Bạn đang đọc Tiệm Trà Sữa Của Tôi Toàn Là Dân Nằm Vùng Hệ Liệt – Chương 179: Hồi Ba Mươi Lăm Như Mây Mùa Hạ B
Đến Bảo Lộc, ba người chia làm đôi ngả: Một về thành đô, một lên xứ sở sương mù.
Thay vì ở trong một khu nghỉ dưỡng hạng sang, Vệ Thương ngỏ ý nên mướn một khách sạo ba sao thôi; rồi chừng nào Samuel Định có mặt thì hãy thuê một căn homestay đặng ở cho rộng rãi.
Dưới sự giới thiệu của bác tài-xế có giọng nói lơ lớ dễ thương, hai người trai trẻ tìm đến thương xá mới xây hai mươi tầng để mướn phòng ở.
Nơi đây là tổ hợp của khu thương mại, vui chơi – giải trí, nhà hàng – quán sá, khách sạn, văn phòng, phòng khám, phòng tập thể hình,…!Để tiện cho việc kinh doanh và lên – xuống của mỗi khu, kiến trúc sư đã chia tòa nhà thành ba khối chính: Khối thứ Nhứt nằm ở bên trái dùng làm văn phòng, phòng khám, phòng tập thể hình; diện tích nhỏ hơn nhưng cao hơn khối thứ Nhì vì phải dành ra hai tầng làm bãi đậu xe.
Khối thứ Nhì lớn nhất trong ba khối và cũng đông vui nhất; ở đây ngày cũng như đêm, lúc nào cũng có người qua kẻ lại và buôn bán um trời.
Và khối cuối cùng hướng mặt ra rừng thông nhân tạo, do đó những du khách nghỉ ngơi trong khách sạn được tận hưởng một bầu không khí vô cùng trong lành và thoải mái; khách sạn này nằm trên tầng Sáu và kéo dài tới tầng Mười Hai, còn những tầng dưới là nơi làm việc của Ban Quản Trị, Quản Lý và Bảo An của thương xá; trên tầng Mười Ba là sân vườn lộ thiên nên về đêm chỗ này sẽ rất ít tiếng ồn, thành ra hai người mới chọn một căn phòng ở tầng Mười Hai.
Trước lúc chia tay người phục vụ gốc địa phương, Vệ Thương “boa” cho chút tiền.
Sự hào phóng của cậu đã đem đến một niềm vui nho nhỏ cho anh ta.
Vừa đóng cửa phòng, La Yến Thanh vừa hỏi:
– Mày ngủ ở giường nào hả Thương?
– Gần cửa.
Tao có cái tật hay ăn khuya lắm nên đi ra – đi vô đỡ làm phiền hơn.
Bấy giờ hai đứa mới có dịp quan sát căn phòng: Nơi đây được thiết kế theo kiểu kiến trúc giao thoa giữa hai nền văn hóa Pháp – Việt, nhưng không gợi cho ai cái cảm giác của những năm thuộc Thế kỷ Mười Tám, ắt hẳn những trang – thiết bị điện tử tân thời bày trí khắp phòng đã phá hỏng công sức sắp đặt và ý tưởng của kiến trúc sư.
Hai chiếc giường đơn cách nhau một cái tủ đầu giường bề ngang chừng thước hai, chiếc giường nào cũng được trải drap và bộ mền – gối đồng màu, đồng hoa văn; đặc biệt không có giăng mùng rủ xuống ở phần đầu giường.
Tủ âm tường được đặt đối diện với chân giường; thiết kế này hơi bất tiện và kỳ khôi vì cửa phòng tắm nằm sát một bên nên không khéo những người ở cùng phòng sẽ dễ khiến đối phương bị thương.
Hai đứa thay phiên nhau đi tắm rửa, gội đầu.
Trong lúc chờ đứa kia trở ra, đứa nọ treo một vài bộ quần áo lên cái móc của chiếc tủ âm tường và đặt vài món đồ cá nhân lên cái tủ đầu giường.
Ngay khi mới đặt chân vào phòng, Vệ Thương đã đi sạc các thiết bị điện tử cá nhân của hai người.
– Xong rồi mày.
– Út Thanh thò đầu ra ngoài phòng tắm thông báo.
– Ờ…!Ê, khoan đã! Lại đây cái coi!
Út Thanh vùng vằng không chịu bỏ cái khăn tắm vắt ở trên vai xuống, nhưng cũng đành thuận theo ý nó.
Anh ngồi cạnh nó, rồi để mặc cho nó săm soi vết thẹo kia.
– Tao rờ thử nghen?
– Ờ.
Trên lưng của Út Thanh có bảy vết sẹo lồi trông rất đáng sợ.
Tò mò nguyên do thành hình, Út Thương hỏi nhỏ:
– Bị gì mà lắm thẹo vậy hả Thanh?
– Ông già đánh tao.
– Lấy cái gì đánh?
– Roi cá đuối.
– Kể cho tao nghe rõ hơn được không?
– Bữa đó tao đi hát đám cưới, về hơi trễ chút, ổng tưởng tao vô mấy cái chỗ thác loạn mà mấy đứa ký giả hay đăng nên chửi tao té tát.
Mẹ tao cũng hổng thèm binh, còn hất cái bánh kem mà gia chủ cho tao xuống sàn nhà.
Tao tức quá mới cãi tay đôi lại.
Rồi ông già tao với tay lấy cây roi cá đuối quất xối xả vô bản lưng tao.
Không nhờ anh Hai Nghĩa với anh Năm Tường nhảy ra can, chắc tao ngồi liệt một chỗ luôn rồi.
Trong tiếng nấc nghẹn, Út Thanh kể tiếp:
– Vô nhà thương, bác sĩ hỏi tao bộ gây thù chuốc oán dữ lắm sao mà bị người ta đánh đến nỗi bầm da – thúi thịt vậy? Tao làm thinh luôn.
Anh Hai với anh Năm cũng câm luôn.
Út Thương ngó thằng bạn mà thở dài thườn thượt.
Út Thanh đứng lên mà hỏi:
– Đi ăn gì đây? Ăn phở không?
– Thôi, tao ghét ăn phở với bánh tráng bỏ nhưn nướng.
– Vậy mày muốn ăn cái gì?
– Cơm tấm, hủ tíu hay thức ăn nhanh công nghiệp cũng được.
Nhưng trước hết, Út Thương phải đi tắm cái đã.
Vừa đóng cửa phòng tắm, cậu vừa nhìn Út Thanh.
Người bạn thiết đang sấy tóc, sấy luôn những giọt lệ sầu đang đọng trên mi.
Lối chừng một tiếng sau, hai người mới đi qua Khối Hai.
Trái ngược với sự tĩnh lặng của hai Khối kia, khu vực này hết sức ồn ào và đông vui, gần như mỗi mét vuông là có ba người.
Mùi thức ăn đã và đang chế biến có ở khắp mọi nơi.
Các rạp chiếu phim đông nghẹt khách, từng hàng dài người đứng đợi mua vé xem trông thật xôm tụ.
Không khó để bắt gặp những người làm công việc rải tờ rơi, họ có mặt ở toàn bộ Khối này.
Tiếng hát Ngọc Lan trong bài “Tình yêu thiết tha” vang lên trong một nhà hàng thưa khách ở tầng Mười; nhạc sĩ Lê Hựu Hà đặt lời Việt từ ca khúc “La vie, cest une histoire damour” của đôi tác giả Christophe – Yves Dessca.
– Ghé đây ăn đi mậy.
– Út Thanh đề nghị.
Nhân viên hết sức niềm nở, vừa thấy hai người đứng xớ rớ ngoài cửa liền tươi cười rước vào ngồi, không quên giới thiệu những món ăn đặc sắc của nhà hàng.
Cũng theo lời khuyên của nhân viên, họ ngồi ở cái bàn ở góc trong cùng mé bên tay trái và sát vách kính chạm trần; từ đây có thể nhìn thấy quang cảnh bên ngoài khá rõ.
Đưa cho hai chàng Út hai cuốn thực đơn xong, nhân viên đó quay trở ra cửa chính đón khách tiếp.
Vệ Thương rất mừng khi thấy có món gà chiên bột và bơ – sữa.
Kể từ ngày về quê hương, cậu ít có dịp ăn mấy món này vì một phần muốn nếm thử đồ ăn xứ Việt, một phần là do baba la rầy và bắt phải bớt ăn.
Cậu quyết định chọn món này với một phần mỳ Ý sốt thịt bò bằm, khoai tây làm theo kiểu “Poutine” của Gia Nã Đại và salad tôm luộc rưới sốt rượu vang.
Riêng La Yến Thanh, anh chọn cơm gà Hải Nam và súp bào ngư.
Còn đồ uống thì anh chọn trà dâu tằm có đá viên thật ít đường.
Trong lúc đợi bữa ăn dọn lên, Vệ Thương chống cằm ướm hỏi:
– Mày với anh Định…
– Bạn thôi mậy.
– Nói tới đó, La Yến Thanh khỏ đầu thằng bạn nhỏ tuổi cái cốc.
– Ảnh coi tao như Mười Anh vậy.
Út Thương xoa xoa đầu mà nhếch miệng cười chống chế:
– Ờ, tao quên, ảnh là cựu chủng sinh của Dòng Chúa Cứu Thế, xém chút nữa là thành tu sĩ rồi.
– Tao vẫn không hiểu tại vì căn cớ gì mà ảnh phải bỏ tu?
– Có lẽ là do trọng trách và chức sắc nên anh Định không thể vừa làm tu sĩ vừa thâm nhập giới giang hồ để điều tra phá án được.
– Ảnh đâu phải “Cha Nhà thờ” trong phim “Người trong giang hồ”.
Út Thương chợt ra hiệu cho Út Thanh hướng mắt nhìn về phía thang cuốn.
Một người đàn ông đang bị hai bảo vệ lôi xuống thang cuốn, ý chừng muốn tống khứ anh ta ra khỏi đây.
– Trời ơi, chỗ người ta buôn bán mà quậy quạng kiểu này không bị đuổi ra mới lạ.
Út Thanh nổi máu nhiều chuyện hỏi:
– Nhưng mà phải có cái gì khuất tất thì ông này mới vô đây quậy chớ?
– Ôi, nó nói tụi bây bắt cóc mẹ tao.
Sau bữa ăn no nê, hai chàng Út mới đi kiếm người đàn ông ban nãy.
Sau hơn một tiếng vừa tìm kiếm vừa ngắm cảnh, hai chàng Út thấy anh ta đang ngồi dưới gầm cầu cách thương xá chừng ba trăm mét về phía Đông.
Trước sự thăm hỏi vồn vã của hai người, anh ta phát cáu nhưng vẫn gắng gượng cười và nhẹ nhàng cất lời khước từ.
Biết rằng không thể moi được tin tức gì từ người này, hai chàng Út đành ra về.
Không quên để lại một hộp cơm sườn xá xíu – chả trứng kèm đồ chua, một hộp canh và một ly cà-phê sữa đá cho anh ta.
Tuy chỉ mới gặp mặt lần đầu nhưng hai người có cảm giác người này rất giống với người mà anh Định đang tìm, tiếc rằng anh Định không có ở đây hay chịu bắt máy để họ giải đáp khúc mắc trong lòng.
Bảo Lộc về đêm rất lạnh đối với người đã quen với thời tiết nóng nhiều hơn lạnh như La Yến Thanh.
Anh vừa đi vừa đánh răng lập cập.
– Mày dở lạnh thiệt.
Út Thanh hà hơi vào hai lòng bàn tay để ủ ấm.
– Uống sữa đậu nành không?
Vậy là hai người ghé vô một xe bán sữa đậu các loại để làm một ly cho ấm người.
Người bán là một bà cô gốc Quảng Ngãi, ở đâu được một thời gian liền đem hai con gái vô đây luôn, hiện nguyên nhà đang sống ở khu cư xá gần nhà thờ Con Gà.
Út Thương sung sướng bày tỏ:
– May mà ở đây có bán sữa bắp.
Vú nuôi bên Mỹ hay làm cho tao uống lắm, giờ bà đã “về hưu” và ít khi lui tới thăm tao nên tao hết còn được uống sữa bắp tự làm.
– Mua cái máy về làm.
– Mày có biết công đoạn sơ chế trước khi nấu nó cực cỡ nào không?
Nói tới đây, hai thằng nhìn nhau cười ngả nghiêng ngả ngửa.
Rồi Út Thanh hứa khi nào về Sài Gòn sẽ đãi nó một chầu sữa bắp do mình tự làm.
Đi taxi hoài cũng chán, hai chàng Út bèn thuê xe đạp đôi chạy vài vòng ngoạn cảnh.
Chạy hai chiếc riêng thì rườm rà và choáng đường quá nên họ mới đưa ra quyết định trên.
Út Thương hóm hỉnh:
– Ông già tao mà thấy cảnh này chắc ổng hộc máu tam thăng.
Út Thương cũng không vừa.
Anh lườm mắt nhìn nó mà châm chọc đáp trả:
– Tao không muốn có ông bồ mà tướng tinh như Marsupilami.
Giờ mày ngồi trước hay ngồi sau?
– Ngồi sau.
– Khôn quá há?
– Khỉ rừng mà.
Phải khôn chớ?
Trước ánh mắt hiếu kỳ của kha khá người trên phố, hai chàng Út rong ruổi trên những vỉa hè đèn điện sáng choang và rực rỡ ánh đèn màu.
Vì đã no căng bụng nên hương thơm quyến rũ của những món ăn không cù rủ được hai người ngừng lại mua.
Thêm nữa có rất ít món mà Út Thương ăn được nên Út Thanh cũng ngại mời.
Ngang quá một quán cà-phê bày trí theo phong cách Tây Âu hết sức lộng lẫy và phô trương, những bản nhạc tân thời xứ Việt được phát lên ầm ĩ, như muốn làm thủng màng nhĩ khách bộ hành.
Trong đó ắt hẳn có DJ, mà mắc cười ở chỗ một vài bài nhạc ca sĩ hát vốn không rõ lời, bây giờ còn hòa âm phối khí lại nghe hổng được chữ nào mà còn khiến một số bản thì nghe như đang gây lộn, một số thì làm thính giả nghe ra lời khác.
– Tao bị “nhiễm trùng lỗ tai” rồi.
– Út Thương than thở.
– Vậy nghe ca sĩ thứ thiệt hát đi.
– Mấy người đang hát hổng phải ca sĩ hả? Hèn gì dở quá.
– Ừ, “ca lẻ”.
– Khỉ, làm tao lóng tai nghe.
Rồi, ca sĩ đâu?
Út Thanh bèn mở bài “Hè 42” do nhạc sĩ Phạm Duy đặt lời Việt theo nội dung từ ca khúc “Lété 42” của nhạc sĩ Pháp Jean Dréjac do trai của cụ là Duy Quang ca; bản gốc của cả hai nhạc phẩm trên mang tên “Summer of 42” của tác giả Michel Legrand.
– Bài này Don Hồ ca cũng hay lắm.
– Nghe thì cũng hay thiệt, nhưng mà…
– Mày đâu phải trưởng đoàn rạp xiếc mà ưa sôi động dữ vậy?
– Chiều em mày đi mà…
– Ôi lạy Chúa lòng lành!
Nhưng Út Thanh không tìm bài hát sôi động theo ý thằng bạn nhỏ, khuya lơ khuya lắc, bật nhạc um sùm khiến chúng chửi mệt lỗ tai.
…
Tới lưng chừng trưa, hai chàng Út mới khăn gói lên “xứ sở ngàn hoa”.
Người đưa họ đến đó là một ông chú đã ngoài bốn mươi, sống đơn thân với ba đứa con và hai đấng sinh thành.
Vì chuyến đi khá dài nên hai chàng Út rủ người tài-xế đi ăn cơm Tây, bụng dạ no rồi thì lái xe mới vững.
Thấy sắc mặt anh ta nửa tin nửa ngờ, Út Thanh cười giỡn:
– Tôi là người Nam Kỳ nói giọng miền Tây, nào giờ hổng có biết gạt ai đâu.
Nhà hàng ấy nằm trong khu thương xá luôn, nên người tài-xế đỡ tốn công đi xa nhưng phải mất phí giữ xe.
Út Thương bèn trả tiền giùm.
Thấy cảnh nhà của ông chú quá đỗi cơ cực nên Út Thương ngỏ lời mua cơm đãi gia đình.
Ông chú đồng ý ngay tắp lự.
– Cảm ơn các cậu nha.
Tôi chạy xe ế quá nên dạo gần đây cả nhà phải ăn hà tiện hà tặn.
Nay có đồ ăn ngon chắc hai cụ và chúng nó vui lắm.
Bây giờ đã có xa lộ, nhưng vì xa lộ vắt qua những triền đồi thông reo hay đường núi gấp khúc nên tưởng đã gần mà hóa ra vẫn xa xôi khôn cùng.
Dù rất tò mò, song không ai trong hai chàng Út dám mời người tài-xế kể chuyện dị thường xảy ra trên các cung đường Tử Thần hay những ngôi biệt thự ma ám vang danh ở Lâm Đồng.
Như nhìn thấu tâm can hai người khách Nam Kỳ, người tài-xế Bắc Kỳ liền vui miệng thuật lại những mẩu chuyện huyền bí và rùng rợn mà anh ta nghe được từ bạn bè, đồng nghiệp hoặc không, và bố mẹ mình.
Phải công nhận anh ta kể chuyện rất lôi cuốn, đáng ra nên đi làm nghề chuyển âm phim hay lên Youtube kể truyện ma mới đúng.
Nói một hồi cũng mỏi miệng, người tài-xế bèn mở nhạc lên nghe cho đỡ trống trải.
Chú chọn bài “Giã từ Đà Lạt” do Duy Khánh tự sáng tác và trình bày:
“Đà Lạt ơi, thôi giã từ em nhé
Ôi Lâm Viên, ôi thác cao, đồi xa
Ôi thông reo, ôi suối vàng run rẩy
Có nghe ước thề hiện về trong bước ai đi?”
Nghe đâu được vài câu, Út Thương ngoẹo đầu ngủ khò.
Út Thanh nhéo lỗ tai thằng bạn để lay nó dậy:
– Cái thằng này, hổng có “yêu Nước” gì hết trơn.
Út Thương lèm bèm:
– Em “yêu” ông Hoa-Thịnh-Đốn hơn.
Người tài-xế cũng góp tiếng bông đùa:
– Ai mà không “yêu” ông George Washington hở các cậu? Có bác ấy thì đời mình xán lạn hơn.
Hoàng hôn đã khuất bóng hẳn hòi, ba người mới có mặt ở Đà Lạt.
Tòa biệt thự nhà họ Vệ nằm bơ vơ giữa một khoảnh rừng thông rậm rạp.
Trong nhà có một bà quản gia, hai me – con đầu bếp gốc KHo, hai người đàn ông làm vườn và lau chùi nhà cửa, một anh tài-xế mới vừa đi quân dịch xong và một cô giúp việc lặt vặt trong nhà; tính ra gia chủ còn ít hơn người làm.
Người tài-xế “mồ côi vợ” ngẩn tò te nhìn tòa biệt thự tráng lệ có lối kiến trúc kiểu Pháp Quốc một đỗi, mới trấn tĩnh mà lên xe chạy về được.
– Tôi về…
Út Thương giơ tay cản:
– Vô ăn cơm, đi vệ sinh và rửa mặt cho tỉnh táo cái đi rồi hẵng về.
Anh ta bật cười xuýt xoa:
– Thế cũng được.
Cảm ơn cậu nhé?
Hai me – con đầu bếp mời người tài-xế Uber ấy ăn bánh gan và uống cà-phê đen đá.
Riêng về phần cậu chủ và khách quý của cậu, họ sẽ làm trái cây dĩa đặng ăn cho mát người.
Đứng trong bếp nhìn ra khoảnh sân bên hông nhà, Út Thương chợt ngó thấy người đàn ông hôm qua, nên chưng hửng hỏi bà quản gia:
– Ủa? Ai vậy vú?
Bà quản gia cuống quít giải thích cho cậu Út hiểu:
– Dạ, chú này mới vô đây làm được…!vài tiếng hà cậu.
Mà có chi không cậu?
Út Thương lắc đầu cười xòa rồi nói:
– Hôm qua “Gặp nhau làm ngơ”, nên bữa nay hơi bỡ ngỡ thôi vú.
Bà quản gia liếc mắt nhìn “Người Việt trầm lặng” đang lui cui cắt tỉa cây kiểng, lòng tự trách cái tánh thày lay của bà đã xém chút nữa hại chết bà.
Không muốn chuyến nghỉ dưỡng bị phá hỏng, Vệ Thương bèn hối La Yến Thanh lên lầu chọn phòng ngủ.
Do ông già lo xa nên trong nhà vừa có thang máy vừa có thang cuốn, cộng thêm cái thang máy vận chuyển vật nặng, thành ra ở đây có tới ba cái thang điện.
Vừa bước vô thang máy, Út Thanh vừa hỏi:
– Nhà mày giàu dữ vậy mà mày bình dân quá, không có phách láo như nhiều đứa học trường Quốc Tế trên Sài Gòn mà tao đã từng gặp.
Tao làm tóc cho tụi nó mà tụi nó coi khinh tao ra mặt, nói chuyện thì cứ câng câng cái mặt lên một khúc, mở miệng là “xổ” tiếng Anh.
– Ba tao hay khuyên lơn như vầy: “Tụi bây may mắn đầu thai làm con tao, ăn sung mặc sướng, ở thì có kẻ hầu người hạ – đi thì có xe đón xe đưa, muốn mần chuyện chi cũng dễ dàng, thì phải biết trân trọng cuộc sống, siêng năng học hành và tuyệt đối đừng coi khinh người kém khá giả hơn mình.
Bởi vì cha – ông tụi bây đã từng là hạng cùng đinh trong xã hội, không nhờ bàn tay của những người hảo tâm nâng đỡ thì làm sao mà có được cơ ngơi như ngày nay, thành ra tụi bây phải biết quý trọng mọi người và nếu có thể giúp được thì cứ giúp, đừng sanh tâm nghi ngờ hay ban ơn cho ai hết…”
Sau vài lượt ngắm nghía, Út Thanh chọn căn phòng có tầm nhìn hướng ra con suối gần đó.
Trong phòng thiết kế và sắp đặt theo lối Tân Cổ Điển, vách được phủ bằng giấy dán tường chấm bông thanh nhã, trần được ốp thạch cao có hoa văn đắp nổi rất công phu và sàn nhà được trải thảm nhung vừa êm chân vừa ấm áp.
Cửa sổ cao đụng trần, chiếm trọn một góc phòng, tuy có hai lớp màn cửa che chắn nhưng người ngủ trong phòng vẫn e sẽ khó ngon giấc vì khung cảnh bên ngoài vẫn dễ dàng lờ mờ thấy; một bộ bàn ghế đôi đặt gần cái cửa sổ to tướng ấy để người ở trong phòng ngồi đó thưởng trà và ngắm cảnh.
Giường ngủ thuộc cỡ lớn nhất, ba người nằm lên còn rộng rinh; ở trển đặt một cái gối đầu dài, hai cái gối đơn, hai cái gối ôm, một cái mền lớn và hai cái mền riêng, hết thảy đều có cùng họa tiết và đều được thêu tay hết sức tinh xảo và tỉ mẩn.
Mỗi bên đầu giường có một chiếc tủ nhỏ, trên mỗi chiếc đặt một cái đèn bàn có chụp bằng vải đính lông vũ tỏa ra ánh sáng vàng ấm dịu mắt.
Ngoài ra, trong phòng còn có một cái tủ quần áo âm tường, một cái kệ đóng bằng gỗ cây xoan đào cao hơn mét sáu và một cái kệ lùn dùng để TV, đầu đĩa, bộ loa và máy hát – cái kệ lùn này được đặt đối diện với giường ngủ.
– Ê Thương, mày lại coi cái thằng cha hôm qua kìa.
Út Thương dòm người đàn ông đang chăm chú làm vườn thật lâu, mới nhướng mày hỏi:
– Sao mậy?
– Độ rày tao toàn nghe đi tìm bố, chớ có ai đi kiếm mẹ bao giờ đâu…
– Ờ há! Cha nội này là ai vậy cà?
Thấy trời hãy còn sáng bửng, Út Thương rủ Út Thanh lên đồi thông ngắm hoàng hôn.
Đến đời tổng thống Khánh, ông đã ra lệnh tháo dỡ các công trình kinh doanh và giải trí không cần thiết để trả lại thiên nhiên và bầu không khí trong lành cho Đà Lạt.
Nhờ vậy mà thời tiết và quang cảnh nơi đây trở nên tươi đẹp hơn trước rất nhiều, mặc dù không được trọn vẹn như thời xa xưa nhưng bấy nhiêu đó cũng đủ làm hài lòng ý nguyện của những người ủng hộ quyết nghị này.
– Thương này…
– Hả? – Út Thương nheo mắt chờ.
– Mày giàu vậy sao mua đất ở đây có mấy công thôi vậy?
– À…
Phải vượt qua một rặng thông non yếu ớt, Vệ Thương mới từ tốn trình bày:
– Baba tao biểu trên đời này có rất nhiều người giàu mà ích kỷ, họ ỷ có tiền muôn bạc vạn nên mua trọn một vùng có phong cảnh đẹp và khí hậu tốt cho riêng mình.
Những người dân đang sống yên bình trên mảnh đất đó phần đông là bị ép nhận tiền và dời tới chỗ khác sống, gây ra bao hệ lụy và đau thương cho gia đình của những người dân đó về sau.
Thành ra baba tao không muốn giống đám đó, mà muốn cùng mọi người chia sẻ cảnh sắc thiên nhiên và vùng đất đáng sống, cho nên mới mua vừa đủ ở và vui chơi – giải trí thôi.
La Yến Thanh tròn mắt hỏi:
– Ba mày nghĩ xa như vậy à?
– Phải.
Vì ổng từng đi “share phòng” với người ta, hay nương thân trong cái nhà xe nhỏ xíu như cái lỗ mũi, nên tự dưng ổng đâm ra không thích phí phạm đất đai.
La Yến Thanh sửa lại cái găng tay đan bằng len rồi nói:
– Phải chi ai cũng nghĩ như ba mày thì nền Nông Nghiệp xứ này đâu bị lãng phí tài nguyên.
– Ổng thường kêu tao nên giao du với người nghèo để hiểu hơn về phần đời trước của ổng ra sao.
Do đó tao mới không nảy sanh tâm tánh kiêu căng, ngạo mạn hay coi khinh người nghèo hơn mình.
La Yến Thanh vốn sức khỏe kém, cộng thêm thay đổi khí trời đột ngột nên càng dễ nhiễm bệnh, anh ôm ngực ra hiệu cho thằng bạn nhỏ tuổi hãy ngồi lại đây.
– Mày có biết không Thương, cứ hễ lên đây là tao lại nhớ bài “Đà Lạt hoàng hôn” của nhóm nhạc sĩ Lê – Minh – Bằng; trong bài này ba ông ký tên là Minh Kỳ – Dạ Cầm.
Vệ Thương chống cằm cười hỏi:
– Đâu, hát chơi cho tao nghe coi.
Người trai đó him mắt mà cất cao giọng hát:
“Đà Lạt ơi…!Có nghe chăng Cam-Ly khóc tình đầu dang dở?”
– Mày nhớ Mục sư Đức phải không?
La Yến Thanh vùi mặt vào đầu gối, dáng vẻ ảo não như con mèo bị chủ vứt ngoài đường.
“Hôm nay Thanh buồn như con chó ốm, như con mèo ngái ngủ trên tay tui…”
– Khỉ họ! Tự nhiên chế bài “Nga” của hai ông Nguyên Sa và Nguyễn Tất Nhiên.
– Phải thọt mày vậy mày mới thôi diễn tuồng “Hồ công tử”.
Rồi cậu trai mới chập chững đôi mươi tâm tình:
– Mà nghĩ cũng ngộ đời thiệt, ổng đặt bài thơ “Nga” cho bả, tao hổng phải vợ ổng mà đọc thơ xong tao còn muốn nộ khí xung thiên, vậy mà bả gục gặc đầu khen đáo khen để và đã gắn bó sắt son một đời với ổng.
Những người yêu nhau sao mà…!sao mà…
– Có câu “Người tình trong mắt hóa Tây Thi” mà mày.
– Sao hổng hóa Marylin Monroe hay ai khác mà phải là bà điệp viên này?
– Mày đi hỏi thằng khứa chế ra cái câu này á.
Chợt cơn gió mát thiệt mát thổi qua khoảnh rừng mà hai người đang ngồi, khiến La Yến Thanh rùng mình hắt-xì liên tục.
Anh co ro lấy khăn giấy chùi mũi và miệng, dáng điệu thật là như “con chó ốm”.
– Thương này…
Nhận thấy sắc diện của thằng bạn lớn tuổi hết sức khó coi, Út Thương giục:
– Gì mày?
– Hỏi khí không phải nha?
– Trời ơi nói đại đi.
– Mày nghĩ sao về nỗi lo dân số thế giới sẽ bị giảm đi?
Út Thương à lên một tiếng, rồi gãi đầu cười méo xẹo mà nói:
– Nhiệm vụ “Duy trì nòi giống” cao cả quá nên tao không muốn bắt ép bản thân mình đảm đương.
Đẻ một lô một lốc rồi không lo nổi thì làm cha – làm mẹ để làm chi?
– Nhưng, mày nghĩ sao khi người ta cho rằng không sinh nở nhiều chính là nguyên do khiến Trái Đất bị diệt vong?
– Tới chừng thảm họa thiên tai khiến cho Trái Đất bị diệt vong, nhớ đem “cái nòi giống” cao quý ra ngăn chặn nghen?
Út Thương chẳng hiểu sao nó trả lời huề trớt vậy nên lóng tai nghe.
– Nhiều người thích dựng lên thuyết âm mưu, và tự cho mình là đúng, lâu dần họ mắc bịnh vĩ cuồng hồi nào không hay.
Đến tận bây giờ, chẳng ai rõ nền văn minh Atlantis, Maya, Ai Cập cổ đại, xứ Diêm Phù đề,…!tại sao lại suy tàn và sụp đổ dù có rất nhiều bằng chứng cho thấy có thể nền Khoa học – Kỹ thuật – Công nghệ của họ đã đi trước thời đại này cả ngàn năm.
Thay vì chỉ giới hạn ở mức giả thuyết tham khảo, họ lại khăng khăng khẳng định lý lẽ của mình đúng và nảy sanh tâm lý kỳ thị và chống đối những dạng người mà họ cho là nguyên nhân chính khiến nền văn minh ấy biến mất.
Tao nói thiệt, tới chừng thiên thạch, hố đen, tiểu hành tinh, núi lửa trỗi dậy từ đáy đại dương,…!làm cái ình một cái là chết hết, chứ ở đó mà nghĩ mình là Thánh Nhân có thể giúp ngăn chặn ngày tận thế bằng cách kêu gọi kỳ thị và chống đối thứ này – thứ kia.
Vốn liếng tiếng Việt còn hạn chế đã khiến Vệ Thương đau đầu.
Cậu muốn trình bày tiếp nhưng không thể, nên đành quành ngược lại chuyện sanh đẻ:
– Tao nhớ có lần cùng baba đi làm thiện nguyện ở Sài Gòn, gặp hai vợ chồng điên có mười mấy đứa con tỉnh táo, tao đố mày những đứa con của họ ra sao?
– Chắc vừa làm vừa đi học để thay đổi số phận và thắp sáng tương lai.
– Trật lất.
Nguyên một dàn thất học hết và cả gia đình sống bằng nghề bán vé số dạo.
Trên đường mưu sinh, một thằng con của họ đã bị bắt cóc mất biệt, hiện thời không biết sống – chết ra sao hay đang ở đâu.
Còn bà mẹ thì bị chánh quyền cưỡng ép triệt sản.
Và người trưởng nữ bây giờ đã đổi sang làm gái bán dâm vì quá khốn khổ.
Khốn nạn hơn, hễ nhà nào trong xóm bị trộm cắp là họ lại vu cho bầy con của hai vợ chồng ấy.
Đó, “Duy trì nòi giống” đó, đẻ một đống rồi không lo được cho đứa nào.
Nói một hồi khan cả cổ nên Út Thương uống một hớp trà nóng cho đỡ đau rồi mới nói tiếp:
– Tao có nhiều bạn gái chứ không phải một đứa đâu, nhưng quen ai tao cũng từ chối làm tình, vì tao sợ lỡ con nhỏ đó cấn bầu thì tao làm sao lo cho con tao được…
– Gì kỳ vậy? Giàu…
Út Thương chỉ mặt thằng bạn thiết mà trách:
– Mày bỏ cái tiếng “Giàu” cho tao liền.
Không là tao từ mặt mày.
Út Thanh buồn hiu ngồi xìu co.
Trong khi ấy, bạn anh lại nói:
– Đúng là có tiền mướn giáo sư về dạy học được, mướn đội ngũ chuyên viên Y Tế về chăm sóc và chữa trị được, mướn đầu bếp lừng danh về nấu cơm được,…!Nhưng, vĩnh viễn, không bao giờ tiền có thể đem lại một tinh thần lành mạnh cho đứa nhỏ được, nó chỉ có thể nhận được điều đó ở một gia đình mà những người lớn có tâm lý bình thường, lối cư xử đàng hoàng và chịu khó dành hàng giờ tỉ tê, dạy dỗ hay vui chơi với nó.
Mày không để ý thấy hả Thanh? Rất nhiều cậu ấm – cô chiêu sống rất phách lối, chảnh chọe và coi khinh thiên hạ, phần lớn là do quãng đời tuổi thơ của họ được nuông chiều quá mức và người thân của họ đẩy họ cho những người có “chuyên môn” nuôi dưỡng và lo liệu…
– Khoan, có “chuyên môn” là sao?
– Tức là những người làm công trong gia đình họ.
Họ đã quen sai khiến người làm công như con hầu – kẻ ở thì khi lớn lên họ khó mà coi trọng và hòa đồng với những người nghèo hơn họ.
Tao cũng đã từng như vậy, và khi phát hiện ra, baba đã bắt tao với hai anh phải ra ngoài chợ trời trải sạp bán sách cũ để cảm nhận được muốn kiếm đồng tiền lương thiện vất vả và đáng quý như thế nào.
