Tình sử Angélique

Chương 139: Đảo Crète


Đọc truyện Tình sử Angélique – Chương 139: Đảo Crète

Angélique đăm chiêu nhìn những tua vàng của chiếc mái bạt tung tăng trên mặt sóng hay nhảy nhót trong làn bọt nước trắng xóa ở đuôi tàu. Sáu chiếc gale đang dong buồm trước làn gió mới, các rầm néo buồm nhấp nhô tạo thành nh
ững đường cong duyên dáng các thân tàu trang hoàng rực rỡ, chồm trên sóng biếc. Mũi tàu chạm trổ hào nhoáng chẻ đôi các ngọn sóng, trong khi đó ở đuôi tàu các thần Trilon miệng thổi tù và, các thần tình ái đầu đội mũ miện hoa hồng và các nàng tiên cá bộ ngực tròn trĩnh cứ thoáng ẩn thoáng hiện khiến Angélique hoa cả mắt. Trên các cột buồm cờ lớn cờ nhỏ phần phật trước gió nghe rất vui tai. Vạt sau của mái bạt được cuốn lên, và không khí biển đượm mùi hương sim và mimosa theo gió đưa về từ các bến bờ gần đó tạt vào mũi nàng.
Công tước Vivonne đã trang trí mái bạt theo kiểu phương Đông, trải thảm nệm và kê sập thấp và dùng nó làm phòng ăn cho sĩ quan. Angélique cảm thấy ở đây rất thoải mái và thích đến đây thơ thẩn hơn là ngồi trong cabin chật hẹp, ẩm ướt và buồn tẻ. Ở đây tiếng sóng cồn vỗ vào thân tàu và khung vải át được cả tiếng cồng liên hồi của các giám thị và những tiếng thề khàn khàn của lính gác. Cứ như đang sống ở trong phòng khách ấy.
Cách chỗ nàng mấy bước một sĩ quan cấp dưới tên là Millerand, đang ngắm nhìn bờ biển qua kính viễn vọng – chàng là một thanh niên mày râu nhẵn nhụi nhưng tướng tá cao lớn vạm vỡ. Ông nội chàng, một đô đốc đã giáo dục chàng theo truyền thống Hải quân Hoàng gia. Vừa mới tốt nghiệp và rất nguyên tắc, chàng không tán thành việc cho một phụ nữ lên tàu. Người ta không hề thấy chàng nhếch mép cười và chàng tỏ vẻ kiêu kỳ, cố tránh nhập bọn với các sĩ quan trẻ thường đến một giờ nào đó hay tụ tập quanh Angélique. Họ không cứng nhắc như chàng, và rõ ràng rất thích gần nàng mà theo họ ít ra cũng làm tăng thêm ý vị c chuyến viễn dương. Một hàng vách đá dài màu đỏ tía lộ ra trên bờ biển, đằng sau nhô lên những ngọn núi phủ dày bụi cây và cỏ thơm. Mặc dù rực rỡ sắc màu nơi này vẫn mang vẻ hoang dã. Không có lấy một mái ngói hay một cánh buồm, những vụng nhỏ trở nên xanh biếc hơn bên những vách đá màu hồng, xinh đẹp và hấp dẫn như những hộp nữ trang. Chỉ có một vài thị trấn nằm rải rác có thành lũy bao quanh.
Công tước Vivonne xuất hiện, tươi cười như hoa, có một thị đồng da đen theo sau bưng một hộp kẹo.
– Bà đang làm gì đấy, thưa bà? – Chàng hỏi và hôn tay nàng, ngồi xuống bên cạnh – Bà có thích dùng kẹo phương Đông không? Có nhìn thấy gì không, Millerand?
– Thưa đức ông, không. Chỉ có bờ biển hoang vắng. Ngư dân đã rời các thôn xóm nằm lẻ loi để trốn bọn săn bắt nô lệ người Berber. Chắc họ đang ẩn náu ở các thị trấn.
– Chúng ta vừa mới qua vùng Antibes phải không? Nếu gặp ít vận may thì đến nay chúng ta có thể có được người bạn tốt của chúng ta là Hoàng tử Marốc cho trú ngụ.
– Vâng, thưa đức ông, miễn là một anh bạn tốt khác – tôi muốn nói Rescator – đừng xuất hiện và cản trở chuyến tuần dương của chúng ta.
