” lão nói, “một con ma đau khổ.”
“Tôi cũng đang đau khổ đây,” Hazel nói với Reddin khi Vessons đã rút lui. Giọng nàng sụt sùi nước mắt, giống như một đợt sóng thủy triều xô vào bờ đá. “Ở Núi Nhỏ, khi tôi đau khổ Ed’ard thường đọc bài, “An ủi ngươi, người thân yêu của tôi”, bằng giọng rất dễ nghe.”
“Em thích gã Marston hơn tôi ư?”
“Tôi không biết.”
Buồn bã, nàng ngồi đó, trong ngôi nhà chẳng phải là nhà mình. Nàng nhớ đến cái vòng cổ mà nàng đang đan cho Cáo Nhỏ. Nàng đã bắt đầu hình thành thói quen ngâm nga hát đệm cho Edward vào các buổi tối. Nàng nhớ những điều đó. Nàng nhớ những điều gây bực tức trong cuộc sống thanh bình ấy – cái cách bà Marston khẽ hắng giọng một cách cố chấp; thói quen dọn tất cả những vật quý nho nhỏ của nàng tống vào lò sưởi trong bếp của Martha; việc Edward cứ quả quyết một cách lố bịch rằng nàng nên đánh sạch móng tay; cuộc tranh luận không ngừng tái diễn xoay quanh những quan điểm đối lập, “Cáo Nhỏ là một con chó hư!” “Nó không phải là một con chó hư. Nó là một con cáo ngoan.” “Trong con mắt của ta nó là một con chó hư.”
Giờ đây nàng đã rời xa tất cả những điều đó. Nàng đã rời khỏi thiên đường và đang ở giữa biển cả mênh mông. Nàng cảm thấy rất cô đơn – tựa như rơi vào cõi chết, không còn những mối ràng buộc của cuộc sống. Mặc chiếc váy xanh này chắc chắc là thích rồi. Nhưng nàng nhớ những việc lặt vặt thuộc bổn phận của nàng – dọn bàn ăn sau bữa tối, khi Martha đã ra về; đi thắp nến (bà Marston luôn lắc đầu trước cây nến thứ ba, không phải vì tiết kiệm, mà vì nó chạm đến tính thích con đàn cháu đống của bà).
Việc đọc sách của Edward là điều cuối cùng khiến nàng thao thức; nàng từng nghĩ đó là một điều khó chịu. Giờ đây nó dường như là một đặc ân. Đối với hầu hết các cô gái, Núi Nhỏ Của Chúa là nơi luyện ngục. Đối với nàng nó là một nơi tuyệt vời. Đó là lần đầu tiên nàng cảm nhận được vẻ đẹp đặc biệt của mái ấm gia đình, của lễ ban thánh thể hằng ngày của tình yêu. Edward chưa bao giờ quên hôn mẹ chàng và nàng khi chàng bước vào nhà; chàng mang hoa cho cả hai người; chàng luôn làm họ ngạc nhiên khi làm đồ mộc cho họ. Những món đồ đó chẳng tinh xảo lắm, bởi kỹ thuật của chàng không sánh được với lòng nhiệt tình trong tim chàng; nhưng Hazel không phàn nàn gì.
Cũng giống như những sinh vật nhỏ bé khác, nàng ngồi trong cái bóng của chàng trong một thành phố của những kẻ tị nạn. Bà Marston chia sẻ cảm giác này. Bà luôn rơi vào giấc ngủ ngay khi Edward có mặt ở nhà vào buổi tối, và thôi không nghĩ đến lời cảnh báo về những người đàn ông da đen bò vào nhà qua cửa sổ bếp, hay chuyện Cáo Nhỏ chui vào chạn đựng thức ăn, và cơn giận dữ dội của Chúa đẩy tất cả chúng sinh vào kiếp trầm luân bởi vì ngày Chủ nhật không còn được duy trì như trước nữa.
Trong phòng khách, vào thời điểm thích hợp nhất theo quan điểm của lão, Vessons mang bữa tối ra và cẩu thả bày thức ăn trên chiếc bàn tròn rộng được ốp một lớp gỗ trông như gỗ gụ mang nặng phong cách thời Victoria với những cái chân bằng đồng. Bữa tối có bánh mì, pho mát, thịt muối xông khói, và nhiều bia.