Tao đã tỉnh ra từ cái ngày ngồi suốt một ngày trời mà chỉ kiếm được không tới ba mươi Mỹ Kim, đã vậy còn phải nhịn tiểu để thay hai anh lớn ngồi canh sạp hàng khi họ vắng mặt, còn chưa kể việc nhiều người ghé sạp coi chùa chứ hổng mua mà còn làm quăn hay dơ sách.
Tao đã bị nhiễm trùng đường tiểu sau cái bữa đó, và tao đã không còn nạt nộ hay bắt cô – chú giúp việc phải đứng đợi cho mình sai biểu nữa.
– Nhưng, ba mày hổng sợ mày với các anh bị bắt cóc hả?
– Baba đã mướn hai mươi vệ sĩ trà trộn trong cái chợ trời đó để bảo vệ tụi tao.
Nhóm thì giả làm người bán hàng ngồi trải sạp xung quanh quầy của tụi tao, nhóm thì giả làm người mua hàng mà đi vòng vòng canh chừng.
– À…
– Tiền không mua được nhân cách, tình yêu, hạnh phúc và sự bình yên cho một con người.
Có người sẽ cười mỉa rằng có tiền ấm túi nên sẽ an tâm hơn; kỳ thực họ đâu có an tâm, họ sợ ngân hàng phá sản, két sắt bị cạy, nhà bị cháy, xe hơi bị trộm,…!trăm ngàn nỗi lo từ việc sợ người khác tới cướp hoặc gặp tai nạn làm hỏng chỗ cất tiền bí mật, vậy thì an tâm ở chỗ nào?
– Ba mày mà nghe được cuộc nói chuyện này chắc ổng mừng lắm.
Bỏ qua nhiều chỗ luận điểm chưa đúng và dẫn chứng còn nhiều thiếu sót, về tổng quan cách nhìn đời của mày rất khá và chững chạc.
Út Thương cười bẽn lẽn, rồi vui miệng kể:
– Trở lại chuyện ban nãy, mấy con bồ cũ của tao con nào con nấy đăng đàn nói bóng nói gió tao yếu sinh lý và sợ bị gài hàng nên cơm dâng tới miệng mà không ăn.
“Cơm” hay “Ếch” thì chưa chắc.
Có lần một con bồ cũ của tao bị AIDS, mèn đét ơi, tụi kia tưởng tao bị lây nên kỳ thị ra mặt, nhờ sự hiểu lầm trời ơi đất hỡi đó mà tao tống khứ được một mớ bạn đểu ra khỏi cuộc đời tao.
– Tao giống mày ở chỗ đó.
Tao ghét cái trò “Tình một đêm”.
Cặp bồ – cặp bịch bậy bạ rồi nhiễm lại đổ thừa Ông Trời.
Nắng chiều nhè nhẹ dát vàng những tàng cây thông già cỗi, những cây con cũng được hưởng xái vài nét.
Rừng thông giờ đây ánh lên sắc hoàng kim diễm lệ.
Nền trời mờ sương hắt hiu chút màu ấm tỏa ra từ vầng thái dương đang lặn dần.
Chim chóc vụt cánh bay về nhà.
Thảng hoặc trong cái không khí se se lạnh, nói theo cách dùng chữ của nhà văn Mai Thảo, là “rất riêng tây” của Đà Lạt, từng tốp du khách kéo nhau lên đồi chụp hình lưu niệm, tiếng cười nói – đùa giỡn gây huyên náo cả một vùng yên tĩnh, khiến cho chim – muông sợ hãi mà dáo dác trốn.
Út Thương chép miệng:
– Đi ngoạn cảnh hay đi biểu tình mà ồn ào dễ sợ.
Không biết tự bao giờ, Út Thanh để Duy Trác miêu tả khung cảnh tuyệt đẹp thay mình và thằng bạn bằng phần trình bày bài hát “Đồi thông” của nhạc sĩ Y Vân.
Lần này, chàng thiếu gia nhà giàu không ngủ gật nữa, cậu ta him mắt hòa mình theo điệu nhạc du dương và đẹp đẽ.
Bây giờ cậu mới hiểu tại sao baba lại ưa nghe dòng Tân nhạc trước năm 75, người sáng tác viết nên một bài hát dựa trên sự chiêm nghiệm, trải đời và cảm xúc chân thật của mình thành ra phần lời thường hay và dễ gây được cảm tình với thính giả.
Và baba là một người sanh ra, lớn lên và bị thời cuộc ấy luân chuyển như tác giả nên ông luôn quấn quít và mến thương với dòng nhạc này.
– Thanh.
– Hửm?
– Tối nay đi ăn lẩu bò ba toa hén?
– Ừm…!
– Sao cứ “Ừm”, “Hửm” hoài vậy? Bịnh hả?
– Tự nhiên tim tao đau, nó cứ hồi hộp – buôn buốt sao đó.
Út Thương biết bạn mình bị rối loạn thần kinh thực vật nên lo lắng lắm.
Lý do phát nguồn căn bịnh này là vì xích mích giữa nó và bác Phương, từ trầm cảm nặng biến chứng qua đủ thứ rối loạn tâm lý khác.
Người hiểu sẽ thương nó, còn kẻ không chịu hiểu sẽ chỉ biết lên mặt dạy đời và đổ cho nó bị Quả Báo do đồng tính luyến ái hay cãi cha – cãi mẹ.
Út Thương vịn vai thằng bạn mà thủ thỉ:
– Tao thương mày lắm.
Mày đừng nghĩ quẩn nha?
Nước mắt đã tràn bờ mi Út Thanh.
Anh biết căn bệnh chó má đó lại bộc phát nữa rồi.
Sau vài lần điều chỉnh nhịp thở, anh mới có thể trả lời người bạn tri kỷ:
– Tao sẽ ráng.
Để tao về tao lấy thuốc uống cái đã.
oOo
Ignacio Cường theo chân quản ngục đi vào căn phòng mà người tử tù đang ngồi đợi anh trong trỏng.
Anh đã chuẩn bị sẵn tinh thần để ứng phó với mọi tình huống có thể xảy ra.
Người tử tù có nhân dáng hết sức khôi ngô và thánh thiện.
Ông ta đeo kiếng thuốc, không biết mắt bị lão hay bị bịnh, ánh nhìn không chất chứa một mảy may ác ý hay mưu toan.
Anh hơi ngỡ ngàng, nhưng rồi mau chóng bình tâm lại.
– Con cho Cha hỏi một câu được không?
Ông ta tươi cười hỏi lại:
– Sao Cha?
– Sao con giết người?
Đến lúc này đây, ánh mắt của ông ta mới toát lên được sự hận thù.
Với giọng nói thật trầm của mình, ông thuật lại câu chuyện như sau:
– Con gái của con bị hãm hiếp.
Vì thằng chó đó là con của một thằng nghiệt súc tham nhũng nên nó không bị hề hấn gì, trái lại con gái con còn bị vu cho tội danh “thấy người sang tính bắt quàng làm họ” và vợ chồng con đều bị mất sở làm.
Đã vậy chỗ ở của tụi con cũng bị lấy lại, hiện thời nhà con phải nương thân ở quê ngoại, nhưng cũng không được yên ổn do chị dâu sợ tụi con lân la chia của sau khi ba – má vợ mất nên cứ ra vô liếc háy suốt ngày.
Ignacio Cường mời người tử tù ăn một viên kẹo chua ngọt để xoa dịu tinh thần.
Ông ta nói lời cảm ơn, rồi bỏ vô miệng ăn liền; sau vài lần chép miệng, ông mới nói tiếp:
– Bữa đó con đi làm lơ-xe cho lò bánh Út Tiếp, tình cờ con gặp thằng chó đó đang ve vãn con gái người ta, sợ rằng con nhỏ bị hại như con mình nên trong một phút nóng máu con đã lụi cho nó ba nhát bằng cây dao cắt bánh tét.
Mà có trúng chỗ hiểm đâu mà sao con phải chịu án tử hình?
Không hiểu sao, tự nhiên tâm trạng của chàng Cha Sở bỗng nhiên thấy nhẹ nhõm lạ.
Anh bất giác cười tươi mà hỏi lại:
– Người bị đâm còn sống à?
– Dạ, nó vật trâu còn chết chứ đừng nói chi là người.
Bất quá xui rủi liệt cánh tay thôi.
Ignacio Cường thở phào nhẹ nhõm:
– À, thì ra con đâm vô tay…
– Dạ, một nhát cánh tay và hai nhát vô vai.
Chưa nghe người tử tù thổ lộ hết chuyện nhà, chàng Linh mục đã bị mời ra ngoài.
Anh miễn cưỡng đứng dậy, rồi bỏ lại chuỗi Mân Côi lên bàn.
Anh vẫn chưa kịp thực hiện Bí Tích ấy với con Chiên khốn khổ…
– Cha sẽ kháng cáo giùm con.
Câu nói của Ignacio Cường đã làm tất cả vô cùng sửng sốt.
Anh biết cái tật nóng nảy lại làm hại anh nữa rồi.
Người tử tù đưa mắt nhìn anh một đỗi, rồi nâng chuỗi Mân Côi lên mà chắp tay giữ lấy vòng Thánh như một lời khẩn cầu xin anh hãy làm điều đó.
Sau giờ chuyện trò, Ignacio Cường ghé qua văn phòng tổ hợp luật sư của Mục sư Lưu Thanh Tân.
Ở đây trồng rất nhiều bông hồng.
Không hiểu trồng bằng cách nào mà giống hoa kiêu kỳ này lại có thể sống được trong thời tiết Sài Gòn khắc nghiệt như thế này.
Để giảm thiểu sức nóng và khói bụi, nhóm luật sư cho trồng mấy cái cây như thầu dầu, bằng lăng, gòn, hoàng điệp, huyết phượng và sồi.
Sân trước có cất một cái nhà để xe lợp mái ngói Âm – Dương, bốn bề trống hoác, phơi ra các cây cột trụ và phần dầm với xà nhà, dưới sàn tráng xi-măng đơn giản rồi kẻ vạch – chia ô chứ không có lót gạch gì hết; trước nhà để xe có đặt một băng ghế đá hoa cương, trên đề tên doanh nghiệp mà nhóm luật sư đang mua hàng ở chỗ họ.
Tiếng hát của Ngọc Lan trong bài “Lời con xin Chúa” của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông vọng ra nghe sao buồn thật buồn.
“Cầu xin ơn Chúa xót thương, thương nhà Việt Nam chinh chiến thê lương…”; một lời vái van của người con ngoại Đạo tràn đầy lòng lành và sự bác ái.
Thay vì đi thẳng vô luôn, Ignacio Cường nán lại bấm chuông ra hiệu.
Không đầy mười phút, một trong mười hai luật sư đã ra rước Ignacio Cường.
– Oa, bữa nay Linh mục ghé chỗ tôi có chuyện chi vậy?
Hỏi ra mới nay, người luật sư này là một Mục sư Tin Lành hệ phái Lutheran.
Ignacio Cường tưởng đâu Mục sư Tân phải hơn năm mươi tuổi, không ngờ vẫn còn khá trẻ.
Chàng Mục sư cũng bợ ngợ như anh, vì không tin nổi một người chưa đầy bốn mươi mà đã làm Cha Sở.
Những người luật sư khác hết thảy đều đã bận việc riêng nên ý Chúa đã đẩy sự vụ này cho Mục sư Tân giải quyết như Linh mục Cường mong muốn.
Chín Tân mời Ignacio Cường ra sân sau ngồi bàn chuyện riêng, vì chừng khoảng nửa tiếng nữa sẽ có một nhóm khách sẽ tới nên nhà trên sẽ hết sức chộn rộn và ồn ào.
Trái ngược với sự đa dạng của các loài cây thân gỗ ở sân trước, sân sau chỉ trồng rặt một giống cây bàng, làm chàng Linh mục có cảm tưởng đang đứng ở sân trường.
Về phần hoa cỏ, ngoài bông hồng ra, còn có hướng dương, cẩm chướng, ti-gôn, bông giấy,…!và một số loài mà anh không biết tên.
Tại đây, có một đài phun nước với phần đỉnh đặt một đôi thiên thần nho nhỏ đang đứng múa ba-lê, xung quanh hai bé là ba con bồ câu xinh xắn và hiền hòa.
Cửa hậu của sân sau nằm đối diện với con lộ rợp bóng me tây và thơm hương quỳnh lan.
– Nè Cha Cường, mình ra đằng đó ngồi đi.
Dưới gốc cây bàng lâu năm, một bộ bàn ghế sắt viền – mặt gỗ đủ cho bảy người ngồi nằm hứng lá và trái rơi.
Trên mặt bàn đặt một chậu cây sống đời be bé, chất liệu làm bằng sứ trắng thượng hạng, có hình vuông và vát bầu các cạnh nhọn, chỉ tính riêng phần chậu đã cao chừng năm phân rưỡi.
– Muốn uống cà-phê “Starbucks” không? Tôi mời.
Ignacio Cường cười khổ:
– Mắc quá.
– Gì mắc cha?
Ignacio Cường chìa cái bóp xẹp lép cho Chín Tân coi.
Chín Tân vỗ vai ông Cha Sở mà cười lớn, rồi đẩy tay anh ta và nói:
– Uống thử Matcha nghen? Tôi nói tôi mời mà.
Ignacio Cường lắc đầu nguầy nguậy, rồi cười biểu:
– Tôi sẽ chọn đồ uống theo ý tôi.
Còn về phần trả tiền, cảm ơn anh đã mời nhe.
Hóa ra quán cà-phê đó nằm ở bên kia đường, chiếm trọn một góc ngã tư ồn ã, từ đây băng qua lộ rồi đi bộ đến đó mất khoảng hai trăm mét.
Lớp gạch trên vỉa hè đã bạc màu và bong tróc gần hết.
Từ những kẽ hở, những mầm sống nhỏ nhoi bắt đầu vươn lên, cũng cố dốc sức đua chen và bám víu lấy mảnh đất Sài Gòn – Gia Định.
Lá me bay theo cơn gió gọi mưa về, muôn vàn kim tuyến màu xanh cứ thế vương trên vai áo, đầu – tóc khách bộ hành và mặt đường hoài cổ.
Nắng hiu hắt buồn trên những mái nhà cũ – mới đủ kiểu, không đủ soi sáng bầu trời ảm đạm và quang cảnh nơi đây.
Ngang qua một ngôi nhà có hàng rào kẽm gai giăng đầy dây bìm bìm leo tim tím, giọng hát của Châu Hà trong bài hát “Mưa” của chồng bà, tức nhạc sĩ Văn Phụng, vang lên nghe sao “Hoài cảm” lạ:
“Mưa rơi rơi trên đường, mưa rơi suốt canh trường
Mưa rơi ướt phố phường, mưa trôi lá trong vườn
Mưa đang tí tách reo ven tường…”
– Anh có định cưới vợ không anh Chín?
– Không biết nữa.
Có duyên thì đến với nhau, không thì thôi.
Lúc này quán cà-phê vắng teo.
Một ly cà-phê bằng hoặc hơn giá của một lít xăng; bản thân có thể nhịn uống, chứ xe đâu có nhịn được, thành ra quán ế thấy ghê.
Nhân viên trong quán rất dễ thương.
Hồi trước được “Tứ đại hộ vệ”, giờ chỉ còn một “đôi song-ca” chạy tới chạy lui như ma đuổi, ngó mà tội nghiệp luôn.
Cô quản lý hồi xưa chỉ tay năm ngón, giờ phải đứng trực quầy và làm nước phụ với nhân viên; không biết tháng này cô có được lên lương chưa mà sao nụ cười héo hắt quá vậy?
– Cô ơi, cô phát nhạc Tiền Chiến được không? – Chín Tân ngỏ lời hỏi.
– Dạ không, thành thật xin lỗi quý khách.
Quý khách có muốn đổi sang một bài hát Âu – Mỹ hay tân thời nào không?
– Vậy thì thôi…
Nói đến đây, Chín Tân đặt loại thức uống yêu thích, còn Ignacio Cường thì chọn một ly Irish Cream Cold Brew và dặn pha sao mà bớt ngọt nhất có thể.
Trên đường trở về văn phòng, Ignacio Cường ngó xuống nhìn ly nước của Chín Tân mà cười đọc:
– Pistachio Pure Matcha Latte.
– Chà, anh phát âm tiếng Anh hay quá.
Sao không mở lớp dạy kèm kiếm tiền trang trải cuộc sống?
Ignacio Cường lắc đầu nhè nhẹ:
– Thôi, tôi thấy coi kỳ lắm.
Rồi chàng Linh mục đánh trống lảng:
– Gia đình anh sống bằng nghề gì vậy?
– Hai bên nội – ngoại tôi đều là chủ vựa gạo.
Quả đúng như lời thông báo của Chín Tân, nhà trên vô cùng ầm ĩ.
Chàng Mục sư nói cho Ignacio Cường hay rằng nguyên nhà này đến đây vì vấn đề di trú.
Trước lúc bắt tay vào công việc, Chín Tân dặn bạn bè đồng nghiệp đừng để cho ai xuống nhà sau, dù người ấy chỉ là một đứa con nít hiếu kỳ đi chăng nữa.
Qua phần trình bày của Ignacio Cường, Chín Tân đã hiểu người tử tù ấy bị oan sai ở đâu và như thế nào.
Anh nêu ra hàng loạt câu hỏi về nhân thân, tính cách, thói quen thường ngày, đặc điểm nhân diện,…!của ông ta; thứ cho Đức Cường, anh chỉ có thể trả lời được vài câu trong số đó.
– Biết tại sao tôi lại hỏi anh quá trời quá đất như vậy không?
– Không.
– Tôi muốn ướm thử coi thân chủ của anh ra sao, có dễ bị đối phó hay bắt bài không, chứ không có ý thẩm vấn như cơ quan công quyền đâu.
– À, về vụ này thì e nguy lắm, mới nhắc tới tên khứa đó mà hai con mắt của ổng đã long sòng sọc rồi.
Chín Tân rũ mắt nói:
– Có giỏi cách mấy, tôi cũng chỉ có thể giúp ổng bị kết án cố sát, chứ không thể giúp ổng giảm bớt số năm ở tù được.
Chợt có tiếng dỗ con của một người phụ nữ, chắc có lẽ do trong nhà ngột ngạt nên đứa nhỏ muốn ra ngoài trời cho khoảng khoát.
Chị ta ăn bận sang trọng, dáng dấp thanh tao dù hơi gầy và tiều tụy.
Đứa nhỏ thì ú na ú nần, tay chân có ngấn, trông cù lự dữ lắm.
Chín Tân và Ignacio Cường đứng dậy chào hỏi hai mẹ con, rồi xin phép cáo từ.
Chín Tân mời Ignacio Cường lên xe hơi đi dạo một vòng cho khuây khỏa, sẵn tiện bề nói chuyện riêng luôn.
– Tôi mới vừa đổi xe.
Chiếc trước bị vẽ hình Thánh Giá ngược nên tôi bán rồi.
Ignacio Cường hỏi:
– Xe của hãng nào?
– “Mercedes – Maybach”.
Và giờ thì chàng Mục sư mắt phượng chạy chiếc xe “Volkswagen”.
Không biết gia đình anh ta buôn gạo ra sao mà giàu nứt đố đổ vách như vầy.
Ắt có lẽ còn bán thêm các loại nông sản và đặc sản miền Tây sông nước nên mới mau khấm khá.
Vừa giúp anh bạn Linh mục cài dây an toàn, Chín Tân vừa hỏi:
– Anh ăn gì chưa? Tôi bao.
– Xin lỗi anh, tôi không còn lòng dạ nào ăn uống hết.
– Không ăn thì lấy đâu ra sức phụng vụ Chúa và nhân loại chớ?
Rồi Chín Tân vỗ đùi bôm bốp, ý chứng minh mình dư sức bao cơm cho Ignacio Cường.
Đoạn nói:
– Muốn Tàu, Tây hay Ta?
Ignacio Cường gãi đầu cười trừ, đoạn đáp:
– Món quen đi.
Ăn món lạ tôi hay bị đầy hơi trướng bụng lắm.
Vậy là Chín Tân dẫn Ignacio Cường đến quán cơm chọn, tức là ai muốn ăn gì thì chỉ chủ quán gắp món đó, miễn phí một phần canh và ăn hết cơm thì cứ việc tới múc thêm.
Chín Tân vẫn là người mở màn:
– Anh ăn canh chua chay hay hủ qua dồn thịt?
– Khổ qua đi.
Hai người chọn ăn chung dĩa để nếm được nhiều món.
Họ kêu lạp xưởng chiên, đậu đũa xào tỏi, rau dền luộc, mắm chưng hột vịt, gỏi ba khía trộn đu đủ và sườn xào chua cay; mỗi thứ một phần.
Hoàng Oanh đang ca bản “Thương con” của nhạc sĩ Lam Phương; đây là một trong những “Báo Hiếu khúc” mà người trai Minh Hương dành tặng hiền mẫu của mình và của mọi người.
Giọng hát dịu dàng của “Chim vàng Mỹ Tho” vang lên nghe sao đau buồn quá thể.
Đặc biệt trong bài này, có câu ru con đặc trưng xứ Nam Kỳ nên càng làm bài hát thêm hay và đáng quý:
“…!Ầu ơ…!Ầu ơ…
Tiếng khóc con thêm phần mẹ lo
Lo sao bát sữa con vẫn đầy
Lo vì nhà mình thiếu cơm chiều
Ầu ơ…!ví dầu con cá nấu canh
Bỏ tiêu cho ngọt, à ơi…!bỏ hành cho thơm…”
Giờ đây, giữa thời cuộc lạm phát, kinh tế khó khăn, xăng tăng – vật giá leo thang, nhạc phẩm của bác Phương càng gây thêm nỗi buồn vời vợi cho người nghe.
– Cha Phó lúc nào cũng hiểu ý ăn nết ở của tôi.
Không có cẩu, chắc tôi quản xứ không nổi quá.
– Bên tôi thì có anh Hai Nghĩa và anh Năm Tường, cái Hội Thánh của tụi tôi có chút xíu, nhưng cũng bộn chuyện cần phải giải quyết và “đối thoại”.
Nghe đến chữ “Đối thoại”, Ignacio Cường không kiềm được nên đã che miệng cười thật lớn.
– Vì vụ của Mười Anh mà ngày nào tụi tôi cũng phải “đối thoại” với cánh báo chí.
– À…
Trời đã quá trưa.
Nắng vàng chói chang làm nổi bật lớp khói bụi bay lơ lửng trong không khí.
Nhìn đâu cũng thấy khăn bịt mặt, kiếng mát, trang phục dài lượt thượt và dày cộm; ở Việt Nam mà cứ ngỡ một quốc gia Hồi Giáo bên Trung Đông.
Trong dòng xe nườm nượp ngược xuôi, chiếc xe hơi “thần tốc” của Matteo Tân bỗng hóa thành linh quy ngàn năm; lâu lâu nhích được vài phân, họa hoằn lắm mới tiến được vài mét.
Hơi mát từ cái máy điều hòa không đủ xua tan bầu không khí oi bức và nóng nực của ngày Hè, khiến hai người có cảm tưởng đang bị đưa vô lò hơi chờ xử tử hình.
Để giải tỏa tâm trạng bí bách, Chín Tân gượng cười hỏi Đức Cường muốn nghe bài chi.
– Nghe Thanh Thúy ca cho mát đi.
Cô vốn được mệnh danh là “Tiếng hát nửa khuya” mà.
Chín Tân bật cười khúc khích.
Rồi cũng chiều theo ý ông Cha mà bật một bài lên nghe.
Giọng hát sầu não của cô trong bài “Đường nào lên thiên thai” của nhạc sĩ Hoàng Nguyên cất lên chưa đầy vài câu mà hai người đã thi nhau rợn tóc gáy.
Cho đến bây giờ, chưa có ai bì kịp cô về mức độ trầm trong tông giọng, phần đông là ráng “rặn” xuống cho thật thấp chứ không phải bẩm sinh như cô.
– Nghe Hoàng Oanh ngâm thơ cũng mát lắm.
– Thêm Thái Thanh nữa.
Chín Tân chọn bài “Tình chàng ý thiếp” của nhạc sĩ Y Vân qua phần biểu diễn của Hoàng Oanh.
Dù rằng bản của cô Thúy cũng không kém cạnh, anh ưng bản của cô Oanh hơn vì khúc ngâm thơ rất mùi mẫn.
Tới đường Võ Di Nguy, Đức Cường bỗng la lên:
– Ghé vô đây mua cho cô Liễu một bịch tráng trộn thập cẩm.
Chín Tân tò mò:
– Ai vậy anh?
– Một cô gái điên trong xứ tôi.
Do không có chỗ đậu xe nên Chín Tân phải gởi nhờ dưới gầm cầu cách điểm bán hơn hai trăm mét.
Người nhận giữ cam đoan sẽ bảo vệ xe hết mình.
Quầy bánh tráng trộn không mấy đông khách.
Vì vậy hai người chẳng tốn thời gian quá nhiều.
Biết con nhỏ mũ mĩ hay ghé chỗ mình ăn hàng không còn tỉnh táo nữa, bà cô mủi lòng thương nhờ gởi cho nó một hộp gỏi đu đủ trộn khô bò.
Ngày xưa, nó làm lễ tân cho một khách sạn hạng sang, thường cùng bạn bè hoặc thằng bồ tới đây ăn hàng – tán dóc, chỉ khi nào nó buồn thật buồn mới ra đây một mình.
Mua xong, hai người bấm đèn tín hiệu chờ được qua lộ.
Bên kia đường, một cô gái mặc áo dài màu vàng mỡ gà đang đứng hát trong một công viên vô danh.
Là những sáng tác mới của nhạc sĩ Thương Hận.
Được vài bài hay, còn lại không có gì đặc sắc.
Chín Tân chép miệng bình phẩm:
– Hồi trước tôi cứ nghĩ Thương Hận là “Trịnh Công Sơn đệ nhị”, sau này mới biết mình lầm.
– Là sao?
– Ảnh chẳng muốn dây vào chính trị, dù bạn bè của ảnh toàn nằm trong nhóm “bị theo dõi”.
– À…
Rồi Ignacio Cường bình phẩm:
– Mà, ký giả Sương Tuyết, giảng viên Phan Hoài Việt, cựu luật sư Thanh Điền, thư ký tòa soạn Hớn Mai,…!đâu có tham vọng dấn thân vào chính trường, họ chỉ thích bàn luận mà thôi.
Chín Tân gật gù:
– Ở cái xứ này, nghiệp sáng tác chỉ là nghề phụ, không làm nghề khác có mà đói meo râu.
– Theo ý tôi, “văn sĩ”, “thi sĩ”, “họa sĩ” và “nhạc sĩ” chỉ là danh xưng thôi, chứ không phải là một cái nghề.
– Và tu sĩ cũng vậy.
Nói đến đây, cả hai nhìn nhau cười xòa.
Rồi Chín Tân đổi vui thành buồn mà ủ rũ thở than:
– Chuyện ông Hận thì dễ giải quyết, còn chuyện của ông kia thì khó vô cùng.
– Tôi biết.
Nên chỉ xin anh giúp kháng cáo sao cho ổng chỉ bị ở tù hơi lâu.
Trở về Giáo xứ, Ignacio Cường lên nhà thờ soạn bài giảng cho buổi Lễ Chúa Nhựt tuần này.
Stephen Đoàn vẫn chưa về.
Nhưng nhờ sự có mặt của hai người Thầy thân yêu mà các buổi Thánh Lễ diễn ra thật trọn vẹn và vui tươi.
Nghe theo lời của Cha Hoàn, anh sẽ để cho người bạn đồng tu được yên, bởi anh đã hiểu người bạn của anh nhìn nhận cô Xuân dưới góc độ nào.
Ông Tám Què chắp tay cảm ơn Cha Chánh xứ, rồi lên xe của Cưỡng mà về nhà canh chừng con.
Chưa kịp đẩy cửa chính nhà thờ, Ignacio Cường đã nghe thấy tiếng gọi mình của ông Thầy Phó Tế:
– Về rồi đó hả Cha Cường?
– Có chuyện chi thưa Thầy Quới?
Thầy Phó Tế biểu ông Cha trẻ đứng đợi một chút để ông về lấy quà của Cha Phó đưa cho.
Trong lúc chờ ông Thầy đạp xe về tới nhà, Ignacio Cường ra mái hiên nhà thờ mà cầm bình nước tưới cây trồng trong bồn bông.
Không quên tưới luôn chò lan hồ điệp của Stephen Đoàn.
Ước độ mười lăm phút sau, Louis Quế xuất hiện với chiếc xe đạp có cái tay cầm máng đầy những bịch nylon đủ màu rực rỡ.
Ông niềm nở trình bày:
– Bánh phồng cá linh, bánh bò thốt nốt, khô bò và dưa xoài.
– Chúa ơi, nghèo rớt mồng tơi – nghèo rơi lá mướp mà còn bày đặt quà cáp nữa.
– Cha Phó lúc nào cũng vậy mà.
Có mấy xu dính túi mà cứ khoái làm Mạnh Thường Quân hoài.
Thôi, tôi về nghen?
– Dạ, Thầy đi mạnh giỏi.
Vừa đi vào nhà thờ, Ignacio Cường vừa đọc tin nhắn trong “Hộp thư” của điện thoại.
Quán cơm “Liên Thành” có nhắn anh chiều nay đến lấy rau cải – trái cây về để cùng nhau nấu cơm tình thương.
Mỗi bên khác địa điểm nên những người cần một bữa ăn sẽ không phải cực khổ đi xa và đỡ hao tiền xăng xe (nếu có).
Các quán xá trong xóm Đạo hết thảy đều đồng lòng chấp nhận bán ế vài bữa trong tuần; đi làm phước thiện chi cho xa, mình sống ở đâu thì giúp đỡ ở đó luôn cho rồi, bởi quan niệm như vậy nên chẳng ai cảm thấy phiền lòng hay tiếc của.
Đang soạn bài giảng thì Ignacio Cường bị bí, anh chẳng hiểu nên nêu ra thí dụ nào vừa vui vừa dễ hiểu cho bà con trong xóm Đạo.
Tự dưng anh cảm thấy chiếc áo Cha Sở mà mình đang mặc sao quá ư thùng thình.
Anh hãy còn non trẻ và chưa trải đời nhiều để có thể mặc vừa khít sắc áo tu này.
Do suy nghĩ quá nhiều, phần thái dương của Ignacio Cường càng lúc càng đau buốt.
Anh chán nản tắt laptop, rồi đem cất nó trong phòng họp nằm sau lưng Cung Thánh.
Đoạn rảo bước ra quán cà-phê gần đó ngồi chơi.
– Cha muốn nghe bài chi?
Chợt nhớ đến bài hát mà Chín Tân ban nãy muốn nghe mà không được đồng ý, Ignacio Cường bèn trả lời:
– “Cô hàng cà-phê” của nhạc sĩ Canh Thân, do Sĩ Phú ca.
– Cha muốn uống gì hôn tôi pha?
– Bác cho con xin một ly nước lạnh thôi.
Đầu con đau quá, không uống đồ ngọt nổi.
– Ờ, ờ, có liền.
Người Mục sư đẹp như tượng tạc đang ngồi chuyện gẫu với hai anh em họ Võ.
Người đâu càng ngắm càng yêu, càng nói càng dễ gây cảm tình với người khác.
Dù muốn dù không, Ignacio Cường vẫn nghe rõ mồn một nội dung câu chuyện của ba người kia.
Họ đang nói về những danh lam thắng cảnh và huyền tích ở Sóc Trăng, cũng như về cộng đồng người Cao Miên đang cư ngụ tại đó.
Có một bản tin đã khiến anh chú ý, đó là vụ tai nạn giao thông tại đường…!đã khiến cho một dân biểu thuộc đảng Dân Chủ và người tài-xế của anh ta bị trọng thương; đây là một trong những người ủng hộ tổng thống Khánh rất mạnh mẽ và quyết liệt, nghe đâu không tiếc tiền tổ chức những chương trình giao lưu với người dân cho ông kia.
Ông bác bàn khác ngứa miệng bình phẩm:
– Có khi nào tụi nó thanh trừng nhau không bây?
Ông bạn già của bác gật gù:
– Dám lắm.
Một người bạn khác đặt câu hỏi:
– Thằng Khánh có xuống Sóc Trăng thăm không?
Ông chủ quán cà-phê trả lời thay:
– Có.
Nó xuống liền luôn.
Người bạn khác của ông bác lại hỏi:
– Có quỳ xuống khóc lóc không?
Ông chủ quán phì cười:
– Quỳ thì không có, nhưng khóc lóc thì lúc nào cũng đủ bài.
Nhận thấy sắc mặt tái xanh của Cha Sở, bà chủ quán hớt hải xách chai dầu cù-là mà lại gần bắt gió cho Cha.
Chưa nhéo được chục cái mà thái dương và ấn đường của Cha Cường đã đỏ bầm như bị cây gõ.
Bà nhăn mặt khuyên:
– Cha ra sau hè nằm võng chợp mắt một chút cho khỏe đi.
Bữa nay đừng có làm gì hay đi đâu hết.
Ignacio Cường nói lời cảm ơn bà Giáo dân, rồi lảo đảo bước xuống nhà sau.
Nếu biết trước mình sẽ bị cảm nắng thì anh đã thay sang thường phục đặng nhờ thím ấy cạo gió giùm rồi.
Sau hè có hai cây mận da người đã có từ thời Cậu Bảy còn sống, năm nào tới mùa trái cũng chín đầy cành, tuy mỗi trái khá nhỏ nhưng bù lại rất ngọt và mọng nước.
Vì sau hè sát rạt với con lộ nên Ignacio Cường nằm đây nghỉ lưng cho vui chứ không có ngủ nghê được gì.
Hết dì bắp xào đạp xe cọt kẹt qua, lại tới đám con nít trong xóm Đạo rượt nhau chạy hà rầm và la giỡn rần trời, chưa kể đến là tiếng rao của những người bán hàng rong hay thâu mua ve chai – lông vịt – dép đứt – mủ bể vang lên liên hồi.
Ồn ào vậy mà tâm hồn anh cảm thấy phơi phới, thơi thới lạ kỳ.
Dường như những tràng âm thanh đó báo hiệu cho anh biết thành đô đang “sống”, một nhịp sống xô bồ và đầy ắp cung bậc cảm xúc đời người.
Nằm đâu được hơn một tiếng, cảm thấy cơn đau đầu đã lắng dịu xuống, Ignacio Cường quyết định thực hiện lời hứa hôm bữa với bà cụ trong xứ: Đó là giúp bà cụ chẻ củi và phơi miểng gáo.
