Bạn đang đọc Tố Thủ Kiếp – Chương 41: Thạch Lao
Tú Linh liếc mắt trông trộm, thấy diện mạo ông già cũng chẳng khác gì những ông già tầm thường mấy tý, lòng kính sợ cũng giảm bớt vài phần. Nàng hơi thất vọng, nhưng cũng quỳ xuống thi lễ, thưa rằng:
– Vãn bối Điền Tú Linh tham kiến tiền bối.
Ông già gật đầu nói:
– Ngươi đến đây vì việc gì ta đã biết rồi, nhưng lúc này ta vẫn chưa tiện nói rõ. Ngươi ráng chờ hai hôm nữa hãy hay.
Nàng vừa đứng lên, ông già lại nói:
– Ngươi đã gặp lão phu, vậy hãy ra ngoài chờ đợi lúc nào Vô Tâm xong việc, sẽ đưa ngươi về.
Tú Linh không biết nói sao, đành hướng vào lão nhân và vái một cái rồi tức khắc quay ra.
Ra tới căn phòng ngoài, nàng đua mắt nhìn quanh, thấy bốn bề tối tăm lạnh lẽo, lại cảm thấy thân mình tứ cố vô thân, đi đến đâu cũng bị ngươi hắt hủi, bất giác hai hàng nước mắt chảy xuống ròng ròng, rồi ngả mình nằm xuống chiếc giường đá.
Thốt nhiên nàng lại nghe cái giọng ồ ồ của ông già cất lên sau cánh cửa hẹp:
– Ít lâu nay, hành động của ngươi ở bên ngoài, ta tuy không biết tường tận, nhưng nhất định là thiếu sự cẩn thận, dù hôm nay ngươi đem người con gái đến đây thì đủ hiểu. Có lẽ ngươi không nghĩ rằng người ấy rất có thể là gian tế của nhà Nam Cung thế gia, cốt theo ngươi tới đây để xem xét những sự bí mật của ta chăng?
Tiếp theo đó là tiếng đáp của Nhâm Vô Tâm. Nhưng chàng nói nhỏ quá, cố lắng tai nghe cũng không rõ. Có thể đó chỉ là những lời biện hộ cho nàng.
Lại nghe tiếng ông già hừ một tiếng rồi nói:
– Thôi đừng nói nữa! Chả lẽ với sự hiểu biết của ta lại không bằng ngươi sao?
Tú Linh nghe đến đây trong bụng lại càng uất ức, khó chịu. Kế đó lại thấy hai người bàn sang chuyện khác.
Tú Linh nghe Vô Tâm báo cáo với ông già những mưu mô sắp đặt của mình, bất giác cũng giật mình kinh sợ. Nàng cũng biết Vô Tâm là một bậc kỳ tài nhưng không ngờ sách lược của chàng lại tinh tế chu mật đến thế. Bà tổ nàng lại độc ác khôn ngoan, cũng chưa chắc phen này đã thắng nổi chàng. Kế lại nghe chàng hỏi:
– Vũ công của Nam Cung phu nhân hiện nay đã vào bậc kinh thế hãi tục, phen này bà ta lại bế quan tu luyện, thì bọn tiểu tử làm sao mà đối địch nổi? Vả lại đến bây giờ trong giới giang hồ cũng chưa ai biết môn vũ công bà ta luyện là môn gì?
Lão nhân cười nhạt nói:
– Thế gian vạn vật có tương sinh tương khắc, công phu nào có người luyện được, thì tất cũng có người phá được, ngươi đừng lo.
Tú Linh còn đang lắng tai nghe, chợt thấy lão nhân quát:
– À, to gan thật, dám nghe trộm à?
Tiếp theo đó, chỉ nghe sầm một tiếng, hai cánh cửa đã đóng sập lại. Tức thì trong gian thạch thất lại tối đen như mực.
Tú Linh vừa sợ vừa giận, định đứng lên tìm lối ra ngoài nhưng khi sờ tới chỗ cánh cửa, chỉ thấy là một phiến phẳng lỳ, không còn dấu vết gì nữa, cả cánh cửa vào phòng lão nhân cũng vậy.
Tú Linh run sợ nghĩ thầm: “Lão thấy ta nghe hết việc bí mật nên định giết ta để diệt khẩu. Nhưng chả lẽ Nhâm Vô Tâm lại yên lòng để ta chết đói chết rét ở đây ư?”
Nghĩ một lúc, nàng lại tự nhủ: “Nhưng Nhâm Vô Tâm đối với ta có tình ý gì đâu? Hắn chỉ lo tìm mưu tính kế để trừ nhà Nam Cung thế gia, còn ngoài ra không hề để ý việc gì nữa… Hắn sở dĩ đem ta đến đây, chẳng qua chỉ là để lợi dụng ta… Vả hắn sợ lão già kia như cọp, khi nào còn dám mở miệng xin cho ta nữa?”
Nàng vừa tự trách mình, vừa oán hận Vô Tâm, lúc đau đớn, lúc thì giận dữ, tâm trạng rối bời.
