Đọc truyện Titanic – Trong Vũ Trụ – Chương 8
TÁM
Ngày 29 tháng 7
Thư riêng gửi: Bác sĩ Emma Watson (Trạm vũ trụ quốc tế).
Người gửi: Jack McCallum.
Giống hệt một viên kim cương trên bầu trời. Em trông giống hệt như vậy khi nhìn từ đây. Đêm qua anh đã thức để nhìn thấy em bay lên. Anh đã vẫy tay tạm biệt em rất lâu.
Sáng nay trên kênh truyền hình Anh, em đã bị người ta chào hàng như một Bà Đúng đắn “Nữ phi hành gia đã cất cánh mà không làm văng một cái đinh nào” hay một lời gì đó quá mức như vậy. Họ đã phỏng vấn Woody Ellis và Leroy Cornell. Cả hai đều tươi tắn như những ông bố đang cảm thấy rất tự hào. Chúc mừng em! Em là con cưng của cả nước Mỹ.
Vance và phi hành đoàn đã hạ cánh đẹp như tranh. Các tay phóng viên khát tin đã vây bổ lấy Bill khi anh ấy đến Houston. Anh đã thoáng thấy anh ấy trên ti-vi. – trông anh ấy như thể già đi hai chục tuổi. Các nghi thức tang lễ cho Debbie được thực hiện vào chiều nay. Anh sẽ đến đó.
Ngày mai anh sẽ đi thuyền trên vịnh.
Emma, hôm nay anh đã nhận được đơn xin ly hôn và anh sẽ thật lòng với em. Anh thấy không ổn chút nào. Nhưng rồi anh nghĩ mọi chuyện không cố ý như vậy đúng không?
Dù sao thì chúng đã sẵn sàng, chỉ chờ chúng ta ký vào. Có lẽ bây giờ cuối cùng mọi chuyện cũng qua, chúng ta lại có thể là bạn như xưa.
Jack
Tái bút: Con mèo Humphrey hơi cáo già đấy. Em nợ anh một chiếc ghế dài.
Thư riêng của Emma gửi: Jack McCallum.
Người gửi: Emma Watson.
Con cưng của nước Mỹ ư? Chết tiệt! Chuyện bé xé ra to khi người ta đứng trên trái đất nhìn lên và chờ em gặp rắc rối. Và khi em bị như vậy, em sẽ là một gánh nặng cho những người đàn ông ở phòng trưng bày số 1. Em ghét điều đó.
Tuy nhiên, em rất thích thú khi ở trên này. Em ước anh có thể nhìn thấy cảnh từ đây! Khi nhìn xuống trái đất và thấy nó đẹp mức nào, em chỉ muốn chia sẻ một chút cảm giác đó với mọi người ở dưới kia. Giá như họ có thể nhìn thấy trái đất của chúng ta nhỏ bé, mong manh và cô đơn như thế nào. Vây quanh nó là một không gian đen tối và lạnh lẽo. Họ sẽ bảo vệ nó tốt hơn.
(À, cô lại thế rồi, lại nhòe mắt khi nhìn hành tinh của mình. Lại là một gánh nặng cho đàn ông).
Em vui mừng báo cho anh biết là em không bị buồn nôn nữa. Em có thể lao nhanh từ khoang này sang khoang khác mà không bị đau nhức. Em vẫn thần người ra mỗi khi thoáng thấy trái đất ngoài cửa sổ. Nó khiến em có cảm giác bị lộn ngược và phải mất vài giây em mới định vị lại được. Em đang cố gắng tập luyện thể lực, nhưng hai tiếng mỗi ngày là quá nhiều, nhất là khi em có rất nhiều việc phải làm, phải theo dõi hàng chục thí nghiệm, hàng tỉ bức thư điện tử từ Trung tâm quản lý hàng vận chuyển. Nhà khoa học nào cũng đòi hỏi em phải ưu tiên trước nhất dự án về động vật nuôi trong nhà của họ. Cuối cùng, em phải thức dậy để chạy đua. Nhưng sáng nay em rất mệt. Em đã ngủ trong khi tiếng nhạc đánh thức của trung tâm Houston đang bật (anh Luther nói họ làm chúng em nổ tung vì bài hát Valkyrie của Wagner).
Về việc ly hôn của chúng ta đang đến gần, em cũng cảm thấy không vui. Nhưng Jack à, ít ra chúng ta đã có bảy năm hạnh phúc. Như vậy là hơn những gì các đôi tình nhân có thể nói. Em biết anh mong muốn kết thúc việc này. Em hứa sẽ ký vào tờ đơn ly hôn ngay khi em về nhà.