Trước khi đi, anh thưa với vợ chồng chủ quán cà-phê.
Phần lớn đường sá trong Giáo xứ chưa được tu bổ đẹp đẽ, mỗi bận mưa xuống sình lầy và trơn trợt vô cùng; đặc biệt vào mùa nước nổi thì phân nửa xóm Đạo thành Thủy Cung, phái nam thì chịu trận được, nhưng phái nữ thì chịu không thấu cái cảnh phải xăn quần lội bì bõm trong nước dơ và đầy rác.
Bà con không ai dư dả nên anh không dám đứng ra kêu gọi hùn tiền lo chuyện công lộ.
– Ngoại ơi, con tới rồi nè.
– Ơi, để ngoại ra mở cửa cho Cha.
Hàng rào bông bụp lâu ngày không được cắt tỉa đã trở nên lởm chởm và “lòi sỉ”.
Ông Cha Sở ngắt một cái bông đỏ thắm, rồi chúc nó xuống để làm thành cái lồng đèn giả.
Trò chơi con trẻ những mùa trăng tròn nay đã không còn thịnh hành nữa; dầu Trung Thu nào xóm Đạo cũng tổ chức vui chơi cho trẻ nhỏ, nhưng số em tham gia không được bao nhiêu vì chúng ưa cái máy hơn, mong rằng năm nay Cha Augustino Dương sẽ giúp xấp nhỏ rời xa màn hình xanh và hăng hái tham gia vào các hoạt động bổ ích của Giáo xứ.
Bà cụ e dè chỉ vô cái kho chứa cây khô chưa chẻ thành củi.
Số cây khô đủ để con cháu cụ khỏi phải trả tiền điện – gas nửa năm.
Chẻ xong chắc Ignacio Cường thành Thạch Sanh luôn.
– Cha chẻ nhiêu cũng được hết, đừng có ráng chẻ hết nhe?
– Dạ, chừng hai tiếng thôi ngoại ơi, sức con không thể nào chẻ hết nguyên cái kho này đâu.
Để giảm bớt cái nóng bức đặc trưng của ngày Hè, Đức Cường chẻ củi dưới bóng mát của cây nhãn da bò quê Bạc Liêu.
Hương nhãn thơm lừng gợi cho chàng nhớ tới món chè táo xọn – nhãn nhục mà nội chàng ưa nấu mỗi lần ba mẹ dẫn chàng về thăm.
Trong lúc ông Cha Sở hì hục nai lưng ra chẻ củi, bà cụ đi xuống bếp nấu cơm cho chương trình Bếp Tình Thương sẽ diễn ra vào buổi tối hôm nay.
Dự tính sẽ phát ba trăm sáu mươi phần cơm, canh và đồ mặn, kèm theo một ly trà bí đao uống giải nhiệt.
Làm đến khi Louis Quế đến gọi về ký giấy xác nhận đã lấy hàng, Ignacio Cường mới nghỉ tay.
– Tôi đi bộ về được.
– Tôi với Cha có gì đâu mà ngại.
Leo lên yên sau ngồi đại đi.
Ignacio Cường đành lên xe đạp của ông Thầy Phó Tế ngồi.
Anh ngồi nép một bên để vạt áo dòng không vướng vào căm xe.
– Sao tự nhiên Thầy lại trở thành Phó Tế vậy?
Thầy Quới cười hiền:
– Đó là ý muốn của Chúa.
– Năm nay Thầy nhiêu tuổi?
– Chớm ngũ tuần.
Còn Cha?
– Sắp cập bến tứ tuần.
– Trẻ chán.
Nói đến đây, Louis Quế huýt sáo váng trời.
Ông có khuôn mặt rất trẻ so với tuổi, dáng người phốp pháp phúc hậu, nước da ngăm ngăm như màu đường nốt thốt, và nụ cười luôn thường trực trên khuôn miệng chữ Tứ.
– Chở tôi có mệt không?
– Mệt chớ sao hông cha?
Sau câu nói ấy, Louis Quế cười giòn.
– Sao Thầy tên Quới mà ai cũng kêu là Quế vậy?
– Tại tôi ưa xin thêm rau quế nên mấy chỗ bán phở biết mặt, rồi ghẹo tôi bằng cách sửa chữ “Quới” thành chữ “Quế”.
Riết ra vầy.
– À…
Ngang qua một con rạch nước ngập tới bờ, Louis Quế và Ignacio Cường thấy một đám trẻ đang thi nhau bơi lội và lặn hụp bắt cá, tép và rạm.
Hai người ngừng lại mà cất giọng nhắc nhở xấp nhỏ coi chừng vọp bẻ và đừng ham quá mà vô vùng xoáy nước thì nguy.
Tụi nó vâng dạ lia lịa, nhưng không biết có lọt lỗ tai chữ nào không.
Mãi đến năm giờ rưỡi tối, mọi thứ mới được chuẩn bị xong.
Bữa nay thực đơn của Bếp như sau: Canh bún nấu bầu với tôm khô, thịt kho tiêu quéo, trứng cá thu chiên, rau muống xào tỏi, đậu bắp luộc và tráng miệng là hai trái mận An Phước.
Dòng người kéo tới lãnh cơm càng lúc càng đông.
Các Sơ chỉ biết nhìn nhau cười khổ, vì phải từ chối những người tới trễ.
Có hai ông – cháu đói quá nên đã ngồi bệt trên vỉa hè ăn uống luôn, nghe đâu đứa nhỏ vẫn chưa được đi học do gia cảnh bần hàn cùng cực.
Cũng may mấy khứa ham nhậu chưa biết chỗ này nên phần cơm đã đến được tay người thực sự cần.
Những người tới trễ hụt hẫng nhìn các Sơ.
Rồi ủ rũ lặng câm ra về.
– Chờ xíu! Chờ xíu!
Vợ chồng dượng Bảy ngoắc họ lại, rồi mời họ ăn bún bò Huế.
Đây là công sức và phí tổn của toàn bộ quán xá trong xứ, sợ rằng không đủ phần ăn cho người cần nên bà con đã hùn nhau nấu và canh nồi bún bò.
Nụ cười rạng rỡ và những giọt nước mắt hạnh phúc của họ đã giúp các Sơ, Thầy và Cha không còn lo ngại nạn ăn “phá của” hay những lời hăm he của hàng quán ngoài xứ.
Mãi tới hơn mười giờ rưỡi, chương trình mới có thể kết thúc.
Sau khi giúp mọi người thu dọn “tàn cuộc”, Ignacio Cường cùng Antonio Vũ đi ăn khuya.
Cái quán ăn vỉa hè đó nằm sau lưng Đài Vinh Danh Pétrus Trương Vĩnh Ký; vì các sĩ tử và các bậc phụ huynh thường hay viếng Đài thắp nhang xin cụ giúp đường học vấn hanh thông và tấn tới, nên bên kia đường thi nhau mở quán xá và cửa hàng văn phòng phẩm để hốt khách, thành ra về đêm quảng trường thì tĩnh mịch – còn bên kia đường lại huyên náo và ồn ào khôn cùng.
Thể theo ý của Nhật Vũ, hai người chọn quán của một gia đình người Hoa – Việt.
Nghe đâu chú – thím đã làm mai cho con gái kết hôn với một thương nhân gốc Hoa quốc tịch Mỹ, nên giờ gia cảnh coi bộ khấm khá lắm.
Bài hát “Đêm về tưởng nhớ” của đôi tác giả Minh Kỳ – Hồ Đình Phương qua phần trình bày của Nhật Trường làm trời đêm thêm ngọt ngào.
Em nhỏ khóc ré nãy giờ nghe giọng bác hát êm tai quá nên đã chịu ngủ vùi trong vòng tay mẹ hiền.
Antonio Vũ và Ignacio Cường chọn cho mình cái bàn đặt sát gốc bồn cây thầu dầu.
Chủ quán mắc cái đèn chụp trên cành cây để thực khách ngồi ăn ngon miệng hơn.
Từ đây có thể nhìn rõ hai đầu của con lộ và một góc bưu điện Quốc gia khuất sau hàng cây mé trái quảng trường.
Nhìn thấy ánh mắt của người đàn bà không phấn chẳng son, mặc đồ công nhân quét rác, đang ẵm trên tay đứa con mới sanh, mà Antonio Vũ cầm lòng không đặng.
Chỉ cứ nhìn vô tủ kiếng mà không dám gọi món hay kêu nước uống, coi mòi chủ quán bắt đầu phát bực muốn xẵng giọng đuổi đi rồi.
Thành ra chàng Linh mục đẹp như búp-bê buồn phải lên tiếng giải vây:
– Hai má con chị ăn gì chưa tôi mời?
“Một lời như cởi tấm lòng”, chị mừng mừng tủi tủi bước a lại và cúi đầu thưa:
– Dạ, được vậy thì cảm ơn…!cảm ơn Thầy lắm.
Nhưng mà, tui mới đi làm dìa, chưa kịp tắm rửa gì hết, lại hôi sữa nữa…
Antonio Vũ dịu dàng kéo ghế cho người má lỡ thì ngồi.
Đoạn niềm nở mời:
– Chị cứ ăn, còn bé đây hãy để tôi trông.
Chị bèn gọi tô hủ tíu – mỳ sườn thập cẩm và một ly nước sâm dứa sữa; còn kêu thêm một dĩa hoành thánh chiên nhưn tôm – thịt ăn trước cho đỡ đói.
Ăn uống xong rồi, trước khi từ giã hai má con, Antonio Vũ hỏi chị ta có muốn mua món gì để dành mai ăn không, chị ta liền chỉ vô con gà luộc vàng ươm nằm phè phỡn trong tủ kiếng.
Anh vui lòng nhận lời.
Giờ tới lúc trả tiền nè, Ignacio Cường vét sạch bóp thì vừa đủ trả phân nửa tiền, thêm phần của anh bạn đồng tu là xong.
Ai ngờ đâu, cha nội này báo “tin hỷ”:
– Chết, tôi quên đem bóp rồi.
“Mới nghe qua như sét đánh ngang tai…”, ai soạn câu này xứng đáng được lưu danh thiên cổ, bởi vì không bao giờ lỗi thời hết.
Đức Cường biến thành Quan Ông trong vòng một nốt nhạc.
Anh đỏ mặt tía tai tính cách chi mượn tiền hay xin thiếu, nhưng ngẫm lại mắc cỡ nên không dám lên tiếng hay gọi điện cho ai.
Antonio Vũ sáng trí bèn gọi điện cho thằng bạn thiết.
Cũng may ban đêm đường thoáng nên Manuel Ngô đã kịp thời tới đây “cứu giá”.
– Chúa ơi, mày bao người ta mà bắt tao trả.
– Xin lỗi nghen?
Mười Anh vỗ đầu thằng bạn:
– Xì…!Bạn bè mà.
Bày đặt ăn nói khách sáo.
Sắc diện của gia đình chủ quán vui như vừa mới mất sổ gạo.
Chắc họ đang nghĩ ăn uống kiểu gì mà gần hai tiếng đồng hồ vẫn chưa thấy kêu lại tính tiền.
Trả tiền xong xuôi, Mười Anh rủ thằng bạn thiết và ông Cha Sở xuống Bến Nghé đi taxi sông.
Để thu hút khách du lịch và tạo thêm phương tiện cho bà con đi lại, đô trưởng đã mở tuyến đường này; bấy giờ ở đó tấp nập và đông vui lắm.
Đặc biệt, ở đây giữ xe miễn phí; thành ra nhiều người đi làm hay chọn tuyến đường này.
Trước lúc lên đò, ba người nán lại cho giang cảnh kiểm tra thẻ căn cước và coi mặt.
Ban ngày thì khỏi cần, nhưng ban đêm thì bắt buộc phải làm để đề phòng tội phạm đào thoát hay buôn bán hàng cấm.
Cũng may Nhật Vũ cất thẻ căn cước trong cái bóp riêng nên nguyên nhóm mới không bị lôi thôi đủ điều.
Trên đò cũng có hai người giang cảnh và rất có thể có cả cảnh sát chìm, khách đi đò khá đông mặc dù trời đã vào khuya.
Ba người chọn một băng ghế dài ở mạn phải; ngồi cùng với họ là một người đàn ông mặt xương xương và diện âu phục.
Hành khách đa số là người nước ngoài, còn lại là vài đôi tình nhân đi hẹn hò và công nhân – viên chức đi làm về.
Tài công là một ông bác đã ngoài bảy mươi rất thạo sử Gia Định và giỏi tiếng Anh; trước đây ông là giáo viên Anh ngữ, sau này về hưu non rồi ra đây làm nghề tài công kiêm hướng dẫn viên du lịch.
Hai người “lơ-xe” của ông bác cũng không kém cạnh, họ đều đã tốt nghiệp trường Sư Phạm hạng Ưu nhưng vì yêu thích sông nước và môi trường làm việc không nhiều áp lực nên chọn công việc này; gia đình của họ chửi thiếu đều muốn lủng màng nhĩ với quyết định trên.
Đêm hè trời hiu hiu buồn, giọng ca của Hoàng Oanh trong bài “Biết đâu tìm” của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ càng làm cảnh sắc u sầu.
Vài du khách thích thú lắng tai nghe giai điệu thuần túy của nhạc Việt, có người còn nhờ ông tài công phiên dịch cho họ hiểu nữ ca sĩ trong bài đang hát về cái chi.
Manuel Ngô liếc mắt nhìn người đàn ông mặt xương xương.
Trông có vẻ giống cảnh sát chìm hay dân xã hội đen quá.
Người đàn ông đó đưa mắt nhìn lại y.
Đôi bên bợ ngợ như nhớ như quen một bóng hình ai đó đã chết theo dòng đời.
oOo
Y hẹn, bộ tứ “Nhạn – Vàng – Bình – Công”, hai ký giả tòa soạn “Canh Tân”, nhạc sĩ Thương Hận, pháp y Cảnh, giảng viên Việt và ông già Ba Tri ghé thăm “đất thiêng” An Giang.
Nơi mà họ sẽ cư ngụ một tuần là tịnh thất của nhóm cư sĩ Hòa Hảo.
Trần Bảo Sơn niềm nở rước nguyên đám vô nhà.
Biết ông già Ba Tri bị chém trọng thương sanh bịnh hậu nên anh đã soạn sẵn bài thuốc trị sẹo và giảm bớt cơn đau nhức cho ông.
Sau khi nhận phòng xong, Trần Bảo Sơn mời nguyên đám ra ngoài vườn ăn uống cùng với các huynh đệ đồng tu của mình.
Ra đến nơi đã thấy trên cái bàn đá bày năm cái lẩu cù lao, sáu con gà mái dầu hấp hành – rượu, mấy tượng gỏi bồn bồn trộn với tôm – thịt, ba con cá tai tượng chiên xù cuốn bánh tráng và rau sống và mấy dĩa chân gà rút xương nướng muối ớt và sa-tế cay; tráng miệng có trái cây và bánh bò – đường thốt nốt hấp.
Về phần khách viếng, họ đem xuống chục ký heo quay, bánh hỏi, bánh mì và chục ký tôm sú rang trứng muối; ngoài ra gã điên còn mua chè Thái ở đường Nguyễn Tri Phương.
Cư sĩ Bửu Sơn mở màn:
– Độ rày nhiều người nhận vơ con vua cháu chúa quá, có ai ở đây biết cách nào phân biệt hay ngăn chặn không?
Xương Tuyết bật cười, đoạn trình bày:
– Dễ thôi mà.
Chữ “Nguyễn-Phước” có dấu gạch nối dính liền với nhau thì đích thị là con vua cháu chúa.
Còn chữ “Nguyễn Phước” không có dấu gạch nối là phó thường dân.
Quy định trên cũng nên áp dụng đối với Tôn-Thất, Công-Tằng, Tôn-Nữ, Huyền-Tôn,…
– Vậy còn họ “Quý” thì sao?
– Cũng vậy luôn.
Thí dụ nghen: “Quý-Trọng”, có dấu gạch nối dính liền với nhau.
Còn không là không có can hệ gì với gia phả triều Nguyễn.
Cư sĩ Vân Châu thuật lại những gì mình biết về Ông Hai Đạo Dừa.
Xương Tuyết nhếch miệng cười:
– Anh nói sai rồi.
Trần Bảo Sơn ra hiệu mời gã điên trình bày.
Xương Tuyết rầu rầu kể:
– Ông Hai bị giết vào ngày 18/04/1990, lối chừng năm giờ chiều tại Giếng Nước – Mỹ Tho.
Sau năm 75, Ông bị bắt đi tù khoảng một năm mấy, rồi được cho tại ngoại và bị “paparazzi” đi theo canh chừng từng giờ.
Trong ngày bị sát hại, các đệ tử thân tín đã xả thân – liều mạng bảo vệ Ông Hai.
Nói đến đây, gã điên ngước mắt nhìn vòm lá trên cao như đang tìm kiếm bóng hình ai đó.
Một đỗi sau, mới kể tiếp:
– Họ vẫn còn ở đây.
Nhưng tôi dám chắc rằng chẳng có ai trong số họ nhận mình là đệ tử của Ông đâu, bởi vì Ông biểu các Thầy phải làm như vậy để giữ lấy mạng sống cho mình và người thân.
Những người dám nhận mình là đệ tử phần đông là người vô can và “ngoài rìa”.
Bảo Sơn hỏi tiếp:
– Ai là người đấu tố Ông Hai trước tiên vậy anh?
– Vài đệ tử phản phé của Ông Hai, và mấy khứa đó đều là dân nằm vùng hết.
Bảo Sơn lại hỏi:
– Con thuyền Bát Nhã của Ông ở đâu sao không thấy?
– Con thuyền Bát Nhã năm xưa của Ông đã bị tịch thu và biến hành nhà hàng nổi bên Bến Tre.
Mà, nên nói cho rõ, Ông có tới hai con thuyền lận.
Nếu tôi nhớ không lầm thì nguyên bổn của chúng là sà-lan, sau Ông mua về mới thiết kế lại thành con thuyền.
Vốn là dân Tây học và tốt nghiệp khoa bảng đàng hoàng, nên hầu như mọi công trình, bảng hiệu và phương tiện di chuyển xung quanh mình, Ông thường tự tay thiết kế.
Anh có thấy không? Đã trải qua hằng bao nhiêu năm mà những công trình không bị phá hủy vẫn còn vững chắc và kiên cố, dù rằng phần khung và nền móng toàn đóng bằng cây dừa.
– Tại sao hay dữ vậy anh?
– Đó là một trong những “tài phép” của Ông, dựa trên nguyên lý thực tiễn của Toán – Lý – Hóa – Sinh.
Ông già Ba Tri chêm vô:
– Nếu như Ông Hai còn sống, ắt hẳn công thức xây cất đó đã được lan truyền rộng rãi.
– Tiếc há? Ông Hai chưa kịp ghi chép gì hết.
Xương Tuyết gật đầu:
– Phải, vì Tịnh Khẩu, nên việc giảng đạo Ông Hai sẽ giao cho đệ tử thân tín làm thay.
Thường thì Ông ngồi một bên, Thầy kia ngồi một bên; chỉ khi nào Thầy kia nói trật hoặc bị “bí” thì Ông mới mở miệng ra góp vài lời.
Đặc biệt hơn, mỗi ông Đạo, tức là đệ tử thân tín và trung kiên với Ông Hai, họ đều có một biệt tài riêng, như người thì giỏi về cơ khí, người giỏi quán xuyến chuyện bếp núc, người giỏi bơi – lặn và chèo ghe,…
Thấy không ai ăn uống gì mà chỉ lóng tai nghe mình nói, Xương Tuyết bèn nhắc nhở mọi người cầm đũa lên ăn.
Về phần mình, gã điên thuật:
– Ông Hai cũng từng bị vu khống “Loạn luân”, “Tu lõa thể với tín đồ”, “Gạt tiền để đi vượt biên”, “Ăn ở lang chạ có con tùm lum”,…!Cho nên bây giờ tôi mà nghe ai đồn thổi người nào với mấy nhóm chữ trên, tôi chẳng bao giờ để bụng tin liền, mà phải kiểm chứng – xác minh trong một thời gian rất dài mới dám quyết định tin hay là không.
Đức Hoàng cắc cớ hỏi:
– Vậy là trong bao lâu?
– Có khi chỉ chừng một năm, đôi lúc kéo dài hơn bảy năm.
Ông già Ba Tri kể về một giai thoại mà mình từng nghe dân chúng truyền miệng:
– Chúng bỏ tiền ra mướn người vu khống Ông Hai loạn luân.
Không đầy mấy ngày sau, khứa đó bị trúng gió giựt méo miệng, câm luôn, rồi qua đời vào rạng sáng ngày kế tiếp.
Xương Tuyết cười mà nói rằng:
– Đất Kiến Hòa đã từng vật chết không biết bao nhiêu đứa vong ân bội nghĩa, vu khống người hiền, phản trắc – gian trá.
Số khác không chết thì cũng nằm dật dựa một đống hay đẻ con cháu bị điên khùng, ngu độn.
Ông già Ba Tri cười hề hề:
– Nói dóc về Ông Hai Đạo Dừa với thằng Tuyết không có được đâu.
– Mấy anh ở An Giang, còn đất của tôi bao đời nay là Kiến Hòa.
Một cư sĩ khác lên tiếng hỏi:
– Nay gia đình anh ở đâu?
– Đã dời về Ba Tri, cùng xóm với ông Hai.
Ông Hai đang ăn heo quay chứ hổng phải Ông Hai Đạo Dừa.
Cả bàn cười rần rần.
Riêng ông già Ba Tri xíu nữa là bị mắc nghẹn chết.
Đức Hoàng hỏi:
– Sao ít nghe anh nói về Đức Huỳnh Giáo Chủ?
– Tôi đâu có rành về Đức Thầy nên đâu dám nói gì.
Biết thì thưa thốt, không thì thôi.
Đừng có bày đặt vẽ chuyện về người ta theo ý mình.
Anh Ba Hói vò đầu thằng em trai xứ dừa.
Đoạn hỏi:
– Đi thăm “chỗ đó” chưa?
– Rồi.
Xong.
Pháp y Cảnh không biết “chỗ đó” là đâu.
– Kệ đi.
Pháp y Cảnh lên tiếng:
– Hóa ra anh là người đó.
Xương Tuyết không trả lời, chỉ lặng câm uống nước trà.
Anh Ba Hói cau mày:
– Hỏi chi vậy?
– Hỏi câu này anh dễ trả lời hơn nè: Ông Hai có dính líu tới chánh trị không?
– Không.
Suốt cuộc đời của Ông chỉ dành cho công cuộc chấn hưng xã hội, tu tập và cứu nhân độ thế.
Cực chẳng đã, Ông mới phải ra tranh cử tổng thống; cái giai thoại gắn với chuyện này tôi sẽ không nói ra đâu.
Trần Bảo Sơn thay đổi chủ đề:
– Tôi sẽ lựa ngày tốt để làm lại bài vị cho Ông Hai.
– Ngày thành lập Đạo của Ông Hai là ngày tốt nhứt.
Khán Bình hỏi:
– Cái bộ phim đang rần rần rộ rộ gần đây mấy anh nghĩ sao?
Anh Ba Hói trả lời liền:
– Tôi hổng có coi nên tôi hổng có biết.
Chỉ ghé mắt qua vài ba trích đoạn trong phim và cảm thấy tức cười.
– Tức cười sao?
– Nhiều vai diễn là người Huế mà nói tiếng Huế không rành.
Lơ lớ, lờ lợ y chang cuộc đời nhân vật chính.
Phan Hoài Việt góp lời:
– Bữa hổm tôi đọc được một bình luận, ở phim khác nghen chứ hổng phải phim này, có một vai diễn là Huế rặt, vậy mà biên kịch đưa một diễn viên Nam Kỳ vô giả giọng Huế chứ không chịu mướn một người Huế rặt lồng tiếng.
Cái bình luận đó binh vực rằng do tiếng Huế khó nghe nên không cần mướn người Huế lồng tiếng, thành ra giả giọng không hay không sao; phải chi là người Nam Kỳ hay Bắc Kỳ tôi đâu có bận tâm, đằng này hộ tịch Thần Kinh mà lại đi chê tiếng nói quê cha đất tổ của mình, cái này còn hơn “rước voi về giày mả tổ” nữa.
Khán Bình xen vô nói:
– Nhiều khi Cố đô của khứa nớ ở chộ khác chứ nỏ phải chộ ni mô.
Xương Tuyết phát biểu:
– Tôi đã từng coi qua rất nhiều bộ phim tiếng Anh, khi trong phim có tình tiết một vai diễn nào đó không biết, nói tiếng Anh không rành hoặc nói tiếng Anh theo kiểu “tiếng địa phương” thì họ sẽ chạy phụ đề bên dưới để cho khán giả nắm được nội dung của cuộc đàm thoại.
Tương tự vậy, khi vai diễn hấp hối nói không rõ chữ, họ cũng sẽ hiện phụ đề lên để khán giả hiểu người này đang muốn trăn trối cái gì.
Đã làm phim mà sợ mất công hay muốn tiết kiệm tiền một cách tối đa thì hỏi sao bộ phim nó không bốc cái mùi kem chua hết hạn được.
Hoài Việt nhìn Xương Tuyết mà hỏi:
– Theo anh thì bài hát nào của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn là dở nhứt?
– “Này em có nhớ”.
Kinh khủng.
Pháp y Cảnh bổ sung:
– Phim nào nói về một nhân vật có thật thì nên hạn chế những tình tiết liên quan tới tính dục hay ngả ngớn quá trớn.
Ông Hai chép miệng bình phẩm:
– Mà phải công nhận, ông Sơn đã tiên đoán trước trong bài “Ca dao Mẹ” rồi đó, “Mẹ nhìn Quê Hương nghe con mình buồn, giọt lệ ăn năn.” Nhiều bà mẹ giờ đã ăn năn rồi đó.
Pháp y Cảnh hỏi:
– Tuổi thơ của anh có gắn bó với nhạc sĩ Sơn không Tuyết?
– Suốt những năm thơ ấu, nói cụ thể là từ lớp Ba tới năm lớp Năm, một tháng hai mươi mấy lần ba tôi bật cho tôi nghe băng nhạc “Da vàng” của Trịnh Công Sơn và Khánh Ly.
Riết tôi thuộc luôn.
– Bộ hồi đó anh không nghe nhạc gì ngoài nhạc Phản Chiến nữa hả?
– Nhạc Vàng, Dân ca Ba Miền và một số rất ít nhạc Tiền Chiến.
Một ngày nghe chừng vài tiếng tất cả loại nhạc là chuyện thường.
Sau bữa tiệc, chỉ duy pháp y Cảnh và ký giả Hớn Mai là không về phòng nghỉ trưa mà lại lên Cô Tô du ngoạn.
Họ đặt taxi của một hãng thuộc doanh nghiệp chánh phủ để đi đến đó.
Bữa nay nắng ráo, ít mây, nên trời Hạ vốn nóng lại càng thêm nóng.
Dù đứng dưới bóng râm của cây sanh trăm tuổi, hai người vẫn chẳng thấy mát hơn một xíu nào.
Bốn bề tràn ngập tiếng ve gọi Hè, thanh âm rộn ràng tới nỗi họ tưởng chừng như đây chỉ là tiếng vọng ra từ một video thâu sẵn nào đó chứ không thể thực.
Thoảng trong cơn gió phước lành, hương mạ non và mùi cỏ cây đồng nội xông đến mũi của họ, nghe gợi nhớ gợi thương về một vùng ký ức của tuổi thơ trốn học đi chơi với lũ bạn bè phá như quỷ.
– Pháp y Cảnh thất vọng lắm phải không? Tưởng đâu moi được tin gì về gia cảnh nó, ai dè toàn là nghe nó nói khùng nói điên.
– Chưa biết nói khùng nói điên hay là nói trúng phóc hết.
– Nó chẳng có liên can gì tới vụ này đâu.
Đến chân Phụng Hoàng Sơn, từ chối lời ngỏ người tài-xế chỉ mới hai mươi hai tuổi, hai kẻ không ưa nhau ấy đồng lòng cuốc bộ lên trên trển.
Đường không dễ đi đối với hai đôi chân đã quen mùi đất bằng và lộ trải nhựa, mới bước được vài trăm mét mà ai nấy phải ngừng bước mà ngồi nghỉ dưới gốc một cây gừa đại thụ.
Tiếng chuông vọng từ một ngôi chùa cổ kính báo hiệu cho họ biết bây giờ là mấy giờ.
Sẵn chung quanh vắng vẻ, Trần Cảnh Chiêu bèn hỏi về chuyện của Linh mục Alphonso Lữ Gia Hạp.
Biết không trả lời thì không yên với cái tên nhiều chuyện này nên Từ Hớn Mai ỡm ờ kể lấp lửng đôi ba chi tiết cho anh ta hay.
Bản thân anh cũng đâu có biết tại sao ông đó bị điên nên không dám nói bừa.
– Tại sao Linh mục Hạp bị điên?
Từ Hớn Mai gãi cái đầu chỉ còn lại vài mớ tóc của mình mà đoán rằng:
– Chắc bị sang chấn tâm lý.
– Tôi vẫn không hiểu…
– Trời ơi! Thôi đi ba! Tha cho con! Con đâu có làm trong lãnh vực Y Tế mà hiểu về các bịnh tâm lý phát khởi ra sao.
Trần Cảnh Chiêu vòng tay làm gối đỡ đầu, vẻ mặt anh chán chường chưa từng thấy.
– Giờ có muốn leo tiếp không hay ngồi đó làm Conan?
– Leo thì leo.
– Cái thân thì hành nghề pháp y mà suốt ngày cứ chõ mỏ làm điều tra viên.
Trần Cảnh Chiêu nhếch miệng cười:
– Anh chỉ là ký giả tòa soạn, không phải luật sư đâu mà tối ngày cứ lo cho “thân chủ” của anh hoài.
Mải lo cự nhau, hai người không để ý có ai đó đã núp sau bụi cây bứa nhìn họ nãy giờ.
– Sadhu.
Stephen Đoàn quay lại nhìn Trì Thương.
Ánh nhìn của người Tăng sĩ đó vẫn khiến cho chàng Linh mục cảm thấy không thoải mái, dường như bao nhiêu suy nghĩ trong đầu anh hiện thời đều bị người này đọc thấu hết.
– Xuống chợ vui không anh?
Stephen Đoàn cười mỉm:
– Vui.
– Nhưng anh vẫn chưa đi đủ nhiều để có thể rao giảng lời Chúa.
– Và anh cũng vậy phải không?
– Phải.
Thành ra tôi rất ít khi thuyết Pháp.
Đáng lẽ Trì Thương đã chỉ đường tắt cho hai người khách phương xa, nhưng vì sợ Stephen Đoàn bị pháp y Cảnh tra hỏi nên đành thôi.
Thời may gặp được Phá Vân nên Trì Thương nhờ hiền đệ chỉ đường giùm.
Dầu sao sư đệ cũng có chuyện cần phải nói với pháp y Cảnh.
– Mỹ, lại coi nè…
Stephen Đoàn hớt hải chạy lại xem.
Một tổ chim sơn ca nằm vắt vẻo trên một nhánh cây trắc.
Chỉ cần rơm, rác và ngọn cỏ, chim trống và chim mái đã tạo nên một cái tổ dễ thương và cân xứng khôn cùng.
Chợt, Trì Thương đặt hai ngón tay trái lên môi mà huýt sáo khe khẽ.
Những chú chim non bắt đầu nghểnh cổ lên nhìn hai người tu sĩ, miệng ríu rít hót theo điệu sáo miệng của Kim Thảo.
Chỉ chờ có vậy, chú lấy một nắm bắp rang bơ thả vào tổ chim.
Vui miệng, Trì Thương kể:
– Hồi chưa lên đây ẩn tu, tôi thường cậy tài huýt sáo của mình mà đi bẫy chim.
Nhưng vạn vật vốn có tánh linh, sau vài lần xí gạt chúng thành công, chúng đã biết mưu ma nên không tìm đến nữa.
– “Một lần bất tín, vạn lần bất tin” mà.
– Phải.
Rồi Trì Thương lồng chuyện đời vào trong cuộc đối thoại:
– Người ta chở che anh một lần thôi, anh ỷ người ta thương mà “được đằng chân, lân đằng sau” thì…!coi như xong.
– Chắc Cha Thành là trường hợp ngoại lệ.
– Thứ cho tôi nói khí không phải, không phải lúc nào cũng nên cư xử tốt đâu.
– Tôi biết, nhưng…
Nói đến đây, hai người im bặt vì nghe thấy một tràng câu hỏi như đại liên nã đạn của pháp y Cảnh.
Phá Vân gắng gượng cười mà trả lời từng khúc mắc của anh ta, với một người chỉ tìm vui trong phút giây như anh ta thì đâu có bận tâm tới lai lịch hay tánh tình của cô gái đó.
– Anh không ra can gián hay giải vây sao Thảo?
– Cứ để đệ ấy trả Nghiệp đi.
– “Trả Nghiệp”?
– Tức là đối mặt với hành động xấu của bản thân trong Quá Khứ.
– À…
Lại gần lùm cây trái nổ, Stephen Đoàn nhìn thấy xác của một con chuột chưa phân hủy hết nằm chỏng bốn chân lên trời.
Mùi xác thúi tỏa ra từ mình mẩy nó đã làm anh hết hứng thú hái trái ổi ăn.
– Nè, đi khỏi đây rồi hẵng ăn.
– Cảm ơn anh.
Ổi rừng vừa nhỏ vừa nhiều hột nhưng được cái ngọt thanh và rất giòn.
Chỉ tiếc là thiếu chút muối ớt.
Tới lưng chừng núi, hai người ngồi nghỉ mệt dưới bóng cây sanh.
– Cảm ơn anh vì đã giúp tôi hiểu thế nào là Tình Yêu.
Thương có nghĩa là chấp nhận và tôn trọng con người thật của người đó, chứ không phải là ép uổng người đó sống và thay đổi theo chiều hướng mà mình muốn.
– Anh có một người bạn rất tốt.
Nhưng người này tánh nóng quá.
– Phải, nên nhiều lúc chúng tôi ưa cự lộn với nhau.
…
Đến chừng trăng lên, pháp y Cảnh và ký giả Hớn Mai mới quay gót trở về.
Một người thì vui vì đã tìm ra vài manh mối mới, còn một người thì bưng đầu vì bị tra tấn lỗ tai suốt buổi chiều.