Hazel không thấy bữa ăn đó có gì không hợp với nàng, bởi mặc dù cuộc sống ở Callow đạm bạc hơn, nàng đã bắt đầu quen với những bữa ăn của tầng lớp trung lưu. Reddin đang cắt thịt muối ngẩng lên nói với vẻ ân cần hiếm thấy ở gã, “Em muốn uống trà hay ăn bánh mì nướng?” Gã cảm thấy bánh mì nướng là một thành tựu của trí tưởng tượng. Gã không dám chắc mình có thể sai Vessons làm món bánh mì nướng, vậy nên, thay vì ra lệnh cho người đầy tớ già, gã nhắc lại, “Em muốn uống trà hay ăn bánh mì nướng?”
Vessons đi vào bếp và đóng cửa lại. Họ đợi một lúc và Hazel, người mà cho dù có số phận như thế nào chăng nữa, người mà cho dù có khiếm khuyết và nỗi buồn nào, thì cũng luôn đói như Cáo Nhỏ, nhìn món pho mát và bia của Reddin với con mắt thèm thuồng. Sự mệt mỏi của thể xác khiến những giọt lệ của sự thèm ăn dâng đầy trong mắt nàng. Cuối cùng Reddin đứng dậy đi tới cửa bếp.
“Trà đâu?” gã hỏi.
“Trà ư?”
“Phải, đồ đần!”
“Tôi chằng biết gì về trà hết.”
“Tôi bảo lão đi pha trà còn gì.”
“Không phải ông bảo tôi.”
“Thế còn bánh mì nướng.”
“Tôi đã tắt bếp rồi.”
Lão chỉ vừa mới tắt bếp.
“Nghe này, lão già, bây giờ Undern đã có nữ chủ nhân. Lão phải làm hài lòng cô chủ hoặc lão phải ra đi. Cô chủ nói cho tôi biết cô ấy muốn gì. Tôi nói lại với lão. Lão phải thực hiện.”
“Không có người đàn bà nào là bề trên của tôi hết!” Vessons nói với vẻ sưng sỉa. “Sẽ không bao giờ có chuyện đó! Không bao giờ tôi chấp nhận một bà chủ, vì những lạc thú ở trên giường hay thú vui tại bàn ăn – Không, không bao giờ tôi chấp nhận. Tôi sẽ làm người trinh trắng cho tới ngày tôi xuống mồ.”
Cách kết hợp các ý kiến của Vessons với sự trinh trắng nghe hài hước đến nỗi Reddin bật cười và quên đi cảm giác bực tức của gã.
“Vessons, giờ thì ông hãy pha trà đi.”
“Cô ta sẽ không ở lại đây lâu chứ?” Vessons hỏi bằng giọng láu cá.
“Cô ấy sẽ ở lại đây mãi mãi.”
Hazel nghe thấy câu nói đó của gã.
“Mãi mãi.” Nàng muốn ở lại trong cái ngôi nhà đầy những tiếng thì thào này mãi mãi ư? Nàng muốn ở bên ai mãi mãi? Không phải Reddin, Edward ư? Nhưng trong tim chàng không có sự say đắm nồng nàn của rừng xanh, không có sự ham muốn, khát khao của đất. Chàng không có quan hệ bầu bạn thích thú đến yếu đuối với những sinh vật hoang dã bị săn đuổi. Nếu Reddin là một kẻ đi săn, một kẻ đối lập thì Edward là một người trung lập, một người đứng xem. Cả hai người đều không phải là đồng chí của nàng. Họ không sống cuộc sống của nàng. Nàng buộc phải sống cuộc sống của họ. Nàng ước gì mình chưa bao giờ gặp Reddin, ước gì nàng không đến Rừng Của Thợ Săn. Ngôi nhà của Edward ít ra cũng yên bình.
“Vậy,” nàng nghe thấy tiếng trả lời của Reddin; giọng của gã trầm và hung tợn. Nàng băn khoăn không biết Sally Đức Hạnh là ai, nhưng nàng quá mệt mỏi nên không suy nghĩ nhiều về điều ấy. Sau đó Reddin uống một chút whisky và Vessons uống mừng sức khỏe của ông chủ. Rồi Reddin chọn bài “Một ngày đi săn đẹp trời” từ cuốn sách nhạc để trên cây đàn piano cũ kỹ và hát bằng giọng nam cao nghe chát chúa. Vessons ở trong bếp hát theo bằng một thứ giọng hoàn toàn chẳng có tí nhạc tính nào, và dàn hợp xướng ầm ĩ ấy rống lên vang vọng khắp ngôi nhà.
