Bạn đang đọc Tiểu thời đại 1.0 – Chương 35b
Tôi cầm mẩu giấy ghi thời gian và số hiệu chuyến bay Cố Nguyên viết cho, bắt taxi tới sân bay Hồng Kiều.
Trong hoàng hôn, mưa bụi liên miên dày đặc kết thành một bức màn lạnh thấu xương. Nó trùm lên cả Thượng Hải, lôi Thượng Hải vào động tối lạnh giá.
Tôi biết, mùa đông của Thượng Hải luôn khiến mọi người ngán ngẩm. Lạnh buốt, ẩm ướt, mùa đông Thượng Hải.
Sân bay Hồng Kiều đông nghịt, người xúm xít chen chúc một chỗ. Giọng nữ lạnh lùng phát ra từ loa thông báo tin chuyến bay cất cánh hoặc bị đổi, vô số dòng người đứng xếp hàng trước cửa đổi thẻ lên máy bay.
Tôi lẫn trong đám người đó, khổ sở chen lên, ánh mắt tìm kiếm một Giản Khê trong trí nhớ của tôi, sạch sẽ, dáng người cao cao. Mái tóc anh có lẽ đã dài ra, hoặc vừa mới cắt ngắn đi. Có lẽ anh cũng sẽ kéo theo chiếc vali màu đen, bên trên có một sợi đai màu đỏ rất bắt mắt ấy.
Lúc tôi lách qua được khe hở giữa vô số vai và đầu người, nhìn thấy Giản Khê đang đứng lặng yên ngó bảng điện tử trước mặt, nước mắt tôi bất giác trào ra.
Dưới ánh đèn màu trắng trong sân bay, khuôn mặt nhìn nghiêng của anh trông vừa gầy vừa mong manh, như thể chỉ khẽ động vào là sẽ vỡ vụn ngay ra.
Tôi vẫy tay, gọi to tên anh.
Giản Khê nghe thấy có người gọi tên mình, có vẻ không tin được, quay đầu lại, sau một hồi tìm kiếm, ánh mắt anh cuối cùng cũng dừng lại. Anh khẽ cười.
Giữa đám người đông nghịt, anh trông thật quá cô độc. Nụ cười của anh càng làm nổi bật sự cô độc ấy. Có lẽ bởi vì trong đôi mắt lấp lánh nét cười của anh đồng thời còn có cả nước mắt đang dâng đầy.
Anh nhìn Lâm Tuyền đang loạng choạng chạy đến bên mình, dang rộng hai tay.
Lâm Tuyền ôm chặt lấy Giản Khê, mặt vùi sâu vào bờ ngực anh, nước mắt nóng hổi thấm hết vào chiếc áo len màu lam sẫm. Cô vừa khóc vừa cúi đầu nói: “Em đi cùng anh.”
Là như vậy đó.
Kết cục cuối cùng của tình yêu dài dặc tháng năm của tôi.
Tôi đang đi đôi giày thể thao Giản Khê tặng, mặc chiếc áo khoác lông cừu anh thích, đứng ở cửa kiểm tra an ninh của sân bay, nhìn anh khoác vai Lâm Tuyền, từng bước từng bước rời xa thế giới của tôi.
Tôi thấy nhân viên an ninh kiểm tra một lượt hai người họ, rồi để họ đi qua.
Sau đó, bóng dáng họ biến mất khỏi dòng người qua lại đông đúc và những tấm bảng điện tử kỹ thuật số màu xanh màu đỏ.
Tôi vào toilet rửa mặt, rút trong túi ra chiếc khăn mùi soa của Giản Khê, lau khô nước mắt, sau đó vứt vào thùng rác trong toilet.
Lúc ra khỏi sân bay, tôi trông thấy Sùng Quang đang đứng chờ ở cổng.
Anh mặc chiếc áo gió dài rộng màu xám nhạt Neil Barrett ưa thích, chất liệu lông cừu và nhung mềm mại kết hợp với nhau luôn có thể mang lại cho làn da người mặc cảm giác tinh tế, dịu dàng. Anh đội chiếc mũ len bông xù, hơi che lấp một chút hình ảnh thần tượng của mình, nhưng không đeo kính đen, vì thế tôi có thể nhìn thấy mắt anh, hai hồ nước sâu thẳm, đầy ắp sự dịu dàng, và một chút đau buồn rất khó nhận ra. Gió thổi qua mắt anh, làm mí mắt đỏ mọng.