Thời gian không biết trải qua bao lâu, Tú Linh nhẩm tính có lẽ đã đến ba bốn ngày, trong ba bốn ngày ấy, nàng vừa đói vừa khát, vừa lạnh vừa rét. Nếu trong lòng nàng không mong manh một tia hy vọng là thế nào Nhâm Vô Tâm cũng đến cứu mình thì nàng có lẽ đã cắn lưỡi chết từ lâu.
Nhưng càng mong mỏi mắt, tia hy vọng mỗi lúc một tan dần, nếu quả Nhâm Vô Tâm có ý cứu nàng thì sao để lâu đến thế? Vả dù chàng không cứu được thì ít nhất cũng phải tìm cách gì thông tin cho nàng yên tâm chứ.
Nàng càng nghĩ càng đau đớn, nước mắt chảy dòng dòng, bất giác ngửa mặt lên trời lẩm nhẩm nói:
– Nhâm Vô Tâm ơi! Phen này ta chết về tay ngươi, ta chỉ tự oán hận mình, nhưng sau khi ta hóa thành lệ quỉ thế nào ta cũng báo thù.
Nàng vì yêu mà thành thù, vì đau thương mà thành oán hận, nên giọng nói đầy vẻ đau đớn xót xa.
Nàng nức nở một lúc rồi lại nói:
– Bà Tổ ơi, cháu thật có lỗi với Bà Tổ, nhưng cháu chết đi thế nào cũng hóa thành lệ quỉ giúp lão nhân gia một tay làm cho những kẻ tự xưng là nhân nghĩa đạo đức đều chết trong tay bà tổ mới hả.
Nàng nói đến đây thốt nhiên tung mình nhảy lên, đầu va ngay vào hòn đá trên trần nhà. Trong bóng tối không biết có máu phun ra hay không nhưng thân hình nàng đã mềm nhũn, rồi ngã nằm sóng sượt dưới đất.
Ước chừng một lúc không lâu, trên vách đá chợt nứt ra một khe nhỏ, rồi một bóng ngươi lách mình đi vào. Chỗ khe đá nứt không phải là hai cánh cửa lớn vừa rồi, nên bóng tối vẫn mờ mờ, không trông rõ bóng người mới tới, chỉ biết hắn có vẻ thông thuộc đường lối, nên không phải sờ soạng lần mò, đi được vài bước, hắn dừng lại lấy cây hỏa tập trong mình châm, nhưng ánh lửa chỉ lóe lên rồi tắt ngay.
Nhưng trong giây phút đó cũng đủ cho ta nhận rõ, đó là một ông già thân thể cao lớn, râu tóc bạc phơ, trong khi cử động xem võ công có vẻ bình thường, nhưng tuyệt không phải là ông già mà Tú Linh gặp hôm vào động.
Ông ta nhờ ánh lửa lóe lên đã trông rõ chỗ Tú Linh nằm, bèn vội cúi xuống ôm xốc nàng lên, rồi hấp tấp lùi ra khỏi thạch thất.
Vách đá hở lại khép lại như cũ, bên ngoài cũng tối đen như mực, chợt nghe một giọng lạnh lùng cất lên hỏi:
– Không ngờ con gái mà tính khí cũng cương liệt như vậy, hãy xem nàng còn sống hay chết? Nếu còn sống thì chữa chạy ngay đi, sau này còn có việc dùng tới.
Người đàn ông này sờ tay bắt mạch cho Tú Linh rồi nói:
– Không những chưa chết mà vết thương cũng không lấy gì làm nặng lắm. Có lẽ vì nàng đã đuối sức lâu rồi.
Cái giọng lạnh lùng lại cất lên:
– Thôi được, thế cứ đặt nàng xuống đây là được rồi.
Người đàn ông có vẻ kinh ngạc hỏi:
– Để nàng ở đây, thế lỡ nàng phát giác sự bí mật thì sao?
Người trong bóng tối cười ha hả nói:
– Ngươi thì biết cái gì, chính ta muốn để cho nàng biết những bí mật đó. Thôi, ngươi đi làm cơm đi, nhớ nấu cho… tướng công một bát thạch giải vì hắn thích món ấy lắm.
Người đàn ông vâng lời, đặt Tú Linh xuống đất rồi khúm núm đi ra, thoáng chốc đã hòa mình vào trong bóng tối.
Qua một lúc lâu, Điền Tú Linh chợt cựa mình rên rỉ, thì ra nàng đã từ trong hôn mê dần dần hồi tỉnh.
Nàng cố gượng xoay ngươi lại chợt cảm thấy trên đầu đau như búa bổ, trong tai chỉ nghe tiếng gió ù ù, mà lúc trước nằm trong thạch thất không hề nghe thấy, nàng lấy tay sờ xuống đất, cũng không thấy nền đá nữa, quả thật nơi nàng nằm đây không phải là thạch thất.
Nàng chợt rùng mình, nghĩ thầm: “Hay là ta chết rồi nên oan hồn bay đến đây chăng?”