– Tôi thích đọc tài liệu lịch sử của sử gia Phạm Văn Sơn và Nguyễn Văn Hầu.
Vì lối hành văn súc tích và có hình ảnh chứng minh luôn.
Lời trên là của thầy giáo Việt.
Anh đang đọc một tài liệu về Tết Mậu Thân 68.
Đức Hoàng hỏi:
– Anh đang đọc gì vậy Tuyết?
– “Gia Định – Xưa và Nay” của ông tác giả xứ dừa Huỳnh Minh.
Ông này còn có cuốn “Kiến Hòa”, “Định Tường”, “Gò-Công”, “Sa-Đéc”, “Vũng Tàu”, “Cần Thơ”, “Bạc Liêu” và “Vĩnh Long” rất đáng để đọc và dùng làm sử liệu tham khảo; hết thảy đều lót vế cuối là “Xưa và Nay”.
Ngoài ra còn một số sách quý mà tôi nhất thời không nhớ tên nổi.
– Ông này chắc phải yêu Nam Kỳ dữ lắm mới viết được ngần ấy sách về xứ sở này.
– Ừ, thật đáng tiếc khi người ta nhớ nhiều đến cụ Vương Hồng Sển hơn là ổng.
Chí Công gác tay lên vai Xương Tuyết mà hỏi tối nay xem phim gì.
– “Anwar”, phim Ấn Độ, rất hay với tôi.
Nội dung xoay quanh về việc điều tra – phá án; trong đó lồng ghép những tình tiết châm biếm chính trị, bảo tồn văn hóa và tín ngưỡng Ấn Độ Giáo và nỗi e ngại về sự trỗi dậy của các đức tin khác như Hồi Giáo và Kitô Giáo.
Diễn viên chính đóng vai người Pakistan theo Hồi, nhưng nữ chính không muốn cùng nam chính sang Ấn Độ sống mà nuôi mộng qua Mỹ để được sống như cung cách của thần tượng Britney Spears.
– Dài không anh?
– Gần hai tiếng rưỡi.
– Đi xả bụng cái nghen?
Ngó theo bóng lưng Chí Công, Xương Tuyết thuật chuyện của mình.
– Tôi thường đọc các bình luận về phim ảnh, sách truyện hay ca nhạc bằng tiếng Anh hơn.
Bởi vì phần đông các bình luận ăn nói rất đàng hoàng và đúng chủ đề, ngoài ra còn giúp tôi học được ngữ vựng mới.
Thí dụ như cuốn sách “Alice in the Wonderland” của Lewis Carroll, đã được chuyển thể thành phim ảnh và hoạt họa.
Hầu hết các bình luận tiếng Việt mà tôi đọc là chửi tác giả bằng ngôn từ thù hằn cực điểm, tưởng chừng như tác giả có thù với ba đời nhà họ vậy; một số lại bình luận rất kỳ cục và tục tĩu như vầy, “Thằng này bị ngáo đá à?”, “Hút cần nhiều quá”, “Xàm lông”,…!Họ khước từ sự sáng tạo và ý nghĩa nghệ thuật – châm biếm của tác giả một cách phũ phàng, bằng lời ăn tiếng nói độc địa của mình.
Có nhiều ý kiến đến từ nhà phê bình và độc giả cho rằng: Nữ Hoàng Đỏ trong tác phẩm ám chỉ Nữ Hoàng Anh, còn nhân vật ông vua là mỉa mai người chồng của bà Nữ Hoàng chỉ biết núp bóng vợ và hèn nhát không dám làm chủ cuộc đời mình.
Và rất nhiều hình tượng trào phúng khác nhắm vô giới quý tộc rởm đời và tầng lớp dân chúng của cái thời mà ông tác giả đó sinh sống.
Nhưng mà họ không có chịu động não để tìm hiểu nguồn cơn nào đã khiến tác giả xây dựng nên bối cảnh và nhân vật trong câu chuyện.
Họ ôm khư khư cái lý lẽ “Thực tế” và “Mày không phải là tác giả nên những gì mày nhận xét về tác phẩm là không đáng nghe” mà bóp chết nền phê bình Văn Học – Nghệ Thuật xứ này.
Ông già Ba Tri xen vô:
– Xứ này chất gây nghiện bị cấm, nhưng phần đông lớp trẻ ở cái xứ này mở miệng ra là đệm tên của một chất thuốc gây nghiện vô lời ăn tiếng nói.
Còn xứ khác cho phép sử dụng một số loại chất gây nghiện, song phần đông dân tình ở đó ít khi nào chêm mấy cái tên này vô câu cú của mình.
Đức Hoàng góp lời:
– Nhứt là nhân vật Nô-bi-ta và Xu-ka, trời ơi coi họ bình luận và chửi nhân vật này tục tằn không sao chịu được.
Mặc dù đây chỉ là bộ truyện giải trí.
Hoài Việt nói:
– Phần đông những người hùng hổ chửi nhân vật trong phim ảnh – hoạt họa là những người không dám đụng tới vấn đề chính trị hay những vấn đề bất công xảy ra trong cuộc đời họ.
Thành ra, họ bị ức chế tâm lý, nên họ phải tìm đến một biểu tượng vô hại và không khiến họ đi tù mà trút cơn thịnh nộ phi lý vào.
Xương Tuyết gật đầu, đoạn quay về với nội dung ban nãy của mình:
– Cái bộ manga “Thủy thủ Mặt Trăng – Sailor Moon”, cùng là một video quay về cảnh biến hình của các nhân vật, đọc bên trang tiếng Anh thì đa phần bình luận rất lịch sự, hài hước và mang nhiều câu chuyện hoài niệm về tuổi thơ đã qua của người xem; còn đọc bên trang tiếng Việt thì ôi thôi đủ thứ ngôn ngữ quấy rối tình dục, chửi rủa tàn tệ và thậm chí còn cợt nhả rằng cô bé diễn viên trong phim rất có triển vọng trong ngành phim người lớn.
Ông già Ba Tri kể chuyện đã gặp:
– Có một video giới thiệu các loại bánh trái Á Châu, trong đó có một bịch bánh snack in nội dung mô tả bằng tiếng Việt trên bao bì, y như rằng một đám bâu vô, “Tự hào quá Việt Nam ơi”, liền.
Mà trớ trêu thay, cái thương hiệu đó đã bị doanh nghiệp Thái Lan thâu tóm từ tám đời vương rồi, hiện giờ chỉ còn cái vỏ Việt Nam nhưng cái ruột là Xiêm La, vì sản phẩm được tiêu thụ chủ yếu bên Nước mình nên họ mới giữ lại nội dung bao bì như cũ.
Xin nói thêm, tức là mình đi làm gia công cho người ta chứ không còn đứng ra làm chủ thương hiệu đó nữa; là “Made in…” chứ không còn “Product of…” nữa.
Tống Ngạn nhận xét:
– Nhiều người ở xứ này thừa lòng tự hào nhưng thiếu hiểu biết về nền kinh tế thị trường.
Hoài Việt mỉm miệng cười mà tâm tình:
– Ít ai biết được rằng, trước đây trong Nam hay xài chữ “Hãnh diện” hơn chữ “Tự hào”.
Tống Ngạn biểu:
– Hôm trước có coi một video quay siêu thị Việt bên Mỹ, cái chai nước mắm ghi rành rành sản phẩm của Thái Lan mà lại dám đề tiếng Việt là “thương hiệu Phú Quốc”, còn một chai khác thì ghi “thương hiệu Phan Thiết”.
Tại sao chúng ta lại mất tên địa danh của mình?
Ông Hai cười khan:
– Việc sản phẩm Thái Lan hay Tàu ghi tiếng Việt trên bao bì là chuyện thường như cơm bữa.
Cứ “Tự hào” miết rồi làm giàu cho nước khác hồi nào không hay.
Xương Tuyết lại nói:
– Đây là phát hiện của người khác, không phải của tôi: Hồi xưa cây “Nguyệt quế” là cây “Nguyệt quý”, Nam Kỳ đọc trại thành “Nguyệt quới”; sau năm 75, chữ “Nguyệt quý” bị áp đặt theo cách phát âm của Bắc Kỳ là “Nguyệt quế”.
Thương Hận ồ lên thích thú:
– Chữ gốc là “Nguyệt quý”? Oa, lần đầu tôi mới biết.
– Tôi cũng mới biết thôi hà.
Sách “Đại Nam Quấc Âm Tự Vị – Quyển Hai” của cụ Huỳnh Paulus Của, trang 111; nhưng cụ ghi là “Nguyệt quí – I ngắn”, chữ không phải là chữ “Y-cờ-rếch” như tôi thường dùng.
Khán Bình trở ra với cái bụng nhẹ tênh, có lẽ do ăn nhiều trái cây quá nên hắn bị trúng.
Hắn và Chí Công thay phiên nhau giữ cầu từ hồi nãy tới bây giờ mới chịu ngưng.
Thay vì coi phim mà gã điên giới thiệu, nguyên đám bắt qua xem “Doctor Sleep” cho giải khuây tinh thần.
Xương Tuyết bình phẩm:
– Trong Văn học có Stephen King, trong Vũ trụ học có Stephen Hawking.
Hoài Việt cười hỏi:
– Anh có đọc cuốn nào của ông Hawking chưa?
– “Vũ trụ trong vỏ hạt dẻ”.
– Anh nghĩ sao về “thuyết âm mưu” những gì giới Vũ trụ học và NASA phát biểu toàn là bịa đặt và dàn dựng?
– Tôi không có bận tâm lắm.
Cả hai phía luôn.
Thật cũng được, mà Giả cũng chẳng sao.
Coi như một nguồn tài liệu đọc chơi cho vui thôi.
– Ừ, bởi anh đâu thể ra ngoài vũ trụ kiểm chứng được.
Nói đến đây, nguyên nhóm nhìn nhau cười ầm ĩ.
Xương Tuyết chia sẻ:
– “I take my words back”, thành “Tôi rút lời lại”.
Không hiểu sao bây giờ tôi dịch tiếng Anh toàn theo nghĩa thoáng chứ không còn bị tình trạng dịch sát rạt từng chữ nữa.
Hoài Việt hỏi:
– Nếu tiếng Anh của anh tốt hơn, anh sẽ làm dịch giả chứ?
– Không, dịch cực lắm mà tiền không được bao nhiêu, lâu lâu mới lãnh vài cuốn.
Thà làm vườn khỏe hơn.
Coi xong, nguyên đám rủ nhau ra bờ đất trống cạnh vườn thanh long để làm tiệc Barbecue.
Cư sĩ Bửu Sơn mới đốn trăm cây thanh long nên cần có người tống khứ chúng.
Vậy là cả bọn bèn dùng chúng làm củi đốt.
Thương Hận rủng rỉnh túi nhất trong đám nên đã mua sườn bò Đại Hàn, tôm sú, mực trứng và cá trứng; về phần đùi gà, hột vịt lộn, trứng cút lộn, rau cải, nấm, các loại cà và măng tây, tiền trả thuộc về những người còn lại.
Bảo Sơn than:
– Phơi cả tháng trời mới đốt được đó.
Thời may củi cháy rất đượm nên chẳng mấy chốc mà họ đã có than nướng.
Xương Tuyết và Bảo Sơn lo phần canh củi lửa và trở thịt.
Hoài Việt hỏi:
– Ông Hai nghĩ những câu nói nào là rất sai lầm nhưng nhiều người vẫn hay nói?
– “Đừng dạy người giàu cách tiêu tiền”, đó là một trong những câu nói tự hạ thấp bản thân mà nhiều người rất ưa xài.
“Mày nghèo thì biết cái gì?”, đó là câu thứ hai.
“Nói ra cũng có thay đổi được gì đâu”, đó là câu thứ ba.
Trần Bảo Sơn chia sẻ ý kiến riêng:
– Những người làm giàu bằng cách phi pháp và bất nhân thì dẫu có đầu tư cho con cái cỡ nào chúng cũng không thể tiến xa hơn được.
Thương Hận hỏi:
– Anh nghĩ sao về chuyện phải có bằng cấp hả Việt?
– Bây giờ, lấy thí dụ trong lãnh vực thời trang, cái đầu anh không có một miếng sáng tạo và đột phá thì dẫu có tốt nghiệp Harvard hay Cambridge đi chăng nữa tập đoàn của gia đình anh cũng không thể vượt xa hơn.
Anh không thấy sao? Một vài hãng thời trang danh tiếng lợi dụng sự tài giỏi của nhân viên có xuất thân bình thường mà ăn nên làm ra, nhưng họ lại ưu ái và bổ nhiệm thân bằng quyến thuộc vào các chức vụ quan trọng thay vì chọn người dưng xuất sắc, đâm ra sau này càng ngày càng xuống dốc và thậm chí có hãng còn bị phá sản.
Thành ra, bằng cấp rất quan trọng đối với những lãnh vực như Y Tế, Sư Phạm, Xây Dựng, Báo Chí,…!Nhưng với những lãnh vực liên quan tới sáng tạo như Thời Trang, Văn Hóa – Nghệ Thuật – Âm Nhạc,…!thì có cũng được, không có cũng chẳng sao.
Xương Tuyết kể:
– Độ rày trên mạng có phong trào dè bỉu người kinh doanh – thương mãi nhỏ lẻ; có cái bình luận khiến tôi lưu tâm là, “Dầu mày làm có tiền cỡ nào thì mày cũng chỉ là hạng con buôn.” Trong khi người kinh doanh – thương mãi là một trong những nhóm dân làm giàu cho ngân khố Quốc Gia.
Ông già Ba Tri vỗ vai mà cười biểu:
– Nhắc mới nhớ, bữa hổm tôi thấy trên mạng có tấm bảng, “Xin lỗi, thay đổi giá” ở một cây xăng.
Không ai hay biết rằng Trần Cảnh Chiêu đã đi lên gian Chánh Điện để nói chuyện riêng với một người.
Mùi đồ ăn thơm lừng và những câu chuyện rôm rả đã cuốn Trần Bảo Sơn, các huynh đệ đồng tu và nhóm bạn đường xa vào bàn tiệc Barbecue.
Trăng đã vượt qua triền núi phía xa.
Những ánh đèn điện nơi dãy núi trông xa như những vì sao lạc xuống trần gian.
Thỉnh thoảng, lại có tiếng kêu chin chít của một con chuột vì bị con cú quắp lấy mà đem đi ăn thịt.
Từ những thửa ruộng bên kia đường, lao xao tiếng gió lùa qua đám mạ xanh rì, vang vọng một bài ca – cổ nhạc xưa thật xưa mà hầu như chẳng còn mấy ai hay biết đến.
oOo
Đã vào Hè nên Đặng Thừa Tân mở băng nhạc “Thuở còn đi học” lên cho quan khách nghe.
Hơn hai mươi bài nên anh tha hồ rảnh tay pha chế, khỏi cần phải lựa chọn mất công.
Nghe đâu được nửa cuồn, một viên khách đứng dậy hỏi:
– Ông Trần Thiện Thanh đang ca bài gì vậy? Sao nó giống với một cái bài mà tôi đã từng nghe quá.
– Cả hai bài đều phổ từ thơ của thi sĩ Nhất Tuấn.
Nhạc sĩ Anh Bằng đặt tên ca khúc là “Hoa học trò”, còn nhạc sĩ Phạm Phúc Hiển đặt tên là “Tình yêu và Hoa phượng”.
Ngoài những điểm chung trên, hai nhạc phẩm còn giống nhau ở chỗ đều đã được ông Nhật Trường trình bày rất hay và dạt dào cảm xúc.
Người khách để ý thấy sắc diện chủ quán hơi khác với mọi ngày, trông có vẻ như đang lo âu hay bận tâm đến chuyện gì đó, chắc có lẽ vì vậy mà ly cà-phê hôm nay pha hơi dở và uống nhanh dão.
– Anh có biết ai không phải ca sĩ mà hát hay không, đặng tôi mời đi hát đám cưới nhỏ em ruột?
– Tôi có một nhỏ bạn quê miền Tây, nói vừa đớt vừa nhịu; vậy mà cất tiếng ca lên lại nghe ra giọng Sài Gòn chánh tông và không bị sai chính tả hay vấp chữ nào.
Nhưng tiếc thay, vì căn bệnh viêm xoang mạn tính nên làn hơi của nó chỉ vừa “đuổi kịp” Mai Hương, Kim Tước, Quỳnh Giao,…!mà thôi, chứ không thể ngân lên tới mức của Thái Thanh.
– Trường hợp này giống ông Tuấn Vũ nè.
Tiếng ca và giọng nói một trời một vực.
– Dạ…
– Vậy tại sao cổ không đi làm ca sĩ chuyên nghiệp?
– Không, nó chê tiếng của nó không có gì đặc sắc hết nên không muốn làm ca sĩ.
Ngừng một lát để pha trà sữa cho đứa nhỏ, xong rồi Thừa Tân mới tiếp:
– Vả chăng, nó không muốn làm giàu cho những kẻ cướp bản quyền sáng tác của các nhạc sĩ trước năm 75.
– Cổ hát bài gì hay nhứt để tôi biểu ban nhạc tập dợt trước?
– “Dạ khúc” của nhạc sĩ Phạm Duy, cụ viết lời dựa trên nền giai điệu “Serenade” của thiên tài âm nhạc Franz Chubert.
Như tôi đã nói, nó hát theo lối của cô Mai Hương, còn cô Thái Thanh thì nó với không tới, cô Lệ Thu hát cũng hay nhưng nó cảm thấy không thích bản hòa âm phối khí của cổ.
– Đâu, anh diễn tả thử được không?
– Nó mường tượng ra khung cảnh một cô gái quá lứa lỡ thì đang ngồi nghỉ mệt trong công viên sau buổi chạy bộ thì bỗng gặp lại người yêu cũ dẫn con ra đây chơi.
Anh ta xin phép ngồi xuống, rồi có ý muốn nối lại tình xưa với cô.
Lúc này đây, nó nhập tâm vào nhân vật mà nó tưởng tượng trong đầu, bằng cách run giọng hát những câu như sau:
“Nhẹ nhàng người đắm sầu
Kể lể chuyện kiếp nao
Có ai chia lìa nhau…”
Tới cuối bài hát, vợ của anh ta gọi điện thoại hỏi hai cha con đang ở đâu, anh ta mới sực tỉnh ra.
Anh ta hớt hải đứng bật dậy, rồi cất giọng cáo từ người tình năm cũ, người mà anh ta đã hứa hẹn đủ điều và thề thốt răng long đầu bạc.
Cô gái đó nhìn theo bóng lưng của người yêu cũ và đứa con của anh ta.
Cô chợt nhận ra rằng bóng tối đã tới, không phải bóng tối sau hoàng hôn, mà là bóng tối của tuổi già đã ngấp nghé trên sắc vóc của cô.
Cô cũng nên quên đi mối tình dang dở này thôi…
– Vậy tôi đi lựa bài giùm cho cổ, trong đám cưới mà hát bài này không có hên.
– Trong bài có hai câu hát rất khó “Dù một ngày đời sẽ vỡ tan rồi.
Người về khuất chân trời nhớ nuôi cho hương một chiều vương vấn đời…” Nó hát “Nuôi cho” ra “Nuôi cho”, chứ không bị thành “Nuôi chó”.
Người khách ôm bụng cười ngặt nghẽo.
Rồi góp lời:
– Riêng về dấu hỏi, dấu ngã và dấu sắc, cụ Duy Trác là người “giải quyết” rất xuất sắc.
Những bản nhạc mà cụ chọn thường hát đúng dấu rất khó.
– Phải, “Mộng dưới hoa” của nhạc sĩ Phạm Đình Chương và thi sĩ Đinh Hùng là một thí dụ.
Hát “Bên suối” thành “Bên suồi” liền.
Một người khách hỏi ngoài những ca sĩ đã để lại tên tuổi trong nền Tân nhạc trước năm 75, Thừa Tân có thể giới thiệu những giọng ca cũng hay nhưng lận đận đường thành danh không.
– Tôi mời anh nghe bài “Bội bạc” của ca – nhạc sĩ Đắc Chung.
Rất ít người biết đến.
Ông là một trong những học trò của nhạc sĩ Thái Ngọc Sơn.
– Còn bài nào hiếm nữa không anh?
Thừa Tân mỉm miệng cười:
– “Yêu nhau trọn đời” của nhạc sĩ Phạm Minh Cảnh, do Đắc Chung và Bạch Lan Hương trình bày.
– Nghe qua giọng ca thì hình như ông Chung là dân Nam Kỳ.
– Phải, nghe cách hát hơi giống Trần Văn Trạch và Hùng Cường.
– Nhạc sĩ Phạm Minh Cảnh quê ở đâu anh?
– Vĩnh Long.
– Có bài nào hiếm của ông Cảnh không anh?
– “Nhớ người trong tranh” do Đào Hoa Nữ ca.
Một người khách khác cắc cớ hỏi Thừa Tân rằng có lần nào anh nghe những giọng ca trước năm 75 hát mà bị “sang chấn tâm lý” không.
Anh cười mà trả lời rằng:
– Cô Hà Thanh ca bản “Còn thương rau đắng mọc sau hè” của nhạc sĩ Bắc Sơn, còn cô Hoàng Oanh ca các điệu lý của xứ Bắc Kỳ.
Vì giọng của hai cô là rặt tiếng địa phương nên không thể hát những dòng nhạc chuyên biệt của vùng khác được, thành ra tôi nghe mà tôi giựt mình luôn.
– Đâu, nói cụ thể về trường hợp của cô Hoàng Oanh đi.
– “Trống cơm”, “Lý cây đa”,…!Bài “Trống cơm” đã được nhạc sĩ Phạm Duy cải biên thành bài “Tình tự tin”, giọng Bắc Kỳ rặt của cô Thái Thanh ca rất hay và hợp.
Người khách che miệng cười tủm tỉm:
Thừa Tân tâm tình:
– Cả cô Thái Thanh nữa, cô mà ca cải lương hay điệu lý Nam Kỳ chắc tôi khóc ra tiếng mán.
Người khách bỗng phá lên cười sằng sặc.
Đợi cho cơn buồn cười lắng xuống, anh ta mới phát biểu:
– Tưởng tượng Duy Trác, Anh Ngọc, Sĩ Phú,…!mà ca – cổ nhạc Nam Kỳ cũng đủ cười đau ruột rồi.
– Vậy chứ có một người Trung Kỳ lại ca cải lương được đó.
– Ai?
– Nhật Trường – Trần Thiện Thanh, ông đã trình bày bài “Ông lái đò” của nhạc sĩ Hiếu Nghĩa hay không thua gì giọng Nam Kỳ rặt của ông Hùng Cường.
– Nhưng, tôi nhớ trong bài này đâu có đoạn nào ca cải lương đâu?
– Không, ý của tôi là, nhờ nghe bài hát này mà tôi cảm nhận được ông Nhật Trường sẽ ca cải lương rất khá.
– À.
Trước lúc tính tiền rồi ra về, người khách đó nói nhỏ cho Thừa Tân nghe rằng bữa nay chàng ta pha cà-phê bị tổ trác rồi.
Nghe vậy, Thừa Tân bèn bớt nửa tiền và tặng không một gói kẹo Kobiko cho mối quen.
Nhạc sĩ Thương Hận ghé quán Thừa Tân cùng một cây guitar thùng.
Tuy đã phất lên nhưng anh ta vẫn giữ tánh cần kiệm như xưa nên trang phục vẫn bình dị và rẻ tiền.
– Một ly cam vắt ít ngọt nhiều đá, anh Tân.
Thừa Tân pha lửng với một nụ cười trên môi:
– Giấu người đẹp áo dài đâu rồi?
Thương Hận bật cười lắc lắc đầu:
– Em họ tôi đó.
Làm Lễ Sơ Vấn rồi.
– Trời, tôi không có số hưởng làm bà con với anh rồi.
Thương Hận yêu cầu một bài hát của một nhạc sĩ nào đó không tên tuổi để anh ta “nghiên cứu” cách viết nhạc của vị ấy.
– Có liền.
“Nối lại ân tình” của nhạc sĩ Nguyễn Từ Nam do Sĩ Phú ca.
– Nhạc sĩ trước năm 75 hả anh?
Vừa cho nửa trái cam vô máy vắt chạy điện, Thừa Tân vừa buồn buồn tâm tình:
– Ừ, tiếc là cạnh tranh không lại với các nhạc sĩ đương thời, chứ ông Nam sáng tác cũng hay lắm.
Sau năm 75, tôi chỉ tìm được một bài nhạc của ông, nghe đâu ông sáng tác khi đang ở ngoại quốc, tôi đoán như vậy vì tên ca khúc là “Mơ ngày về Quê Hương”.
Thấy người bạn đã tới nên Thương Hận xin phép vô duyên mà ngưng ngang cuộc đối thoại.
Thừa Tân cũng không cầm chân, anh nhờ anh bạn nhạc sĩ hỏi anh kia muốn uống thứ chi để anh làm.
Thương Hận vui vẻ đồng ý.
Đang loay hoay tìm dĩa hát cất nơi hộc tủ, một bóng bướm trắng chờn vờn nơi tầm mắt anh khiến anh phải ngừng tay lại mà ngước lên nhìn.
– Chú.
– Chuyện gì nhỏ?
– Tặng chú, “Tuyết đen 2: Liệt Thần”.
Thừa Tân nhoẻn miệng cười thật tươi.
Quá bộn bề với chuyện quán xá, anh đã không hay rằng tác giả đã viết phần mới.
– Coi như trả bớt mấy cử ăn – uống.
– Ăn gì chưa nhỏ?
– Chưa.
Bữa nay thức ăn nhanh nhe chú?
Vậy là Thừa Tân bèn dẫn nhỏ đi mua thức ăn nhanh ở quán KFC cách chỗ này hai dãy nhà.
Con đường có lá me bay một chiều trời nắng gắt thật gắt khiến cho hai chú – cháu chưa đi được nửa đường mà đã thấm mệt.
Tuy vậy chẳng ai có ý định dừng chân hết.
Sắp đến quán, giai điệu vui tươi của một bài hát tân thời đã vang rền khắp đường.
– Coi chú kìa, ông già đến từ năm 75 đang nghệch mặt ra phân tích nội dung bài hát.
Trước điệu cười bẹo gan của con nhỏ, Thừa Tân lại biết bệnh mình tái phát nên chẳng hề phiền lòng.
Quán anh cũng có mở nhạc nhưng đâu dám phát lớn như vầy, chắc là nhân viên sơ ý nên mới để âm lượng thế này.
Được sự nhắc nhở của Thừa Tân, nhân viên đã hạ âm lượng xuống và cảm ơn anh vì đã thông báo cho quán hay.
Họ không ngờ cái loa mới thay lại vọng lớn đến vậy, thành ra trong quán thì nghe vừa tai nhưng ngoài quán thì nghe ầm ĩ khôn cùng.
Hai chú – cháu gọi món giống nhau, là một phần cơm gà quay, khoai tây chiên và “popcorn chicken”.
Vừa nhìn lên tấm bảng thực đơn gắn đèn sáng choang, Quỳnh Như vừa buồn bã tâm tình:
– Chị của bạn em có bầu rồi.
Thừa Tân xém chút xíu là sặc nước.
Anh che miệng và húng hắng ho vài tiếng trước khi hỏi:
– Mười mấy tuổi?
– Chưa được mười tám.
– Với ai?
– Chưa thể nói.
– Có chỗ ở ổn định chưa?
– Dạ chưa.
– Thôi, nếu như ba mẹ bắt phá thai, thì hãy mượn danh nghĩa tôi để mà giữ lại.
Đôi mắt Quỳnh Như bừng mở.
Con nhỏ run giọng hỏi lại:
– Dạ?
– Trước mắt là vậy đi.
Đừng giết oan đứa nhỏ.
Nhìn vào sắc diện của Quỳnh Như, Thừa Tân cho rằng chị của nhỏ bị cưỡng hiếp chứ không phải là do bồng bột với tình đầu.
– Bây giờ em gọi điện cho chú – thím luôn được không?
– Cũng…!cũng được…
Chưa đầy một tiếng đồng hồ mà gia đình lạ mặt đó đã đem “trái bom nổ chậm” tới đây.
Với tình hình giao thông trong khung giờ này, không biết họ lái trực thăng hay đi bằng cánh cửa thần kỳ của Doraemon mà lẹ dữ thần.
Đôi vợ chồng có cặp mắt thâm quầng như cương thi ngàn năm mới bật nắp quan tài sống dậy; còn người con gái không có chi là thể hiện cô là người bị hại hay đang bấn loạn tinh thần, Thừa Tân vẫn nhớ cái năm mình bị ở tù oan đã điên điên – khùng khùng ra sao, vậy mà con nhỏ này lại…
Sau bữa ăn sượng ngắt, gia đình ấy và Quỳnh Như theo Thừa Tân về quán cà-phê của anh.
– Chú cho con ở đâu?
– Con muốn ở đâu thì chú để con ở đó.
Chỗ này có gác lửng, nếu con muốn riêng tư thì ở đây ha?
– Nhà chú ở đâu?
– Trong cư xá Võ Tánh.
Bà thím xin cho con gái được ở cùng Thừa Tân.
Ai nấy thảy đều ngạc nhiên khi nghe anh chủ quán gật đầu cái rụp.
Sợ rằng chàng ta đổi ý, ba mẹ con nhỏ chửa hoang liền nhào ra đường kêu taxi.
– Con có xe sẵn rồi.
Đôi vợ chồng nhìn Thừa Tân cười sượng sùng.
Từ đây về nhà Thừa Tân không xa mấy, nhưng vì rơi vào giờ tan sở nên kẹt xe kinh khủng, thành ra thời gian bị kéo dài gấp đôi.
Trong lúc đợi tới nơi, chú đánh tiếng bắt chuyện với vị cứu tinh của gia đình mình:
– Thầy Việt có ghé quán cậu uống nước không?
– Thầy Việt nào chú?
– À, thầy Việt, từng là giảng viên Học Viện Chính Trị Phan Châu Trinh.
– Là bài viết “Tìm hiểu những cái hay của tư tưởng Tây Phương – Giữ gìn văn hóa truyền thống đúng đắn của Đông Phương” phải không? Tranh cãi rần trời.
Chú vuốt râu cười hà hà.
– Ảnh có cái tật là ưa đưa ra nhiều luận điểm và dẫn chứng không đúng để giúp các sinh viên tập thói quen phản biện.
Nhưng phần đông họ sợ bị đì nên không dám cãi.
Ảnh than rằng trên ghế nhà trường đã mang cái tánh quỵ lụy kẻ quyền thế, thì vô chính trường không trở thành sâu dân mọt nước mới là chuyện lạ.
Ảnh nản quá nên bỏ nghề về quê làm vườn luôn.
Nói đến đây, hai người giữ im lặng vì sợ mình đi quá xa.
Vừa thấy tấm bảng “Cư xá Võ Tánh”, Yên Hồng đã đòi bước xuống xe mà đi bộ vô.
Đương nhiên chẳng có ai tán thành hết.
Ngôi nhà của Thừa Tân thuộc dạng nhà chữ Đinh, có một lầu và một sân thượng, không có tầng hầm.
Hàng rào thâm thấp chia làm hai nửa: Nửa dưới xây gạch kiểu, nửa trên cắm khung sắt uốn kiểu có cọc nhọn trên đỉnh.
Cổng rào cũng làm từ sắt và có chữ “Phước – Lộc – Thọ” nằm trong trái cầu khi khép cổng lại.
Hai cây cột rào đều gắn đèn hình trân châu.
Sân trước trồng được mấy cây cau và mấy bụi bông xinh xắn; chiếc xe gắn máy của anh nằm nép mình dưới mái hiên bên hông nhà.
Chú – thím ngó nhà cửa khang trang – sạch đẹp thì cũng yên tâm một phần.
Dòm sang Thừa Tân, chắc hồi trẻ cũng bảnh tỏn, bô trai dữ lắm, nay đứng tuổi nên coi không còn tươi nữa; nhưng nếu làm rể thì họ vẫn ưng liền.
Quỳnh Như xin được sử dụng nhà vệ sinh, Thừa Tân vui vẻ chịu.
Bước xuống nhà sau, Yên Hồng tò mò hỏi:
– Sao không có thiên lý hả chú?
– Tôi đâu phải Bắc Kỳ mà thích trồng hoa thiên lý?
– Là sao chú?
– Phần đông dân Bắc ưa hoa thiên lý, hoa sữa, hoa xoan, hoa lộc vừng, hoa đào và hoa tường vi.
Hầu như nhạc phẩm nào của nhạc sĩ gốc Bắc cũng có đề cập các loài hoa trên.
Trong văn học cũng vậy.
– Vậy trong mình bông gì?
– Bông giấy, bông gòn, bông thầu dầu, bông dừa cạn, bông lục bình, bông súng, bông sen, bông trang, bông bằng lăng, bông phượng, bông bí, bông điên điển, bông so đũa, bông bùm sụm, bông sứ, bông bìm bìm, bông gạo, bông mai, bông mắc cỡ,…
– Ngưng nghen chú?
Quỳnh Như vừa lau tay với khăn giấy vừa hỏi:
– Vậy lan thì sao?
– Trong Nam ít thấy tác phẩm về nó, còn ngoài Bắc thì nhiều hơn.
Và ở Trung thì chú chưa kiếm được sáng tác nào.
Quỳnh Như tếu táo hỏi:
– “Đề cử” cho xấp nhỏ nghe đi chú.
– “Ngọc Lan” do “tiếng hát vượt thời gian” Thái Thanh ca, một sáng tác của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước.
– Có bài nào về em không chú?
– “Quỳnh Hương” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
Quỳnh Như phồng miệng:
– Hổng chịu, tên rặt ri luôn kìa.
– Cô lên trên mạng tra cứu bài “Quỳnh” của nhạc sĩ Phạm Anh Dũng, tha hồ cho cô lựa nhé?
– Cha, vậy ra ông nhạc sĩ này thích hoa quỳnh.
Không nghe Yên Hồng nói năng gì, Thừa Tân mừng rơn vì thoát được một kiếp nạn.
Anh đâu có quởn tới mức đi tìm nhạc cho những cô bé “sáng nắng, chiều mưa, tối lưa thưa vài giọt”.
Chú – thím đã đón được taxi, hiện đang trên đường về nhà để lấy mùng – mền – chiếu – gối và trang phục cho con gái.