Hãy tiếp tục vẫy tay anh nhé!
Emma.
Tái bút: Con Humphrey không bao giờ làm hỏng đồ đạc của em. Anh đã làm gì khiến nó buồn vậy?
Emma tắt máy tính xách tay và gấp nó lại. Trả lời thư riêng là nhiệm vụ cuối cùng trong ngày. Cô đã mong được nghe tin tức ở nhà nhưng Jack đã nói đến chuyện ly hôn khiến cô đau lòng. Vậy là anh ấy đã sẵn sàng đi tiếp, cô nghĩ. Anh ấy đã sẵn sàng “làm bạn” như ngày xưa.
Khi cô đóng khóa túi ngủ của mình, cô rất giận anh vì anh đã dễ dàng chấp nhận chấm dứt cuộc hôn nhân của họ.
Thời gian đầu khi nói đến chuyện ly hôn, họ vẫn còn tranh luận rất căng, cô cảm thấy an toàn một cách kỳ lạ mỗi khi họ to tiếng vì bất đồng. Nhưng giờ bất đồng đã hết và Jack đã đến giai đoạn lặng lẽ chấp nhận. Không còn đau đớn, không còn tiếc nuối nữa.
Và em ở nơi này vẫn nhớ đến anh. Em ghét chính mình vì điều đó.
Kenichi phân vân mãi không biết có nên đánh thức cô không. Anh đi lại bên ngoài rèm ngủ ở khoang nghỉ riêng của cô và phân vân có nên gọi cô lần nữa không. Cô thật nhỏ bé và anh không muốn đánh thức cô. Trông cô ấy rất mệt mỏi lúc ăn tối. Cô ấy đã ngủ quên khi tay vẫn cầm dĩa. Khi không có lực kéo liên tục của trọng lực, cơ thể bạn sẽ không bị đổ sập xuống nếu bạn bị ngất. Và đầu bạn sẽ không bị gật xuống để đánh thức bạn dậy. Người ta đã biết đến chuyện những phi hành gia mệt mỏi thường ngủ gật ngay trong khi đang sửa chữa và tay vẫn cầm dụng cụ.
Anh quyết định không đánh thức cô dậy rồi quay đi, một mình vào phòng thí nghiệm của Mỹ.
Kenichi chưa bao giờ cần nghỉ hơn năm tiếng một đêm. Trong khi những người khác đi ngủ, anh thường lang thang trong mê cung của Trạm vũ trụ quốc tế và kiểm tra các thí nghiệm khác nhau của anh. Kiểm tra và khám phá. Dường như chỉ khi nào phi hành đoàn đi ngủ thì Trạm vũ trụ mới thể hiện những gì lấp lánh nhất của nó. Nó biến thành một vật thể sống ầm ì, kêu lách cách. Các máy tính trên trạm điều khiển hàng nghìn chức năng khác nhau. Các mệnh lệnh bằng điện tử chạy xuyên suốt hệ thống đầu não đầy dây điện và dòng điện của nó. Khi Kenichi bay qua mê cung các đường hầm, anh nghĩ về những bàn tay con người đã lao động chỉ để tạo nên một in-sơ trong cấu trúc này. Các công nhân điện và cơ khí, các thợ đổ khuôn nhựa. Các thợ làm kính. Nhờ lao động của họ mà con trai một nông dân, lớn lên trên một ngôi làng nhỏ trên núi của Nhật giờ đang lơ lửng cách trái đất hai trăm hai mươi dặm.
Kenichi đã ở trên trạm được một tháng và sự kỳ diệu của tất cả những điều đó vẫn còn nguyên trong anh.
Anh biết thời gian được ở đây rất hạn chế. Anh biết các nhà đầu tư đang đòi hỏi rất nhiều ở anh: canxi đang dần cạn kiệt trong xương anh, cơ bắp đang yếu dần, mạch và tim yếu dần vì bây giờ chúng không còn phải làm nhiệm vụ bơm máu để chống lại trọng lực nữa. Mỗi giây phút trên Trạm vũ trụ đều quý giá và anh không muốn phí phạm một giây nào. Vì vậy trong suốt thời gian quy định nghỉ ngơi, anh đi lang thang khắp trạm, nán lại bên cửa sổ và xem những con vật trong phòng thí nghiệm.
Bằng cách đó, anh đã phát hiện ra con chuột chết.
Nó đang lơ lửng, chân cứng đơ và duỗi ra. Cái miệng màu hồng mở to. Lại là một con đực nữa. Đó là con chuột thứ tư chết trong vòng mười sáu ngày.