Giữa lúc ấy, nàng lại nghe có tiếng khóa xích sắt kéo lê sền sệt trên mặt đất. Những tiếng đó nghe rất mơ hồ, lúc đứt, lúc nối nhưng cũng đủ để cho ngươi nghe rợn tóc gáy.
Tú Linh cau mày thầm nhủ: “Có lẽ đây là địa ngục cũng nên? Mình đã liều chết, còn sợ gì nữa? Ta thử đứng lên đi xem những tiếng ấy ở đâu mà ra?” Nàng liền lập tức đứng lên sờ soạng đi lần về phía trước. Địa thế nơi này tuy gập ghềnh khó đi, được cái ít lâu nay nàng đã tập quen với những con đường hẻm núi, nên cũng không lấy gì làm khó khăn lắm.
Cái tiếng khóa sắt càng lúc càng rõ, dần dần nàng còn nghe thấy cả tiếng rên rỉ, Tú Linh lại chợt nhớ đến hôm đầu tiên đến tử cốc, nàng áp tai xuống đất, cũng nghe thấy những tiếng giống hệt như thế. Thì ra nơi đây vẫn còn ở trong tử cốc.
Tú Linh chợt nảy tính tò mò, rảo bước tiến mau hơn. Chợt trông thấy trước mặt có ánh sáng lờ mờ rọi lại. Ánh sáng tuy cực kỳ yếu ớt, nhưng cũng đủ cho nàng nhận thấy đây là một căn động vừa hẹp, vừa dài, bốn mặt quái thạch chìa ra như răng ma.
Lúc này nàng đã nghe rõ trong những tiếng khóa sắt lệt sệt, và những tiếng rên rỉ đó còn có lẫn cả tiếng chân bước nặng chình chịch.
Nàng đi được chừng ba bốn trượng thì đến cuối động, trên vách đá có gắn một chiếc đèn bằng đồng, ánh sáng ảm đạm, bầu đèn lâu ngày đã hoen rỉ.
Dưới ngọn đèn có một cánh cửa sắt, những tiếng xích sắt va chạm, và tiếng rên rỉ đều ở bên trong cửa vang ra. Trên cánh cửa có buộc một sợi xích sắt rất lớn, khóa bằng đồng, chìa khóa treo ngay ở trên sợi dây xích. Ngoài ra bên trên cửa, còn khắc bốn chữ “Vong nhập giả tử” lớn tướng.
Tất cả bấy nhiêu thứ hợp lại, rõ ràng là một cửa địa ngục không sai, Tú Linh lúc này đã quyết liều một phen, nên không biết sợ là gì, cầm ngay chiếc chìa khóa, mở cửa ra.
Nàng phải tốn nhiều hơi sức mới mở được cánh cửa sắt khổng lồ nhích ra một chút.
Tiếng mở cửa vừa ken két nổi lên, tức thì những tiếng dây sắt kéo lê, tiếng bước chân huỳnh huỵch và cái tiếng rên rỉ bên trong cũng đồng thời im bặt.
Tú Linh lách mình bước vào, thốt nhiên giật mình lùi lại mấy bước, đăm đăm nhìn về phía trước.
Ánh đèn trong phòng còn tối hơn ánh đèn ngoài cửa, không khí cực kỳ lạnh lẽo âm thầm. Nhưng trong phòng trống rỗng không có ai cả.
Nàng cố lấy can đảm, đằng hắng một tiếng rồi hỏi:
– Có ai trong này không? Ra cho tôi hỏi một tý.
Nàng hỏi luôn ba bốn câu, không có tiếng ai đáp lại, Nàng đánh liều giơ hai tay lên chặn ngực, rồi từ từ tiến vào.
Vào tới giữa phòng, trông khắp bốn phía cũng không thấy gì lạ, thốt nhiên nghe phía sau nổi lên một tiếng “cách” nhỏ, nàng giật mình vội quay đầu lại, chỉ thấy một ngươi đầu tóc rũ rượi, che gần kín khuôn mặt, trông như một cái thây ma, khắp mình đều trói bằng dây sắt, đang định xông lại phía nàng, nhưng hắn vừa cựa mình, chiếc xích sắt đã va xuống đất cành cạch, nên mới bị Tú Linh nghe thấy.
Nàng trông hình dạng ngươi ấy, bất giác kinh sợ dựng đứng người ra, hai chân mềm nhũn, cơ hồ lê đi không nổi.
Người lạ nhìn trừng trừng vào mặt nàng giây lâu không chớp, thân hình cũng đứng sững như pho tượng gỗ. Tú Linh định thần một lúc, rồi hỏi bằng một giọng run run:
– Ngươi… ngươi là người hay ma? Và đây là đâu?
Người kia hình như cũng ngạc nhiên vì câu hỏi của nàng, một lúc mới thủng thỉnh nói:
– Ngươi trông ta giống người hay ma? Ngươi nhận thấy nơi đây có phải là nhân gian không?