Quỳnh Như cũng theo chú – thím ra về để kịp giờ đi học tiếng Anh với đám bạn.
Còn lại Yên Hồng và Thừa Tân, hai người ngồi chờ trong phòng khách.
Yên Hồng thắc mắc tại sao cái chú này cứ dán mắt vô điện thoại hoài mà không ngẩng lên nhìn mình lấy một lần.
– Cái hình này là sao chú? Chú mặc kỷ niệm Halloween ở trường hả?
– Không, mặc ngày mới ra tù thôi.
Lãnh án oan ba năm.
Yên Hồng cười giòn ra chiều thích thú lắm:
– Bị người ta vu khống ở tù mà chú còn tâm trạng trưng hình thời đó trong phòng khách nữa.
– Tôi làm vậy để răn bản thân đừng sống hèn và dám đối mặt với bóng tối nơi tâm hồn.
– Cái bông tim tím chú trồng ở ngoài ngoải là bông gì dợ?
– Bông tỏi có tác dụng đuổi côn trùng, rắn – rít và một số loài bò sát nên tôi trồng chung quanh giàn hoa giấy.
Thừa Tân bỗng đổi chủ đề, anh e dè hỏi con nhỏ bị sao.
– Em bị cưỡng hiếp, hình như là bề hội đồng, đã vậy lúc phát hiện em nằm trần truồng trên sân thượng, hai ông bảo vệ còn định…
– Ai là người cứu em?
– Một Linh mục.
Cha đã đưa áo dòng cho em che thân, thì ra cha mặc đồ hai lớp: Lớp trong là thường phục, còn lớp ngoài là áo dòng.
Yên Hồng với tay lấy tách trà rồi se se trong lòng bàn tay như đang ủ ấm mà nói:
– Cha có súng nữa.
Chắc súng giả thôi.
Nhưng cũng đủ làm cho hai thằng già dê kia đá* trong quần.
Đi cùng với Cha là một người đàn ông ngoại quốc có “bí danh” Judas.
Cha với người Giáo dân đó chở em tới nhà thương và ở lại lo liệu thủ tục nhập viện giùm em.
Khá ngạc nhiên là cái chú Judas nói tiếng Việt rất sõi, còn ăn được đồ xứ mình nữa.
– Ăn đồ gì mà khen hay?
– Cháo trắng lá dứa với hột vịt muối, dưa mắm, thịt kho tiêu quéo và tép rang.
– Chà, lạ hen?
– Dạ.
– Mà…
– Sao chú?
– Hỏi khí không phải, sao em có vẻ…
– Tại vì em bị chụp thuốc mê, thành ra không hay biết gì sất, cho nên mới đỡ bị…
– Cho tôi xin lỗi nghen?
Yên Hồng bật cười:
– Có chi đâu mà chú phải sụt sè? Chú ngạc nhiên cũng phải thôi…
Vừa hay chú – thím đã trở lại, nên nhỏ xin phép ngưng cuộc trò chuyện mà soạn đồ đi tắm.
Cửa sổ phòng tắm hình chữ nhật đứng trổ ra cây điều lâu năm và cao hơn ba mét.
Nhưng dù gốc cây có lớn thế nào đi chăng nữa, nó cũng không giúp cản bớt tầm nhìn ở bên ngoài là bao, nên ông chú phải treo thêm một tấm sáo tre.
Bên dưới cái cửa sổ là cái bồn tiểu, bên trái là bồn cầu nằm đối diện với buồng tắm vách kính và bên phải là bồn rửa mặt thẳng hướng với cửa ra – vào.
Tủ đứng đặt dựa vô bức tường của buồng tắm, ở trong để đầy lốc giấy vệ sinh, hộp khăn giấy ướt hoặc không, bịch đựng bông ngoáy lỗ tai, dao cạo râu sử dụng một lần và băng – gạc cầm máu cùng vài chai kem tạo bọt để cạo râu; đâu mặt với nó là thanh inox dành để máng các loại khăn.
Vừa cởi quần áo, nhỏ vừa nghĩ hình như ông chú này đã phát hiện được bí mật của mình.
Thôi thì giấu được tới đâu thì hay tới đó vậy.
Ở ngoài này, Thừa Tân và bà Hai đang thảo luận với nhau về chuyện đóng tiền điện – nước – gas – Wi-Fi – cáp – rác.
Anh khăng khăng không lấy, nhưng bà Hai vẫn cố nài cho bằng được.
Rốt cuộc, anh phải nhận phân nửa chi phí sinh hoạt hằng tháng của Yên Hồng, kèm theo lời hứa sẽ thường xuyên ghé qua giao nhu yếu phẩm và tặng lương thực.
– Ủa em…
Yên Hồng tự nhiên mặc cái áo thun tay ngắn của anh và cái quần short ngắn củn cởn, phơi bày vòng ngực lớn và đôi chân thon thả của nhỏ.
Thừa Tân ngượng quá phát bực nên xẵng giọng la:
– Ai cho phép em tự tiện lấy áo của tôi mặc vô vậy?
– Bộ chú không thấy gợi tình sao?
– Tôi ở tù một lần là đủ tởn rồi.
Không muốn vô trỏng “chơi” lần hai đâu.
Nói đến đây, Thừa Tân bỏ đi một hơi ra ngoài đường.
Cái xóm vốn chỉ gói gọn trong một công đất nên chuyện gì mới “lú” ra một chút là nguyên cái xóm đều biết hết.
Ai nấy nói ra nói vào rằng đây là bồ của Thừa Tân, từ chữ “bồ” này bắt đầu thêu dệt muôn vàn điển tích, mỗi người thêm mắm dặm muối một hồi đẩy ngọn nguồn xa tít mù khơi.
– O ơi, chộ ni còn nhà cho thuê khôn?
– Có, nhưng con kham nổi hôn? Cô hổng ưng cái vụ mướn được vài tháng rồi bỏ giò nghen, tốn tiền dọn dẹp lắm.
– Dạ, tụi con có hai người nên kham nổi.
– Hay là con đưa người kia tới đây cho cô coi mặt thử đi.
– Dạ được.
Đúng lúc đó con gái thím cất tiếng nhờ mẹ thay tã cho con gái vì cô mắc soạn tài liệu gởi trưởng phòng gấp, nên thím đành ngắt ngang cuộc nói chuyện với vị khách Thần Kinh mà quày quả trở vô nhà lo cho cháu.
Còn lại một mình, Kiến Hữu ngồi xuống ngắm nghía bụi cây nha đam xanh mướt mắt ở hàng rào ngôi nhà mé trái căn mà anh dự định thuê.
Nếu như có nhà riêng, anh sẽ trồng giống cây này trong vườn.
Anh nho nhỏ nói thầm:
– Nha đam ngoài nớ còn kêu là cây “Long tu”.
– “Râu rồng”? – Cô chủ nhà vừa nói vừa mở cổng rào mà bước ra coi khứa này là ai mà ngồi chình ình một đống trước cửa nhà.
Người đàn ông này hơi gầy, mi thanh mục tú, nhìn coi cũng bô trai và có vẻ hiền lành, hay lam hay làm.
Cô chủ nhà sẵn tay chặt cho Võ Kiến Hữu một bó nha đam.
Ngó cô mới thấy cô bị phỏng hết nửa bên mặt, dáng dấp áng chừng bằng tuổi anh.
– Cô ơi, răng mặt cô thành ra như ri?
– Bị té.
Cư xá Võ Tánh nằm sau lưng con đường dẫn tới Giáo xứ St.
Pio.
Thành ra Kiến Hữu chỉ mất chừng nửa tiếng đạp xe về nhà.
Vợ chồng bác Hai đã đi ăn đám cưới.
Ông Sáu Giàu thì đã đến viện dưỡng lão trị bệnh.
Còn cô Ba Thoa và anh Út Nhót đã theo anh ta về ra mắt nhà ngoại.
Chỉ còn gia đình con trai trưởng bác Hai là có ở nhà.
Do đó mà hai anh em sống thoải mái hơn.
Gian bếp nhỏ xíu nên nguyên liệu và thành phẩm chế biến rồi để ngổn ngang khắp nơi.
Kiến Tường đang loay hoay thu dọn những thứ không cần thiết vào trong tủ lạnh và tủ – kệ bếp.
Cái máy hút khói đang hoạt động hết công suất, và quạt trần – quạt đứng cũng y vậy.
Hà Thanh đang ca bản “Từ Đàm, quê hương tôi” của nhạc sĩ Văn Giảng (Thông Đạt); ước mơ của nhạc sĩ diệu vợi như tìm lại bóng hình cô nữ sinh Đồng Khánh năm nào.
Kiến Hữu nếm thử nồi nước lèo, rồi cau mày dủ:
– Mi nấu cách chi mà mặn chằn rứa?
– Yêm nỏ muốn ăn chè.
Kiến Hữu dẩu môi, rồi vứt bó nha đam tươi rói lên khoảng trống duy nhất của cái bàn bếp:
– Bữa ni tau nỏ nấu chè.
Tau nấu nước nha đam uống cho mát.
– Nấu với cái chi?
– Lá dứa và đường phèn.
– Lại đường nữa.
– Mi khôn uống thì tau biếu gia đình ôn Sáu.
Rồi Kiến Hữu nói lẫy:
– Tau ở lâu mi rầu máu phải không?
– Răng đặng hả iêng? Yêm bồ côi bồ cút nào giờ, bây chừ có iêng ở chung vui xiết mấy.
– Để tau gia lại.
Khá bất ngờ là nước lèo không bị ngọt ngay như nước đường nấu chè.
Kiến Hữu nêm rất vừa miệng và ngọt thanh, mùi cũng thơm hơn ban nãy.
Hóa ra anh họ nấu món nào ra món nấy chứ không bị lậm đường.
Kiến Tường đổi lo làm vui mà hỏi anh họ:
– Bữa nớ iêng đi mô rứa?
– À, có thằng bạn rủ qua nhà chơi nên tau đi luôn, quên báo cho mi biết.
Mi ở nhà chờ có lâu không?
Kiến Tường lắc lắc đầu, rồi chỉ vô dĩa bánh cuốn mà cất giọng thời:
– Iêng đân thử món cuốn bánh tráng yêm mần đi.
Kiến Tường cuốn bánh tráng với bún, tôm chua, thịt phay, rau diếp, xà-lách xoong và tàu hủ ky chiên giòn rồi dùng với nước lèo nấu hơi sệt.
– Nước lèo vừa rồi nì.
– Kiến Hữu vừa nói vừa múc cho mình và em trai một tô đầy vung.
Kiến Tường kể:
– Hồi sớm có lẹm đó iêng.
– Mưa rầy rây như ri mà cũng có lẹm răng?
Kiến Tường bèn cho anh họ coi ảnh chụp cầu vồng hồi sáng.
Cái cầu vồng nằm vắt qua bụi tre xanh rì, tuy chỉ có ba màu nhưng vẫn rất rực rỡ và đẹp đẽ.
– Hiếm có con lẹm nào đủ bảy sắc hí?
– Dạ.
– Mi làm tau nhớ mưa máu rồng ngoài nớ quá…
Rồi Kiến Hữu hỏi lảng sang chuyện khác:
– Ở đay có bán yến thoòng khôn yêm?
– Yêm chưa thấy bao chừ.
Kiến Hữu thở dài một tiếng.
Chắc là có mà tại thèng ni nỏ hảo ngọt nên khôn siêng kiếm.
Im lặng được đâu mười phút, Kiến Hữu trỏ bịch trái gì đó có màu sắc đỏ hồng, tím sậm trông vô cùng lạ mắt treo nơi núm cửa tủ bếp mà hỏi:
– Trấy chi bây?
– Trấy điều.
Hình như chỉ có miền Nam mới có.
Kiến Hữu cười toe toét hỏi:
– Ngọt không?
– Có trấy rất ngọt như tẩm đường, có trấy lại chua chua ngọt ngọt.
Chợt Kiến Tường ngó Kiến Hữu mà cười vang, đoạn ghẹo:
– A…!Nếu hôm bữa iêng noái “trấy măng cụt” thì mần răng họ hiểu được?
Kiến Hữu chỉ biết cười giả lả.
Anh đã ráng hết sức xài tiếng Nam khi nói chuyện nhưng lúc được lúc không.
Ăn xong bữa trưa, Kiến Tường mời anh họ đi ăn bánh Dorayaki ở tuốt bên quận Thủ Đức.
Biết ông thần này đang dỗi nên chàng Mục sư phải kiếm chước dàn hòa.
Để có thêm tiền lo cho gia đình, chị Sáu đã mở một quầy bánh Dorayaki đủ loại nhân và Hot Dog ngọt trước nhà.
Vừa bán hàng, chị vừa phải quán xuyến việc nhà và trông chừng hai con nhỏ.
Trước cửa quán cà-phê của vợ chồng chị Sáu, một ông lão đang nặn tò-he theo ý thích của khách hàng.
Vẫn là những hình tượng “muôn năm cũ”, nào là thầy – trò Đường Tăng, hoa hòe – hoa sói, người đẹp và hoàng tử trong các câu chuyện cổ tích, nhóm bạn của Đô-rê-mon,…; ngoài ra, lác đác vài bóng các nhân vật đến từ manga hoặc các phim hoạt họa tân thời nổi tiếng.
Dù không thích tò-he lắm song hai anh em họ Võ vẫn mua ủng hộ ông lão.
Kiến Hữu chọn hình Đô-rê-mon, còn Kiến Tường thì lấy Nô-bi-ta cho đủ cặp bài trùng.
Mua xong vài cái bánh Dora, hai người kiếm cái bàn bày trên vỉa hè mà ngồi uống nước và hóng chuyện.
Với nhạc phẩm “Con đường tôi về” của nữ nhạc sĩ Lê Tín Hương, Ngọc Lan đã trình bày thật dạt dào cảm xúc.
Thế hệ Tân nhạc trước năm 75 chỉ vẻn vẹn vài nữ nhạc sĩ nhưng người nào sáng tác cũng hay và có nét riêng; phải kể đến như Như Phy – Vợ của nhạc sĩ Hồng Vân – Trần Quý, Minh Trang – Vợ của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, Khúc Lan, Lê Tín Hương, Thanh Lan,…
Lóng tai nghe đâu được một lúc, Kiến Hữu chen vô bình phẩm:
– Xăng lên, cả và đều than hết.
– Tổng thống Khánh đã ký sắc lịnh bắt chánh phủ phải trả giùm phân nửa tiền vé cho những ai đi xe buýt tháng.
Ngoài ra, còn giúp các tài-xế và những doanh nghiệp, cửa hàng – đại lý có quy mô nhỏ – lẻ được giảm thuế đóng cuối năm và hỗ trợ một phần tiền xăng.
– Cha nội đó bám ghế còn hơn thằn lằn bám vách tường.
Mới bị chửi có vài câu là quýnh quáng làm theo ý dân liền.
– Kệ, muốn lá phiếu của qua đâu có dễ đâu.
Người đàn ông mặt xương cũng có mặt trong đám đông đó.
Cũng may cậu trai răng khểnh ấy được toàn mạng về Sài Gòn; con ác phụ kia vẫn đang ráo riết tìm cách để kiểm tra xem cậu ta có phải là con ruột của thằng chồng đã chết không.
Sau cữ cà-phê, người đàn ông đó lên xe của bạn thân về Biên Hòa.
…
Về lại Biên Hòa, Ernest Công mau chóng ghé dưỡng trí viện thăm người Linh mục trẻ.
Y đang bị theo dõi 24/24 nên tâm tình không mấy tốt đẹp.
Là ai đã phải dày công và điên tiền tới mức độ thuê người đi rình rập, bắt bớ một thằng tứ cố vô thân như y?
– Anh An-Phong!
– Ơi?
Điều dưỡng viên đang ra sức nài nỉ người anh đồng Đạo của y ăn vài muỗng cơm để có sức uống thuốc.
Coi lịch biết bữa nay y sẽ tới nên ảnh không chịu ăn trước một chút gì.
– Cảm phiền chị hâm giùm em món cháo Tiều.
Điều dưỡng viên miễn cưỡng nhận lời, không quên đẩy phần dọn dẹp bàn ăn cho cậu trai có cái răng khểnh ở mé trái hàm trên.
Nếm thử một muỗng cá kho, Chí Công nhăn mặt lè lưỡi nói:
– Hèn chi anh không ăn là phải rồi.
Cá kho tanh quá, nước màu và gia vị cũng không thấm vô sớ thịt, dở như ri thì ai ăn cho được.
– Bữa ni mần răng mà em noái tiếng Huế luôn hỉ?
– Ở với thằng Thần Kinh riết lậm nó luôn rồi.
– Khán Yên sao rồi?
– Nó đang học ở trường Thiếu Sinh Quân trên Sài Gòn.
Sau mấy năm cân nhắc, nó quyết định thi vô Võ Tánh.
Năm nay nó cũng lớn trộng rồi.
– Nãy giờ anh để ý thấy em nói chuyện lặp chữ cuối nhiều lắm nghen?
– Dạ…
Rồi để đánh trống lảng, Chí Công mới kể cho Gia Hạp nghe về chuyện thằng Hoàng rất giống với mối tình đầu của người thím Triều Châu, cả về tính cách lẫn vẻ mặt, thành ra thím thấy nó lại bùi ngùi và chua xót cho đời bạc phước của mình.
Nghe xong, tự nhiên Gia Hạp thuật chuyện mà anh còn nhớ ở Giáo xứ Saint Pio:
– Cô Liễu có yêu một người đàn ông, nghe đâu là con trai của một khứa tham nhũng nào đó trong Nước, nhưng tên này có sở thích hết sức bại hoại là bắt ép người yêu phải chơi trò “bề hội đồng”.
Thông thường, những cô gái trước cũng là dân ăn chơi – đàng điếm nên không có chi ngại ngần, thậm chí còn liệt nhiệt hưởng ứng.
Xưng tội tới đây thì cô Liễu im, nên anh cũng chẳng biết cổ có thỏa thuận với Ma Quỷ hay là không nữa.
– Cổ đã bị rồi anh.
Hiện thời, cổ cũng…!như anh.
Mà…!mà…!chắc nặng hơn nhiều…
Gương mặt của An-Phong tái mét đi vì giận.
Anh không muốn ai nói mình điên hết.
Biết ý, Chí Công đánh trống lảng:
– Anh có cảnh báo ông Tám Què không?
– Có chứ.
Vì chuyện này rất nghiêm trọng nên anh đã phá lệ mà tiết lộ luôn với bác ấy.
Điều dưỡng viên đã quay trở lại với cái khay đựng tô cháo nóng hổi và cử thuốc năm viên.
Chị không biết năm xưa nghĩ thế nào mà chui vô đây làm, ngày nào cũng phải cung phụng bịnh nhân như vua chúa, đã vậy còn bị họ quánh và chửi rủa nữa.
Tự nhiên căn đày kiếp đọa…
– Chị, có chút quà mọn, chị nhận nghen?
Bây giờ mới thấy điều dưỡng viên cười tươi.
Chỉ là một phong bao lì-xì đỏ thắm và giỏ trái cây nặng trĩu, cũng đủ làm vui lòng người đồng hành với “kẻ say quanh năm suốt tháng”.
Lương của chị không cao, áp lực công việc thì quá lớn, số lượng bịnh nhân thì đông như quân Nguyên, đòi hỏi của cấp trên lại dài như diện tích núi Hy Mã Lạp Sơn, chưa kể đến là gánh nặng chăm lo đời sống của gia đình, thử hỏi sao chị dễ thương nổi?
– Bánh quẩy hơi nguội, anh chịu khó ăn nhe?
Gia Hạp nhếch miệng cười, biểu “Không sao đâu.”
“Cạch.” Tiếng cánh cửa phòng bị đẩy ra, vang lên một cách khô khan và nặng nề.
– Cha Hoàn.
Matthias Hoàn mặc thường phục và đi đôi dép sandal màu nâu cánh gián, trên vai quải ba-lô đen khá nặng và trên tay xách mấy túi đồ lỉnh kỉnh.
– Ernest Công.
– Cha ơi, con muốn hỏi về nhân…
– Chỗ này có máy ghi hình, thành ra Cha không thể nói cho con biết được.
An-Phong không để cho hai người được nói chuyện riêng, anh tíu tít hỏi han Thầy về đời sống thành đô và mục vụ, cũng như tin tức về Giáo xứ Saint Pio.
Cha Hoàn trả lời muốn tắt thở mà vẫn không làm thỏa mãn lòng hiếu kỳ của đứa con trai.
– Ảnh ngủ rồi Cha.
Cha Hoàn đỡ đứa con trai lên giường.
Đắp mền, sửa gối và chỉnh lại số của cây quạt không cánh xong xuôi, ông gọi điện báo cho bác sĩ trực phòng đến đây kiểm tra; có như vậy, ông và đứa con trai còn lại mới an tâm rời đi.
Ước khoảng ba giờ chiều, hai cha con ông đèo nhau trên chiếc xe gắn máy phân khối lớn mà đi vòng quanh Biên Hòa.
Đi hoài, đi mãi mà hai cha con không tài nào tìm được chỗ kín đáo, riêng rẽ.
Chí Công bèn nhờ anh Ba Beo cho mượn một ngôi nhà ở tuốt trong miệt vườn; Ba Beo đồng ý với điều kiện phải có mình đi cùng.
Trong lúc chờ đợi, Ba Beo ra sau hè phát quang vườn tược um tùm.
Vừa làm vừa huýt sao um sùm.
Hai cha co ngồi ở phòng ăn ngó ra mà cười tủm tỉm.
Thấy chung quanh không có ai khác nữa, Matthias Hoàn mới lấy tấm hình cất ở trong bóp ra mà đưa cho con trai coi.
– Đây là mẹ ruột và bà ngoại của con.
Bà Nguyệt và cô Tú.
Xét theo Nhân Tướng học, nói khí không phải, hai người thân của Chí Công rất ư gian ngoa, xảo quyệt và dâm bôn.
Y không muốn tin đây là mẹ và bà của mình, vì sắc diện nanh nọc của họ.
Trời đột nhiên đổ mưa lớn.
Dông gió và sấm chớp bủa vây không gian miền đất đỏ thanh bình.
Cây cỏ rạp mình dưới sức công phá dữ dội của trận mưa dông ác hiểm.
Những người đang chạy trên đường phải kiếm chỗ nào tắp vô nương náu.
Chưa gì mà đã nghe tiếng té xe và tiếng quát tháo, chửi bới lẫn nhau của những người lâm nạn.
Có tiếng chó sủa um trời ở cái nhà hàng xóm nằm mé trái ngôi nhà này, kèm theo tiếng nạt biểu “Đi dzô” của chủ nó.
– Trời ơi, ỷ y bữa nay không mưa, phơi miểng gáo chết mẹ luôn, rồi Ổng chơi Ổng quất một phát…
“Đùng!”
Matthias Hoàn lo lắng hỏi:
– Ở đây có cột thu lôi không con?
Anh Ba Beo bật cười đáp:
– Có, con sợ mấy ba, mấy má ở đây bị sét đánh chết nên con bỏ tiền ra xây một cột thu lôi rồi.
Chắc hồi nãy Ổng nã vô cái cột ở bờ đất đó đó.
Mới vừa dứt tiếng, Trời lại gầm thêm phát nữa.
Không biết mắt mũi quáng gà ra sao, anh Ba Beo trợt chân té và nằm sóng soài trên hàng ba.
– Đừng có ra đây! Ngồi yên ở đó đi! Trơn dữ lắm!
Trong tràng cười nắc nẻ của hai cha con, anh Ba Beo lết từ từ vô trong bếp.
Ông Trời vẫn không ngừng gầm gừ và giáng sét xuống.
Vui đó, rồi buồn đó, Chí Công cầm tấm hình duy nhất mà mình có được lên ngắm một lần nữa trước khi trao trả lại cho Cha Hoàn.
Y không muốn vì bức ảnh này mà bản thân lại sinh ra ác cảm với mẹ và bà ngoại, hãy để y cứ huyễn tưởng rằng mẹ và bà là một người hết sức nhân hậu và dịu dàng như hình tượng Cô Tiên trong truyện cổ tích.
– Dầu tốt hay xấu, họ cũng là người thân của con mà.
Chí Công cúi đầu hỏi:
– Ai thừa kế tài sản của họ vậy Cha?
– Bà con trong thân tộc đã xâu xé hết rồi.
– Ông già không cho được một xu, bà má cũng đách cho được một cắc.
Bắt con thương họ, mang ơn họ ở chỗ nào đây hả Cha?
Cha Hoàn an ủi:
– Họ đã cho con hình hài làm người.
Vả chăng, hồi con mới lọt lòng, má con cũng đã bỏ tiền ra nhờ người nuôi dưỡng con đàng hoàng, chẳng qua do bà ấy bị hại chết nên số con mới ăn cơm thiên hạ như vầy.
– Còn ông già tía con?
– Cái này thì Cha không biết.
Cha còn không chắc ai là ba của con nữa.
Anh Ba Beo đang bôi dầu Con Ó lên vùng bắp chân bị bầm.
Lâu lâu lại rít lên nho nhỏ vì rát và đau.
– Anh Ba, cho em mướn nhà này ở được không?
– Mướn làm mẹ gì, ở đại đi mày!
Nhờ sự giúp đỡ của đàn em Ba Beo mà ngôi nhà được trang hoàng hết sức tươm tất và mau chóng.
Số đồ đạc này lấy từ kho cửa hàng trang trí nhà cửa của một người chú bên nội Ba Beo; chừng nào không xài nữa thì trả lại và phải bù thêm chút đỉnh tiền sửa sang và làm mới đồ đạc.
Để đáp lại thịnh tình của huynh đệ giang hồ, Chí Công đi mua vịt quay về đãi mọi người một bữa nhậu.
Nhờ rượu vào – lời ra, những huynh đệ giang hồ đã tiết lộ cho Chí Công nghe những tin tức liên quan tới chương trình “Chuyến tàu hồi hương”; trong số đó có một tin động trời là thầy – u y có đem theo một đứa nhỏ khoảng chừng hai tuổi mấy rất bụ bẫm, không rõ con họ hay con ai.
Cuộc vui nào rồi cũng đến lúc tàn.
Ngoài trời mưa đã dịu xuống, lác đác những bọt bong bóng vỡ tan theo nhịp điệu của riêng chúng; cứ thế cầu vồng khẽ hiện ra trên nền trời xám xịt, dù chỉ là một phần tư và có tam sắc nhưng vẫn đủ khơi gợi sự thích thú cho người nhìn.
Tiếng lá chao nghiêng trong cơn gió thoảng cuốn theo hương đồng cỏ nội và miên man mùi cơm nước đang nấu từ các ngôi nhà lân cận nhà Ba Beo.
Xấp nhỏ đang chạy giỡn hà rầm trên con đường tráng nhựa mỏng lét và hẹp té, đứa nào đứa nấy mình mẩy lấm lem bùn.
– Bữa nay mình tắm sớm rồi đi ngủ nghe con?
Ngó lên cái đồng hồ Odo treo ở phòng khách thì thấy đã sáu giờ rưỡi, nên Chí Công mỉm cười gật đầu mà nói với Cha rằng:
– Dạ, vậy Cha đi tắm trước đi.
Con còn phải đi mua đồ.
Nói đoạn, Chí Công mặc áo mưa rồi leo lên chiếc xe gắn máy thân yêu mà chạy tới siêu thị trong thành phố mua đồ.
Cha Hoàn nhìn theo bóng lưng đứa con côi cút mà giơ Thánh Giá lên và đọc một câu Kinh cầu ban phước cho nó; làm xong, cụ tủm tỉm cười vì không biết con trai có nhớ mua cho mình trà gạo hay không.
Chừng tám giờ rưỡi tối, Chí Công mới lót tót về.
Cha Hoàn ngồi dựa vách tường ngoài phòng khách mà ngủ gà ngủ gật, y phải lay lay mấy bận Cha mới giựt mình sực tỉnh và mở mắt ra nhìn y cười sượng trân.
Y khui lốc trà gạo sáu chai rồi dúi vào tay Cha một chai hãy còn lành lạnh.
Hai cha con bật cười giòn giã, nụ cười vô ưu như hồi y còn sống ở Đồng Nai và Cha vẫn còn rất trẻ.
Vì tuổi đã quá cao, đâm ra thận của Cha Hoàn bị yếu đi, ngày cũng như đêm cụ đều đi tiểu lắt nhắt.
Nhưng càng về sáng thì càng nhiều, do vậy mà cụ ngại ở chung với người khác.
Nhưng do có chuyện riêng cần nói với con trai nên cụ phải nán lại đây.
Mong rằng tối nay cụ sẽ không làm phiền nó quá nhiều.
Cửa phòng khép hờ để ngăn tiếng ồn do Cha Hoàn hay ra ngoài đi vệ sinh.
Cái nệm cụ nằm cũng được đặt gần với cửa, còn cái nệm của con trai cụ thì kê sát góc phòng.
Trời rất mát mẻ và thoáng đãng nên hai người chỉ bật quạt ở số rất nhẹ để tạo thanh âm ru ngủ.
Nằm trong gian nhà vắng ngắt, bên ngoài rả rích mưa rơi, nhưng Chí Công không sao nhắm mắt ngủ nổi.
Nước mắt của y cứ thế lăn dài xuống gối.
Sanh ra đã không có cha, có mẹ là một niềm đau; vậy mà y lại phải đón nhận hung tin mẹ ruột là một người đàn bà lăng loàn, không ra gì.
Điện thư của Chí Công báo có tin mới.
Y bèn bật dậy mà mở máy lên xem, lòng thầm nhủ rằng chắc “ông tòa” hối thúc mình nộp bài viết cho số báo tới; viết lách mà ổng tưởng đâu đi chiên hộp gà ốp-la, đứng chơi vài phút là có ăn liền.
Không ngoài dự đoán, “ông tòa” gửi hai bức tối hậu thư cho Chí Công.
Lá nào cũng hăm trừ lương hết.
Ngó xuống mục “Spam”, số thư trong đó đã tăng thêm bốn bức.
Y nhấn vào coi thử có thư nào bị xếp lộn vô danh mục này không.
Và thấy, một bức thư hết sức kỳ lạ.
“Cha ruột của cậu.
Hình chụp ông ta lúc hai mươi bảy tuổi, thời điểm này vẫn chưa dấn thân vào chính trường và sống đời cô thân độc mã túng thiếu.”
Có ánh chớp lóe lên làm sáng rực chốn miệt vườn u tịch.
Đang lạnh mà Chí Công đổ mồ hôi hột như đang phơi nắng giữa đồng không mông quạnh.
Nếu y đem hình này ra cho mấy đứa bạn coi mà không chú thích, ắt hẳn tụi nó sẽ nghĩ đây là y hoặc anh em bà con với y.
Trong tấm ảnh, ông ta đang đứng vẽ tranh dưới bóng cây nhãn đang mùa đơm bông kết trái: Giá vẽ đặt bên trái, thành ra ông ta hướng mặt về phía đó; về phần trang phục, ông ta mặc áo sơ-mi và quần yếm kaki đen, đầu đội nón phớt, trên môi ngậm điếu thuốc rê.
Ngó sang Cha Hoàn, cụ vắt tay lên trán mà ngủ say như chết, tiếng ngáy đều đều ấy đủ để cho y biết điều đó.
Trước lúc xuống nhà sau mở tủ lạnh lấy nước uống, Chí Công tải bức hình xuống để lưu trữ.
Y không truy cập đường dẫn mà người lạ mặt kia gửi để tránh bị mã độc xâm chiếm điện thoại; có gì thì y sẽ mướn một người thạo Công nghệ – Thông tin và chuyên trị virus máy móc mở giùm đường dẫn này.
Cũng may buổi tối biết khôn nên đã mua sẵn một lốc trà gạo sáu chai, do đó giờ mới có nước ngon để uống.
Cảm thấy xót ruột, y bắc nước nấu mỳ gói ăn; biết trước huynh đệ của anh Ba Beo sẽ ăn sạch bách mồi nhậu, nên nhân lúc đi siêu thị y đã ghé các hàng quán gần đấy mua vài món để dành.
Không biết ma xui quỷ khiến ra sao mà Chí Công lại truy cập các trang Facebook của đàn con Lê Hoài Sang.
Y muốn nhẩm tính thử tổng tài sản của cái nhà đó là bao nhiêu.
– Hơn năm trăm triệu đồng, vị chi là hơn mười tám triệu Mỹ Kim.
Chỉ tính bề ăn xài đã khủng khiếp như vậy, không biết của chìm còn nhiều đến nhường nào.
Vừa bưng tô mỳ có gia vị theo kiểu “Lẩu tôm chua cay” ra bàn, Chí Công vừa mường tượng tới cảnh khối tài sản đó thuộc về mình.
Ánh mắt y sắc lạnh, còn vẻ mặt y đanh lại như màu đá mài dao, đôi môi mím lại thành một đường bén ngót.
“Đùng!”
Ánh chớp xanh biển hắt lên miếng kiếng cửa sổ soi rõ dung mạo Chí Công.
Y hoảng hồn hoảng vía buông luôn tô mỳ xuống đất, nước mỳ nóng rẫy khiến chân y bị phỏng rất đau.
– Mình bị cái gì vậy nè? Tiền đó đâu phải của mình mà mình lại…!Gớm quá! Mặt mũi mình gớm ghiếc quá!
Dông gió ráo riết truy cùng đuổi tận những mầm sống nhỏ nhoi nơi miệt vườn.
Mưa lớn và lạnh làm màn đêm càng mịt mờ, tăm tối và ảm đạm.
Duy chỉ có loài lưỡng cư và họ nhà dế là không kiêng dè trước kiểu tiết trời như vầy, trái lại chúng mỗi lúc lại lớn họng hơn.
Những con đom đóm mồ côi và kiến mối bâu đầy dưới cái gờ của cửa khung cổ, hòng cầu cạnh một chút hơi ấm tỏa ra từ ánh đèn điện trong nhà; thương cho kiếp sống bé mọn của chúng, Chí Công bật đèn điện treo ở cái gờ lên, sắc vàng rực rỡ làm lu mờ bóng hình của những con đom đóm thân sơ thất sở.
Sau khi thu dọn mớ bầy hầy do mình gây nên, Chí Công mới lò dò đi rửa vết phỏng với nước lạnh và xức kem trị liệu.
Thời may có hũ “Vaseline” nên vết phỏng trên chân của Chí Công bớt đau rát và buốt xót.