“Này, dừng lại đi! Tôi không thể chịu nổi nữa!” Hazel vẻ mặt thể hiện nỗi đau thực sự, một vẻ mặt thường thấy mỗi khi lão hát.
“Tất cả những lo lắng và sự quan tâm
Sẽ bị bỏ lại phía sau trong ngôi nhà chúng ta!”
“Đối với những con cáo bé bỏng thì không!” Hazel kêu lên, rồi nàng giật lấy cuốn sách nhạc trên cây đàn piano và chạy tới chỗ Vessons, hắt ấm trà khỏi tay lão. Nàng nhét cuốn sách nhạc vào lò sưởi. Vessons đứng đờ người trong sững sờ.
“Ôi,” lão nói, “cô có cái thói của lũ mèo hoang và những bà cô không chồng trên thế giới này.” Đó là lời khe ngợi bất đắc dĩ. “Và tôi nói cho cô biết điều này, cho dù tôi không thể nói bất cứ điều gì khác, cô có tinh thần đủ cho mười một nghìn trinh nữ!”
Reddin cảm thấy cảnh này gần như không đủ vui vẻ. Gã lấy làm ngạc nhiên rằng chính bản thân gã cũng không cảm thấy vui vẻ hơn; đã có sự phản ứng. Gã ước gì không khí của một đám cưới luôn vui vẻ, bởi gã cảm thấy rằng đây thực sự là một đám cưới, chỉ thiếu cái danh mà thôi.
Nhưng ngôi nhà cũ kỹ, giống như một người ngủ thiếp đi sau một cuộc chè chén say sưa, khoác áo trên mình bộ đồ ố bẩn và rách rưới, dường như không sẵn sàng cho sự vui vẻ. Andrew thì chống đối ra mặt. Con chó săn thì xù lông lên, gầm gừ trước kẻ không mời mà đến; còn Hazel…?
Gã nhìn Hazel qua hàng mi khép hờ. Nàng có biết điều gì đã xảy ra không? Gã nghĩ là không. Có lẽ trực giác đã thì thầm với nàng. Rõ ràng nàng nhìn mắt gã. Nàng ngồi uống trà, thứ chỉ hiện diện sau khi Reddin phải viện đến quyền lực của mình. Trông nàng uể oải, và khuôn mặt nàng thật gầy guộc làm sao. Nỗi hoảng sợ lởn vởn trong mắt nàng, trên khóe môi nàng.
Gã hiểu rằng nàng sợ gã – sợ cái nhìn của gã, sự đụng chạm của gã. Ngay lập tức gã muốn sử dụng sực mạnh của mình. Gã đi tới, nâng cằm nàng lên bằng một tay, và đặt tay kia lên bờ vai nàng.
Đôi mi nàng run rẩy.
“Ông muốn gì, tại sao lại thô bạo với tôi?” nàng nói.
Rồi những giọt nước mắt trào ra khiến nàng run rẩy.
“Ôi, tôi muốn ở bên Ed’ard và bà già đó! Tôi muốn trở vể Núi Nhỏ. Tôi muốn! Ed’ard chắc đang tìm tôi khắp nơi.”
“Chúa ơi, gã sẽ đi tìm!” Reddin nói, “và khuấy động cả vùng. Hazel, em phải viết một bức thư nói rằng em an toàn và hạnh phúc, và rằng gã không cần phải lo lắng cho em.”
“Nhưng tôi có an toàn và hạnh phúc đâu.”
Reddin cau có trước sự ngay thật của nàng. Nhưng gã buộc nàng phải viết một lời nhắn.
“Thắng yên ngựa vào, Vessons, và mang giấy này đến Núi Nhỏ.”
“Tôi không quan tâm…” Vessons phản đối. Nhưng Reddin cắt ngang lời lão. “Đi đi,” gã nói, và Vessons biết khi ông chủ của lão đã nói bằng cái giọng đó thì tốt nhất lão nên đi. “Hãy nhét mảnh giấy đó vào khe cửa nhà tay mục sư, hãy gõ cửa rồi lánh đi, nghe rõ chưa Vessons,” Reddin ra lệnh.
“Hazel, em có thể lên gác nghỉ, nếu em muốn.”
Còn lại một mình, gã đi đi lại lại trong phòng, hoang mang và khó chịu.