Tú Linh sửng sốt, nàng nghe giọng nói của hắn vừa khô khan vừa the thé như tiếng quỷ khóc. Tú Linh không sao tự chủ được, bất giác lùi lại mấy bước. Người đàn ông cười khanh khách nói:
– Đây chính là quỷ vực mà ta đã lâu lắm không được ăn gan người sống, hôm nay bỗng dưng ngươi lại dẫn xác đến để ta chén một bữa cho khoái khẩu.
Hắn vừa cười nói vừa kéo lê xích sắt tiến dần về phía Tú Linh. Tú Linh sợ quá, khắp mình nổi gai ốc lên, chân cứ lùi dần về phía cửa.
Gã đàn ông tuy đeo xích sắt đầy mình, nhưng còn nhanh nhẹn hơn nàng, hắn nhảy một bước chắn ngang lối đi, hai tay giơ ra, miệng nhăn nhở cười nói:
– Ngươi đã vào đây lại còn muốn chạy à?
Tú Linh vừa sợ vừa tức, giơ tay phóng một chưởng vào giữa ngực gã đàn ông, nhưng sức lực của nàng lúc này đã yếu quá, nên chiêu thức không đủ để làm hại người.
Gã đàn ông thấy vậy vội cầm xích sắt giơ ngang lên đón lấy chưởng phong.
Tú Linh lùi lại một bước, phóng luôn ra ba chiêu, gã đàn ông vẫn cười khanh khách, nhẹ nhàng đón lấy, mà hình như hắn còn đoán trước được cả cách biến hóa chiêu thức của nàng nữa.
Tú Linh nóng lòng sốt ruột, chỉ muốn đánh cướp lấy một đường mà chạy, bèn cố gắng chút hơi tàn, tay phải một chưởng, tay trái một quyền liên tiếp phóng hơn bảy chiêu.
Bảy chiêu đó chính là bí kỹ của Nam Cung thế gia, chiêu thức kỳ quỉ, biến hóa vô cùng. Tú Linh lúc này chân lực tuy đã gần kiệt, nhưng vì nàng liều mạng mà đánh, nên uy lực vẫn còn lợi hại lắm.
Không ngờ gã đàn ông vẫn cười một cách đanh ác nói:
– Vũ công thế gian đánh thế nào được ma?
Hắn chỉ sẽ giơ tay lên, tiếng xích sắt kêu lẻng xẻng, hóa giải luôn bảy chiêu của nàng một cách dũng dị, có một điều lạ là mỗi chiêu Tú Linh sắp sửa phóng ra, hắn đã biết trước mà chặn ngay từ đầu.
Tú Linh sợ hãi, vượt qua người hắn mà chạy, không ngờ hắn đã nhanh nhẹn xoay mình, giang tay chắn ngang lối đi của nàng.
Tú Linh thét lên một tiếng, nằm xuống đất lăn đi mấy vòng, rồi lại lổm ngổm bò dậy, ngẩng đầu nhìn lên. Gã đàn ông vẫn kéo lê sợi xích sắt, lắc lư tiến về phía nàng, miệng vẫn luôn cười, tiếng cười nghe giống hệt tiếng gầm gừ của loài thú dữ.
Tú Linh lùi mãi, lùi mãi, bất đồ lưng chạm ngay phải vách đá, không còn lối nào thoát được nữa. Gã đàn ông vẫn cười nhăn nhở, cong mười đầu ngón tay lên xông tới.
Tú Linh rú lên một tiếng, hai đầu gối mềm nhũn, sụp quỳ xuống đất, mười đầu ngón tay lạnh buốt của gã từ từ chạm vào cổ nàng, Tú Linh nhắm nghiền hai mắt chờ chết.
Không ngờ lúc ấy gã đàn ông rụt tay lại, cất tiếng cười sằng sặc, tỏ vẻ đắc ý vô cùng, Tú Linh lấy làm lạ, lại hé mắt ra nhìn.
Chợt nghe gã vừa cười vừa nói:
– Điền Tú Linh, sao ngươi không mở mắt ra?
Tú Linh kinh ngạc quá đỗi, vội mở to mắt kêu lên:
– Sao… sao ngươi lại biết tên ta?
Quái nhân cười khanh khách nói:
– Ngươi không nhận ra ta ư? Thử nghĩ kỹ lại xem, ta là một oan hồn đã bị chết ở trong tuyệt nham ngày trước!
Tú Linh bất giác sợ hãi run lên, chăm chú nhìn vào mặt hắn, dưới ánh đèn lờ mờ, chỉ trông một bộ mặt đã bị mái tóc che kín quá nửa, hàm răng trắng nhỡn, nhọn hoắc, có vài chiếc đã bị gãy, duy có đôi mắt, nhìn kỹ thì hình như đã trông thấy ở đâu.
Gã đàn ông lại cười gằn nói:
– Thử nghĩ lại xem… nghĩ lại xem… ta là người mà hồi nhỏ ngươi ghét nhất!
– Vậy ….vậy ra ngươi làNam Cung…..
