Bạn đang đọc Tình yêu trở lại – Chương 35
Chương 35Tác giả: Madge SwindellsB ây giờ đã là cuối tháng Một, gió đông nam đã ngưng thổi từ đêm hôm trước khiến cho khu cảng trở nên nóng nực khó chịu vô cùng. Simon đang ngồi trong văn phòng khi anh nhận được một gói bưu phẩm chuyển tới. Nhìn vào bì thư, anh run bắn lên. Số phận của anh đang được đặt trên bàn cân này. Trong chiếc bì thư ấy có thể là bản án tử hình hay cũng có thể là một sự giải thoát.
Họ đã khai trương dịch vụ của mình được một năm rồi. Trong mấy tháng đầu công việc tiến triển tốt đẹp, việc làm không thiếu và họ có thể kiếm được chút ít lợi nhuận. Nhưng rồi càng ngày lại càng có nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh và họ sớm nhận thấy rằng mình thiếu tiền trả lương cho công nhân trầm trọng và hóa đơn mua sơn thì cứ tăng lên vùn vụt vì hai khoản này họ phải thanh toán cứ ba mươi ngày một lần, trong khi các hãng tàu biển lại thường chuyển tiền cho họ chậm trễ tới cả mấy tháng. Hầu hết các trang thiết bị của họ đều được mua chịu và khoản nợ đó dần trở thành gánh nặng mà việc kinh doanh hầu như không thể gánh nổi.
Simon phải chịu đựng nhiều đêm mất ngủ, đặc biệt là những đêm trước ngày phải thanh toán tiền lương. Tới cuối tháng Mười hai thì anh quyết định đến ngân hàng để vay một số vốn dài hạn. Viên giám đốc ngân hàng bảo anh phải tính toán số vốn luân chuyển cần trong hai năm tới và có một dự án khả thi để biết chắc sẽ thu được lợi nhuận. Sau nhiều lần thất bại, cuối cùng anh và Otto cũng làm được điều này. Từ đó họ phát hiện thấy rằng muốn tồn tại được trong vòng hai năm tới cần phải có một số vốn là hai mươi nghìn bảng. Sau đó, số tiền mua chịu các trang thiết bị sẽ được thanh toán hết và họ sẽ được sở hữu một doanh nghiệp thu nhiều lợi nhuận. Kể lừ lúc đó trở đi, Simon gầy rộc cả người. So với tất cả những gì mà anh đã từng làm – săn cá voi, làm ruộng và phóng ngư lôi trong chiến tranh – thì công việc kinh doanh này quả là kinh khủng. Anh tự hỏi tại sao mình lại lao vào nó như một kẻ ngờ nghệch như vậy. Anh đã bắt đầu thất vọng vì thiếu vốn, bắt đầu mất hết hy vọng thành công. Giờ đây anh đang cầm bức thư trả lời trên tay. Khỉ thật, tại sao họ để lâu như vậy mới trả lời cơ chứ, anh bực bội nghĩ thầm trong lúc mở thư ra. Mắt anh lướt nhanh qua những hàng chữ được đánh máy rõ ràng. Ngân hàng thông báo rằng đã quyết định cho họ vay năm nghìn bảng, một phần tư số mà họ cần. Với số tiền này, họ có thể cầm cự được một thời gian, nhưng còn sau đó thì sao?
Cuối cùng chính Otto là người đã nghĩ ra một giải pháp. Họ sẽ tách phần việc cứu hộ ra làm một công ty độc lập. Hiện giờ họ mới chỉ có một vài trang thiết bị nhưng số tiền vay được của ngân hàng cũng đủ để mua thuyền, máy bơm không khí, đồ lặn và trả lương cho thợ lặn trong vài tháng. Họ sẽ nhặt nhạnh thêm những đồ chiến lợi phẩm hiện đang vứt đầy bờ biển và cho tới cuối năm sẽ kiếm đủ tiền thông qua công việc cứu hộ ấy để tiếp tục đầu tư cho những công việc kinh doanh còn lại. Simon thì lại không muốn mạo hiểm.
– Thôi được rồi, mình công nhận như vậy cũng khá mạo hiểm. – Otto đáp lại. – Nhưng kinh doanh thì phải thế thôi. Nếu như chúng ta thành công thì số tiền kiếm được từ công việc cứu hộ sẽ đủ để kéo chúng ta ra khỏi vũng rác rưởi này.