Trong lúc đợi nước nấu mỳ sôi, Chí Công ngồi nghe “Phượng Hoàng band” trình bày ca khúc “Đêm đã sáng” của nhạc sĩ Nguyễn Trung Cang.
Thường thì khi bị bí, đám ký giả tòa soạn của y sẽ đem ba cái chuyện lông gà vỏ tỏi của giới giải trí để lấp vô; nhưng riêng y và mấy thằng đồng bọn thì kiên quyết từ chối làm vậy.
– Ủa? Đang làm việc hả con trai?
– Dạ…!
Đang nói đến đây, Chí Công bỗng vỗ đùi cái đét rồi hớn hở hỏi Cha Hoàn:
– Ở trường Dòng có hoạt động chi không Cha?
Cha Hoàn mừng rơn hỏi lại:
– Con quảng bá giùm cho trường hả?
– Dạ, chủ con trả nhuận bút, không có bài thì ổng trừ lương.
Chứ con hổng có tốt lành gì đâu.
– Cái thằng này…!- Cha Hoàn xoa đầu con trai mà khúc khích cười.
Đoạn biểu.
– Để Cha đi tiểu cái rồi Cha ra Cha kể cho con ghi hen?
– Dạ.
oOo
Nhân ngày Chủ Nhật có mưa lắc rắc, Thừa Tân ghé chơi nhà thằng bạn luật sư, sẵn hỏi han nó vài điều luôn.
Ngôi nhà của nó nằm bên Thủ Thiêm, là dạng nhà biệt thự có sân vườn, diện tích được đâu mấy trăm mét vuông.
Nó theo ngành Luật theo sự dẫn dắt của người cha cùng nghề; mừng cái là nó cũng yêu thích công việc này nên hai cha con không nảy sinh ra xích mích hay mâu thuẫn đáng tiếc với nhau.
Gia đình dư dả tiền của nên nó không bị thúc ép kiếm nhiều thân chủ hay khách hàng, thành ra cuộc sống của nó khá thảnh thơi và thong thả.
Để tránh hai cái kiếng xe “cuốn theo chiều gió”, chiếc xe hơi Porsche của Thừa Tân phải đậu trong sân trước.
Thay vì tốn tiền rửa xe, anh để cho Ông Trời rửa giùm luôn.
– Chúa ơi, vô nhà tao chơi là được rồi, bày đặt mua mồi nhậu làm gì?
– Trời ơi, lâu lâu tao “hảo tâm” mà mày cũng hổng cho nữa.
Nói đến đó, hai người bạn đồng niên phá lên cười sằng sặc.
Anh ta đi trước, Thừa Tân nối gót theo sau.
Nếu như Thừa Tân nhớ không lầm, phòng ăn nằm sau nhà để xe.
Cấu trúc tòa biệt thự cũ thì anh nhớ rất rõ, còn căn mới này thì vẫn chưa nắm được.
Mà được hay không anh chẳng bận tâm, nhà của người ta mà, nhớ kỹ làm chi.
Vậy là gian bếp nằm hướng mặt ra cái bể bơi hình cánh bướm.
Nó đã kỳ công đặt mua những cây thông già cỗi tuốt tận trời Âu về trồng sau hè.
Trong vườn còn trồng vú sữa Lò Rèn, bưởi Tân Triều, quýt Cái Bè, mận An Phước, thanh long Châu Thành, măng-cụt Lái Thiêu, mít tố nữ Long Khánh, sầu riêng Cái Mơn, cam xoàn Trà Ôn,…!cùng một số loại rau cải và bông – kiểng.
Chưa kể đến là một khu nhà mát dành để tập thể hình – rèn luyện sức khỏe và một khu nhà mát dành để hát karaoke với bạn bè – nhưng thường thì bọn họ hay tụ tập hát karaoke ở tầng hầm đặng tránh làm ồn chòm xóm.
Sau nhà giáp sông, từ đây có thể ngắm được rừng cây đước, bần, mắm và vẹt ở phía bên kia cùng cảnh mặt trời xoay vần tuyệt diệu.
Ngắm cảnh chán chê, Thừa Tân mới chịu trở vô bếp nhậu với thằng bạn luật sư.
Nó đang để mấy chai bia Corona Extra vô xô inox đựng sẵn đá bào; loại bia này khi uống phải xát muối vòng quanh miệng chai và thả vào trong đó một lát chanh mỏng, như vậy uống mới ra vị.
Vừa sắp vịt quay Bắc Kinh vô dĩa hột xoài, anh ta vừa hỏi thằng bạn thiết:
– Mày muốn hỏi tao về điều luật gì?
– “Quan hệ” với trẻ vị thành niên ở tù bao nhiêu năm?
– Đừng có nói bậy nghe mày! Ở tù mọt gông đó!
– Không, tao hỏi cho biết thôi, chứ tao đâu có điên mà làm bậy.
– Hơn chục năm.
Rồi đời mày đi tong luôn.
“Cần” hả? Tao giới thiệu cho.
– Trời đất ơi, mày là luật sư hay là ma cô vậy?
– Không, tuổi của mày cũng “đứng” rồi, tao có nhiều nhỏ bạn chưa chồng nên muốn mối mai mày với một trong mấy đứa nó.
– Nếu con nhỏ đó tự nguyện thì sao?
Anh ta khoát khoát tay, mặt nhăn lại như bị đau ruột thừa:
– Thôi mày ơi.
Ra tòa là biết mùi trở mặt của tụi nó liền.
Thừa Tân thở dài thườn thượt.
– Mà sao tự nhiên mày lên cơn khùng rước con nhỏ chửa hoang về nuôi vậy?
Vừa cắt trái hạnh, Thừa Tân vừa bực bội kể:
– Tao đâu phải Phật sống mà từ bi dữ vậy.
Số là vầy nè: Trước bữa đó vài hôm, như thường lệ, sau khi quán đóng cửa, tao mới đem rác ra sau hẻm vục.
Thì bỗng phát hiện nguyên trái bom hẹn giờ giả nằm chình ình một đống trên bậc tam cấp, với lời nhắn nếu không đưa con nhỏ này về nuôi thì lần tới sẽ gởi bom thiệt.
– Ôi má ơi!
– Tao nghi con nhỏ này vì bị bất bình thường nên mới có bầu chứ cóc phải bị người ta hãm hại.
– Ý mày nói là một dạng bịnh “ham muốn quá độ” à?
– Ừ, chứ có đứa con gái bình thường nào dám mặc đồ của thằng đàn ông xa lạ và phong phanh như vậy đâu.
– Chết mày rồi con ơi.
Nó…!là mày chết.
Nói đến đây, Thừa Tân đặt cái ba-lô, mà Xương Tuyết dùng làm vật đựng băng đĩa cũ, để lên cái bàn đá mài trơn láng:
– Đây là trái bom giả, còn đây là tờ giấy nhắn, mày làm ơn làm phước nộp cho cơ quan điều tra giùm tao.
Anh ta run run kéo phẹc-mơ-tuya của cái ba-lô:
– Có sao lưu lại băng ghi hình không?
– Nó đập bà nó rồi.
Tao chỉ thấy cái bản mặt đeo khẩu trang, mắt kiếng và đội nón kết của một thằng nào đó thôi.
– Có băng ghi hình khúc đó không?
Thừa Tân vừa gật đầu vừa chỉ tay vô trong ba-lô:
– Có.
Tao sao lưu nhiều lắm.
Bỏ một bản trong bao thơ này nè.
Anh bạn luật sư gục gặc đầu:
– Được.
Mày hâm đồ ăn giùm tao đi.
Để tao soạn hồ sơ liền cho.
oOo
Để Henrico Thạnh làm quen với công việc giảng Đạo, Ignacio Cường và Stephen Đoàn xuống Kiến Hòa rước người bạn đồng tu lên Giáo xứ tập dợt trước.
Đáng ra hai ông Cha đi thôi, nhưng ba người Thầy ham vui cùng giáo viên tên Dự muốn đi du ngoạn nên nằng nặc đòi theo.
Anh Tư Vinh kiếm được mối chạy xe đường dài nên mừng húm.
Nhằm cảm tạ nhóm Kitô Hữu, anh biếu mỗi người một ký dừa nước “cây nhà lá vườn” ăn lấy thảo.
Vì lý do sức khỏe của bốn người cao niên nên hơn chín giờ sáng họ mới khởi hành.
Henrico Thạnh mua cho mỗi người một gói xôi mặn và một ly cà-phê đen đá ăn điểm tâm.
Yên vị trên xe xong xuôi, Cha Thành hào hứng hỏi đứa con tên Thạnh:
– Dưới đây có món gì đặc biệt không con?
Henrico Thạnh gật đầu cái rụp:
– Lòng bò luộc cuốn bánh tráng chấm mắm nêm bằm khóm và đậu phộng, ăn kèm với rau sống, chuối chát, khế chua và dưa leo.
Augustino Dương xen vô:
– Mừng quá, hết được ăn dừa rồi.
Henrico Thạnh trề môi, rồi tiếp tục giới thiệu:
– Trong mấy quán phở bò thường có bán.
Nhưng để chắc ăn, mình nên ghé quán nào vừa có bán thịt bò sống, vừa có bán món ăn về bò như phở, hủ tíu bò viên – gân – nạm, bún bò Huế,…!thì cơ hội có bán sẽ cao hơn.
Thầy Dự bảo:
– Thế thì đến quán đấy đi.
Tôi chưa ăn mắm nêm bao giờ nên muốn nếm thử xem sao.
GB Thành hướt mà nói:
– Kể chuyện hồi mày mới vô học đi Dương.
Tụi tao là đàn anh khóa trên nên chẳng biết rõ ngọn ngành gì sất.
– Được thôi.
Đợi chiếc xe lăn bánh hẳn hòi, Augustino Dương mới thuật chuyện đời mình:
– Gia đình tôi là Việt – Hoa, ba người Việt – má người Hoa, buôn bán và sanh sống tại Chợ Lớn rồi sau này dời về Chợ Bến Thành.
Trong nhà chỉ có mỗi thằng em trai nên hay cà-nanh với nó lắm, hai đứa hở món gì ra là giành nhau trối chết, giành riết bị má nọc ra quánh mà vẫn không chừa, cứ rình rình là nhào vô giành giựt với đánh lộn.
Trước sự mong chờ của mọi người, Augustino Dương kể:
– Có lần đi đá banh với mấy đứa trong xóm, tụi con nít xúm lại chọc, “Ba Tàu! Ba Tàu kìa bây!” Tôi mới tức khí la lên, “Tao là Hai Tàu, hổng phải Ba Tàu!” Mấy đứa nó nghệch mặt ra, hết nhìn tôi rồi quay qua dòm đồng bọn.
Một chập sau, có đứa bạo gan hỏi, “Từ trước tới giờ tao toàn nghe ba má tao nói “Ba Tàu”, sao bữa nay mày nói mày “Hai Tàu”?” “Tại tao con trưởng trong nhà nên tao phải là Hai Tàu, Ba Tàu là thằng em tao kìa.” Jesus – Ma, tụi nó ngơ ngáo ngó nhau không biết nên tin vô nguồn nào: Ba Má tụi nó hay là tôi.
Rồi hết đá banh luôn, vì bận cãi lộn với nhau: Đứa thì nói thằng này ngu quá, Ba Tàu là chỉ chung chứ đâu chỉ riêng nó; Đứa thì biểu tôi nói có lý nên về phe tôi.
Hồi trước Gia Cát – Khổng Minh “thổi gió Đông” dẹp tan quân Tào Tháo sao là tôi “thổi cái ngu” làm mâu thuẫn nguyên một cái hội đồng con nít như vậy đó.
– Giờ biết mình mấy Tàu chưa anh Hai họ Hà? – Matthias Hoàn nhếch miệng cười hỏi.
– Biết rồi.
Tính nói tiếp nhưng một cái ổ gà đã làm Augustino Dương khựng lại.
Anh Tư Vinh gãi đầu cười giảng hòa, rồi phân bua rằng tại áng cái cây nên ảnh hổng thấy.
Vừa xoa cái lưng đau điếng, Augustino Dương vừa kể:
– Má tôi vốn ít học nhưng hay sính chữ Nho nên tôi mới có cái tên đặc biệt như vầy.
Ba tôi hồi đó cự hoài, “Đã Nhựt là Mặt trời mà còn đặt tên Dương, biểu sao nó lớn lên không bị chập mạch – mát dây thế này.” Má tôi đâu có vừa, “Cho nên tui mới làm Hậu Nghệ bắn rụng mặt trời đó chớ”.
Henrico Thạnh vén lưng áo Cha Dương lên để dán Salonpas cho ông đỡ đau:
– Bắn bằng cách nào Thầy?
Cha Dương xoa đầu thằng con hạp tánh mà cười đáp:
– Bả tặng cho “Chín đường tuyệt kiếm” vô đí* là xếp ve hết.
Mới hó hé quậy là bả huơ huơ cây chổi lông gà lên liền.
GB Thành hỏi:
– Nghe nói hồi đó mày quậy Cha Bề Trên Diệu dữ lắm phải hôn?
– Ừm, Tên Thánh của Cha là “Benedict – Biển Đức”, tụi tôi mới hay rình rình giờ Cha ngủ trưa mà hợp ca, “Lòng Cha ấm áp như biển Thái Bình dạt dào…”, chế từ bài “Lòng Mẹ” của Y Vân; đứa nào đứa nấy bị phạt một cách tan nát đời hoa mà vẫn xúm nhau bổn cũ soạn lại.
Nhưng dẫu tụi tôi phá cỡ nào, Cha vẫn rộng lượng bỏ qua.
Còn nhớ cái năm chợ bị cháy, bao nhiêu vốn liếng làm ăn bị cụt hết, Cha đã đưa cho tôi sổ tiết kiệm để giúp nhà tôi trả nợ.
Chưa hết, suốt năm năm liền, cứ hễ trường có liên hoan hay lễ lạt, Cha lại đặt mua bánh kẹo và đèn cầy ở chỗ tôi; nhờ vậy mà nhà tôi gượng dậy rất mau.
GB Thành hỏi trong lúc nhai đồ ăn:
– Tại sao chỉ có năm năm thôi vậy?
– À…!Ba má em thấy gia đình đủ ăn rồi nên muốn nhường cơ hội đó cho gia đình khác.
Matthias Hoàn hỏi:
– Còn cuốn sổ tiết kiệm thì sao?
– Phải đợi thêm bảy năm nữa, nhà em mới có dư mà tích cóp trả lại cho Cha cả vốn lẫn lời.
Nói hoài một hồi cũng mỏi miệng, cộng thêm dậy quá sớm và no căng bụng nên từ từ “rụng nụ” hết, thành ra trong xe hết sức im vắng.
Anh Tư Vinh bèn chọn bài “Cách biệt” của nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng qua phần trình bày của Duy Khánh lên nghe cho đỡ buồn tai.
Anh thầm than ly cà-phê này chỉ để uống cho vui chứ không giúp tỉnh ngủ gì hết.
Kiến Hòa chưa vào trưa mà nắng đã chói chang và gay gắt.
Mặt đường hực sáng như được dát một lớp vàng mỏng lên trên bề mặt; ai mắt yếu dễ bị nổ đom đóm mắt mà lái bậy và gây ra tai nạn.
Những hàng dừa cao nghệu đứng lặng thinh bởi ngày lặng gió.
Hai bên đường, ai cũng tận dụng nhà mình làm quán xá; riết rồi người bán đông hơn người mua.
Chợ búa rộn rịp người qua – kẻ lại, nhưng thời buổi tiền xài mau như chớp giựt nên kẻ bán không lời mà người mua cũng chẳng được vừa ý.
Ở những bãi đất trống, nhỏ – lớn tụ lại chơi đá banh ầm ĩ.
Cứ cách vài căn là lại nghe tiếng hát karaoke của một ca sĩ miệt vườn “có tuổi nhưng không có tên” vang rền như sấm, nhạc sĩ nào nghe xong chắc sẽ khóc ra tiếng mán vì nhạc đi đằng nhạc còn giọng thì đi đằng giọng.
Lâu thật lâu sẽ bắt gặp một Tiên Tửu đi lểu nghểu ngoài đường, dáng vẻ lôi thôi – lếch thếch và nồng nặc mùi rượu; có ông xỉn thì cười như vừa trúng số độc đắc, có ông say lại quạu đeo như bị ai ăn hết của.
May mà cải lương vẫn còn sống, dù rằng người nghe chỉ toàn là lớp lão thành, chẳng có lấy một người trẻ nào chịu ngồi nghe.
Chiếc xe Toyota Highlander đã tới được vườn trái cây ở xã Phước Thạnh vào lúc mười giờ rưỡi sáng.
Chủ vườn mắc bận lên thành đô ăn đám cưới nên giao vườn cho con cái và nhân viên.
Xe vừa dừng trước cổng, đã thấy nhân viên đon đả rước vô với một nụ cười tươi thắm trên môi.
– Mùa này có trái gì con? – GB Thành hỏi cậu nhân viên đáng tuổi con mình.
Cậu nhân viên tươi cười trả lời:
– Dạ, măng cụt, chôm chôm, mận, điều, mãng cầu,…!Sầu riêng già chát rồi, ăn cũng được chứ hổng còn ngon như đầu mùa.
Đi hết những bờ đất cây trái sum sê và xanh tốt, đoàn khách ghé nhà mát nghe ông già giữ vườn kể chuyện đời cố lũy cố lai và ăn cóc chấm mắm ruốc.
Đặc biệt câu chuyện “Lù khù có Ông Cù độ mạng” đã làm cho ai nấy được một trận cười thật sảng khoái.
Mãi đến một giờ trưa, nguyên đoàn mới rời vườn trái cây mà lên đường du hí tiếp.
– Ăn cóc chấm mắm ruốc được không Dự? – Vừa cài dây an toàn, Cha Thành vừa ân cần hỏi.
Thầy Dự xịt chút gel cồn sát trùng vào hai lòng bàn tay mà nói:
– Lạ quá mới đầu ăn không quen Bố ạ, nhưng ăn quen rồi lại đâm nghiện.
Henrico Thạnh gật gù:
– Dạ, ăn riết bắt ghiền.
Simon Tử ngó Cha Dương mà nhắc nhở:
– Dạo này Bố Dương có vẻ thừa cân nhỉ?
Augustino Dương có tật giựt mình nên phản bác liền:
– Đâu, tôi thấy bình thường mà, đâu có dư ký đâu.
Henrico Thạnh bực mình càm ràm:
– Rõ ràng Thầy bị đau lưng hoài.
Hổng chịu đi khám mà cứ uống thuốc giảm đau cầm chừng.
Lóng rày con thấy da dẻ Thầy bủng beo, e là…
Matthias Hoàn vỗ đùi em trai mà nạt:
– Mày đó nghe mậy? Bịnh là phải đi khám liền.
Tao với thằng Thành hư thận hết ráo rồi.
Mày cũng liệu hồn cái cột sống của mày đó.
Mày mà ngồi một chỗ, tụi tao hổng thèm đẩy xe lăn cho đâu.
Augustino Dương cúi mặt nói nho nhỏ:
– Em không có tiền, hai anh à.
GB Thành run giọng hỏi:
– Em trai Dương đâu?
– Vợ nó cầm chìa khóa rồi.
Với lại, em dâu chỉ thích vung tiền cho ai mà sau này có lời thôi.
– Con có.
– Henrico Thạnh lên tiếng.
– Thầy cứ yên trí trị bịnh, tiền bạc hãy để con lo.
Matthias Hoàn vuốt lưng em trai đang mếu máo khóc:
– Thôi đừng có mít ướt nghen.
Già, mất nét hết rồi, khóc khó coi lắm.
Để lát tao đi ăn lòng bò luộc cho ngon mày.
Thầy Dự an ủi:
– Vâng, già thì không có quyền khóc, chỉ có quyền cười thôi Bố Dương nhé.
Gần đến nhà chú thím Năm, Augustino Dương mới ngừng nức nở.
Ông muốn kiếm một câu giỡn để khuấy động bầu không khí buồn xo, nhưng không thể, nên đành bất lực ngồi xụi lơ.
Chiếc xe đáng lẽ đã dừng ở trước cửa nhà chú thím Năm nhưng vì ở đó có mấy chiếc xe gắn máy đậu lại để vô quán ăn uống nên anh Tư Vinh phải chạy luôn vô trong sân mà đậu.
Phải hết sức thận trọng, chiếc xe mới không bị quẹt trúng cây kiểng bày đầy nơi đây.
Stephen Đoàn bước xuống xe đầu tiên.
Anh định đợi các Thầy, thầy Dự, anh bạn đồng tu và anh tài-xế xuống hết mới lên nhà trên thưa chú – thím một tiếng.
Hương bồ kết thoảng bay trong gió, báo cho anh hay bữa nay Xuân không đi giữ trẻ.
Nửa tháng trước, anh được nàng tặng cho mấy chai dầu gội bồ kết tự chế, anh xấu người xấu luôn cả tóc, sợi nào sợi nấy như rễ tre, may nhờ có thuốc này nên chất tóc của anh tốt lên rất nhiều.
Chú Năm mặt buồn xo nhìn nhóm Kitô hữu và anh tài-xế, rồi nói nhỏ rí rằng con Xuân ở dưới.
Lần theo vườn cây ăn trái được cắt đặt ngay hàng thẳng lối, hay nên nói đúng hơn là lần theo hương bồ kết dìu dịu, the the, mọi người từng bước ra sau hè.
Từ sau hè vọng ra giọng ca của Hoàng Oanh trong “Tình em mãi mãi”, một sáng tác của nhạc sĩ Song Ngọc:
“…!Ngày anh trở lại nhà
Bóng hình xưa trông thấy
Bồi hồi với dáng hoa
Lạnh lùng trong sương gió
Tình đã thành thiên thu!”
Bữa nay bịnh tình của Xuân trở nặng, cô không còn thiết gì mừng khi thấy Stephen Đoàn, nụ cười trên môi cô như ngây như dại.
Cô đang ngồi chồm hổm bên mé mương mà coi cá ăn mồi.
Giàn bông bí xinh tươi rự̣c rỡ ngự trên đầu cô đối lập hẳn với sắc diện u buồn vời vợi của cô.
– Tổ cha cái thằng chó đẻ!
Ba ông Cha lập tức nhảy ra thanh minh giùm Stephen Đoàn.
Thím Năm chưng hửng:
– Tui đâu có nói cậu Mỹ mà mấy Thầy làm rùm beng như múa Lân – Sư – Rồng vậy?
Thầy Dự tròn mắt hỏi:
– Thế cô đây nói ai?
– Thằng bồ cũ của con Xuân ấy chớ.
Nó tống tiền con Xuân.
Stephen Đoàn chắp tay hỏi:
– Dạ, đầu cua tai nheo ra sao, xin thím hãy cho con biết.
Thím Năm bèn kể lại từ đầu chí cuối.
Ai nghe xong thảy đều hết sức căm phẫn.
Cô Xuân vùi mặt vào đầu gối để giấu đi hai hàng lệ nhòa.
Anh Tư Vinh tranh hỏi:
– Vậy nó lấy bao nhiêu rồi hả thím?
Thím Năm trừng mắt mà trả lời rằng:
– Có lấy được xu teng nào đâu? Tự nhiên thằng đó nó bị người ta đập què giò, cái cha căng chú kiết nó qua đây đổ thừa gia đình tui.
Rồi bỗng dưng mấy cái thiết bị điện tử của thằng đó bị mất hết, thành ra nó hổng có tung clip lên mạng được.
Henrico Thạnh thở phào nhẹ nhõm:
– Lục Vân Tiên hả thím?
– Không, Lục Chỉ Cầm Ma.
Dù đã ráng nhịn cười, nhưng người nào người nấy cũng không tránh khỏi việc bật cười thành tiếng.
Riêng cô Xuân vừa cười vừa khóc.
Augustino Dương nhìn bà thím bằng đôi mắt sưng húp mà hỏi:
– Gì kỳ vậy chị?
Thím Năm vịn tay lên giàn bông bí:
– Quới nhơn đó có sáu ngón tay lận.
Nhưng mấy cha cảnh sát thì biểu có lẽ người này đeo găng tay đặc biệt nên mới tạo hiện trường giả là sáu ngón.
Matthias Hoàn pha trò:
– Vậy chắc ổng là con của Lục Tiểu Phụng.
Henrico Thạnh tiếp:
– Không chừng giờ ổng đang bán lưỡi bò với Lục Tiểu Linh Đồng.
Thấy con trai tên Thạnh sắp giỡn nữa, Augustino Dương chặn họng liền:
– Mày mà nói thêm một chữ “Lục” nào nữa là tao cho mày khóc lụt nhà nghen con?
GB Thành vuột miệng hỏi:
– Rốt cuộc quới nhơn đó là ai?
Cô Xuân tức cười quá nên hết âu sầu.
Người điên mà, vui đó buồn đây, chẳng biết đường đâu mà lần.
Cô vẫy tay biểu Stephen Đoàn lại gần mình rồi dịu dàng gọi:
– Anh Mỹ.
– Ơi.
– Em vô nhà uống thuốc nghen?
– Ừ, ngoan, đi đi, tôi thương.
– Liếc một hồi lé luôn bây giờ, Dương.
– Cha Hoàn rầy.
– Hổng lé mà nổ đom đóm mắt mới chết nị chớ ngộ.
Cô Xuân vừa vô nhà sau vừa nho nhỏ hát theo tiếng ca của ca sĩ trước năm 75 Quỳnh Hương trong “Lời thề của loài hoa trắng” của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ; bài này Thanh Thúy và Lệ Thu ca cũng rất hay:
“Em không còn yêu ai, nếu em không còn yêu anh
Em không còn yêu ai, dẫu khi Duyên mình mong manh
Em không còn yêu ai, nếu khi vô tình tên anh
đã ghi, ghi vào bia xanh!”
Trước lúc giã biệt gia đình cô Xuân, Stephen Đoàn để lại gói thuốc dưỡng nhan và an thần mà anh vừa xin được ở chỗ nhóm Tăng sĩ.
Anh không tin có kiếp sau nên chẳng mong chờ một lần tương phùng với nàng; Tình Yêu như mây mùa Hạ, ru mát đời ta một chút rồi sẽ tan thành cơn mưa nặng hạt, bịn rịn làm chi cho tan nát cõi lòng.
Thể theo sự chỉ dẫn của anh Tư Vinh, nguyên đoàn ghé một quán ăn kiêm bán thịt và lòng bò tươi sống trên đường…!
Thầy Dự ăn thử cháo lòng bò, những người còn lại ăn đúng món đã định.
Cha Thành mời con trai họ Đào:
– Nè, Dự, ăn thử một cuốn bánh tráng đi.
Thầy Dự hồi hộp chấm cuốn bánh tráng với một tí mắm nêm.
Nhai đâu được vài cái, ông méo miệng bảo:
– Chưa quen Bố ạ.
– Vậy thôi khỏi ăn.
– Vâng.
Henrico Thạnh vừa gắp mấy miếng lá sách, gan, ruột và phổi bò bỏ lên tấm bánh tráng vừa hỏi:
– Món này cũng giống như lòng heo chấm mắm tôm, có khác chăng là nước chấm thôi.
Tui cũng hổng thích ăn mắm tôm.
Thầy Dự bật cười nhận xét:
– Thú thật nha, tôi thấy tính tình cậu rất giống Trương Tấn Bửu.
Bụng sao miệng vậy.
Henrico Thạnh bật cười:
– Dù thương hay ghét cũng là người dưng, khua môi múa mép chi cho mệt thây.
oOo
Trần Cảnh Chiêu nhận được một bức thư nặc danh, trong đó ghi rằng:
“Đoàn Tòng chỉ là tay môi giới nội tạng chứ không có liên can tới chuyện giết người – cướp nội tạng.
Công việc hằng ngày của ông ta là diễn kịch nhằm xây dựng lòng thương hại của những bệnh nhân và thân nhân của họ hòng lấy nội tạng miễn phí; một trong những chiêu trò ông ta thường áp dụng là than khóc rằng mình có người thân, người quen, người bạn, người hàng xóm, người ơn,…!đang cần nội tạng gấp, nên xin được cho tạng.
Lợi dụng căn bịnh ung thư thời kỳ cuối của vợ mình, ông đã gạt được năm người, theo tìm hiểu đến bây giờ của chúng tôi, hiến buồng trứng, cổ tử cung và gan; số nội tạng đó ông đem giao lại cho gia đình quan chức tham nhũng, rồi nhận về huê hồng rất hậu hĩ.
Sau lần bắt cóc hụt Trần Mộc Thảo, tức là Tỳ-Kheo Trì Thương hiện nay, vốn có quen với Linh mục Giuse – Blanc Cao Nhật Thành, ở thời điểm đó là Chánh xứ Giáo xứ Saint Pio, nên ông đã lợi dụng lòng thương người quá đáng của Cha Thành mà dụ dỗ Cha đi hiến thận cứu cô gái đó, đặng lập công với ông thương gia giàu có.
Nhưng ông không ngờ mình bị rơi vào “Liên hoàn kế” của ông thương gia; ông đinh ninh rằng sau khi ghép thận xong rồi, Cha Thành sẽ được trả tự do, ai ngờ đâu chúng tìm người rất giống với Cha Thành rồi giả mạo làm Cha luôn.
Theo suy đoán của chúng tôi, mục đích chính là vì tham vọng “sở hữu” nguồn cung cấp nội tạng miễn phí và dễ dàng, do các con Chiên thường trọng tiếng nói của Cha và Thầy bên Đạo họ.
Ai ngờ đâu do một số yếu tố liên quan tới đức tin và quan điểm cá nhân, thành ra không có mấy ai mặn mà với chuyện hiến tạng.
oOO
Từ biên giới Cam-Bốt về Đồng Nai, Nguyễn Quốc Dũng vừa sợ vừa mừng.
Xíu nữa là y đã bị đám bạn xấu bán cho sòng bài bên Cao Miên để làm món hàng trả tiền nợ cho chúng.
Xe dừng ở Tây Ninh để đổ xăng và châm thêm nước giải nhiệt.
Ba Beo dẫn thằng đàn em mới “kết nạp Đảng” đi thăm khu chợ biên giới gần đấy.
Về phần những người đàn em khác, số thì ở lại dưỡng và giữ xe, lớp thì đi làm theo lịnh của anh ta và đại ca.
Ngang qua khu Đông của ngôi chợ, hai anh em ghé vô quán bánh canh Trảng Bàng ăn trưa.
Quán khá đông, họ phải đợi mất nửa tiếng mới có bàn.
– Dũng.
Quốc Dũng nhướng mày nhìn anh Ba:
– Dạ?
– Sao mày bỏ nhà đi?
– Tại…!má em hổng chu cấp tiền nữa.
– Biết vậy tao bỏ mày bên Cambodia rồi.
Nguyễn Quốc Dũng chỉ biết gục đầu mà gãi tai và cười giả lả.
Ăn uống xong xuôi, hai anh em rảo một vòng chợ nữa trước khi lên xe về Đồng Nai.
Vì sát biên giới với Cam-Bốt nên chợ này có rất nhiều thổ sản của nước láng giềng.
Do đã được sữa chữa lại nên khu chợ ngoài trời này rất khang trang và sặc sỡ màu sắc; nhưng về mặt giữ vệ sinh chung thì vẫn còn chưa tốt nên rác rến và nước tanh của các quầy cá – thịt đổ ra đất hãy còn khá nhiều.
Đến một sạp bánh khá lớn, thậm chí bán luôn cả bánh Lễ Halah và Kosher, Nguyễn Quốc Dũng trầm trồ chỉ một khay bánh mà nói:
– Có bán bánh que kìa anh Ba!
– Đ* má, một ngày không nói chữ “Que” là cắn lưỡi chết hả? Cái bánh vầy mà cũng phải ráng nhét chữ “Que” vô.
Nguyễn Quốc Dũng chưng hửng hỏi bánh này tên gọi là chi.
– Bánh đũa.
Nó ốm nhom ốm nhách, dài thoòng như cây đũa nên người ta gọi là “Bánh đũa”.
“Bánh que” là cái giống gì?
Quốc Dũng phân bua:
– Tại trên mạng thịnh hành cái tên này nên em kêu theo thôi.
– Vậy tụi nó kêu mày đào mồ cuốc mả tổ tiên chắc mày cũng vác xẻng ra làm hả? Cái gì đúng thì nghe, không thì thôi.
Thứ dòng gì a-dua như chó chạy ngoài đồng.
Lối chừng năm giờ rưỡi, nguyên đoàn mới lên đường đi nốt chặng còn lại.
Để giải khuây, người tài-xế bật bản nhạc sôi động “Nàng Tiên của Lính (Tình và Tiền)” do song ca Hùng Cường – Mai Lệ Huyền trình bày; đây là một sáng tác của nhóm nhạc sĩ Lê – Minh – Bằng, trong bài này ba ông ký tên là Minh Kỳ – Dạ Cầm.
Đám huynh đệ giang hồ của gã hưởng ứng bằng cách nhún nhảy và hát bè theo um sùm.
Về tới Đồng Nai thì trời cũng đã xẩm tối.
Bữa nay trời quang mây tạnh nên sao sáng rực trời.
Mảnh trăng Hạ Huyền nằm nghiêng trên vòm cây gạo đầu xóm.
Khu nhà trọ của gia đình Ba Beo xôm tụ như cái hội chợ ngày Tết, xấp nhỏ thấy có khoảnh đất trống thì a lại mà chơi giỡn đủ trò, các bà – các cô lấy cớ giữ con nên cũng ghé đây mà ngồi bàn đủ thứ chuyện trên đời với nhau.
Mới tới đầu xóm, một cô gái giơ tay ra hiệu ngừng xe.
Cô này mặc áo sơ-mi trắng và quần jeans đen, mang giày ba-ta xanh biển, tay xách theo hai cái giỏ đệm trông có vẻ rất nặng; khuôn mặt nét dữ ẩn hiện lạ kỳ.
– Chắc nó tới xin vô làm đó anh Ba.
– Người tài-xế cười ngả ngớn với Ba Beo.
Không hiểu đầu cua tai nheo ra răng, sau một hồi nói chuyện, Ba Beo nổi cơn mà chửi cô gái ấy một tràng:
– Đ* má con đượi, mày vô đây làm đ* thì nói mẹ là làm đ*, bày đặt biểu vô đây làm “công nhân”.
Thà nói thiệt tao thương tao chỉ khách sộp – boa nhiều – dễ tánh cho đi, nói dóc – nói láo thấy mắc ghét.