Gã nghĩ mình đã mang đến cho Hazel vinh dự lớn nhất mà một người đàn ông có thể mang đến cho một người đàn bà. Gã không thể nhận thức được mình thất bại ở chỗ nào. Gã tức bực vì ý thức được mình đang khó chịu. Như gã hiểu, đơn thuần là gã đã thỏa mãn được nhu cầu tự nhiên của mình – một nhu cầu đơn giản và cấp bách như nhu cầu được ăn, uống. Gã không hiểu rằng việc gã không luận ra được liệu có phải đó cũng là nhu cầu tự nhiên của Hazel hay không – và không gì khác cả – đã cho thấy hành động tội lỗi không thể tha thứ được của gã.
Việc gã chống lại các quan điểm của giáo hội không khiến gã lo lắng. Bởi vì, giống như nhiều giáo dân khác, gã có cái năng khiếu giữ lời tuyên và việc thực hành, tín điều và hành động, trong những ngăn kín khác nhau. Bao nhiêu người trong số những giáo dân nhiệt thành từ khi sinh ra đến giờ không hành động và suy nghĩ giống như Reddin?
“Tất nhiên, trước đây mình có phần hung bạo,” gã nghĩ. “Nhưng chuyện đó qua rồi. Vả lại, nàng chẳng biết đâu.”
Gã lại trầm ngâm suy nghĩ.
“Mình cho rằng mình hơi thô lỗ, nhưng bây giờ chắc nàng đã quên rồi. Mình ước gì nàng sẽ không tơ tưởng đến tay mục sư kia nữa.”
Gã chạy lên gác.
“Hazel, xin lỗi, ban nãy tôi hơi thô lỗ,” gã nói vẻ ngượng ngùng.
Hazel đứng bên cửa sổ mặc trên người chiếc váy ngủ mà nàng tìm thấy trong ngăn tủ – một chiếc váy màu trắng, mỏng mảnh có nhiều diềm đăng ten kiểu mạng nhện được may bởi một người phụ nữ nào đó đã qua đời và từng được mặc trong một đám cưới đã bị lãng quên. Cái cách Hazel đến Undern và Núi Nhỏ – giống như một chiếc lá mùa đông, hoàn toàn chẳng có lấy chút tư trang nào – có ý nghĩa tượng trưng cho toàn bộ cuộc sống của nàng.
Khi gã bước vào phòng Hazel đang nói gì đó. Gã đứng sững lại, đầy kinh ngạc và nghi ngờ.
“Em đang nói chuyện với ai thế?” gã hỏi.
Nàng quay đầu lại phía gã. “Nói với ai đó ở trên kia,” nàng nói. “Tôi đọc những lời cầu nguyện mà Ed’ard đã dạy tôi. Tôi đã đọc nó ba lần rồi, đêm nay là đêm Hạ chí, đêm mà ma quỷ đi lang thang còn đàn chó săn ma thì lởn vởn khắp vùng. Ai đó ở trên trời chắc hẳn sẽ nghe thấy lời cầu nguyện của Ed’ard.”
Nàng đứng trong ánh nến chập chờn trông thật nhỏ bé và đáng thương. Nàng lại quay mặt ra cửa sổ, còn Reddin thì đi xuống dưới nhà trong tâm trạng nặng nề và bối rối.