Gã đàn ông ngửa cổ lên trời cười nói:
– Đúng rồi… ta là hắn … ha ha… không ngờ hôm nay ngươi lại phải quỳ ở trước mặt ta, oán khí bao nhiêu năm nay ta mới gọi là được thở ra một chút.
Tú Linh đăm đăm nhìn con người trước mắt, trong bụng rộn lên những ý tưởng mâu thuẫn, không biết sợ hay mừng? Phải chăng đây chính là người mà mấy tháng nay nàng đã chịu đủ trăm cay nghìn đắng, trèo non lặn suối đi tìm? Nhưng lúc này đứng trước mặt hắn, nàng lại thấy sợ sệt, kinh hoảng, chỉ lăm le muốn chạy trốn.
Nàng chú ý nhìn kỹ thấy hình dạng người này rõ ràng là một phần người, chín phần quỷ, đâu còn cái vẻ ung dung tiêu sái củaNam Cung công tử năm xưa? Chắc hẳn từ dạo đó đến giờ, chàng đã chịu đựng không biết bao nhiêu nỗi cực nhục thống khổ.
Nghĩ đến đấy, nàng chợt cảm thấy thương hại, bèn ứa nước mắt nói:
– Tại sao chàng lại bị giam ở đây?
Người quái chợt im tiếng cười, cặp mắt tràn đầy oán hận nói:
– Ta khổ tâm bố trí bao nhiêu lâu nay, chỉ vì ta đã biết ….
Chàng vừa nói tới đấy, chợt thấy ngoài cửa có một bóng người phơi phới bay vào, giơ ống tay áo phất một cái, tức thì một luồng hương thoang thoảng từ trong ống tay áo bay ra.
Tú Linh vừa trông thấy bóng người, mũi đã hít ngay phải luồng hương thơm, tức thì đầu óc mê man, không còn biết gì nữa.
Mãi tới khi tỉnh dậy, Tú Linh mở mắt ra nhìn, chỉ thấy da trời xanh ngắt, mây trắng phất phơ, chim chóc trên cành véo von ca hát, bốn bề cây cối xanh um, cỏ non trải kín mặt đất như tấm thảm, thì ra đây là một khu rừng.
Tú Linh giật mình kinh sợ, gắng gượng ngồi lên, thấy mình vẫn mặc áo lông cừu, mũ lông điêu, nhưng sờ vào mình chỉ thấy mồ hôi ướt đầm. Nàng ngạc nhiên nghĩ thầm: “Quái lạ, ta đang nằm mơ hay sao thế này?”
Hồi tưởng lại những việc vừa xảy ra, đầu óc vẫn còn bàng hoàng kinh sợ, không hiểu vừa rồi là mộng hay bây giờ là mộng? Nhưng khung cảnh trước mắt đây đã chứng tỏ cho nàng biết rằng hiện thời nàng không mơ ngủ.
Giữa lúc đầu óc nàng chưa phân biệt được rõ ràng, chợt nghe có tiếng xe ngựa lọc sọc đang đi từ phía xa đưa lại.
Tú Linh đang muốn tìm người hỏi thăm xem đây thuộc về địa phương nào, nên không tìm chỗ nấp, thoáng chốc đã thấy chiếc xe ngựa tiến lại gần rồi đỗ lại.
Tú Linh đã nhìn rõ thấy cỗ xe sơn son thiếp vàng bóng lộn, cả mấy con ngựa kéo trông cũng khỏe mạnh lực lưỡng, rõ ràng nòi ngựa quý.
Màn xe vừa vén lên, bên trong đã thấy bốn thiếu nữ mặc áo trắng từ trong xe nhảy ra, người nào cũng mặc xiêm dài quét đất, tóc rủ ngang vai, cười nói ríu rít như những con chim vành khuyên, nhảy nhót tiến vào rừng.
Tú Linh mừng lắm, định chạy ra hỏi thăm, chợt ngắm lại bộ quần áo lấm láp xộc xệch của mình, bất giác hơi ngượng, vội đưa tay lên vén gọn mái tóc, sửa lại nếp áo, thủng thỉnh đi ra, nhưng đầu vẫn cúi gằm xuống, không dám nhìn lên.
Tới trước mặt bốn thiếu nữ, nàng dừng lại khép tà áo, thỏ thẻ nói:
– Xin hỏi bốn vị cô nương…..
Nàng chưa nói dứt lời chợt nghe tiếng cười khúc khích, nàng vội ngẩng đầu lên đã thấy bọn thiếu nữ quỳ rạp cả xuống đất. Rồi một ngươi cao nhất bọn cười nói:
– Mới một tháng không gặp mà phu nhân đã không nhận ra bọn nữ tỳ ư?
Tú Linh giật mình sửng sốt, hỏi:
– Các người là ….là ai?
Người con gái lại ngẩng đầu lên nói:
– Oanh Oanh xin bái kiến phu nhân!