Biến khỏi mắt tao mày.
“Cô công nhân” bỗng biến thành mụ La-Sát chỉ trong một cái chớp mắt.
Phải khen rằng cô này có cột hơi khỏe thiệt, chửi không vấp một tiếng nào.
Và màng nhĩ của anh Ba Bo cũng “chì” dữ, dù đối phương la hét xối xả ra sao ảnh vẫn trơ trơ đứng chống nạnh nhìn.
Chừng khi trăng rời tàng cây gạo trổ bông đỏ rực, cô gái kia mới xách đí* ra về.
Ba Beo trở lên xe, vừa ngoáy lỗ tai vừa đóng cửa xe mà nói:
– Lâu lâu tao phải tiễn vong vài đứa làm đ* mà còn ra vẻ thanh cao.
Thay vì về thẳng nhà luôn, Ba Beo lịnh cho đám đàn em chạy ra quán cơm kiêm bến xe đón khách.
Sẵn đường, sẽ tắp vô siêu thị mua ít quần áo, đồ lót và nhu yếu phẩm khác cho đứa đàn em mới toanh; mùng – mền – chiếu – gối đủ cả rồi nên khỏi cần mua.
– Muốn ăn gì hôn?
– Dạ…
Ngó thấy đã tốn bộn tiền rồi nên Nguyễn Quốc Dũng cứ nhìn xuống cái xe đẩy mà ậm ừ hoài.
Ba Beo giơ nắm đấm lên:
– Giờ, ăn hay là không? Hay là muốn ăn cái này?
– Dạ, ăn…!ăn sầu riêng.
– Đi lựa đi mày.
– Dạ…!Dạ…
Quán cơm dành trọn lầu Hai và gác lửng làm phòng ở cho nhóm đàn em giỏi nghề bếp của Ba Beo.
Chỗ ngủ của Nguyễn Quốc Dũng nằm ở gác lửng, đầu giường kê sát vách trái và cạnh bên có cửa sổ đụng trần nên không gian khá thoáng đãng và không bị hôi mốc.
– Thím Bảy, lại dọn chỗ cho em nó nè!
Một người thanh niên có mái tóc dài búi gọn bước ra từ trong bóng tối.
Thì ra chỗ mà anh ta đứng nãy giờ là tủ âm tường.
– Để chị dọn cho cưng.
– Má Bảy.
– Người tài-xế mi gió người thanh niên tóc dài.
Chưa đầy mấy giây mà đã bị người thanh niên ấy phang nguyên cái gối vô mặt.
Ba Beo ngó Quốc Dũng mà cười khổ:
– Thằng Bảy, tao hổng biết nó là “Chị” hay “Anh” nữa.
Lại thêm thằng khỉ gió kia chuyên gia bày trò chòng ghẹo nên đâm ra tao ngu luôn.
– Tao là “Chị” hay “Anh” thì mày cũng phải biết ơn tao vì đã giúp mày quán xuyến tụi nó.
Người tài-xế pha trò:
– Vậy mốt tao sẽ soạn bài “Nhớ ơn chị…”
Bảy Tửng cũng không vừa:
– Tao nhét nguyên trái lê-ki-ma vô họng mày bây giờ.
Thằng mặt xệ.
– Có mua cho tao ăn hả?
Tư Rằn Ri hí hửng chạy xuống nhà bếp lấy lê-ki-ma lên ăn.
– Cái trái gì mà mùi thúi muốn chết.
Tao đòi chặt hoài mà má tao tiếc công trồng nên không cho đốn.
Thành ra, nó ở lại, còn tao khăn gói ra đi.
Nhìn vẻ mặt của Quốc Dũng là̀ Ba Beo hiểu nó không hiểu ất giáp gì rồi, gã mệt mỏi giải thích:
– Hễ vô mùa lê-ki-ma, là thím Bảy dọn tới đây lánh nạn.
Hết mùa, má mới về nhà cha mẹ.
Người tài-xế có cái điệu cười nửa miệng ấy đang gọt trái lê-ki-ma.
Bảy Tửng đeo bịt mặt đã bôi sẵn dầu gió để át thứ mùi khó chịu đó.
– Ngon vậy mà mày chê.
Ngu.
Bảy Tửng thôi đôi co với thằng bạn thiết.
Anh lại giường của Quốc Dũng mà giúp cậu ta sửa soạn chỗ ngủ, ở đó có một cái tủ âm giường nên cậu ta có thể kiểm soát được đồ đạc của mình.
– Trời ơi, tha cái gì về nữa vậy? Đ* má thằng này thì lê-ki-ma, mày thì sầu riêng, sao không đem trái quách hay trái mít về cho đủ bộ Tam Sên đi mấy con?
Tư Rằn Ri đổ quạu:
– Mày chịu hổng nổi cái mùi thì lấy tóc quấn mặt đi, ngủ ngon liền hà, mà chết ngợp ráng chịu nghen?
Nhân lúc hai người gấu ó với nhau, Ba Beo thúc Quốc Dũng nhanh chân đi tắm gội, kẻo lát nữa hết cơ hội.
Bấy giờ Quốc Dũng mới có dịp quan sát gian gác lửng: Ở đây có năm cái giường ngủ, cái của y là cái cuối cùng được kê sát vách trái, cái giường đầu tiên thuộc về Bảy Tửng; giường nào giường nấy đều có ngăn chứa đồ.
Trong phòng treo hai cây đèn huỳnh quang thước hai rất sáng nên thường thì họ chỉ sử dụng dàn đèn Led.
Trần nhà không vương một xíu mạng nhện hay bụi bám, ắt hẳn bị thím Bảy chửi riết nên ai nấy phải tự giác lau dọn.
Sàn nhà lót gạch men Bạch Mã nguyên khối rất đẹp nhưng dễ trơn.
Lối cầu thang lên – xuống nằm cạnh nhà vệ sinh, nhưng cửa cầu thang lại nằm dưới chân giường của Bảy Tửng, thành ra Bảy Tửng phải dựng một tấm bình phông ở đó để tránh đang ngủ bị mấy thằng bạn cù lét hai chân.
Ngả lưng trên cái nệm làm từ mút dỏm, Quốc Dũng không sao êm lưng để mà ngon giấc được.
Y đành ngồi dậy và dựa lưng vô đầu giường.
Y không có tai nghe nên không thể mở điện thoại lên coi.
Phòng này toàn “động vật hoang dã” nên y không dám mạo phạm ai.
Ngồi không một hồi đâm ra nghĩ ngợi đủ điều, Quốc Dũng chẳng thể nào hiểu nổi vì lý do gì mà đám bạn lại bán y sang Cam-Bốt.
Y chơi rất đẹp với tụi nó mà, chung chi bao giờ cũng đủ hết.
Thậm chí vì tụi nó y đã cãi lời ba má không biết bao nhiêu lần, bởi ngu ngục tin rằng làm hòa với đấng sinh thành thì dễ – chứ làm hòa với bằng hữu thì khó.
Và giờ đây, tụi nó đã chơi y một vố đau điếng như bò đá…
Mãi đến hơn hai giờ sáng, mệt quá, Quốc Dũng lịm đi hồi nào không hay.
Trong cơn mê, y mơ thấy mình về lại ngôi nhà khang trang của ba má và được ba má tưng tiu, chiều chuộng như trước đây…
…
Trời vừa tang tảng sáng, Bảy Tửng và Tư Rằn Ri đã vực Quốc Dũng dậy để xuống phụ bếp.
Hai người tính giao phần việc đập hột gà rồi tách riêng lòng trắng với lòng đỏ ra, lặt rau, sắp xếp và lau chùi bàn – ghế ngồi, lau nhà trên, quét sân trước và đổ rác cho cậu ta.
Sau khi nằm nướng thêm nửa tiếng, Quốc Dũng mới vào phòng tắm vệ sinh cá nhân và thay sang đồng phục của quán cơm.
Vừa làm vừa ngáp ngắn ngáp dài.
Ở sảnh trước của quán cơm, đã thấy một người ngồi nướng thịt, ba người sắp đồ bổi vào tủ kiếng, một người kiểm tra phẩm chất của thực phẩm làm từ đường – bột như bún, bánh mì, hủ tíu,…, hai người lo canh nồi cơm và nồi canh, một người đang tính sổ sách và một người đang quét sân soàn soạt.
– Dũng.
– Dạ?
Không biết ai sai biểu mình nhưng Quốc Dũng vẫn cứ chạy te te lại đó.
– Phụ sắp bàn ghế và lau bàn ghế cái coi.
– Dạ, này thì em làm được.
Người đàn ông có đôi mắt dài và hơi xếch ấy ngó xuống đôi bàn tay dán băng keo cá nhân chi chít của thằng tiểu đệ mà hỏi:
– Mới vô mà sao thẹo đầy tay vậy?
– Ôi, nó xuống phụ bếp với tao với thằng Tư mà thành ra dzậy đó.
– Tệ gì dữ dạ mày?
Quốc Dũng chỉ biết gãi đầu cười gượng.
– Phải công nhận mày giỏi thiệt, đứt hết hai bàn tay luôn.
Trở xuống nhà sau, Quốc Dũng xin được thử bào hành.
Bảy Tửng liền chấp thuận, rồi lựa trong mớ dao bào con dao bằng nhựa nguyên khối và chỉ có mỗi phần lưỡi là bén để giúp tên hậu đậu ấy đứt tay ít hơn.
Quốc Dũng bắc cái ghế con ngồi dưới gốc bưởi Tân Triều mà bào mấy bó hành.
Mới năm giờ sáng mà chim chóc đã tíu tít gọi nhau khắp nơi.
Mây sớm ưng ửng hồng.
Nền trời lam nhạt phơn phớt nắng.
Những giọt sương đêm hãy còn đọng lại trên nhành cây, tán lá và cỏ hoa.
Trên những chiếc ghe vẽ hoa văn đầu mui trấn cơn sóng dữ, những cần-xé đựng đầy rau cải – trái cây, bông – kiểng,…!đua nhau tranh sóng với đám xà-lan, đò máy, vỏ lãi,…!lớn xác; âm thanh khua nước của từng chiếc làm dậy vang mặt sông buồn hiu, uể oải.
Đã lâu lắm rồi, y mới chịu ngồi bình tâm thưởng lãm cảnh sắc bình minh; thường thì giờ này y đang vùi trong chăn êm nệm ấm hay đang vục mặt vô bàn mà sát phạt bài với những kẻ ghiền “tứ đổ tường” như mình.
Tay của y vẫn cứ bị đứt, nhưng y không còn than vãn nữa, y đã chấp nhận đổ máu để học được cái nghề chân chánh.
– Bào hành được rồi đó.
– Bảy Tửng vỗ vai Quốc Dũng mà khen ngợi thật lòng.
Rổ hành dính vài giọt máu của Quốc Dũng.
Cọng hành sợi nát sợi dày.
Nhìn thôi là không dám rớ tới, chứ đừng nói chi là đem đi chế biến.
Tư Rằn Ri càm ràm:
– Dính máu của mày, sao tao dám làm món cho khách ăn?
Quốc Dũng buồn bã trình bày:
– Vậy thôi để đó, trưa nay em chiên với trứng ăn cơm.
Đúng sáu giờ rưỡi, quán cơm chính thức mở cửa.
Bây giờ đương vào Hè nên không có ai mặc đồng phục trường học tới ăn, hầu hết học sinh – sinh viên mặc thường phục đơn giản và hơi mỏng một xíu.
Những hành khách ghé “phòng chờ” ngồi đợi xe lăn bánh; có người nhịn ăn để tiết kiệm chút đỉnh tiền, cũng có người là mối quen của bến xe nên thoải mái lại ăn cơm thiếu.
Những đứa trẻ và cụ già ôm xấp vé số vào quán chào mời người mua bị Tư Rằn Ri ngăn lại, anh xin họ hãy ở ngoài quán mà đợi và bán chứ đừng đi vô trong làm phiền thực khách; vậy là họ chỉ loanh quanh trong khu vực “phòng chờ” và sân trước, dù rằng rất muốn được bán thêm vé.
– Ngày nào tụi tao cũng nuôi cơm “đội quân vé số” này.
– Ba Beo vừa nói vừa tính tiền cho khách mua cơm đem về.
– Sao chịu nổi anh?
– Kệ, “mình ăn thì hết, người ăn thì còn”.
Quay qua quay lại cũng tới giờ nghỉ trưa.
Y hẹn, Quốc Dũng đem mớ hành thấy ghê quậy với hột vịt và nước mắm rồi chiên lên ăn cùng cơm.
Đó là món ăn đầu tiên mà y tự chế biến.
Có vị máu của y nên thơm ngon lạ kỳ.
– Mày nghĩ sao về việc bị đánh hội đồng?
– Nếu mày thắng, mày là phạm nhân.
Thua là nạn nhân.
Còn cãi thành tù nhân.
Chưa kịp bình luận lời nào, Quốc Dũng đã bị Ba Beo cặp cổ hỏi về cảm nhận ngày đầu tiên đi làm.
Y ngượng nghịu than khổ và khó quá.
– Chén cơm đến từ đồng tiền sạch và công việc lương thiện bao giờ cũng vất vả gấp bội.
– Vậy sao anh lại không ngăn cản những cô gái đến đây bán dâm?
– Tụi nó đã muốn thì có Trời mà cản.
Đàn bà – Con gái đàng hoàng, đứng đắn dẫu bị dụ cách mấy cũng kiếm chước khước từ và tránh xa cái đám ma-cô chăn dắt.
Quốc Dũng ồ lên, ra chiều ngạc nhiên dữ lắm.
– Thành ra tao đại kỵ cái đám làm đ* mà về quê biểu mình đi làm công nhân.
Mình đã dám làm thì mình phải dám nhận.
Loay hoay cả buổi rồi cũng hết ngày.
Ba Beo muốn tưởng thưởng cho sự “Vượt lên chính mình” của Quốc Dũng nên đã khao y một chầu lẩu lá khổ qua rừng và chim cút chiên bơ.
Nguyên một ngày trời làm lụng cực nhọc nên giờ Quốc Dũng ăn không thấy ngon, nhưng phải ráng nuốt để “Đẹp lòng người yêu”.
Hèn gì mà y cứ thấy ba mẹ ngồi vào bàn ăn với sắc mặt chằm vằm, mệt vậy sao nuốt trôi nổi chớ?
Từ cái loa kẹo kéo, tiếng hát Duy Quang trong bài bài “Gởi người em nhỏ” nghe thật dễ thương, nhạc sĩ Châu Kỳ phổ từ thơ của thi sĩ Vũ Bình Thư.
Chủ quán thương tình hai ông – cháu nên nhượng cho một góc quán để bán buôn.
– Ăn kẹo kéo không?
Quốc Dũng chợt nhớ đến phần thưởng ngọt ngào mà má đã đề ra năm nào.
Mỗi bận được điểm cao hay thầy – cô khen thưởng, má sẽ mua cho y cây cà-rem, xấp bánh chỉ tơ hồng, mấy cây kẹo kéo ngọt ngay,…!Kể từ ngày có Internet, y được thấy nhiều điều mới lạ và thú vị hơn, nhưng cũng bắt đầu từ lúc đó y không còn coi trọng bánh trái mà má mua cho nữa…
– Biết thương má mày rồi hả?
Quốc Dũng sụt sùi gục gặc đầu.
…
Ít bữa sau, Ba Beo đưa Quốc Dũng tới cuộc đất mà đôi vợ chồng Bắc Kỳ ấy bỏ lại để dạy cậu ta làm vườn.
Trước lúc bắt tay vào việc, Ba Beo biểu Quốc Dũng quỳ xuống thắp nhang cho Cậu Nhỏ.
Rồi gã mới chắp tay mà lầm rầm khấn vái Cậu cho phép người trai này được bước vào đây làm lụng và học tập.
– Sắp mâm trái cây lên dĩa chưng cho tao.
– Dạ.
Vì Cậu là trẻ em nên Quốc Dũng thấy anh Ba Beo mua rất nhiều mè xửng, thèo lèo, cứ* chuột, kẹo bắp, mứt mãng cầu, mứt chuối và một số loại quà vặt khác.
– Cậu đây tên chi vậy anh?
– Cậu họ Vệ, tên thì không rõ vì người làm vườn sơ ý làm mẻ tấm bài vị.
Nói đến đây, Ba Beo hối Quốc Dũng mau theo mình lại kho chứa nông cụ.
– Giờ tụi mình chơi trò đố vui có thưởng nghen?
– Thưởng tiền hả anh?
– Ờ…
– Vậy thể lệ sao?
– Hễ mày làm được cái gì thì tao cho mày một trăm xài chơi, chịu hôn?
– Dạ chịu.
– Mày làm vườn, làm bếp, sửa đồ điện, sửa xe, thay bóng đèn, hút bụi và lau chùi đồ điện,…
Quốc Dũng gãi đầu cười gượng gạo.
Ba Beo nổi xung lên mà nói:
– Tao biết cái này mày làm được nè.
– Làm gì anh?
– Làm tiền má mày.
– Kệ tui! Mắc giống đách gì xía vô?
Ba Beo xán Quốc Dũng một bạt tai đau điếng:
– Bả thì mày dám làm hùng làm hổ, còn tao thì cụp cổ cong đuôi chạy có cờ.
Rồi gã trai giang hồ đó nạt thằng tiểu đệ đi theo mình tới kho nông cụ.
Phụ bếp mới được ba ngày mà tay của Quốc Dũng như luyện kiếm ba năm.
Vết thương sâu đến độ y không thể nào cầm bất kỳ món nông cụ nào được.
Y tủi phận chực khóc, nhưng sợ bị Ba Beo đánh nữa nên ráng dằn lòng ngậm lệ.
– Chừng nào tay mày liền được một chút, tao dắt ra sau hè dạy bửa củi, cuốc đất, ương cây và phơi miểng gáo.
Bữa nay làm quen với mùi đất mùi đai thôi.
oOo
Vệ Thu phải về Mỹ để thu xếp vụ thuế má, còn Vệ Thương vẫn còn nán lại Đà Lạt, nên chuyến đi lần này vắng bóng hai cha con.
Nguyễn Quý Sinh, Phan Huy Tường và Vệ Giản cũng lót tót đi theo.
Người cầm lái là Trần Kim Thương; hay tin mối tình đầu đi cùng nên chú muốn làm tài-xế để khoe tài với người ta.
Bữa nay Hoàng Lan mặc cái áo làm từ vải jeans màu xanh nước biển có kiểu dáng cụt tay và quần jeans denim bạc phếch.
Dầu cô có ăn bận kín đáo cỡ nào đi chăng nữa, thì nét đẹp hình thể của cô vẫn phô bày rõ mồn một.
Đáng lẽ cô đã làm người mẫu, nhưng vì chỉ cao hơn mét bảy vài phân nên cô không thể cạnh tranh nổi với những cô gái khác, thành ra cô an phận làm nhà thiết kế thời trang.
Ngôi tịnh thất vẫn im lìm giữa bốn bề núi non tráng lệ và cỏ cây xanh thắm.
Một nhóm chó hoang đang nằm trốn nắng dưới bóng mát của tàng cây bồ đề, sala và sanh.
Một bầy sẻ nhỏ đang nhặt nhạnh những vụn bánh ngọt rải dưới gốc cây xoài, con nào con nấy ú ì và có sắc lông bóng mượt.
– Má với Lan vô trong nhà nghỉ chân đi.
Để con đi kiếm thằng Út với mấy Thầy.
Phan Huy Tường có ý muốn hàn huyên tâm sự với cha ruột nên xin phép đi chung với chú Thương.
Riêng Vệ Giản và Nguyễn Quý Sinh thì xin kiếu, hai cậu hãy còn lâu lư sau một chuyến xe đường trường.
Xuyên qua cánh rừng thốt nốt vô chủ, men theo những vách đá rêu phong phủ đầy dây leo của loài sơn mộc, thì sẽ thấy cái vũng nước thiên nhiên; từ chỗ này đi thêm chừng vài trăm mét nữa là sẽ tới Chánh Điện.
Nhờ sự mù đường của chú Thương mà hai người đã kiếm được nhóm Tăng sĩ.
Châu Lợi, Thủy Diệu và Hoàng Kỳ đang múc nước tắm ở cái lu đặt dưới cửa hậu của hang động.
Người nào người nấy đều cởi trần và quấn một lớp vải cà-sa che thân dưới.
– Í trời ơi!
Châu Lợi nhếch miệng cười:
– Thấy tụi tôi đều có hình xăm nên ngạc nhiên sao?
Chú Thương sượng sùng cười gượng:
– Ph…!Phải…
Châu Lợi từ tốn giải thích:
– Trong quá khứ, chẳng có ai trong số tụi tôi là hiền hậu hết.
– Vậy sao không xóa hình xăm?
– Chúng tôi để đó như một lời nhắc nhở mình đừng phạm sai lầm như hồi trẻ.
Châu Lợi thì để nguyên con rồng trên lưng, hai ông Tăng ngoại quốc kia thì xăm chữ chi – hình chi chú Thương nhìn mà hoa cả mắt.
Hoàng Kỳ cười hỏi:
– Còn anh? Xăm cái đầu sói ở đâu?
Chú Thương sờ lên bắp tay trái của mình mà cười đáp:
– Ở chỗ thằng đàn em.
Nói vài lời thưa gởi với ba người bạn đồng tu với cha mình xong, Phan Huy Tường chắp tay xin phép từ giã để đi tìm ông.
Theo như lời chỉ dẫn của Thầy Lợi, ông đang nấu thuốc Bắc với Thầy Lâm ở cửa trước thạch động.
– Có cô kia đi lên đây nữa phải không? – Vừa hỏi, Châu Lợi vừa lấy mảnh cà-sa cũ lau mình mẩy.
Chú Thương gật đầu.
Châu Lợi bèn hối hai sư đệ mau đắp cà-sa đàng hoàng lại và nhớ phải hạn chế đùa giỡn.
Về phần hai cha con họ Phan, không biết lấy gì làm quà cho con trai, Phá Vân chỉ biết dẫn con vô rừng hái trái cây tặng nó.
Chú nhớ mình từng thấy một cái cây sầu riêng sai trái, mong rằng người ta chưa phát hiện ra cái cây ấy.
– Con thích ăn sầu riêng không?
– Dạ thích.
Rất may cây sầu riêng đó còn nguyên hiện.
Những trái chín quá nửa nằm chết thúi xung quanh gốc cây, chỉ còn sót lại vài trái vừa chín tới hoặc còn ăn được.
Phá Vân đựng sầu riêng trong cái giỏ đệm đã chuẩn bị sẵn.
Được đâu năm trái.
Ngon – Dở ra sao thì hên – xui.
Trên đường trở về tịnh thất, Phan Huy Tường tíu tít kể cho cha nghe những chuyện đã xảy ra với mình trong thời gian gần đây.
Nó than rằng bản thân vẫn chưa thể phát âm tròn vành rõ chữ Anh ngữ, và dù đã ráng hết sức nhưng vẫn không sao theo kịp chương trình giảng dạy của thầy – cô.
Nghe vậy, Phá Vân an ủi nó rằng chú sẽ nhờ nhị sư huynh Trì Thương và cư sĩ Quý Tâm dạy kèm nó.
Nhìn nụ cười tươi tắn trên môi con mình, chú chạnh lòng tự trách chính mình vì đã khiến nó sa vào cuộc đời truân chuyên và bấp bênh học thức như vầy.
Chưa bước vào cửa mà hai cha con đã ngửi thấy mùi thơm của nồi nước lèo.
Số là bữa nay Hoàng Lan nấu món nui thập cẩm và đổ bánh pudding, với sự giúp đỡ của Hai Thương và mợ Hai.
– Anh Thảo sao không thấy vậy Thầy Vân?
– Trốn rồi.
– Chú Thương cất giọng trả lời thay.
Phá Vân chỉ cười giả lả cho qua.
Từ hồi hôm tới bây giờ chẳng ai thấy mặt nhị sư huynh, huynh ấy vĩnh viễn không muốn neo lại bến Duyên với bất cứ ai, kể cả là người thân của mình.
– Để tôi đi tìm đệ ấy.
Chỉ có Châu Lợi mới biết Thảo sẽ đi đâu và về đâu.
Nơi núi rừng cô quạnh, lác đác bóng du khách và dân địa phương lảng vảng lên đây, nhưng chim muông và loài thú đã thưa dần.
Thảng hoặc mới thấy một con thỏ hay con nai trốn sau lùm cây – kẽ lá.
Duy chỉ có bươm bướm và một số loài côn trùng, bò sát, lưỡng cư khác là không bao giờ thiếu; ngày hay đêm, thời tiết biến chuyển ra sao, thảy đều thấy mặt chúng hết.
Vén rèm dây bìm bìm lên, Châu Lợi nhè nhẹ bước chân vô “nhà” của bầy thỏ rừng.
Cánh thợ săn địa phương không phát hiện được chỗ này nên chúng sanh sôi, nảy nở rất mau.
Nhìn đâu cũng có những cái hốc, cái hang do chúng đào lên làm nơi ăn chốn ở.
Biết vậy, Hoàng Kỳ và Thủy Diệu bèn giăm những hột mầm cà-rốt, củ cải và sắn để chúng không lo đói khát.
Trì Thương đang ngồi tọa thiền trên mỏm đá nằm cạnh lạch nước trong văn vắt.
Ba con thỏ con đang đứng xung quanh chỗ chú ngồi.
– Về ăn cơm kìa Thảo.
Trì Thương mở con mắt phải nhìn huynh trưởng, rồi nhắm mắt lại và lắc đầu cười.
– Khuyên người ta cho dữ vô.
Giờ tới lượt mình lại ngại không muốn gặp.
– Bữa nay huynh bị cái Ngã Mạn của huynh dối gạt rồi.
Đệ đâu có ngại, chẳng qua…
– Thảo đang nghĩ gì trong đầu?
– Phiền.
– Gặp người thân mà phiền?
– Không phiền sao được? Thể nào lát nữa má cũng than thở “Nếu…!thì…” cho mà coi.
Thêm cô Lan phụ họa, còn anh Hai thì chù ụ như đi đưa đám.
Để cho đệ yên tĩnh được chừng nào hay chừng đó đi huynh ơi.
Còn hơn hai chục phút nữa mới tới giờ Thọ Thực song mợ Hai và Hoàng Lan đã bày biện bàn ăn sẵn sàng.
Để cho khoảng khoát và đứng lên – ngồi xuống thoải mái, Phú Lâm ngỏ ý nên trải chiếu ngoài sân.
Dù muốn dù không, Hoàng Lan vẫn phải bật cười mỗi khi thấy mặt Hoàng Kỳ.
Da ông này đen mun như con trâu, còn hàm răng thì trắng ởn như răng giả, sự tương phản quá sức ấy đã khiến vẻ ngoài của chú hết sức ngộ nghĩnh và đáng yêu, cộng thêm phát âm tiếng Việt đơn đớt và bập bẹ như trẻ thơ càng làm chú dễ thương vô cùng.
Ai biểu xấu thì không có người thương – kẻ mến? Hết thảy do tánh nết ấy chớ.
– Anh Thảo!
Trì Thương day qua nhìn huynh trưởng mà cười hỏi:
– Đó…!Thấy chưa?
Mặc dầu đã ở đây được nhiều năm nhưng hai ông sư ngoại quốc vẫn không thể ăn được lòng heo và huyết.
Nhìn trái cổ hai người nhợn lên nhợn xuống khi thấy cục máu đông mà vừa thương vừa bực.
– Hai cái tượng dời vô góc trong kia ngồi, lẹ lên.
– Châu Lợi nắm áo hai sư đệ mà kéo vô gốc cây Sala.
– Con với quý huynh đệ đồng tu không ăn huyết luộc.
Xin má đừng múc cho con.
– Vậy con ăn dồi được không?
Hoàng Kỳ rùng mình hỏi:
– “Dòi”?
Châu Lợi đính chính:
– Không phải là con trắng tươi, dún dún, bò bò dưới đất hay trong thịt thúi rữa đâu.
Mà là “Dồi”, chữ “O” có cái nón trên đầu.
Thủy Diệu tiếp:
– “Dồi”, đây là một trong những kiểu “Sausage Vietnam”.
– À, Một dạng “Xúc xích”.
Hoàng Lan cười khúc khích:
– Công nhận Thầy Kỳ dễ thương thiệt.
Chú Thương nãy giờ giữ im lặng vì đang múc nui cho mọi người.
Chú rất ghét kiểu người vừa làm đồ ăn vừa nói chuyện huyên thuyên.
Ăn đâu được vài miếng dồi chiên xắt mỏng vánh, Hoàng Kỳ vui miệng hỏi:
– Cái đen đen này là gì vậy mợ Hai?
– Máu heo.
Thủy Diệu và Hoàng Kỳ nhả ngay lập tức.
Châu Lợi nạt:
– Tôi mệt ông Phi với ông Âu này ghê luôn.
Hai ông hồi đó uống sữa bò, kỳ thực là máu bò chuyển hóa thành thôi.
Mợ Hai đưa dĩa dồi-sả chiên cho hai ông sư ngoại quốc, rồi ân cần mời:
– Cái “xúc xích” này hổng có huyết nè.
Hai con ăn đi.
– Dạ.
Hoàng Kỳ tức mình cùn quằn:
– Huynh trưởng gì đâu cứ nhằn sư đệ hoài.
– Coi lại nết ăn – ý ở của mình thì tự khắc biết tại sao tôi la hoài.
Hoàng Lan lại được phen cười sảng khoái.
Sau khi tiếng cười lắng xuống, cô Giáo dân xinh đẹp rụt rè hỏi:
– Mấy Thầy đây chắc không bị mắc tội sát sanh há?
Châu Lợi nhìn vô tô nui của mình mà cười và trả lời rằng:
– Không, chúng tôi Cộng Nghiệp sát sanh với người săn bắt, người mần thịt bán và người chế biến món ăn thành khoảnh cho mình thọ thực, chứ không có cái chuyện chúng tôi trốn được đâu.
Trì Thương tiếp:
– Uống nước cũng là sát sanh, vì nuốt các vi tế sống trong nước vào bụng mình.
Châu Lợi gật đầu:
– Đừng có mang tư tưởng, “Người ta làm cho mình ăn thì người ta mang Nghiệp, còn mình thì không”; trong Phật Giáo Nguyên Thủy không có cái chuyện khôn lỏi đó đâu.
Sau giờ thọ thực, Trì Thương quỳ rạp xuống đảnh lễ mẹ hiền, không quên chắp tay đặt trên khoảng giữa hai bàn chân bà.
Trong lúc đó, Châu Lợi khuyên cô Giáo dân rạng ngời như đóa mẫu đơn trong vườn Xuân; nữ thí chủ ấy nhìn đồ đệ của ông không chớp mắt:
– Dẫu có quen thân cách mấy, cũng đừng ăn hay uống những gì mà thầy tu đó đưa.
Lỡ có chuyện gì thì phiền lắm.
– Dạ, tôi hiểu rồi.
– Sau này, đừng lên đây một mình.
– Dạ.
Cái nhìn của Trì Thương lúc nào cũng trong vắt như một đứa trẻ, không bao giờ để tâm tới sự phì nhiêu hay cằn cỗi của một người khác giới, thường thì Hoàng Lan thấy anh Thảo hay bận tâm tới sắc diện và nỗi lòng của người khác giới hơn.
Chắc có lẽ nhờ vậy mà anh Thảo mới thấm thía được lẽ Vô Thường.
Sau giờ cơm, mợ Hai và Hoàng Lan rủ nhau đi đắp mặt nạ.
Trong lúc ngồi đợi mặt nạ dưỡng ẩm khô lại, mợ Hai nhờ Hoàng Lan mở Viber để bà tán gẫu với ông bồ Triều Châu.
Nhân đó, Vệ Thu quay tòa nhà mà mình đang làm chủ cho bà ghệ coi lác mắt chơi.
Vì bây giờ bên Mỹ là ban đêm nên tòa nhà vắng ngắt, chỉ có vài nhóm bảo an lâu lâu xuất hiện trong khung hình, người nào gặp ông cũng gật đầu thưa một tiếng.
Vốn liếng Anh ngữ của Hoàng Lan đủ giỏi để cô biết người đàn ông lớn tuổi này thực sự là sếp lớn của một tập đoàn, chứ không phải là nhân viên hạng xoàng mà phỉnh phờ mợ Hai rằng mình là thương gia giàu có.
Cô cũng thầm khen người thiết kế kiến trúc và chỉ vẽ sắp đặt đồ đạc thật hay; tuy cách bày trí vô cùng đơn giản và ít phô trương nhưng người xem vẫn cảm thấy không gian rất trang nhã, thanh thoát và sang trọng.
Riêng mợ Hai tự dưng cảm thấy bối rối vì bộ âu phục thuộc hàng thượng phẩm mà ông bồ đang mặc trên người, cộng với kiểu tóc vuốt keo láng coóng, chải chuốt điệu đà và dáng đi nghiêm nghị, không thị mà uy của ông; hết thảy đã làm cho bà nhìn ra khoảng cách quá lớn giữa hai người.
– “Cớ sao buồn này cưng? Cớ sao sầu hoài cưng?”
Mợ Hai đỏ lựng mặt:
– Khỉ gió…!Già mà còn cưng với kiết gì.
– Tôi ưa nghe bài “Kim” của Y Vũ do Đoàn Phi – Thùy Hương lắm.
– Ưa nghe hay ưa ngắm người đẹp vậy?
Vệ Thu nhún vai mà cười giảng hòa:
– Có đâu…
Rồi ông cười giả lả:
– Độ rày rộ lên phong trào peel da, bà muốn hôn tui mua về cho?
– Kem lột da thì nói kem lột da, tự nhiên “peel da” làm tui hổng hiểu gì hết.
Hoàng Lan e dè nhờ bác Ba mua giùm loại mỹ phẩm đó.
Tháng tới cô phải sang Đại Hàn tham dự tuần lễ thời trang nên muốn chỉnh trang sắc vóc.
– Muốn trị thâm nách với hôi nách phải hôn? Dễ ẹt hà.
Cắt đôi trái chanh, mỗi bên nách chà nửa trái, chừng hơn một tháng là đẹp hà.
Mà phải chà thường xuyên nghen? Không là bị lại đó.
Vệ Thu tức cười hỏi:
– Chà lúc nào?
– Trước khi đi tắm.
Chà xong rồi hẵng đi soạn đồ.
– À, để nước cốt chanh nó thấm phải hôn?