Mãi sau Simon mới ưng thuận nhưng với điều kiện là họ phải nhận được một hợp đồng cứu hộ và chính anh sẽ đi khảo sát địa hình vùng cảng trước khi đầu tư cho việc mua sắm thiết bị lặn.
Trong khi Simon tiếp tục với công việc sơn sửa các con tàu thì Otto đi ra ngoài tìm kiếm các hợp đồng cứu hộ. Chẳng bao lâu anh tìm được một hợp đồng đầy hứa hẹn: Con tàu George M. Livranos bị đắm ngoài khơi ngọn hải đăng Mouille Point cùng với ba nghìn tấn ni-ken trị giá nửa triệu bảng dưới đáy biển. Chủ con tàu đưa ra giá mời thầu trục vớt là năm nghìn bảng.
– Dễ ợt. – Otto quả quyết với Simon. – Nó cách bờ không quá hai trăm thước.
– Cũng không đơn giản vậy đâu. – Simon càu nhàu. – Làm sao mà biết được số hàng hóa còn nằm nguyên dưới đó cơ chứ?
– Nhưng cũng làm gì còn ai khác ngoài chúng ta? – Otto ngoác miệng ra cười.
Sớm hôm sau họ thuê một chiếc thuyền lớn và khởi hành từ cầu tàu số năm, vượt qua đám hải âu đang lười nhác đập cánh trong vịnh và phóng ra biển về hướng ngọn hải đăng Mouille Point, nơi xác con tàu chìm đang nằm. Họ buông neo cách bờ bốn trăm thước. Otto nghiêng người qua mạn thuyền nhìn xuống làn nước trong vắt như pha lê. Hôm đó là một ngày đẹp trời, mặt biển lăn tăn gợn sóng. Quanh họ, tảo biển dập dờn tới tận cửa vịnh Ba Mỏ Neo. Simon biết tường tận về vùng này. Theo bản năng, anh cảm thấy vấn đề phức tạp hơn là Otto dự đoán rất nhiều. Đây là một dải bờ biển đặc biệt nguy hiểm, nơi có ít nhất hàng tá xác tàu chìm trong thời gian gần đây nằm ngay dưới mặt nước. Những mỏm đá nhô lên khỏi biển nằm lan ra tới tận ngoài khơi xa, và ngọn gió đông nam quái ác có thể bất chợt nổi lên thổi như điên cuồng vào trong vịnh. Dòng nước xoáy trong vùng biển này đặc biệt mạnh và dưới nước dày đặc những đám tảo biển rối như canh hẹ, hạn chế tầm nhìn và cản trở việc tìm kiếm.
Otto lại đang phải đấu tranh để kiềm chế nỗi hoang mang đang ngày một tăng trong khi nhìn Simon đeo bình khí nén vào người bằng một động tác uể oải. Lúc còn ở với cha, anh có rất ít cơ hội để thực hành các bài tập lặn, tất cả những gì anh nhận được chỉ là lý thuyết suông mà thôi. Và mỗi khi đầu anh chìm xuống nước thì chân anh lại thường quẫy đạp lung tung ở phía trên. Lúc này miệng anh khô khốc, lòng bàn tay ướt sũng mồ hôi. Anh quay mặt đi, giả vờ quan sát bờ biển để Simon không nhận thấy điều ấy.
– Chúng ta hãy chia nhau ra nhé. – Simon nói. – Mình sẽ đi tìm xác tàu, còn cậu đi tìm ni-ken. – Rồi chợt nhận ra vẻ kỳ lạ của Otto, anh nói thêm. – Hay cậu cứ ở yên đây đi, nếu cậu thích, cho tới khi mình quay trở lại. – Đưa tay lên chỉnh mặt nạ, anh đu người xuống mạn thuyền và lặn mất tăm. Otto nhìn theo hình dáng đen sẫm của bạn, lúc này trông to lớn gấp đôi ngày thường, biến mất sau đám tảo biển.