Thì ra bọn này chính là tỳ nữ nội trạch nhà Nam Cung. Ba người kia cũng vừa ngẩng đầu lên, Tú Linh lặng người đi một lát, mới thốt được nên lời:
– Oanh Oanh, Yến Nhi, sao các người lại đến nơi này?
Oanh Oanh cúi đầu cười nói:
– Bọn tiểu tỳ đến đây cốt chỉ để đón phu nhân!
Tú Linh còn chưa biết là mình ở đây là đâu, vậy mà bọn tỳ nữ nhà Nam Cung thế gia đã biết mà đến đón, thật là một sự lạ lùng. Nàng bất giác buột miệng hỏi:
– Sao các ngươi biết ta ở đây?
Oanh Oanh cười nói:
– Phu nhân quên rằng chính phu nhân đã thông tin cho Thái phu nhân, nên Thái phu nhân mới sai bọn tỳ nữ đi đón.
Tú Linh đứng ngẩn ra như người bàng hoàng trong mộng, tự nghĩ: “Vô lý, sao ta lại thông tin cho họ? Hay là trong lúc hôn mê, ta quả có làm việc ấy, mà rồi lại quên đi chăng? Chả có lẽ…”
Oanh Oanh, Yến Nhi thấy nàng cứ đứng ngây người, chẳng nói chẳng rằng, bèn đưa mắt cho nhau, rồi cùng bước lên, mỗi người một bên nắm lấy tay áo nàng, Yến Nhi nói:
– Xin mời phu nhân lên xe kẻo Thái phu nhân đợi!
Tú Linh chau mày nói:
– Bà Tổ ta….
Nàng nói chưa dứt lời, Oanh Oanh vội cười nói:
– Từ hôm phu nhân đi, Thái phu nhân nhớ lắm, lúc nào cũng khen phu nhân là ngươi tốt, chỉ phải tính nhẹ dạ nghe lời những kẻ không ra gì xúi bẩy. Nay nếu phu nhân trở về thì không những Thái phu nhân vui vẻ mà bọn tỳ nữ cũng rất mừng.
Tú Linh chợt ứa nước mắt, nghẹn ngào nói một mình:
– Ta đoán không sai, trên đời này quả không có ai tốt với ta bằng Bà Tổ, chỉ có Bà Tổ, chỉ có Bà Tổ…
Nói chưa dứt lời, nước mắt nàng đã tràn xuống hai gò má. Hai tên thị nữ thấy thế mừng thầm, lại dùng những lời đường mật ôn tồn dụ dỗ, hết sức nói tốt cho Thái phu nhân. Xem chừng Tú Linh đã xiêu lòng, bốn tên thị nữ liền xúm xít đỡ nàng lên xe.
Tú Linh cũng quyết định trở về bên Bà Tổ, chỉ có ở đấy nàng mới được êm ấm và tôn nghiêm, chỉ có ở đấy nàng mới không bị người ra khinh rẻ và hắt hủi.
Lúc này nàng lại thấy hối hận, tại sao nàng lại phản bội Bà Tổ là người đã yêu thương che chở cho nàng từ bé, mà tự đem mình hy sinh cho những kẻ xa lạ rẻ rúng nàng, khinh miệt nàng, chẳng quá ngu dại quá ư?
Nàng đưa tay áo lên gạt nước mắt, rồi để mặc bọn thị nữ dìu lên xe.
Cũng trong lúc ấy trên sườn núi phía xa, dưới bóng cây rậm có một bóng người lom khom, đang chú ý theo dõi bọn Tú Linh. Tuy mặt hắn đã bị cành lá che khuất, không nhìn được rõ, nhưng đôi mắt hắn sáng chói như hai luồng điện, đứng đằng xa vẫn trông thấy rõ.
Mãi tới khi cỗ xe đã đi khá xa, cái bóng mới lủi vào đám cây rậm, biến mất.
Vô Tâm ở trong thạch thất, thấy vị lão nhân nhắm mắt ngồi yên, hình như đã nhập định. Chàng cũng đành ngồi bên cạnh điều tức chờ đợi.
Trong thạch thất không phân rõ ngày đêm, chàng ngồi như thể không biết trải qua bao lâu, lão nhân mới mở mắt ra hỏi:
– Ban nãy ngươi vào thăm lão quái vật trước, lão có nói gì không?
Ông ta gọi lão quái vật tức chỉ vị lão nhân ở trên sườn núi, người này hành tung còn thần bí hơn ông ta nhiều.
Vô Tâm nghe hỏi, mỉm cười nói:
– Lão nhân gia chỉ hỏi đệ tử về những việc vừa qua, rồi xua tay bảo đệ tử đi ra.
Lão nhân mỉm cười:
– Lão quái vật gần đây tính nết lại càng cổ quái, ngươi đã lâu không đến, nên không biết có bữa lão muốn nếm thứ dấm cá ở Tây Hồ. Ngươi thử nghĩ xem ở đây đến cá gỗ cũng không có chứ đừng nói cá dấm, thế là lão làm ầm lên, la hét om sòm. Lại một hôm lão đánh cờ với ta, cờ chưa tàn cuộc, lão nhất định đòi ra cốc, nói là ở đây chịu tội thế là đủ rồi, một hai đòi lão Tạ phải đưa đi ngay, lão Tạ tuy không dám trái lệnh, nhưng cũng không làm nổi, tình trạng thật lúng búng tức cười.