– Anh có nhìn thấy gì không? – Vivonne nhắc lại, đứng lên cầm lấy chiếc ống nhòm từ tay viên sĩ quan – Chẳng có gì cả, nhưng vốn hiểu rất rõ hắn ta, tôi ngạc nhiên thực sự đấy.
Chỉ huy phó của Vivonne ông Brossadière, theo sau là hai sĩ quan cao cấp khác, Bá tước Saint Ronan và Bá tước Lageneste, bước vào, Savary bám gót họ. Tên hầu phòng người Thổ xuất hiện. Được một nô lệ trẻ giúp, hắn chuẩn bị pha cà phê trong khi các ông lớn ngồi xuống đệm.
– Thưa bà, bà có thích cà phê không? – ông Brossadière hỏi Angélique
– Tôi chẳng biết nữa. Tôi nghĩ rằng tôi phải quen dần.
– Một khi đã quen bà không thể nhịn
– Cà phê có lợi là giữ cho các dịch vị bốc lên đầu – Savary nói với vẻ thông thái – Những người Hồi giáo yêu thích cà phê, không phải vì các đức tính y học của nó mà vì theo truyền thống, Tổng thiên thần Gabriel chế ra nó để giúp cho Mohamed có thêm sức mạnh. Bản thân vị Tiên tri cũng đã tuyên bố là chưa bao giờ dùng nó mà Người không cảm thấy đủ sức tước vũ khí bốn mươi đàn ông và thỏa mãn bốn mươi đàn bà.
– Thế thì ta cũng phải uống cà phê thôi! – Vivonne vui nhộn kêu lên, ném cho Angélique một cái nhìn nồng cháy.
Những chàng trai khỏe mạnh vẫn đăm đăm nhìn nàng nay không hề có ý định giấu diếm sự ngưỡng mộ của họ. Trong tấm áo choàng màu oải hương nhạt che hờ làn da đang rạng ngời lên vì hơi biển và mái tóc vàng rạng rỡ nàng trông thật lộng lẫy. Nàng mỉm cười duyên dáng, chấp nhận sự ngợi khen của các chàng trai qua ánh mắt của họ.

– Tôi nhớ ra đã có lần uống thứ cà phê này với Bakhtiari Bey, đại sứ Ba Tư – Nàng nói.
Tên nô lệ trẻ đi một vòng đưa cho mọi người những chiếc khăn lụa Damas viền vàng. Tên hầu người Thổ rót cà phê vào các tách bằng sứ mịn. Chú bé da đen bưng hai đĩa đi mời mọi người, một đĩa đựng đường viền trắng, đĩa kia đựng hạt sa nhân.
– Nên dùng một ít đường – La Brossadière khuyên.
– Cho thêm vài hạt sa nhân – Saint Ronan gợi ý
– Uống nhấm nháp thôi, nhưng đừng để nó nguội.
– Cà phê phải uống thật nóng.
Ai cũng uống từng ngụm một, Angélique làm theo lời khuyên của họ và nhận thấy chất cà phê dẫu không ngon hương vị của nó thật dễ chịu.
– Cuộc tuần dương này bắt đầu với sự phù trợ đáng mừng – La Brossadière nói giọng tự mãn – Chúng ta thật diễm phúc có trên tàu một trong những bà hoàng của Versailles và điều quan trọng hơn tôi nghe tin là Rescatorên đường đi thăm đồng minh của hắn là Mulai Ismail – Vua Marốc – Vắng hắn Địa Trung Hải sẽ tạm yên ổn.
– Cái anh chàng Rescator luôn ám ảnh tâm trí các ông là ai thế?
– Một trong số những tên cướp bất chấp pháp luật mà chúng tôi được chỉ thị phải truy nã – Vivonne bình thản nói.
– Có phải tên cướp biển người Thổ không?