Anh đã kiểm tra và xác nhận là môi trường sống trong trạm vẫn hoạt động bình thường. Các mức nhiệt độ đặt sẵn không hề bị biến đổi và luồng không khí vẫn được duy trì ở mức chuẩn mực là mười hai đợt trên giờ. Sao chúng lại chết? Có thể do nhiễm độc nguồn nước hay thức ăn không? Vài tháng trước, trạm đã mất hàng chục con chuột khi các độc chất ngấm vào nguồn nước trong môi trường sống của chúng.
Con chuột trôi lơ lửng ở góc buồng. Những con đực khác đang tụ thành đống ở góc xa như thể chúng đang khiếp sợ trước cái chết của con cùng lồng. Chúng điên cuồng tìm cách tránh xa con vật, móng của chúng bám chặt vào mép lồng. Ở bên kia khung phân cách, những con cái cũng túm tụm lại. Tất cả, trừ một con. Nó đang co giật, lượn từ từ trong không trung. Móng vuốt của nó cào cào như thể muốn bám chặt vào vật gì đó.
Lại con khác bị ốm.
Khi anh nhìn thì con cái đó ngáp lần cuối như bị tra tấn rồi đột nhiên bất động.
Những con cái khác trong lồng đứng sát nhau hơn. Chúng như một đám lông trắng đang quằn quại đau đớn và sợ hãi. Anh phải ném hết các xác chết trước khi bệnh lây lan. – nếu đây là bệnh lây lan thì nó sẽ lan sang những con chuột khác.
Anh tiếp xúc với môi trường sống của chúng bằng hộp găng tay khoa học. Anh thọc tay vào găng tay cao su. Đầu tiên, khi chạm ngăn dành cho những con cái trong lồng, anh lấy cái xác và cho nó vào túi. Rồi anh mở lồng của những con cái và đưa tay vào lấy con thứ hai bị chết. Khi anh lấy nó ra, một túm lông màu trắng lao vụt qua tay anh.
Một trong những con chuột đã chui vào hộp găng tay.
Anh túm lấy nó trong không trung. Anh gần như đã buông tay ra khi thấy một cơn đau nhói. Nó đã cắn anh xuyên qua găng tay.
Ngay lập tức, anh bỏ tay ra khỏi hộp, nhanh chóng tháo găng tay và nhìn chằm chằm ngón tay mình. Một giọt máu rỉ ra. Anh không nghĩ sẽ có máu nên cảm thấy buồn nôn. Anh nhắm mắt lại, tự trách mình. Không có gì cả. – chỉ là một vết cắn thôi. Con chuột đã trả thù chính đáng tất cả những mũi tiêm anh đã chích vào nó. Anh lại mở mắt ra nhưng cơn buồn nôn vẫn còn.
Mình cần nghỉ ngơi, anh nghĩ.
Anh bắt con chuột cố vùng vẫy, nhét nó vào lồng. Sau đó, anh cho hai xác chết vào túi, đặt chúng vào tủ lạnh. Ngày mai anh sẽ giải quyết vấn đề này. Ngày mai anh sẽ thấy khá hơn.
Ngày 30 tháng 7
– Tôi đã phát hiện ra con chuột này chết hôm qua. – Kenichi nói. – Nó là con số sáu.
Emma cau mày nhìn những con chuột trong môi trường dành cho động vật. Nhà của chúng là một chiếc lồng được chia ra, con đực ngăn cách với con cái chỉ bằng một tấm lưới. Chúng sử dụng chung nguồn không khí, nước và thức ăn. Ở bên ô của những con đực, một con đã chết đang bất động, lơ lửng trong không gian, chân nó duỗi thẳng, cứng đơ. Những con đực khác đang túm lại ở một góc lồng. Chúng cào mạnh vào lồng như thể muốn thoát ra.
– Anh đã mất sáu con chuột trong mười bảy ngày ư? – Emma hỏi lại.
– Năm con đực. Một con cái.
Emma nghiên cứu các con vật còn sống xem có biểu hiện bệnh không. Chúng đều có vẻ tỉnh táo, mắt sáng, không có dịch nhầy chảy ra từ mũi.
– Trước hết, phải bỏ hết những con đã chết ra. – cô nói. – Sau đó, chúng ta sẽ xem các con khác kỹ hơn.