Anh chìa tay ra phía tôi, đứng im chờ đợi.
Tôi bước lại ôm anh, áp mặt vào ngực anh.
Mùi hương trên cơ thể anh ấm áp mà êm dịu, nhưng cũng phảng phất một chút mùi nước tiệt trùng của bệnh viện, tôi nghĩ đến đây thì lại thấy cay cay mắt. Tôi cứ tưởng sau một trận khóc lóc thảm thiết trong toilet làm suýt nữa lực lượng an ninh sân bay phải chạy tới, nước mắt của tôi đã cạn rồi, vậy mà giờ đây, trong lớp lông nhung ấm áp của chiếc áo choàng gió êm dịu ấm nóng như mặt trời của anh, tôi lại một lần nữa nức nở khóc to.
Anh khẽ đặt tay lên vai tôi, vỗ vỗ nhẹ nhàng, giống như hồi chúng tôi cùng chui trong chăn nghe nhạc trong bệnh viện, khẽ gõ tay theo nhịp bài hát. Anh không nói gì cả, chỉ đứng cùng tôi trước cửa sân bay trong dòng người tấp nập.
Tôi nhìn Thượng Hải buổi hoàng hôn qua vai anh. Vô số người tới đây, vô số người ra đi. Cái thành phố chết tiệt này, cái thành phố vĩnh cửu này. Tôi nhìn thấy những cô gái trẻ xung quanh liếc Sùng Quang với ánh mắt nghi hoặc xen lẫn chút xúc động long lanh, cũng nhìn thấy ánh đèn máy bay nhấp nháy không ngừng hướng lên bầu trời đêm.
Trong tiếng động cơ máy bay ầm ầm, tôi nhận ra, Sùng Quang không còn là chàng trai bướng bỉnh ma lanh ngày trước nữa. Anh yên tĩnh, trầm mặc, giống như mọi người đàn ông trưởng thành, trên khuôn mặt trẻ trung thậm chí còn có một chút từng trải, khóe mắt như buổi sớm mùa đông có tuyết rơi.
Anh vỗ nhẹ vai tôi, nhỏ giọng như hát thầm, nói: “Không sao, có anh ở bên em mà.”
Sự độc ác trong tim tôi vẫn chưa hoàn toàn tiêu biến, thế là tôi nói: “Vâng, ở bên em nửa năm một năm, rồi em vẫn phải tiễn anh đi.”
Anh không nói nữa, im lặng đứng trong màn diễn bi hoan ly hợp vĩ đại trên sân bay, gió không thổi được vào lớp áo nhung lông của anh, đôi mắt anh giấu đằng sau lưng tôi, ẩn bên dưới mái tóc dày và chiếc mũ lông. Tôi ấm áp tới mức chỉ muốn ngủ thiếp đi.
Tôi quên mất mình đã về nhà như thế nào.
Chỉ là lúc tôi mở cửa ra, nhìn thấy Cố Ly, Neil và Đường Uyển Như ngồi trong phòng khách đợi. Ánh mắt bọn họ khiến tôi cảm thấy có khi sau ba phút nữa mình sẽ chết.
Tôi bình tĩnh và chậm rãi cởi chiếc khăn quàng và áo khoác, đặt cái túi xuống, gỡ mái tóc buộc gọn ra. Trong cả quá trình đó, tôi không nói gì, bọn họ cũng không biết nói gì.
Lúc tôi từ từ bước ngang qua chỗ họ, Cố Ly nói: Nếu cậu đói, trong bếp có đồ ăn tớ mua về…”
Tôi không ngừng lại mà cứ thế đi qua, sau đó mở cửa phòng, kéo rộng tấm rèm cửa sổ, chỉnh cho độ ấm lên cao nhất, sau đó chẳng buồn thay quần áo, cứ thế chui vào chiếc chăn dày sụ.
Như bị cơn buồn ngủ tấn công một đòn mãnh liệt, sau hai phút tôi đã chìm sâu vào giẩc ngủ.
Sùng Quang ngồi trong phòng làm việc của bác sĩ điều trị chính.