– Cướp thì chắc chắn rồi, còn Thổ hay không thì tôi không biết. Có người bảo hắn là em trai của Vua Ma rốc, nhưng có người lại cho rằng hắn là người Pháp vì hắn nói tiếng Pháp rất sõi. Tôi thì tôi cho rằng hắn là người Tây Ban Nha. Khó mà biết ai nói đúng bởi vì lúc nào mà hắn chả đeo mặt nạ. Chúng thường cắt xẻo thân thể để người khác không nhận ra sau khi chúng đã từ bỏ tôn giáo của mình. Người ta còn bảo là hắn câm, sau khi bị cắt lưỡi và xẻo mũi. Nhưng ai mà biết được? Những ai cho rằng hắn là người Marốc hay người Ma rốc gốc Tây Ban Nha đều bảo rằng hắn là một trong những nạn nhân của Tòa án dị giáo. Ngược lại những ai cho rằng hắn là người Tây Ban Nha lại tố cáo người Marốc là đã cắt xẻo thân thể hắn. Có điều chắc chắn là hắn không thể điển trai được, vì chẳng ai có thể khoe khoang là đã nhìn thấy hắn không đeo mặt nạ.
– Nhưng điều ấy không ngăn cản được hắn rất thành công với các bà các cô – La Brossadière cười ha hả – Tôi nghe nói hậu cung của hắn có một số mỹ nhân vô giá. Và tại chợ nô lệ hắn đã trả giá cao hơn cả Quốc vương Constantinople. Người đứng đầu các hoạn quan da trắng của Vua – các ông biết cả đấy, cái anh chàng Shamil Bey, người Caucasian – đành chịu thua trước cái giá mà Rescator đưa ra cho một cô gái Circasse mắt xanh như ngọc.
– Ông làm cho chúng tôi thêm rỏ dãi – Vivonne nói – nhưng có nên kể những chuyện đó trước mặt một mệnh phụ không?
– Tôi không lắng nghe đâu – Angélique nói – các ông cứ việc kể tiếp những câu chuyện về Địa Trung Hải của các ông.
La Brossadière nói ông được biết chuyện đó qua một người Ý, một Hiệp sĩ Malte mà ông gặp ở Marseille. Hiệp sĩ từ đảo Crète trở về, tại đây ông cũng đã kiếm được một số nô lệ, và nhớ rõ cuộc bán đấu giá ấy: Rescator đã ném hết túi vàng này đến túi vàng khác dưới người đẹp Circasse mãi cho đến khi chúng ngập đến đầu gối cô gái.
– Chắc chắn hắn phải rất giàu – Vivonne nói trong cơn giận dữ đột ngột khiến mặt chàng đỏ bừng – Chẳng phải vô cớ mà người ta đặt cho hắn cái tên Rescator. Tôi chắc là bà không biết tên ấy nghĩa là gì phải không thưa bà?

Angélique lắc đầu.
– Tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là một tên buôn tiền giả, hoặc làm tiền giả. Trước kia ở đâu cũng có một số tên, những thợ thủ công chẳng nguy hiểm mà thậm chí cũng chẳng gây phiền phức cho ai. Nhưng bây giờ chỉ có một kẻ độc quyền: Rescator.
– Ông bắt đầu suy ngẫm về chuyện này một cách nghiêm túc – Millerand, viên trung úy trẻ, bản chất khá đa cảm và e thẹn, lấy hết can đảm để tham gia câu chuyện – Ông bảo cái mũi bị xẻo của Rescator không cản trở việc hắn quyến rũ được nhiều thiếu nữ, nhưng mà bọn cướp này chỉ xài những nô lệ chúng mua hay cướp được. Vì thế mà theo tôi không thể căn cứ vào số lượng thê thiếp và đánh giá tài quyến rũ phụ nữ của chúng. Lấy ví dụ tên phản bội Mezzo Morte ở Algiers, tên buôn nô lệ lớn nhất Địa Trung Hải, một con lợn ỉ. Nhìn hắn chẳng ai có thể nghĩ rằng có người đàn bà nào đó hiến thân cho hắn vì mê hắn.
– Trung úy ơi, La Brossadière nói – anh nói nghe chừng lôgíc đấy, nhưng anh đã lầm ở hai điểm: Thứ nhất là Mezzo Morte tuy là tay buôn nô lệ lớn nhất ở Địa Trung Hải, không hề có một người đàn bà nào ở hậu cung bởi vì hắn thích… con trai hơn. Người ta nói hắn nuôi hơn năm chục đứa trong lâu đài của hắn tại Algiers. Thứ hai là Rescator có tiếng là được phụ nữ mê. Hắn mua rất nhiều nhưng chỉ giữ những người hắn muốn chung sống.
– Những người khác hắn làm gì?