Lão nhân miệng cứ thao thao bất tuyệt, nói toàn chuyện vu vơ, nhưng tuyệt không nhắc gì đến Tú Linh, Vô Tâm tuy thắc mắc nhưng không dám hỏi, chỉ đành lẳng lặng ngồi nghe.
Một lúc khá lâu, chợt nghe có tiếng gõ nhẹ trên bức vách, thì ra trên bức vách còn có một cánh cửa ngầm.
Vô Tâm đứng lên mở cửa, bên ngoài có một người đầu tóc bạc phơ, khom lưng bước vào, tay bưng một chiếc khay, lão trông thấy Vô Tâm chợt hớn hở reo lên:
– Nhâm tướng công về từ bao giờ thế? Nếu biết tướng công về thì lão nô đã nấu thêm một bát canh thạch giải rồi.
Vô Tâm trông thấy ông lão ấy cũng vui vẻ lắm, nhưng còn vờ làm mặt giận nói:
– Lâu lắm không gặp, sao ngươi vẫn gọi ta là Nhâm tướng công? Nếu ngươi còn gọi như vậy, ta sẽ gọi ngươi là Tạ lão tiền bối cho mà coi!
Lão nhân cũng sầm mặt nói:
– Trưởng ấu có thứ tự, lớn nhỏ có phân biệt, trên dưới xưng hô không thể loạn được, lão nô theo hầu lão gia mấy chục năm trời, chả lẽ điều ấy cũng không biết?
Ông già ngồi trên giường cười nói:
– Lão ấy cố chấp lắm, thôi cứ để tùy lão muốn gọi thế nào thì gọi.
Lão Tạ đặt chiếc khay xuống bàn, rồi quay lại cười nói với Vô Tâm:
– Độ này thạch giải sẵn lắm, để lão nô nấu một bát canh thật ngon mang lên tướng công xơi.
Nói xong lão lại khom mình lui ra. Lão nhân bảo Vô Tâm:
– Ngươi lại đây ăn một chút cơm cho đỡ đói.
Vô Tâm nghe lời cầm bát cơm lên ăn, bất giác nhìn ra gian phòng ngoài lẩm bẩm: “Còn… nàng… nàng…”
Lão nhân sầm mặt nói:
– Nàng… nàng cái gì? Ta không để nàng chết đói đâu mà sợ. Ngươi ở trong này dụng công học tập, đừng suy nghĩ vớ vẩn. Để ta truyền cho ngươi mấy môn vũ công tuyệt thế, mới có thể đối phó được với môn ma công của nhà Nam Cung thế gia.
Vô Tâm lại thấy tinh thần khấn khởi.
Lúc này chàng mới chợt nhớ đến cánh tay trắng của Lan cô, bèn đem chuyện mình suýt chết về cánh tay ấy thế nào, nhất nhất kể hết cho lão nhân nghe.
Trong khi nghe chàng nói, sắc mặt lão nhân có vẻ xúc động. Ông dựa lưng vào vách đá, đôi mắt lim dim, hình như đang cố đem trí tuệ và kinh nghiệm trường đời mấy chục năm để thử giải thích một việc thần bí mà có lẽ loài người không sao giải thích nổi.
Vô Tâm nín thở ngồi chờ, không dám kinh động. Một lúc lâu, lão nhân chợt mở mắt, thở dài nói:
– Theo chỗ ta biết thì trong vũ lâm năm xưa có một vị kỳ nhân, tên gọi “Tồi tâm sứ giả”. Người này chết đã một trăm năm. Khi sinh thời cũng ít người biết rõ hành tung, và vũ công của ông ta thâm hiểm thế nào, nhưng trong giới võ lâm, ai nghe tên ông ta cũng phải kinh hồn táng đởm.
Vô Tâm buột miệng hỏi:
– Đã không ai biết vũ công của ông ta thế nào thì sao lại sợ?
Lão nhân nói:
– Nhân vì hồi ấy trong giang hồ đồn rằng “Tồi tâm sứ giả” có một môn ma công rất thần kỳ, có thể buộc người nào nhìn ông ta một cái, là phải nghe theo mệnh lệnh của ông ta. Cái thuật ma công huyền bí ấy ngày xưa cũng có tương truyền, vũ lâm gọi là “Nhiếp tâm thuật” ai bị thuật ấy mê hoặc tức thì thần trí bị hôn mê, rồi hoàn toàn bị người thi hành thuật hiếp chế. Có người còn làm cả những việc mà sức mình không thể làm nổi, thế mới lạ chứ!