Bác sĩ nhìn khuôn mặt trẻ trung của anh, dường như có điều gì nuối tiếc, hỏi: “Anh thực sự thay đổi quyết định, muốn tiến hành phẫu thuật ư? Hồi trước có 50% thành công, anh không muốn làm. Bây giờ bệnh tình còn tồi tệ hơn trước, tỷ lệ phẫu thuật thành công chỉ có 15%, anh lại muốn phẫu thuật?”
Khuôn mặt Sùng Quang ngập trong ánh sáng của ngọn đèn vàng, tỏa ra màu sắc dịu dàng như trong mộng, anh gật đầu, nói: “Tôi muốn sống tiếp.”
Trước giờ chưa bao giờ có một giấc mộng nín thở dài đến vậy.
Nhưng mà ấm nóng, sôi sục, một giấc mộng nóng ran như một buổi sớm mùa đông ngồi trong bọc chăn bên bếp lò sưởi ấm.
Trong cơn mơ, dường như Cố Ly bưng một tách hồng trà tới cho tôi, nó ân cần ngồi xuống đầu giường, xoa xoa trán tôi, sau đó giúp tôi đắp chăn, lo lắng nói: “Cậu biết không, trông cậu như nhân vật trong truyện Manga ấy, trên mặt chi chít những chấm chấm, lỗ chân lông của cậu to quá rồi nhỉ?”
Đường Uyển Như cũng xuất hiện trong giấc mơ ấy, nó liều chết rúc vào chăn của tôi, nhưng bị hai con chồn vàng lôi xuống bếp, không biết là có phải bị quăng vào nồi nước sôi sùng sục không nữa, tôi hoảng hốt nhớ ra trước khi nằm mơ Cố Ly đã hỏi mình có đói không.
Trong mơ Nam Tương ngủ ở giường đối diện với tôi, giường của nó vừa to vừa đẹp, là kiểu giường cổ điển châu u bằng gỗ đàn hương sậm màu, tôi nhớ đã từng thấy trong tập tranh lịch sử văn học nghệ thuật Pháp. Còn có cả cái gối vừa cao vừa êm, và chiếc chăn lông cừu ấm. Nó đang giở một cuốn tranh, giống như trước kia, dáng vẻ nó thật lười biếng, mà rất đáng yêu.
Chỗ nào trong giấc mơ cũng phủ một mảng vàng ấm áp dễ chịu, như cà phê được thêm nhiều sữa, vị ngậy ngọt ngào. Trong giấc mơ ấy, lúc tôi ngủ mê mệt, bên gối của tôi là Giản Khê đang tựa vào đầu giường đọc sách. Hình như anh đang đọc truyện cho tôi nghe, lại giống như anh đang đọc sách một mình. Anh đeo kính lão, tôi chưa từng thấy anh đeo loại kính ấy bao giờ, trông hơi giống các cụ già râu bạc trong truyện cổ tích. Tôi còn nhớ mình đã cười khúc khích trong mơ, sau đó được anh ôm lấy cho gối lên đùi, một cảm giác ấm ran.
Trong mơ tôi như đã tỉnh hẳn, sau đó Giản Khê gấp sách lại, hỏi tôi có muốn ăn cơm không? Tôi gật đầu, đang muốn ngồi dậy thì nhìn thấy bên ngoài cửa sổ trời đang mưa, Sùng Quang đứng trong mưa nhìn tôi, tóc anh, khuôn mặt anh và cả bộ vest màu đen đều ướt đẫm nước mưa. Một chút ánh sáng đèn đường vàng vọt rọi lên đầu anh và cả cơn mưa mùa đông rét mướt rả rích không ngừng. Qua lớp kính cửa sổ, anh nói chuyện với tôi, nhưng tôi chẳng nghe thấy gì hết. Giản Khê đứng bên cạnh ôm tôi, thấy tôi lo lắng, Sùng Quang trông càng khổ sở hơn, nhưng khuôn mặt lại có vẻ như đang vui mừng gì đó, cuối cùng anh tươi cười vẫy tay, nhìn môi anh hình như đang nói: “Vậy anh đi nhé”. Tôi hấp tấp rút điện thoại dưới gối gọi cho anh, kết quả trong điện thoại chỉ phát ra tiếng “tút tút” liên tục, anh không nghe máy.