– Trả lại tự do. Đó là trò tiêu khiển ưa thích của hắn. Hắn trả tự do cho tất cả nô lệ, đàn ông cũng như đàn bà, khi nào hắn khoái. Chẳng biết câu chuyện tôi kể có đúng được bao nhiêu nhưng chắc chắn đó là một phần huyền thoại về hắn.
– Huyền thoại! – Vivonne lầu bầu vẻ ghê tởm – Cái phần huyền thoại ấy đúng một trăm phần trăm. Hắn có trả tự do cho bọn nô lệ thật, chính tôi chứng kiến việc
– Làm như thế có lẽ để chuộc cái tội đã từ bỏ tôn giáo của mình – Angélique nói.
– Cũng có thể, nhưng có nhiều khả năng hơn là hắn thích gây rắc rối. Hắn làm thế để… gây lúng túng… cho mọi người – Vivonne gầm lên – hắn thích chơi vậy đấy. Anh còn nhớ không Gramont khi anh còn ở trong hạm thuyền của tôi trong trận Mũi Passero, anh còn nhớ hắn đã cướp hai chiếc gale không? Các anh có biết hắn đã làm gì với bốn trăm tù nhân trên tàu không? Hắn tháo hết xiềng xích của chúng ra và thả chúng lên bờ ở Vơnidơ. Các anh không thể tưởng tượng nổi dân chúng Vơnidơ vui thú trước món quà ấy như thế nào đâu. Nó đã gây ra một sự cố tầm cỡ thế giới và Hoàng thượng đã nhận xét với tôi không phải không có chút mỉa mai rằng khi tôi để cho gale của mình bị cướp thì chí ít cũng nên tôn một tên nô lệ bình thường làm đại ca.
– Câu chuyện của ông thật hấp dẫn – Angélique nói – Địa trung Hải xem ra đầy những nhân vật lí thú.
– Cầu thượng đế hãy che chở cho bà nếu bà gặp phải một tên trong bọn đó. Dù chúng là những kẻ phiêu lưu hay phản đạo, buôn nô lệ hay thương nhân bình thường, hễ đã bỏ trốn theo bọn bất trung để chống lại các Hiệp sĩ xứ Malte hay vua nước Pháp đều phải lên giàn thiêu cả. Các anh chưa nghe về chuyện Hầu tước d’ Escrainville người Pháp, hay về người Đan Mạch Eric Jansen; hay chuyện về Mezzo Morte ta vừa mới nhắc đến, rồi chuyện về anh em nhà Salvador người Tây Ban Nha và về rất nhiều tên hải tặc khác. Địa Trung Hải đầy rẫy bọn chúng. Nhưng nói về cái thứ cặn bã ấy thế là đủ rồi. Trời đã mát dần, tôi cho rằng đã đến lúc bà nên đi xem tàu gale. Tôi sẽ đi kiểm tra xem mọi thứ đã chuẩn bị chu đáo chưa.
Đô đốc đi rồi, các sĩ quan khác đều lần lượt cáo biệt Angélique và trở về vị trí của mình.
Đúng lúc đó Angélique trông thấy Flipot. Chú bé hẳn phải chạy từ các cửa hầm lên các bậc thang, vì chú thở hổn hển và mặt tái nhợt. Chú nhìn bà chủ không chớp mắt, vẻ phờ phạc, sợ hãi.
– Có việc gì thế? – Nàng kêu lên
– Kìa – Chú ấp úng – con
Nàng chạy đến bên Flipot và lay người chú:

– Cái gì? Mày nom thấy cái gì? Ai hả?
Chắc chắn đã nhìn thấy Đêgrê khi rời bến nên nàng nghĩ rằng chàng sắp sửa nhảy xổ ra trước mặt nàng bất cứ lúc nào.
– Cái gì? Mày nói đi nào? – Angélique ra lệnh.
– Con trông thấy hắn. Con trông thấy tên quản nô lệ… Ôi thưa bà Hầu tước … con sợ chết đi được… con không thể… Con không thể nói cho bà… kìa… phía dưới hầm nô lệ kia.
Chú ọe và giật mạnh khỏi tay nàng, chạy đến chỗ lan can để nôn mửa.
Angélique nhẹ cả người. Chú bé đáng thương chưa quen sóng biển. Cảnh tượng các tù nhân và mùi hầm tàu chắc làm cho nó lộn mửa. Angélique bảo người Thổ rót cho nàng một tách cà phê.