Cô dùng hộp găng tay, cho vào lồng và lấy con chết ra. Xác nó đã bị cứng, chân cũng cứng đơ, xương sống không còn linh hoạt. Miệng nó hơi mở và đầu lưỡi lộ ra một ít thịt màu hồng. Việc những con vật thí nghiệm chết trong vũ trụ là chuyện bình thường. Trên một chiếc tàu con thoi năm một nghìn chín trăm chín mươi tám, gần một trăm phần trăm các con chuột mới sinh đã chết. Tình trạng không trọng lực là môi trường sống quá khác biệt và không phải tất cả các loài đều thích nghi tốt.
Trước khi phóng tàu, những con chuột này đã được xem xét rất kỹ để tránh vi khuẩn, nấm và vi-rút. Nếu có dấu hiệu lây nhiễm, chúng sẽ bị loại trước khi họ lên Trạm vũ trụ quốc tế.
Cô cho con chuột chết vào túi nhựa, thay găng tay, thò tay vào lồng lấy một trong những con còn sống. Nó vùng vẫy rất mạnh, không có dấu hiệu có bệnh gì. Đặc điểm bất thường duy nhất là một bên tai bị rách do bị một trong những con cùng lồng cắn. Cô lộn nó lên để lộ ra phần bụng và thốt lên ngạc nhiên.
– Nó là một con cái. – cô nói.
– Gì?
– Anh có một con cái trong khu lồng của những con đực.
Kenichi cúi sát hơn, nhìn bộ phận sinh dục của con vật qua cửa sổ của hộp găng tay. Bằng chứng được thấy rất rõ. Mặt anh đỏ lừ vì ngượng.
– Đêm qua. – Anh giải thích. – Nó cắn tôi. Tôi đã vội cho nó vào.
Emma cười thông cảm với anh.
– Ồ, điều tồi tệ nhất có thể xảy ra là sẽ có một em bé ra đời.
Kenichi đeo găng tay và cho tay vào hộp găng tay thứ hai.
– Tôi đã phạm sai lầm. – Anh nói. – Tôi sẽ sửa.
Họ cùng nhau kiểm tra những con chuột còn lại trong lồng nhưng không thấy các mẫu thử nào bị bỏ sai vị trí. Tất cả đều hoàn toàn khỏe mạnh.
– Điều này rất lạ. – Emma nói. – Nếu chúng ta đang gặp một căn bệnh lây nhiễm thì phải có một vài dấu hiệu lây lan…
– Watson? – Griggs gọi cô trong máy điện đàm giữa các khoang.
– Tôi đang trong phòng thí nghiệm. – cô nói.
– Cô có thư khẩn từ thiết bị vệ tinh.
– Tôi sẽ đến đó ngay. – cô đóng lồng chuột và nói với Kenichi. – Để tôi kiểm tra tin nhắn. Anh lấy mấy con chuột chết anh để trong buồng lạnh ra nhé! Chúng ta sẽ xem chúng.
Anh gật đầu và bay sang tủ lạnh.
Khi đến chiếc máy tính ở khu làm việc, cô mở thư khẩn.
Gửi: Bác sĩ Emma Watson.
Người gửi: Helen Koenig, trưởng ban điều tra.
Trả lời về việc: CCU số 23 (Mẻ tế bào Archaeon)
Tin nhắn: Hãy hủy mẻ thí nghiệm này ngay lập tức. Các mẫu gần đây do tàu Atlantis gửi về đã có biểu hiện bị nhiễm nấm. Toàn bộ các mẻ tế bào Archaeon, cùng các vật chứa chúng phải bị thiêu hủy hết ngay trong nồi nấu kim loại trên trạm và tro đốt phải ném ra khỏi tàu.
Emma đọc lại tin nhắn trên màn hình. Cô chưa từng nhận được một yêu cầu kỳ lạ như vậy. Sự nhiễm nấm không nguy hiểm lắm. Việc thiêu hủy cả mẻ tế bào có vẻ là một việc quá tay. Cô mải suy nghĩ đến mệnh lệnh này quá nên không còn nhớ đến Kenichi. Anh đang lấy những con chuột chết ra khỏi tủ lạnh. Chỉ khi nghe thấy tiếng thở gấp của anh, cô mới quay đầu lại.
Đầu tiên, cô thấy khuôn mặt khủng khiếp của anh bám đầy đống ruột bẩn thỉu. Rồi cô nhìn chiếc túi ni-lông đã bị bục tung. Trong lúc hoảng loạn, anh đã để thả chiếc túi ra và nó lơ lửng tự do giữa họ.
– Cái gì vậy? – cô hỏi.
Anh ngập ngừng.