Ngôi nhà dường như trở nên kỳ quái hơn bao giờ hết, đầy những tiếng lầm rầm và rên rỉ khe khẽ. Trong ánh đèn dầu, khuôn mặt của những bông hồng ngoài cửa sổ trông thật buồn bã. Tiếng lá cây xào xạc nghe như đang phản đối. Đám dương xanh xao ngoài đồng cỏ trông như đang luận tội. Cứ như thể hội Tam điểm của thế giới xanh đang rất phẫn nộ với Hazel. Trong mạch máu của nàng có dòng máu của chúng, và nàng có chung sự tôn thờ thầm lặng đối với tự do và cái đẹp, vậy mà giờ đây nàng đã lún sâu vào cuộc sống của con người, lún sâu đến nỗi đã làm mất đi dòng máu đó. Cứ như thể mọi hóa thân của sự hoàn hảo mà nàng nhìn thấy trong lá và hoa (và nàng nhìn thấy rất nhiều, mặc dù nàng không diễn đạt được điều đó), mọi khoảnh khắc của tình bạn sâu sắc với đất, với đám cây lá đẫm sương, mọi ký ức rực rỡ màu sắc và ánh sáng mà trí óc đầy sức sống của nàng đã thu thập được và nâng niu trong tình yêu mãnh liệt và sự sung sướng vô ngần của nó, giờ đây đã hiện ra, bước đi trong cái ngôi nhà cũ kỹ bị ma ám của loài người này với vẻ khinh bỉ; bước lên những bậc cầu thang; đứng quanh chiếc giường bốn cọc, nơi nhiều người nhà Reddin đã sinh ra và chết đi; nhìn chằm chằm vào khuôn mặt đã từng biết đến giấc mơ (những giấc mơ dại khờ), đến sự mầu nhiệm vĩnh hằng của chúng; đau buồn như cái cây đau buồn khi lá rụng. Chúng đau buồn, nhưng chúng không tha thứ. Bởi linh hồn của cái đẹp và sự mầu nhiệm (như người bảo lãnh của sắc màu biết và người bảo lãnh của thơ ca biết) thường không thân thiện với cuộc sống bình thường và số phận của con người. Chúng phá vỡ những tổ ấm. Chúng dẫn cả nghìn kẻ lang thang vào chốn lạ lẫm. Chúng không chịu đựng được sự phụng sự nửa vời.
Sẽ là ngoại lệ hiếm hoi duy nhất khi một người đàn ông yêu một người đàn bà mà vẫn vượt trội trong nghệ thuật, và một người đàn bà ắt hẳn phải có thiên tài gây kinh ngạc nếu nàng vẫn là một nhà thơ sau khi sinh đẻ.
Mặc dù đôi khi những linh hồn kiêu hãnh này cũng khoan dung, thậm chí làm bạn với tình yêu của con người, đó là khi sự say đắm thuần khiết và tình cảm cháy bỏng nói cho chúng biết đó là một tâm hồn đồng điệu. Trong cuộc gặp gỡ vì ham muốn nhục dục của Hazel và Reddin, nhưng cái gọi là tốt nhất ở gã cũng rất tồi. Còn Hazel thì đơn thuần chỉ là kẻ thụ động.
Vậy là những linh hồn ấy đứng ở phía trên đầu nàng mà khóc, rồi chúng rời bỏ nàng vĩnh viễn. Nàng nhìn chăm chú từng con mắt của những bông hoa anh thảo, nhưng không nhận được một cái nhìn thấu hiểu nào.
Không cảm giác phấn chán nào đến cùng với những chiếc lá bay, không một cảm giác đau đớn nhói buốt bí ẩn nào tới cùng tiếng chim hót, những ngôi sao lặn, những hạt sương rơi. Ngay cả tình yêu của nàng dành cho Cáo Nhỏ cũng trở thành một điều gì đó rất mơ hồ, nàng không còn biết khi nào con chim mù lòa của nàng cất lên những tiếng hót ngập ngừng, tất cả chỉ như một giấc chiêm bao. Đêm đó nàng đã quên nghiêng mình ra ngoài cửa sổ để lắng nghe những âm thanh khẽ khàng nhất của cây. Nàng đã đọc lời cầu nguyện, và rồi nàng quá mệt, nàng cảm thấy đau khắp người, lưng nàng nhức mỏi, và nàng khóc cho tới khi nàng ngủ thiếp đi.
“Tại sao mình lại đi đến Rừng Của Thợ Săn chứ?” nàng tự hỏi mình. Nhưng câu trả lời quá sâu xa đối với nàng, sự thôi thúc bên trong đầy tính bội phản của con người nàng quá bí ẩn. Nàng không thể trả lời câu hỏi của chính mình.
Reddin đi đi lại lại trong phòng, uống whisky, và bực tức với cảm giác ăn năn của chính mình, cuối cùng gã cũng trở nên mệt mỏi với ngôi nhà vắng lặng.
“Chết tiệt thật! Tại sao mình lại không nên lên gác chứ?” gã nói.
Gã mở cửa phòng Hazel.
“Nghe này,” gã nói; “nhà này là của tôi, và nó cũng là của em. Tôi lên đây là để ngủ.” Đáp lại lời gã là sự im lặng đầy hăm dọa.
Nàng đã ngủ; suốt cả đêm dài, trong khi gã ngáy, nàng cứ vật vã liên tục và không ngừng rên rỉ trong giấc ngủ.