– Đứng đấy – nàng bảo Flipot – không khí trong lành sẽ làm mày dễ chịu.
– Ôi lạy chúa, kinh quá – nó nhắc đi nhắc lại – nhìn thấy mà chết khiếp.
– Xong rồi – Công tước Vivonne trở lại nói – Mấy hôm nữa chúng ta sẽ sẵn sàng đón bão táp. Xin bà hãy đi duyệt chiếc tàu gale mà bà đã liều lĩnh bước xuống.
Dãy lan can thiếp vàng và những bức rèm gấm đỏ của mái bạt đã ngăn đôi thiên đường và địa ngục. Angélique vừa bước lên boong, ngọn gió bỗng đưa đến mui tàu cái mùi tởm lợm của bọn nô lệ đang chèo phía dưới, hết ngả người rồi lại nhổm người lên một cách đơn điệu khiến nàng chóng mặt. Công tước Vivonne đưa tay đỡ nàng đi xuống bậc cấp rồi đi lên trước để hướng dẫn.
Một lối đi men tàu chạy dọc theo gần hết chiều dài tàu gale. Hai bên là những hầm nồng khẳm, kê các ghế dài của bọn nô lệ và tội phạm. Ở đây chẳng có vàng son gì hết mà chỉ toàn gỗ ván, khô rám và bọn chèo thuyềnừng bốn tên một.
Đô đốc tiến lên phía trước, bước khệnh khạng cố ý phô bày hai bắp chân rất đẹp bọc trong tất lụa màu đỏ viền kim tuyến. Chàng rón rén đặt bàn chân mang giày đẹp gót đỏ lên trên những tấm ván vấy bùn. Quân phục của chàng bằng gấm xanh, ve áo rộng màu đỏ và một thắt lưng to bản màu trắng viền vàng bao quanh eo lưng. Cổ áo và tay áo đều viền đăngten quý. Chiếc mũ của chàng cắm nhiều lông đà điểu đến nỗi mỗi khi gió thổi nó nom như một tổ chim đang vẫy cánh chuẩn bị bay. Chốc chốc chàng lại dừng lại kiểm tra mọi thứ rất tỉ mỉ. Đến cạnh khoang bếp chàng đứng hẳn lại. Bên trên bếp lửa nhỏ treo hai vạc lớn bốc hơi đựng khoai tây loãng và xúp đỏ, món ăn hàng ngày của các tay chèo.
Vivonne nếm món xúp và thấy nó kinh tởm quá. Chàng có phân bua với Angélique rằng đích thân chàng đã trông coi việc cải tiến bếp trên gale. Cái cũi nặng hơn hai tấn, cứ lắc lư mỗi khi có sóng to và các tội phạm gần đó thường bị bỏng.
– Anh đã cho giảm bớt trọng lượng của nó và hạ thấp nó bớt xuống như em thấy đó.
Angélique khoát tay tỏ vẻ tán đồng. Mùi hôi tanh của các tay chèo cộng thêm mùi xúp chẳng ra gì khiến nàng buồn nôn. Nhưng Vivonne đang hân hoan vì được ở bên nàng và tự hào về con tàu không để nàng yên. Nàng buộc phải nói những lời hoa mỹ để tỏ ra khâm phục các súng ống, trang thiết bị trên tàu và tài sắp xếp bố trí của Vivonne.
Vivonne giải thích là các tay chèo chia làm ba ca, mỗi ca có một cảnh vệ quản. Nói chung hai ca chèo trong khi ca kia nghỉ. Các tay chèo được chọn từ các nhà tù ở Pháp và trong số người nước ngoài bị bắt.
– Tay chèo phải rất khỏe và phải được chọn trong số bọn đầu trộm đuôi cướp. Bọn tội phạm người ta gửi cho chúng tôi từ các nhà tù cứ chết như rạ vì chúng không đủ khỏe. Vì thế chúng tôi thường chọn bọn Thổ và Marốc.
Angélique mải nhìn một nhóm có râu dài, đa số đeo thánh giá bằng gỗ ở cổ.
– Bọn kia hình như không phải người Thổ và không có hình trăng lưỡi liềm treo trên ngự
– Thực ra họ là người Nga, chúng tôi mua được của bọn Thổ. Họ là những tay chèo rất khá.

– Thế còn những tên đằng kia, những tên râu dài và mũi to ấy?