– Con chuột…
Nhưng cô không thấy con chuột chết trong túi. Đó là một mớ các mô chưa phân hủy, một múi xơ toàn thịt và lông khiến người ta sợ điếng người. Và giờ chúng đang rỉ ra những giọt nước có mùi rất khó chịu.
Một thảm họa sinh học!
Cô lao rất nhanh dọc theo khoang tàu, đến bảng cảnh báo và nhấn nút đóng sự lưu thông không khí giữa các khoang. Kenichi đã mở khoang cấp cứu và lấy ra hai mặt nạ lọc khí. Anh ném một chiếc về phía cô. Cô chụp lấy, rồi úp ngay lên mũi và miệng mình. Họ không cần nói một lời nào, họ đều biết cần phải làm gì.
Họ nhanh chóng đóng cánh cửa ở đầu kia khoang tàu, và đã cách ly có hiệu quả phòng thí nghiệm với các khoang còn lại trên tàu. Sau đó, Emma lấy túi đựng chất thải sinh học, cẩn thận đi về phía chiếc túi đang lơ lửng chứa đầy thịt đã chảy thành nước. Áp lực bề mặt khiến chất lỏng bị giới hạn thành một giọt nước. Nếu cô cẩn thận không khiến không khí lay động, cô có thể cho nó vào túi và không để rơi ra một giọt nào. Cô nhẹ nhàng hạ túi đựng chất bẩn lên mẫu vật đang trôi tự do rồi nhanh chóng đóng kín lại. Cô nghe thấy Kenichi thở phào nhẹ nhõm. Thảm họa đã được ngăn chặn.
– Nó có rớt ra tủ lạnh không? – cô hỏi.
– Không. Chỉ khi tôi lấy nó ra. – Anh lau mặt bằng khăn tẩm cồn và đóng gói khăn lau lại cho an toàn. – Cái túi, nó… cô biết không, nó phồng lên rất to, như một quả bóng vậy.
Vật chứa bên trong đã chịu áp lực, quá trình phân hủy đã sản sinh ra khí. Căn cứ vào chiếc túi nhựa đựng chất gây ô nhiễm, cô có thể thấy ngày con chuột chết trên nhãn. Điều này thật vô lý! Cô nghĩ. Chỉ trong vòng năm ngày, cái xác đã phân hủy thành các đám thịt màu vàng pha đen. Khi sờ vào, chiếc túi vẫn lạnh, chứng tỏ tủ lạnh vẫn hoạt động bình thường. Dù được để trong kho lạnh nhưng một yếu tố nào đó đã thúc đẩy quá trình phân hủy của cơ thể. Các vi khuẩn liên cầu ăn thịt chăng? Cô băn khoăn. Hay đó là loại vi khuẩn khác có khả năng hủy hoại tương đương?
Cô nhìn Kenichi và nghĩ. Nó đã bắn vào mắt anh ấy.
– Chúng ta cần nói chuyện với nhân viên kiểm tra chính của anh. – cô nói. – Đó chính là người đã gửi những con chuột này lên.
Lúc đó mới năm giờ sáng, tính theo giờ ban ngày của khu vực Thái Bình Dương nhưng giọng nói của bác sĩ Michael Loomis, nhân viên kiểm tra chính cho thí nghiệm mang tên “Sự thụ thai và quá trình thai nghén ở chuột trong suốt chuyến bay trong vũ trụ” được mọi người để ý sát sao và rất quan tâm. Anh ta đang nói với Emma từ Trung tâm nghiên cứu Ames tại California. Dù không nhìn thấy anh ta nhưng Emma có thể hình dung ra người đàn ông có giọng nói như thế này: cao lớn và năng động. Đó là một người đàn ông mà đối với anh ta, năm giờ sáng là thời gian làm việc bình thường.
– Chúng tôi đã theo dõi và kiểm tra những con vật này hơn một tháng. – Loomis nói. – Đây là một thí nghiệm không gây quá nhiều áp lực cho con vật. Chúng tôi đã dự định sẽ trộn lẫn những con đực và con cái tuần sau và hy vọng chúng sẽ kết bạn và giao phối thành công. Nghiên cứu này có khả năng ứng dụng quan trọng cho các chuyến bay vũ trụ dài hạn và cho việc tìm ra và sở hữu các hành tinh mới. Như cô có thể tưởng tượng ra thì những con chết đã khiến chúng tôi khá buồn.
– Chúng tôi đã có các mẻ tế bào nuôi trong lồng ấp. – Emma nói. – Toàn bộ những con chuột chết có vẻ như đã phân hủy nhanh hơn mức bình thường. Căn cứ vào tình trạng của các xác chết, tôi lo ngại về việc lây nhiễm các khuẩn clostridia hay khuẩn liên cầu.