Có rất nhiều ni-ken nằm rải rác thành đống dưới đáy nước giữa những tảng đá to. Simon bơi lên phía bắc, nhìn thấy có những thỏi ni-ken trôi dạt ra cách nơi dự đoán có xác tàu nằm tới hàng trăm thước. Với một toán thợ lặn da đen thì cũng phải mất vài tháng mới hoàn thành công việc nhưng hiện nay lại chẳng có sẵn người thợ lặn da đen nào cả và nếu phải làm một mình thì có trời mới biết đến bao giờ sẽ xong. Anh bơi lại phía xác tàu, nhận thấy rằng địa hình ít nhiều giống với những gì mà các thợ lặn địa phương đã mô tả với anh. Con tàu bị một tảng đá đâm xiên vào. nằm nghiêng với một lỗ thủng to tướng ở thân tàu. Những động vật chân tơ bám đầy vỏ tàu khiến cho con tàu lẫn vào với những tảng đá. Bên dưới đó là dấu vết của những xác tàu cũ kỹ hơn. Anh quay lại và chậm rãi bơi về thuyền.
Otto đang nằm rạp xuống sàn thuyền chống đỡ với những cơn say sóng cứ dồn dập kéo đến hết đợt này sang đợt khác. Sự sợ hãi bao quanh người anh như một đám sương mù: anh sợ vì mình chẳng biết rõ nơi này, anh sợ phải chết ở một xứ sở hoàn toàn xa lạ, anh sợ cả cá mập nữa. Như để đáp lại nỗi sợ hãi của anh, một bóng dài màu xám bơi lách qua những tảng đá, xuyên qua đám rong rêu đang lừ lừ tiên lại gần. Otto vội rút con dao ra khỏi thắt lưng, nhưng tới cách anh ba mét thì con cá mập bơi ngoặt sang hướng khác và lặn xuống làn nước lấp lánh ánh bạc. Otto ngồi xuống, miệng thở hổn hển.
– Lạy Chúa! – Simon hỏi khi anh quay trở lại. – Chuyện gì xảy ra với cậu vậy?
– Cá mập! – Otto chỉ nói được có thế.
– Ôi, ở nhiệt độ này chúng không nguy hiểm đâu. – Simon bảo Otto. – Nước lạnh lắm ông người đời ạ, vả lại quanh đây còn có bao nhiêu là hải cẩu mà.
Otto vẫn há hốc miệng ra để lấy lại hơi thở.
– Chúa ơi, ở đây đáng sợ quá! – Anh nói. – Nhiều đá to, lại cả tảo biển nữa…
– Otto này, mình thôi đi cậu ạ. Nguy hiểm lắm.
Otto gật đầu rùng mình:
– Ở đây khác nước Anh nhiều quá!
*
* *
– Vấn đề không đơn giản như cậu hình dung, Otto ạ, – Simon nói khi họ đã về đến văn phòng.
– Nước xoáy mạnh khủng khiếp. Vào những hôm biển động nó có thể quăng một người thợ lặn đi xa tới hàng trăm thước ấy chứ, rồi lại đập anh ta thật mạnh vào những lảng đá lởm chởm xung quanh. Đó là nguyên nhân tại sao những thỏi ni-ken lại bị cuốn ra xa khỏi xác tàu đến thế. May lắm thì chúng ta cũng chỉ thu gom được nửa số hàng ấy thôi, mà cũng chỉ lặn được vào những ngày trời yên biển lặng.
– Chà nhưng chúng ta cũng cứ nên làm. – Otto vẫn tha thiết với công việc này. – Thu gom được nửa số hàng là cũng thắng rồi.
Simon nhún vai.
– Giá mà được như thế. Đây quả là một cơ hội hiếm hoi, nhưng chúng ta cần một thợ lặn chuyên nghiệp.
– Mình biết có một người như thế. – Otto vội nói. – Tên hắn là Jim Perry, trước đây đã từng làm với cha mình ở cảng Elizabeth. Hiện giờ hắn đã sang đây.
– Thế ở đây hắn làm gì? – Simon tò mò hỏi.
– Hắn sang đây vì nghe nói có một con tàu chở đầy của cải bị đắm ở Dubran song lại chẳng được xơ múi gì. Nhưng hắn bảo hắn thích nơi này nên ở lại, bây giờ đang làm công nhân bốc dỡ trong bến cảng.
Đêm hôm đó đôi bạn làm việc rất khuya. Họ tính toán giá cả các trang thiết bị, lương trả cho thợ lặn, tiền mua sắm đồ lặn, máy bơm, ống dẫn và một chiếc thuyền dài vững chắc. Họ đặt tên cho doanh nghiệp của mình là Công ty cứu hộ Vịnh Table.