Ông lão thở dài một tiếng rồi tiếp:
– Những sự ấy rất khó giải thích, chỉ có thể lấy vài việc ra làm ví dụ, đại khái như có người không biết một chút gì về vũ công nào, nhưng một khi đã bị cái thuật nhiếp tâm làm mê thì người thi thuật muốn bắt hắn nhảy lên cao ba trượng, hắn cũng nhảy được một cách dễ dàng, hay hoặc bắt hắn phải so tài với tay vũ lâm cao thủ khác, hắn sẽ không ngần ngại gì mà nhận lời ngay. Chẳng những thế, trong khi động thủ, hắn còn có thể thi triển được những chiêu thuật mà hắn chưa từng biết bao giờ.
Vô Tâm chăm chú ngồi nghe, sắc mặt luôn luôn thay đổi.
Lão nhân lại tiếp:
– Những việc ấy đều hoàn toàn vượt ra ngoài lý lẽ mà người ta có thể giải thích được, nhưng đó là sự thật hẳn hoi, không phải là chuyện bịa. Ta chỉ có thể tạm giải thích đó là lực lượng của một loại tinh thần, chưa thể quyết đoán được.
Ai cũng tưởng “Tồi tâm sứ giả”đã có cái thuật “Nhiếp hồn” như vậy, tất có thể thu xách quần hào, muốn sao được vậy, trong giang hồ còn ai dám trái lệnh. May được cái ông ta tuy có dị tài, nhưng tâm địa cũng tốt, bình sinh không làm điều gì ác, nên không đến nỗi gây sóng gió trong giang hồ. Nhưng còn Nam Cung phu nhân…
Ông ta trầm ngâm một lát rồi nói tiếp:
– Hiện này tuy mụ dùng phần nhiều là các vị thuốc để chế ngự quần hào, nhưng theo lời ngươi nói về “Tố thủ Lan cô” thì quyết không chỉ mụ ta hiếp chế cô ta bằng dược lực thôi không, ta cho rằng tinh thần ngươi con gái này đều hoàn toàn bị mụ khống chế, nên đã quên hết cả thân thế, cũng như thời gian và vạn vật.
Vô Tâm chợt nghĩ ra, vội nói:
– Phải rồi, hèn gì mà mấy chục năm nay, dung nhan của Lan cô vẫn không thay đổi, thì ra nhờ nàng quên hết cả ngày tháng, nên mới bảo tồn được dung nhan mãi mãi không già.
Chàng nói đến đấy, lão nhân thốt nhiên biến đổi, nhưng chỉ một thoáng lại trở lại bình thường. Vô Tâm không để ý đến điều đó, vẫn thản nhiên nói tiếp:
– Nam Cung phu nhân vũ công tuy cao, cũng không có gì đáng sợ. Tứ phu nhân Trần Phượng Trinh đã ngầm đưa tin cho đệ tử, nói là ma lực mà Nam Cung phu nhân luyện, toàn là ở “Tố thủ Lan cô” cả. Mấy lần “Tố thủ” xuất hiện, tuy đều chưa đạt tới mức tột cùng, nhưng với ma lực kinh nhân ấy, cũng đủ làm cho người ta không sao kháng cự nổi, đệ tử động thủ với nàng cũng không sao tránh thoát được một chưởng, nếu để nàng luyện thành công hẳn rồi, tất Nam Cung phu nhân sẽ phát động toàn diện, lúc ấy làm sao mà ngăn chặn được.
Lão nhân mỉm cười nói:
– Ta đã nói: Muôn vật trên đời, đều có sinh có khắc, đã có “Tố thủ Lan cô” thì lại có khắc tinh của Lan cô xuất hiện.
Vô Tâm vội hỏi:
– Khắc tinh ấy là gì? Và bao giờ xuất hiện?
Lão nhân lại cười nói:
– Khắc tinh ấy biết đâu không phải là ngươi? Lại biết đâu không phải mấy hôm nữa xuất hiện?
Vô Tâm mừng rỡ nói:
– Có lẽ lão nhân gia đã tìm được cách khắc phá vũ công của nàng rồi chăng?
Lão nhân gật đầu:
– Phàm người bị thuốc độc làm mê, tất phải có thuốc giải, điều đó việc gì phải nghĩ!
Yên lặng một lát, Vô Tâm chợt hỏi:
– Có điều đệ tử rất lấy làm lạ, không hiểu Lan cô với nhà Nam Cung có quan hệ gì? Và cũng không hiểu tại sao Nam Cung phu nhân lại khống chế được nàng?
Lão nhân trầm ngâm một lát rồi nói:
– Việc này ta cũng không rõ lắm, chỉ biết rằng Lan cô với Nam Cung Minh, chủ nhân đời thứ nhất nhà Nam Cung thế gia và Nam Cung phu nhân cùng một vị ma đầu vũ lâm nữa, trong chỗ bốn người đó đều có đầu dây mối nhợ quan hệ rất phức tạp. Nam Cung Minh không những đã vì nàng mà bất hòa với Nam Cung phu nhân, vả lại cái chết của ông ta, hình như cũng có ít nhiều liên quan đến nàng. Nhưng nội tình ra sao, thật không ai biết.