– Có các vi khuẩn nguy hiểm như vậy trên trạm ư? Đó là một vấn đề rất nghiêm trọng.
– Đúng vậy! Đặc biệt là trong một môi trường khép kín như của chúng tôi. Chúng tôi đều có nguy cơ bị lây bệnh.
– Còn việc khám nghiệm các xác chuột thì sao?
Emma ngập ngừng.
– Chúng tôi mới chỉ bắt tay vào việc giải quyết ô nhiễm cấp độ II ở đây. Không có gì nguy hiểm hơn. Nếu đây là một mầm bệnh nguy hiểm thì tôi không thể để có nguy cơ ảnh hưởng đến các động vật khác.
Và cả con người nữa.
Họ im lặng. Sau đó, Loomis nói.
– Tôi hiểu. Và tôi nghĩ tôi đồng ý với cô. Cô đã hủy an toàn các xác chết chưa?
– Tôi đã làm ngay rồi.
Ngày 31 tháng 7
Lần đầu tiên kể từ khi đến Trạm vũ trụ quốc tế, Kenichi không ngủ được. Anh kéo khóa túi ngủ hàng tiếng rồi nhưng anh vẫn thức và nghĩ đi nghĩ lại về vấn đề hóc búa từ những con chuột chết. Dù không ai nói một lời trách móc nào nhưng ở một mức độ nào đó, anh phải chịu trách nhiệm về thí nghiệm bị thất bại. Anh cố nghĩ xem anh đã làm sai điều gì. Có lẽ anh đã dùng kim tiêm bị nhiễm bẩn khi anh lấy mẫu máu của chúng, hoặc là anh đã sơ suất khi sắp đặt lại môi trường sinh sống của chúng? Các ý nghĩ về tất cả các lỗi lầm có thể anh đã gây ra khiến anh không tài nào ngủ được.
Đầu anh đau như búa bổ.
Anh nhận ra sự khó chịu lần đầu tiên vào sáng nay khi hai mắt anh lờ mờ đau nhói. Càng về cuối ngày, cơn đau nhói càng khó chịu, và giờ thì nửa đầu bên trái của anh đau nhức. Đó không phải là một cơn đau dữ dội mà chỉ hơi khó chịu.
Anh mở khóa túi ngủ. Anh đã không nghỉ ngơi khi có bất cứ chuyện gì, có lẽ anh nên kiểm tra lại lũ chuột.
Anh bay qua khoang ngủ của Nicolai và đi về phía một dãy các khoang nối tiếp nhau dẫn đến khoang của Mỹ. Chỉ khi vào phòng thí nghiệm anh mới nhận ra có người nữa trong phòng.
Những giọng nói lầm bầm trong phòng thí nghiệm NASDA bên cạnh. Anh lặng lẽ bay sang nút số hai, nhìn qua cánh cửa để mở. Anh thấy Diana Estes và Michael Griggs quấn chân vào nhau, miệng họ gắn chặt trong lúc nghiến ngấu khám phá nhau. Ngay lập tức, anh lùi lại và không bị phát hiện. Mặt anh đỏ lên vì ngượng do những gì anh vừa thấy.
Giờ thì sao đây? Anh có nên cho họ sự riêng tư và lui về khoang ngủ của mình không? Điều này không hay ho chút nào, anh bỗng tức giận nghĩ. Mình ở đây để làm việc, để hoàn thành những nhiệm vụ của mình.
Anh bay sang khoang nuôi động vật. Anh cố tình ồn ào khi mở và đóng các ngăn kéo trong ô. Một lúc sau, như anh đã nghĩ, Diana và Griggs thình lình xuất hiện. Cả hai đều đỏ mặt. Bọn họ nên như thế, anh nghĩ, khi nghĩ đến những gì họ vừa làm.
– Chúng ta có rắc rối với máy ly tâm. – Diana nói dối. – Tôi nghĩ giờ nó đã được sửa.
Kenichi chỉ gật đầu, không để lộ ra bất cứ dấu hiệu gì chứng tỏ anh đã biết sự thật. Diana lạnh lùng như băng về việc này và cả hai đều tỏ ra giận anh. Ít ra thì Griggs cũng còn chút nhân cách nên trông có vẻ hơi hối lỗi.
Kenichi nhìn theo khi bọn họ bay ra khỏi phòng thí nghiệm và biến mất ở cửa vào. Rồi anh lại chú ý vào môi trường sống của lũ chuột. Anh nhìn sát vào lồng.