– Họ là người xứ Georgi ở vùng Capca chúng tôi mua của các Hiệp sĩ xứ Malte. Còn những tên này mới chính là người Thổ. Họ là những người tình nguyện. Chúng tôi thuê họ làm cái chèo vì họ có sức mạnh phi thường. Họ làm nhiệm vụ duy trì kỉ luật khi con tàu đang lướt sóng.
Khi các tay chèo cúi rạp về phía trước, sống lưng họ trật ra dưới bộ đồng phục đỏ, còn khi họ bật ngửa ra sau Angélique nhìn thấy những bộ mặt đầy râu ria và những cái mồm há hốc vì cố sức. Mùi mồ hôi nồng nặc, bẩn thỉu cũng không kinh tởm bằng những vẻ mặt hung dữ đang ngắm nghía người đàn bà đứng phía trên như ngắm một bóng ma.
Áo váy của nàng là áo váy mùa xuân và những chiếc lông cắm trên chiếc mũ đồ sộ của nàng phất phơ trước gió. Một ngọn gió đột ngột thổi bồng chiếc váy của nàng lên, khiến cho những vỏ sò dính trên đó quẹt vào mặt một tội phạm bị xích cạnh mép tàu. Hắn quay đầu lại rất nhanh và lấy hai hàm răng giữ chặt chiếc váy. Angélique thét lên khiếp sợ, giật mạnh chiếc váy. Các tay chèo rú lên cười.
Tên cai tù lao đến, vụt lia lịa lên đầu tên tội phạm nhưng tên khốn nạn này không chịu buông ra. Dưới chiếc mũ lưỡi trai màu xanh lục của hắn bện tóc đã che khuất phần trên của cặp mắt màu đen đang long lên hung ác. Ánh mắt đó quá táo bạo, hung dữ và mãnh liệt khiến Angélique bất giác như bị thôi miên. Nàng run lên, mặt cắt không còn tí máu. Cái nhìn hau háu như cái nhìn của con sói đói kia hoàn toàn không xa lạ với nàng.
Hai tên cảnh vệ nữa nhảy vào hầm và dùng nắm tay với dùi cui đánh hắn cho tới khi văng mấy chiếc răng ra. Cuối cùng họ đạp cái thân hình đầm đìa máu của hắn xuống gầm ghế dài.
– Chúng con xin lỗi Đức ông, chúng con xin lỗi quý bà – Tay cảnh vệ phụ trách ca này nhắc đi nhắc lại – Đó là tên đốn mạt nhất, bất trị nhất. Có giời biết nó còn giở trò gì nữaông tước Vivonne giận tái người.
– Trói hắn vào rầm néo buồm một tiếng. Nước biển sẽ làm cho nó tỉnh lại
– Chàng quàng tay ôm eo Angélique – Đi nào em thân yêu – Anh xin lỗi.
– Có gì đâu – nàng nói, tỏ ra bình tĩnh – Hắn làm em sợ thật, nhưng bây giờ thì hết rồi.
Hai người đang đi thì có một tiếng kêu từ hầm khàn khàn vang ra.
– Nữ hầu tước các thiên thần!
– Hắn nói gì thế? – Vivonne hỏi.
Angélique quay ngoắt mặt lại, mặt trắng bệch. Ở rìa lối đi men theo mép tàu hai bàn tay mang xích đang từ từ đưa lên như hai móng vuốt. Đột nhiên trên khuôn mặt sưng húp ngước lên phía nàng, nàng nhìn thấy mỗi hai con mắt đen hiện lên từ sâu thẳm của quá khứ.
“Nicolas” Chú bé chăn cừu ngày xưa, con trai một nông nô của Cha nàng. Thuở bé hai người vẫn chơi với nhau. Và sau này tại Paris nàng đã gặp lại hắn dưới cái tên Calembredaine, hắn sống như một tên vô lại.
Đô đốc Vivonne dìu nàng trở lại lều.
– Lẽ ra anh phải cẩn thận hơn với lũ chó má này. Từ trên nóc hầm nô lệ nhìn xuống thì người đàn ông chẳng lấy gì làm hấp dẫn lắm. Thực ra đối với phụ nữ cảnh này đâu có gì thú vị vậy mà đa số các cô bạn của anh đều thích xem. Anh chắc là em không đến nỗi thế.
– Chẳng ra gì cả – Nàng trả lời, giọng yếu ớt.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.