Ngoài cửa sổ vẫn là nước mưa như thế, thân hình anh biến mất sau làn mưa màu vàng kim.
Khi tôi mở mắt ra, Cố Ly ngồi trước mặt tôi. Dưới ánh đèn, trông nó thật xinh đẹp, còn đẹp hơn cả Nam Tương.
Tôi gắng gượng chống cái cơ thể đau nhức như vừa bị đánh một trận ngồi dậy, hỏi nó: “Mấy giờ rồi, trời sáng rồi à?”
Cố Ly lắc lắc đầu: “Chưa, nhưng mà đây là buổi sớm ngày thứ hai đấy. Cậu đã ngủ gần bốn mươi tiếng đồng hồ rồi.”
Tôi cúi đầu không nói.
Cố Ly giơ tay đưa cho tôi, nói: “Cung Minh cứ gọi điện thoại liên tục cho cậu… Gọi lại cho anh ta một lần đi.”
Lúc nói, Cố Ly không nhìn vào mắt tôi. Tôi nhìn tay nó đưa ra, không muốn cầm lấy điện thoại. Đèn tín hiệu màu xanh trên điện thoại cứ nhấp nháy, nhắc nhở tôi về cuộc gọi bị nhỡ.
Tôi đã nói rồi, tôi đặc biệt ghét mùa đông của Thượng Hải.
Như thể phải mặc mãi bộ quần áo ướt đứng trong gió rét lạnh băng. Màu sắc xám trắng, bầu trời ảm đạm, ngay cả chim bồ câu cũng không buồn bay, trốn dưới những mái nhà ấm ướt, rúc cổ vào đôi cánh.
Khắp nơi trong thành phố là những người mặc đồ da cao cấp, các cô trông như những con vật, bịt mũi cau mày bước qua mặt những người ăn mày, lướt qua những sạp hàng rong nhỏ bên hè phố.
Khi đêm về khuya, tất cả mọi người đều biến sạch, quay về những ngôi biệt thự sang trọng ấm cúng của họ, hoặc trốn trong lớp chăn mỏng rẻ tiền. Bọn họ cô độc ngắm nhìn Thượng Hải mờ mịt qua ô cửa sổ, và những tháng ngày mờ mịt dưới bầu không kia. Trong đêm khuya chỉ còn sót lại người lao công khoác lớp áo nhựa dày bịch, dùng bàn tay lạnh đến bầm đỏ quét lớp lá rụng đã thối nát trên mặt đường.
Phố Bund tắm trong trận mưa tuyết lạnh ngắt, ánh đèn hoàng kim soi sáng trưng dòng sông kề bên, trên mặt nước bập bềnh xác cá chết, không có con chim nào ăn chúng.
Khắp bầu trời Thượng Hải như lơ lửng lũ giám ngục Azkaban bay lượn, nước mưa chính là nụ hôn của chúng, chúng chúc phúc cho từng người một trong mùa đông.
Tôi ngồi trong xe taxi, đi qua tất cả, như đang xem chiếc tủ kính do một kẻ bi quan chủ nghĩa thiết kế.
Lúc đến bệnh viện, tôi nhìn thấy Cung Minh và Kitty đang ngồi bên ngoài phòng phẫu thuật.
Tôi bước về phía họ.
Cung Minh nghe tiếng động ngoảnh đầu lại, nhìn thấy tôi.
Tôi chưa bao giờ nhìn thấy vẻ sợ hãi như vậy trên khuôn mặt anh ta, như một pháp sư tà ác trong phim, đôi mắt dài hẹp, hàm răng trắng, bọc trong tấm áo choàng đen phủ kín người.
Anh ta bước từng bước lại phía tôi, sự độc địa trong ánh mắt cuộn trào lên như sóng biển dưới ánh trăng, tiếng sóng chính là nhịp thở nặng nề hổn hển của anh ta.
Anh ta bóp lấy cằm tôi, giọng điệu còn lạnh lẽo hơn cả mùa đông ngoài cửa sổ:
“Cô rời Sùng Quang xa một chút, càng xa càng tốt.”
“Nó là của tôi.”
“Cô cút được xa bao nhiêu thì cút đi.”
Sau đó, anh ta hất mạnh mặt tôi về phía ghế.