Một con nữa lại chết. Một con cái.
Ngày 1 tháng 8
Diana Estes bình tĩnh nâng tay lên để quấn ga-rô và gấp, duỗi tay vài lần để phần mạch trước khuỷu tay phồng lên. Cô không nhăn mặt hay quay đi khi mũi tiêm chọc qua da. Thực sự thì Diana rất lạnh lùng. Có thể cô đã đứng nhìn người khác bị lấy máu. Mỗi phi hành gia đều chịu đau đớn nhiều lần trong suốt thời gian làm việc. Ở khâu chọn lựa, họ phải chịu nhiều lần lấy máu, các bài kiểm tra thể chất và những câu hỏi khó chịu nhất. Các chất trong huyết thanh, điện tâm đồ và số lượng tế bào được báo cáo liên tục và được các bác sĩ y khoa vũ trụ nghiên cứu kỹ. Họ thở hổn hển và vã mồ hôi với guồng làm việc đơn điệu, cùng các vật mạ điện gắn vào ngực họ, các chất dịch trong cơ thể họ bị biến đổi, ruột và từng phần trên da cũng bị kiểm tra kỹ. Các phi hành gia không chỉ được huấn luyện cao độ về mặt nhân sự, họ còn là vật thí nghiệm. Trong khi bay quanh quỹ đạo, họ tự bắt mình tham gia vào những bài kiểm tra rất đau đớn.
Hôm nay là ngày lấy mẫu máu. Là bác sĩ trên trạm, Emma là người cầm kim tiêm và xi-lanh nên không hề ngạc nhiên khi ai cũng chán nản kêu lên khi thấy cô đến.
Chỉ có Diana giơ tay ra sẵn sàng chờ đợi. Emma chờ cho kim tiêm bơm đầy máu, cô cảm nhận thấy ánh mắt người phụ nữ kia đang theo dõi và đánh giá kỹ năng, kỹ xảo của mình. Nếu công nương Diana là bông hồng của nước Anh thì tại Trung tâm vũ trụ Johnson, người ta nói đùa rằng Diana Estes là cục đá lạnh của nước Anh. Đó là một phi hành gia có thái độ kiêu hãnh không bao giờ bị bẻ gãy, thậm chí khi đang ở trong tình thế nước sôi lửa bỏng.
Bốn năm trước, Diana đã ở trên tàu Atlantis khi một động cơ chính ngừng hoạt động. Trong đoạn băng phát về cho phi hành đoàn, giọng nói của viên chỉ huy, viên lái tàu đều có vẻ hoảng hốt khi họ điều khiển hủy phóng tàu sang bờ bên kia Đại Tây Dương. Nhưng đó không phải là giọng nói của Diana. Người ta nghe thấy cô lạnh lùng đọc danh sách các việc cần làm khi tàu Atlantis lao ầm ầm xuống để hạ cánh không an toàn ở Bắc Phi. Một điều nữa đã gắn danh tiếng lạnh như băng cho cô là khi lấy các mẫu thử sinh học. Trong một lần phóng tàu, cả phi hành đoàn đều bị gắn dây điện để đo huyết áp và nhịp tim. Trong khi nhịp tim của những người khác tăng vọt thì nhịp tim của Diana hầu như không tăng quá chín mươi sáu nhịp. Đây là mức khi người ta thấy khoan khoái.
– Đó là vì cô ấy không phải là con người. – Jack đã nói đùa. – Cô ấy thực sự là một người máy, là cỗ máy đầu tiên trong dây chuyền các phi hành gia tân tiến nhất của trung tâm NASA.
Emma phải thừa nhận rằng người phụ nữ này có cái gì đó không thuộc về con người.
Diana nhìn vết tiêm trên tay, thấy máu đã ngừng chảy và như một chuyện tất nhiên, cô quay trở lại với những thí nghiệm về việc phát triển các chất protein trong suốt của mình. Cô là một người máy hoàn hảo thật sự. Chân tay dài, mảnh khảnh, nước da mịn màng và có màu tái như sữa do đã sống một tháng trong vũ trụ. Tất cả những điều đó còn được cộng thêm một bộ óc thông minh siêu phàm. Đó là lời của Jack, người đã huấn luyện cùng Diana cho nhiệm vụ trên tàu con thoi mà anh sẽ không bao giờ hoàn thành được.
Diana có một bằng tiến sĩ về khoa học nghiên cứu các nguyên liệu và đã xuất bản vài chục bài nghiên cứu về khoáng chất zeolit. – các nguyên liệu kết tinh được sử dụng trong công nghiệp lọc dầu. – trước khi được nhận vào chương trình làm phi hành gia. Giờ cô ta là nhà khoa học kiêm nhiệm cả các nghiên cứu hữu cơ và vô cơ. Trên trái đất, sự hình thành các tinh thể bị trọng lực làm hỏng. Trong vũ trụ, các tinh thể phát triển lớn hơn và phức tạp hơn, cho phép con người nghiên cứu toàn diện hơn cấu trúc của chúng. Hàng trăm chất protein trong cơ thể con người, từ chất protein trong máu đến các chất kích dục cố định đều đang được nuôi cấy như các tinh thể trên Trạm vũ trụ quốc tế. Đây là một nghiên cứu y dược quan trọng có thể mở đường cho việc phát triển các loại thuốc mới.
Khi đã làm xong cho Diana, Emma rời phòng thí nghiệm của Hãng hàng không Vũ trụ Châu Âu, về khoang nghỉ ngơi để tìm Mike Griggs.
– Anh là người tiếp theo. – cô thông báo.
Anh ta lầm bầm và miễn cưỡng đưa tay ra.
– Tất cả vì khoa học.
– Lần này chỉ lấy một ống thôi. – Emma nói trong khi buộc ga-rô.
– Chúng tôi đã bị tiêm nhiều mũi lắm rồi, đến mức trông chúng tôi chẳng khác gì bọn nghiện ngập.
Cô đập nhẹ vào cánh tay anh ta mấy cái để làm dịu mạch máu dưới khuỷu tay. Nó đang phồng lên, có màu xanh và trông như một sợi dây dưới cánh tay lực lưỡng của anh ta. Griggs cảm thấy gò bó khi phải sống trong tình trạng bị kiểm soát. – việc sống trong quỹ đạo không hề đơn giản. Cuộc sống trên Trạm vũ trụ tổn hại rất nhiều đến cơ thể con người. Khuôn mặt của các phi hành gia sưng húp lên, phồng to lên vì các chất dịch bị biến đổi. Các cơ đùi và bắp chân của họ teo tóp lại cho đến khi họ chỉ còn lại “những cái chân gà”. Chúng tái xám và gầy nhô xương, thò ra khỏi những chiếc quần đùi quá rộng như bị may lỗi. Nhiệm vụ của họ rất nặng nề và sự khó chịu cũng không thể đếm hết được. Họ sẽ cảm thấy như bị tra tấn về tinh thần là bị nhốt hàng tháng trời cùng các thành viên trong đoàn, những người cũng chịu áp lực, hiếm khi được tắm và mặc toàn quần áo bẩn.
Emma dùng khăn lau chất cồn rồi xuyên kim vào mạch. Máu chảy vào trong xi-lanh. Cô nhìn anh ta và thấy anh ta quay đi.
– Anh không sao chứ?
– Không sao. Tôi rất cảm ơn một con ma cà rồng có kỹ xảo.
Cô tháo ga-rô và nghe thấy anh ta thở dài khi cô rút mũi tiêm ra.
– Giờ thì anh ăn sáng được rồi. Tôi đã lấy máu của mọi người, trừ Kenichi. – cô nhìn quanh khoang sinh hoạt. – Anh ấy đâu nhỉ?
– Sáng nay tôi chưa gặp anh ấy.
– Tôi hy vọng anh ấy chưa ăn gì. Điều đó sẽ khiến lượng đường glu-cô-zơ bị bóp chặt.
Nicolai lặng lẽ bay ra một góc và đã ăn sáng xong.
– Anh ấy vẫn ngủ.
– Lạ thật. – Griggs nói. – Anh ấy luôn thức dậy trước mọi người mà.
– Giấc ngủ của anh ấy không sâu lắm. – Nicolai nói. – Đêm qua, tôi nghe thấy anh ấy nôn mửa. Tôi hỏi có thể giúp gì thì anh ấy từ chối.
– Tôi sẽ đến xem. – Emma nói.
Cô rời khoang sinh hoạt, đi theo hướng đường ống dài loằng ngoằng đến khoang dịch vụ của Nga. Đó là chỗ ngủ của anh. Cô thấy rèm cửa cá nhân của anh vẫn khép.
– Kenichi? – cô gọi to. Không ai trả lời. – Kenichi? – cô thoáng lưỡng lự, mở rèm và thấy khuôn mặt anh.
Mắt anh đỏ tươi như máu.
– Trời ơi! – cô kêu lên.
DỊCH BỆNH