– Ừ, tắm liền nó sẽ không có thời gian phát huy tác dụng.
Mà nhớ, lúc nào tẩy hay cạo lông thì đừng có mà chà, rát thấy mụ nội luôn.
Hoàng Lan tò mò hỏi sao mợ Hai rành dữ vậy.
Chú Thương ló đầu vô cản:
– Hổng có kể à nha?
– Hồi đó, thằng Thương dậy thì, nó hôi như con vịt mới ra ràng vậy, nên tui bắt nó phải khử mùi bằng cách này.
Bây giờ nó hết siêng chà chanh, xài ba cái đồ quỷ hóa chất, tui rầy hoài mà nó hổng chịu nghe.
Chú Thương mắc cỡ bỏ đi một hơi ra sau hè ngồi chơi.
Làm đẹp xong, hai cô – cháu rủ chú Thương và xấp nhỏ viếng thăm Chánh Điện.
Cả hai người nữ đều muốn tìm Trì Thương nên a ý với nhau mà bày ra vụ này, dù biết Trần Mộc Thảo cố tình tránh mặt họ.
Uống đâu được vài ngụm thuốc sắc đắng nghét, Trì Thương ngửng mặt lên mà cười khổ với nhóm huynh đệ đồng tu.
– Tới nữa hả? – Phú Lâm cười trêu nhị sư huynh.
– Ừ.
Đang định đi tắm, mà thôi, thể nào cũng xuống kiếm tôi cho mà coi.
Châu Lợi đặt tay lên vai hiền đệ thay một lời trấn an.
Cảm thấy tay chân luống cuống, Phá Vân xuống nhà sau pha trà đãi khách.
Đợi đâu khoảng một tiếng, mẹ con mợ Hai, Hoàng Lan và ba cậu thiếu niên đã có mặt trong thạch động.
Trước lúc ngồi xuống chiếu, mẹ con mợ Hai và xấp nhỏ cúi đầu đảnh lễ Đấng Thế Tôn và hai vị thị giả của Ngài.
Hương trầm thoảng bay từ cái chén bằng đồng đặt trên án thờ; cũng từ nơi ấy, hai cặp bạch lạp thi nhau cháy sáng rực, ánh đèn của chúng hắt lên bức tường chạm bài Kinh Itipiso.
Tuy không có lấy một cây quạt, nhưng chốn này thoáng mát vô cùng.
Thanh Liên lên tiếng trước:
– Bây giờ, chúng ta nói về sự tương đồng và ngộ nhận giữa Bà-La-Môn và Phật Giáo.
Hoàng Lan cười rạng rỡ:
– Được nhe.
Tôi cũng có nhiều câu hỏi muốn đặt ra đây.
Thanh Liên trình bày:
– Trước hết, nói mấy tích truyện vui và dễ thương bên Ấn Độ Giáo.
Đây là những mẩu truyện lưu truyền trong dân gian nên có thể một vài tích không tồn tại trong Kinh sách của Ấn Độ Giáo hay được viết khác đi trong hệ thống Kinh sách chánh thống của họ.
Chú Thương giỡn:
– Có truyện nào chỉ cách dỗ vợ giận không?
Thanh Liên gật đầu cười:
– Bình sinh Nữ Thần rất hiền, nhưng khi biến thân thành Kali, Bà sẽ trở nên cuồng sát và hiếu chiến tột cùng.
Hễ Thần Parvati biến thân thành Kali, Chúa Shiva lại nằm xuống để mặc cho vợ Ngài nhảy lên người Ngài mà khiêu vũ điên loạn.
Chỉ có chồng Bà là Chúa Shiva làm cách trên mới giúp Bà bình tĩnh và trở lại nhân dáng như cũ.
Thì Thần Shiva chỉ cách dỗ vợ rồi đó.
Chú Thương đưa mắt nhìn Hoàng Lan mà le lưỡi rụt cổ:
– Tôi không phải Thần Thánh đâu, giận thì giận ráng chịu, chứ đưa thây cho nó đạp chắc nát đời trai.
Hoàng Lan dứ dứ nắm đấm lên dọa dẫm cha Hai.
– Mà, nếu vợ chồng nào cũng được như Shiva và Parvati thì chắc cõi Ta-Bà này sẽ tốt đẹp hơn rất nhiều.
Bên nào cũng lắng nghe đối phương nói, hễ đối phương nói sai hoặc đòi hỏi quá đáng thì ôn tồn khuyên lơn và cắt nghĩa cho hiểu.
Phú Lâm phát biểu cảm tưởng:
– Hình tượng Thần Shiva nằm xuống để mặc cho vợ mình giẫm đạp, theo tôi thấy đó cũng là một góc nhìn hay, tức là thể hiện sự hy sinh danh dự và cái tôi để bảo vệ cuộc hôn nhân và tình yêu đôi lứa.
Đây là thiển ý riêng của tôi, chứ không đúng với diễn giải của bên họ đâu.
Thanh Liên tiếp:
– Thành ra, chúng tôi vẫn tìm đọc sách của các đức tin và tín ngưỡng khác, hầu mong mình sẽ học được những điều hay ẩn chứa trong những trang sách huyền ảo và kỳ bí.
Châu Lợi nói:
– Thần Brahma trong Ấn Độ Giáo biểu trưng cho “Sự Sáng Tạo”, nhưng Ngài lại không tạo nên một thành phẩm nào ra hồn hết.
Tại sao lại như vậy? Vì Ngài cần “Kiến Thức”, thành ra Ngài đã được có một người vợ là là Thần Saraswati, biểu trưng cho “Nền Kiến Thức”.
Không có kiến thức, sáng tạo giỏi cách mấy cũng không làm được một thành phẩm nào hết.
Chú Thương gật đầu:
– Có kiến thức, có sáng tạo, chúng ta mới có phát minh.
– Đó là một bài học ẩn dụ trong cách ghép đôi giữa các vị Thần trong Tam Giới của Ấn Độ Giáo.
Phú Lâm thêm:
– Ngoài ra, Thần Brahma còn biểu trưng cho “Ân Điển” và vợ Ngài là “Sự Học Tập”.
Chú Thương xen vô:
– Nhắc mới nhớ, người đánh thức Đấng Thế Tôn là Phạm Thiên, tức Thần Brahma.
Theo thiển ý của tôi, thì chi tiết này có ý nghĩa là sự Trí Tuệ đã đánh thức Ngài ấy.
Thanh Liên mỉm miệng cười, rồi trình bày:
– Có một tác giả cho rằng hình tượng Bà Đen ở Tây Ninh là Nữ Thần Parvati trong hiện thân Kali.
– Trời.
Thanh Liên đưa mắt nhìn về phía cây bồ đề ngoài sân mà nói:
– Vốn dĩ vùng đất này chịu nhiều ảnh hưởng của Bà-La-Môn giáo và Văn hóa – Nghệ thuật Ấn Độ.
Tiếc rằng không còn giữ được bao nhiêu…
Châu Lợi tiếp:
– Ở Sài Gòn còn rất nhiều đền thờ các vị Thần của Ấn Độ Giáo.
Nếu có dịp, các vị nên đi thăm viếng cho biết và sẽ được hiểu hơn về tôn giáo này.
Hai cô – cháu nằng nặc đòi coi hình các diễn viên đóng vai Thần Linh.
Vậy là Thủy Diệu bèn giới thiệu phim “Sử thi Mahabharata” và một số bộ phim phóng tác dựa trên những tích truyện Bà-La-Môn.
– Công nhận người đóng vai Thần Vishnu đẹp trai banh nhà lồng.
Bôi phẩm màu xanh lên trông không khác gì bức tượng thường thấy ở đền thờ.
– Chúa ơi, đẹp gì đẹp dữ vậy!
Chú Thương mím môi cự:
– Đàn ông đàn ang gì mà đi đứng yếu xìu.
– Cha mới hổng đẹp bằng người ta đó.
Thanh Liên lắc đầu mà cười và giải thích cho anh Hai đệ tử hiểu:
– Thường thì tạo hình của Thần Vishnu là “phi giới tính”.
Tức đẹp theo kiểu không phân định được gương mặt này là của nam hay của nữ.
Cộng thêm hành vi và cử chỉ lúc Âm – lúc Dương nên chàng diễn viên này phải đóng theo đúng khuôn mẫu của Thần, chứ không phải anh ta điệu hay đồng tính.
Và thường thì những diễn viên đóng vai Thần Shiva luôn có hai cái má lúm đồng tiền rất sâu và dáng vẻ hơi già dặn, chững chạc hơn Thần Vishnu.
Còn Thần Vishnu, phần đông diễn viên có gương mặt hào hoa phong nhã, đa tình và hay tươi cười rạng rỡ.
Hoàng Lan nhờ Trì Thương phát âm giùm tên nam chính đóng vai Thần Vishnu vì đây là Phạn ngữ.
– Saurabh Raaj Jain.
Hoàng Lan lẩm nhẩm đọc theo.
Thanh Liên kể những mẩu chuyện vui mà mình đã gặp ở má và bạn bè của bà:
– “Quay gì nhanh dữ vậy? Coi mặt còn chưa có đã mà.” Nghe bà bạn của má cự nự mà ai nấy thảy đều ôm bụng cười ngặt nghẽo.
– “Ôi thần linh ơi, Chúa Shiva mà ông biên kịch viết thành tôn giả Ananda, hở một chút là mếu cái miệng khóc.
Shiva là vị Thần Hủy Diệt trong văn hóa Ấn Độ Giáo, nỡ lòng nào biến Ngài thành ra vầy?”
Hoàng Lan vui miệng bình luận:
– Cái lỗi “sến súa hóa” nhân vật hầu như nước nào cũng mắc phải.
Và thường thì khán giả bất bình nhiều hơn là ủng hộ.
Thanh Liên kể tiếp:
– Nhưng, ít có đoàn làm phim nào dám dựng tình tiết sau khi diệt loài quỷ Mẹ Kali đã nhảy lên trên bụng Chúa Shiva rồi đứng khiêu vũ, họ thường để nữ chính đặt một chân lên bụng nam chính và tạo hình giống kiểu tranh vẽ Mẹ Kali cầm thủ cấp của Chúa Quỷ.
Chú Thương lè lưỡi ghẹo:
– Chắc sợ nam chính lòi phèo nên họ không dám tái hiện lại cảnh đó.
Mọi người thi nhau cười rần rần.
Châu Lợi bổ sung:
– Có tích thì nói sau diệt loài quỷ và yêu thú, Mẹ Kali đã trở nên mất kiểm soát do uống hết máu của Chúa Quỷ, vì chỉ uống hết máu của ông ta thì ông ta mới chết.
Điệu vũ của Bà đã làm rung chuyển các thế giới, không ai ở Cõi Trời có thể chống chọi được với sức mạnh kinh hồn của Bà, thành ra Ngài Indra mới viện Chúa Shiva “dỗ dành” Bà.
Chúa Shiva mới đến chiến trường, rồi bình thản nằm xuống hấp thụ mọi chấn động mà Bà đã gây ra, do đó các thế giới mới được yên bình trở lại.
Đi loanh quanh chiến trường một hồi, đạp lên không biết bao nhiêu là cái xác, hốt nhiên Bà thấy mình đang đứng trên người chồng Bà, lúc này chồng Bà lấy tro bụi làm vải che thân do chấn động mà Bà tạo ra đã hủy hết trang phục của Ngài.
Vừa áy náy vì đã giẫm lên người chồng, vừa mắc cỡ vì thấy mình trót phô bày bộ dáng khó coi và lõa lồ với “anh ấy”, thành ra Bà đã mau chóng lấy lại bình tĩnh và hóa về nhân dạng đẹp đẽ, uy nghi mà hiền từ thường ngày.
Vệ Giản hỏi:
– Dạ, tại sao phải uống hết máu của ổng thì ổng mới chết vậy Thầy?
– Vì Thần Brahma đã chấp thuận lời cầu xin bất tử của Chúa Quỷ, khi ấy Chúa Quỷ là một Asura.
Thành ra hễ ổng đổ một giọt máu xuống thì sẽ có một phân thân của ổng hiện ra.
Do đó Mẹ Kali phải uống sạch máu của ổng thì ổng mới chết được.
Nguyễn Quý Sinh hỏi:
– Như vậy là Chúa Shiva yếu hơn vợ mình?
– Không phải, vì ông Chúa Quỷ đó đã giao kèo với Thần Brahma rằng, chỉ có người phối ngẫu của Chúa Shiva mới tiêu diệt được mình nên Mẹ Kali phải đích thân ra tay.
Xin nói thêm, trước đó có một Asura nữa, cũng cầu xin với Thần Brahma như trên, nhưng người có thể tiêu diệt được ông ta lại là con của Chúa Shiva, và lần này ổng bị con trai của Thần Shiva là Thần Kartikeya tiêu diệt.
Thủy Diệu góp lời:
– Mà, nói nào ngay, diễn xuất và vẻ đẹp của diễn viên phần nào đã cứu vớt phần kỹ xảo phim ảnh không tốt của bộ phim.
Hoàng Lan nhìn Trì Thương mà hỏi:
– Theo anh Thảo thì Vua Trời Indra có phải là “Đấng Sáng Thế” không?
– Cả Ấn Giáo và Phật Giáo đều phủ nhận vai trò “Đấng Sáng Thế” của Vua Trời Indra.
Thành ra nhiều người cho rằng Phật Giáo không công nhận Ngài Đế Thích là “Đấng Sáng Thế” để bảo toàn triết lý bên mình là trật lất.
“Đấng Sáng Thế” trong cách nhìn nhận của cả hai đức tin đều rất mơ hồ, khó hình dung và còn nhiều tranh cãi.
Mà cái tính chất bắc cầu này rất oan nghiệt, từ việc Đấng Thế Tôn phủ nhận vai trò Đấng Sáng Thế của Vua Trời Indra, rất nhiều người lái thành Phật Tổ chối bỏ và không công nhận sự hiện diện của Đức Chúa Trời, tức Đấng Jehovah hay Đấng Gia-ve bên Kitô Giáo.
Nên nhớ cái năm Ngài thành lập Đạo, Kitô Giáo chưa có hiện hữu ở xứ của Ngài, thành ra “Ông Trời” trong con mắt của Phật Tổ là Đế Thích – Đế Thiên chứ không phải là Đức Chúa Trời.
Hoàng Lan sững sờ.
Đúng là cô đã từng nghe nhiều người Kitô hữu nhận định như vậy.
Thanh Liên nở nụ cười dàn hòa:
– Muốn tìm hiểu về Phật Giáo, nên tìm hiểu luôn Ấn Độ Giáo.
Để phân biệt được đâu là Bà-La-Môn và đâu là Bồ-Đà-Dạ.
Chú Thương nói lảng sang chuyện khác:
– Còn Thần Ra…!Ra gì đó có tích truyện nào hay không Thảo?
– Thần Ra, là vị Thần Mặt Trời của Ai Cập cổ đại, anh Hai.
Chú Thương xẻn lẻn:
– Vòng về ông Thần – bà Thánh nào đó bên Ấn Độ đi mày.
Hoàng Lan nhéo tay chú Thương một cái rõ đau.
Không ghẹo anh Hai nữa, Trần Mộc Thảo kể:
– Hình tượng Thần Brahma bị Thần Shiva chặt cái đầu thứ năm cũng là một hình ảnh ẩn dụ rất hay và có nhiều nét tương đồng với triết lý Phật Giáo.
Khi Thần Brahma bị cái đầu thứ năm chiếm hữu, Ngài mất đi lý trí và trở thành kẻ ăn ngang nói ngược một cách đần độn.
Cái đầu thứ năm biểu thị cho cái chi mà ghê gớm thế? Cái đầu thứ năm được diễn giải là nơi chứa đựng Tham – Sân – Si, tức là “Kiêu căng”, “Ngạo mạn”, “Tự mãn”, “Ham thắng – Ghét thua”, “Tức giận”, “Cố chấp”,…!thành ra sau khi bị mất cái đầu này, Ngài đã lấy lại được bình tĩnh và có lại được lý trí cũng như sự thông minh, và quan trọng hơn là Ngài đã chấp nhận được Sự Thật mà người khác nêu ra cho mình thấy.
Chú Thương bật cười:
– Nhiều người bây giờ hễ nói đụng tới đảng phái hay thần tượng mà mình yêu thích là tự nhiên mọc cái đầu thứ năm ra liền.
Ai nấy thảy đều cười xòa.
Thủy Diệu kể về một tin mà mình từng đọc trên mạng xã hội:
– Có một nữ ca sĩ Hoa Kỳ nổi tiếng đã phải lên tiếng xin lỗi vì chụp bức hình tạo dáng theo kiểu Thần Durga – Một trong các biến thân của Nữ Thần Parvati, có thể là do tư thế và cách ăn mặc của cổ.
Bài viết đó được đăng trên một tờ báo Ấn Độ Giáo.
Chuyện xảy ra cách đây cũng hai năm rồi.
Hoàng Lan góp chuyện:
– Cũng mới đây thôi, một nữ ca sĩ Mỹ khác đã bị nhiều nhóm Kito Hữu và tu sĩ Kito chỉ trích vì nội dung MV.
Bà này đã mượn các biểu tượng của Kitô Giáo như Thánh Giá, Thánh Kinh, Bí tích,…!để làm hình ảnh ví von với tình yêu, ham muốn và sự tôn thờ của người nữ dành cho người cô ta yêu trong nội dung bài hát đó.
Chú Thương hỏi:
– “Church”?
– Ừm.
Rồi chú Thương lại hỏi:
– Nhiều người bên Ấn Độ Giáo cho rằng Đấng Thế Tôn là hóa thân thứ Mười của Thần Vishnu, em nghĩ sao hả Thảo?
– Chắc có lẽ vì Đấng Thế Tôn và Thần Vishnu có chung ba đặc điểm: Thứ nhứt, hết sức đẹp trai và rất dễ lôi cuốn người khác.
Thứ nhì, cả hai đều có tài thổi sáo tuyệt đỉnh; trước khi xuất gia, đi đâu thì thái tử Tất Đạt Đa cũng đem theo cây sáo, còn Thần Vishnu thì không bao giờ rời cây sáo của mình.
Cuối cùng: Cả hai bên đều được rắn thần che chở.
Song, họ quên mất rằng tánh tình của Đấng Thế Tôn và Thần Vishnu hoàn toàn khác nhau.
Nói cho rõ ràng hơn thì dù xuất hiện ở bất kỳ hình thức nào và đời nào, Thần Vishnu cũng hào hoa phong nhã, ưa trêu ghẹo người khác và hay cười hay nói; còn những tích truyện nói về tiền kiếp của Đức Phật Tổ đa phần đều diễn tả Ngài là con người đứng đắn, nghiêm trang, không ưa đùa giỡn – bỡn cợt và không có thói trăng hoa bay bướm như Ngài Narayan.
Nguyễn Quý Sinh thắc mắc:
– Biểu tượng thờ tự của Thần Shiva là gì dạ mấy Thầy?
Phá Vân trả lời:
– Shivalinga.
Tự tìm hiểu.
Hoàng Lan tra cứu xong bụm miệng cười tủm tỉm.
Mợ Hai đánh trống lảng:
– Có chuyện nào lãng mạn không Thảo?
Trì Thương chắp tay mà thưa:
– Kiếp trước của Thần Parvati là Sati, vì một bất hòa oan nghiệt với cha ruột mà Bà đã phẫn uất tự thiêu, trước lúc kết liễu cuộc đời mình Bà đã nguyền rủa bất cứ ai có mặt trong phòng lúc này sẽ bị chồng Bà là Thần Shiva giết chết.
Và lời nguyền đã ứng nghiệm sau khi Bà mất.
Nhưng, Thần Shiva đã nghe theo lời khuyên và can gián của Chư Thiên và Thần Vishnu mà hồi sinh tất cả.
Sau đó, Ngài đã bồng cái xác cháy đen của Bà mà đi lang thang vô định trong Vũ Trụ, hết ngày này qua ngày nọ, hết năm này rồi tiếp năm kia, rồi ngàn năm lướt qua, khiến cho sự cân bằng bị phá hủy do không có ai duy trì việc Hủy Diệt và Tái Sanh.
Bất đắc dĩ, Thần Vishnu phải chia cái xác của Bà thành 52 mảnh, mỗi mảnh rớt xuống một vị trí trên Trái Đấy; hiện thời bên Ấn Độ vẫn còn rất nhiều di tích là đền phụng thờ mảnh xác của Bà.
Thấy vậy, Ngài chìm trong thiền định, bỏ mặc thế giới muốn ra sao thì ra; nhân đó Asura bắt đầu lộng hành và tàn phá chúng sanh rất khốc liệt, chưa kể đến là truy bắt các Devi, Deva và thậm chí là cả Indra.
Tuy bỏ mặc mọi thứ, Ngài vẫn cắt cử 52 phân thân của Ngài bảo vệ 52 mảnh xác của vợ, thành ra lũ quỷ không thể nào chiếm đoạt được.
Trải qua một thời gian dài, rất dài, Ngài được trùng phùng với Bà, kiếp đó Bà là con của Thần Núi và được cha mẹ ban tên là “Parvati”.
Xin nói thêm, Thần Shiva chỉ có duy nhứt một người vợ: Kiếp đầu tiên là Shakti, vì một lời hứa mà đầu thai làm con của Nam Thần đó.
Kiếp thứ hai là Sati, vì lý do đã nói như trên nên mới có kiếp thứ ba.
Kiếp chót là Parvati.
Cả ba kiếp Bà đều là vợ của Thần Shiva.
Thanh Liên buông lời sau chót:
– Sự tương đồng giữa Ấn Giáo và Phật Giáo là đều tin có luân hồi và thiền định sẽ giúp con người “vượt xa hơn họ tưởng”.
Mợ Hai quyến luyến từ giã con trai Út.
Nó không còn cái thái độ gần gụi và dễ thương như hồi còn thơ dại.
Giờ đây nó đã “Đoạn Trần” thực thụ rồi.
Hoàng Lan nhìn theo bóng lưng của mối tình đầu.
Vẫn “Nghìn trùng xa cách” như cũ.
Cô nhớ hoài nhớ mãi cái nụ cười sượng sùng năm nào của người ấy, khi nghe cô khen ngợi người ấy hết lời.
Nụ cười đó đã ở lại với bản thể trần tục, không còn hy vọng nào được thấy lại nữa.
– Khóc hoài, khăn giấy nè chị Hai.
Người kéo Hoàng Lan thoát khỏi cơn mộng tưởng luôn là cha Hai.
Chú Thương nắm tay Hoàng Lan mà kéo cô đi xăm xăm về phía bìa rừng.
Biết người yêu cũ rất thích hương đồng cỏ nội nên chú đã nhờ Châu Lợi chỉ giùm một nơi hãy còn nguyên sơ và ít ai lui tới để đưa nàng đến ngoạn cảnh.
Một cánh đồng hoa dại trải dài gần một công đất.
Nào là cúc, sao nháy, xuyến chi, bồ công anh, thược dược, đinh hương,…!đua nhau khoe sắc phô hương.
Vài cánh bướm rập rờn quanh những cụm cây lớn và rực rỡ nhất.
Riêng bầy ong mật lại chọn những khóm bông nhiều phấn và nồng nàn thơm nhất.
Một cách rất bất ngờ, chú Thương mở bài hát “Mandolay” do Trung Hành trình bày, ông cũng là người đặt lời Việt cho ca khúc của nhạc sĩ Mark Avsec và đặt tên cho nó là “Khúc ca yêu đời”.
– Anh chắc không thể hy sinh và nuông chiều em nổi như Thần Shiva đã làm với vợ Ngài đâu, nhưng anh sẽ ráng thương và hiểu em hết mức có thể.
Hoàng Lan ứa nước mắt mà hỏi nhỏ:
– Anh đợi em được bao lâu?
– Cả đời.
Bởi anh biết Thảo vừa khôn vừa tốt hơn anh rất nhiều, em không thể quên nó sớm như anh mong đợi được đâu.
– Còn anh, anh vừa giỏi vừa có hiếu hơn anh Thảo nhiều.
Chú Thương nở nụ cười toe toét như đứa trẻ được cho kẹo.
– Hồi đầu em cứ tưởng Thầy Liên đồng tính.
Ai ngờ sau này mới biết Thầy ấy trung tính, tức là…!giống như đóa sen trong hồ không vương mang một xíu ái dục hay thiên lệch phái nào.
Thành ra, Thầy vừa là một người Cha, mà cũng đồng thời là một người Mẹ, có thể gỡ rối tơ lòng cho bất kỳ người nào.
Rồi đó, hai người yêu lầm lặng lẽ sóng bước bên nhau mà đi hết cánh đồng hoa dại.
Cái nón rộng vành bện bằng sợi mây không đủ để xoa cái dịu những tia nắng chiều hắt lên gương mặt diễm kiều của Hoàng Lan, khiến cô phải giơ tay lên cản bớt bên má phải.
Vậy là Trần Kim Thương phải cởi cái áo gió mà mình đang mặc ra rồi giơ lên trên đầu cô, mùi lăn nách mà chú xài vẫn nguyên hiện là loại mà năm xưa cô giới thiệu cho chú, tự nhiên cô bật cười khúc khích.
Ra khỏi cánh đồng là tới một khu rừng nguyên sinh, nơi đây chưa bị ai dòm ngó nên cây nào cây nấy đều thuộc dạng đại thụ và vô cùng lớn tướng.
Nhưng cũng vì còn ban sơ, thành ra thú hoang chọn làm nhà rất đông, đi tới đâu cũng thấy hươu, nai, hoẵng, thỏ, sóc, gà lôi, linh miêu,…!Vốn tánh nhát hít nên Hoàng Lan nằng nặc đòi quay trở ra, chú Thương dù rất ham thích khám phá song đành phải tiếc nuối ưng thuận theo.
Nhưng, như lạc vào mê cung, đi hoài đi mãi mà hai người không tài nào xác định được phương hướng để thoát ra.
Ứng dụng “La bàn” trong điện thoại bị lực từ trường bí ẩn nào đó làm cho nhiễu loạn; lúc thì nó nói phía trước là hướng Bắc, lúc lại báo hướng Đông.
Không có điện thoại nào xài được hết.
– Chết rồi, Hai ơi.
Chú Thương thở dài thườn thượt:
– Phải chi ban đêm là sẽ thấy chòm sao Bò Cạp rồi.
Nó luôn ở hướng Đông, Đông – Nam và chính Nam.
Họ quyết định ngừng bước mà ngồi nghỉ chân trên một tảng đá xanh rêu dưới gốc cây da râu ria xồm xoàm.
– Sadhu.
Chú Thương nhỏm người dậy hỏi:
– Thầy có phải là huynh đệ đồng tu với em tôi không?
Đoạn Trần chắp tay bạch:
– Thưa thí chủ, tôi là thầy của Trì Thương.
Pháp Danh của tôi là Đoạn Trần.
Mời hai vị đi theo tôi.
Hai con người trần thế chắp tay mà nói lời cảm tạ.
Trái với suy nghĩ của hai người, Đoạn Trần lại biểu họ đi vô sâu hơn.
– Ủa sao đi vô nữa? – Chú Thương sinh nghi mà hạch hỏi.
– Muốn thoát ra, phải đi tiếp.
Có những chuyện mình càng tránh né thì nó lại càng giày vò mình.
Đi thêm độ năm trăm mét, Đoạn Trần chỉ vô cái hang rất tối và thoạt trông sâu hun hút mà mời hai người đi đường tắt.
– Cuộc đời có nhiều ngã rẽ bất ngờ như vậy đó.
Nếu đủ lòng tin với con đường tắt ấy thì hãy vững dạ đi tiếp, còn không thì cứ chọn con đường quang đãng và an toàn nãy giờ.
Hoàng Lan lạnh giọng nói:
– Tôi không muốn đi tắt.
– Vậy tại sao thí chủ lại trao gởi tình yêu một cách vội vàng khi không có gì chắc chắn đó là Trần Mộc Thảo?
Hoàng Lan không có cách nào để giải thích hết.
Thuận theo ý của nữ thí chủ, Đoạn Trần dẫn họ đi tiếp.
Trời đã xế chiều, khu rừng càng lúc càng có nhiều âm thanh ma quái và thú hoang hiện diện.
Nỗi sợ hãi cứ thế dâng trào trong lòng Hoàng Lan, cô sớm đã hối hận vì không chọn đi tắt.
Về phần chú Thương, chú hăm hở theo gót Đoạn Trần, miệng lăng xăng hỏi hết cái này đến cái kia; thuở còn bé xíu, chú đã từng mơ được thám hiểm rừng Amazon, kim tự tháp Ai Cập hay “con đường tơ lụa” huyền bí, nhưng vì cơm áo gạo tiền và mẹ già nên chưa thể thực hiện được.
Đoạn Vân khom người bước qua một vòng cây sanh bị dây bìm bìm chiếm cứ.
Hai người kia lẹ làng nối gót theo.
Chỉ còn vài trăm mét nữa là sẽ thoát ra khỏi đây.
Không hẹn mà cả cô và chú đều quay đầu lại nhìn về khoảng rừng thâm u sau khi bước qua vòng cây sanh.
Những cột sương khói trắng lờ lửng bay lên như quân đoàn ma trơi vây bám lấy những cội cây già cỗi.
– Tinh Linh.
– Đoạn Trần mỉm miệng cười giải thích.
– Sao?
– Hộ Thần của vùng năm non bảy núi.
Bầu trời đang buổi hoàng hôn.
Nhưng hơi ấm và mùi nắng của ngày Hè hãy còn vương vấn khắp nơi.
Vừa hít căng lồng ngực hương vị tự do, hai con người trần thế ấy vừa chiêm ngưỡng quang cảnh dưới núi.
Đoạn Trần đã rút vào cái hang nằm khuất sau tàng cây hoàng điệp tự bao giờ mà họ chẳng hay.
– Hai.
– Hửm?
– Ông Thầy đâu?
Chú Thương hết quay đầu ngó sang hướng này lại đưa mắt dòm sang hướng khác.
Một bóng Tăng sĩ khác xuất hiện trong tầm mắt chú, chú hoảng hồn hoảng vía bắc tay làm loa la lên:
– Đi đâu vậy Thảo? Ê!
– Vô rừng hái thuốc.
Lan sợ rắn, rít, bò cạp, nhền nhện, thằn lằn, kỳ nhông, tắc kè, cắc kè,…!nên không đi chung được đâu.
– Cái thằng này, tao…
– Ở yên đó đi anh Hai.
Còn muốn về thì cứ gọi điện báo Thủy Diệu một tiếng.
Đợi cho anh Thảo đi khỏi, Hoàng Lan mới quay qua ghẹo cha Hai:
– Hồi nhỏ cha bị anh Thảo ăn hiếp hoài phải hôn?
– Ừ.
Nó ký đầu và nhéo lỗ tai anh suốt.
– Chúa ơi, vậy đứa nào anh – đứa nào em? Hèn gì giờ lớn anh cũng nghe lời anh Thảo hết trơn.
Chú Thương bùi ngùi kể:
– Nhưng mà nó thương anh lắm, mỗi lần bẫy chim sẻ được, nó liền đem về cho anh ăn.
Nó biểu, “Anh ăn cái này mau mạnh giỏi lắm.”
Tuy vừa trải qua một chuyến phiêu lưu khá đáng sợ nhưng Hoàng Lan vẫn muốn nán lại đây ngắm hoàng hôn và nghe gió hát.
Chú Thương đành nín tiểu mà ở lại cùng người thương.
Được đâu nửa tiếng, vầng dương rốt cuộc cũng khuất bóng.
Song Hoàng Lan vẫn còn muốn ở lại coi sao mọc.
– Em, ở đây, chờ anh.
Anh đi vệ sinh cái, rồi sẽ quay lại liền.
Hoàng Lan lè lưỡi, vạch mắt mà trêu cha Hai:
– Đừng có đi vô bụi rậm nghen.
Thần Rừng bắt giờ.
Đang lúc loay hoay không biết kiếm đâu ra chỗ xả bụng, chợt chú Thương nhìn thấy một tờ giấy dán trên tàng cây hoàng điệp, “Trong này nè.” Lần theo mũi tên vẽ trên giấy, chú bước như chạy vào trong hang động đốt đuốc sáng rực.
Đi xuống cái cầu thang đẽo từ đá nguyên khối, rồi quẹo phải chừng mấy chục mét, sau đó đi thêm một trăm mét nữa, chú đã thấy khu nhà vệ sinh công cộng do em mình và các huynh đệ đồng tu bỏ tiền xây cất.
Chú mừng còn hơn bắt được vàng.
Còn lại một mình Hoàng Lan, cô đã thấy được sao Hôm từ từ ló dạng trên nền trời chầm chậm tối.
Quanh vùng Cô Tô đã bắt đầu nổi đèn, nhưng chỉ lác đác vài ánh là sáng rỡ, phần còn lại là vặn vừa đủ để tiết kiệm chút tiền điện.
Cha Hai đi đâu mà đã hơn nửa tiếng vẫn chưa thấy quay lại vậy cà? Tự nhiên nghĩ đến chả, cô lại nhớ về bài “Tình mộng” do Elvis Phương ca, không rõ ai đặt lời Việt từ ca khúc “Lamour cest pour rien” của ca – nhạc sĩ Enrico Macias.
“…!Khi yêu em hồn ngây ngất
Xanh xanh tình yêu thứ nhất
Mang tên nhau hơn một lần
Tình yêu kia nhiều may mắn
Dù người ấy không hề quen
Một lần đến cho tình yêu
Rồi tình nói sao không nên lời
Xin yêu thương đến muôn đời…”
Đó là bài hát mà cha Hai đã ca hồi tỏ tình với cô.
Nhìn về phương Tây đã tắt ngấm ánh nắng, trái tim cô buồn thương vô hạn.
Cái ôm tội nghiệt lần trước với anh Thảo đã khiến cô vừa cảm thấy day dứt hối lỗi vừa làm cô cảm thấy thỏa mãn vô ngần.
Khi cô bị cả thế gian bỏ mặc, chỉ có một người dang tay ôm cô vào lòng mà dịu dàng cưng chiều, dỗ ngọt theo cung cách của một đứa trẻ tốt bụng.
Bất giác, cô mở điện thoại lên mà nghe nhạc phẩm “Người tình em yêu” do Ngọc Lan ca, nhạc sĩ Nam Lộc đặt lời Việt từ tình khúc “Mon mec à moi” của đôi nhạc sĩ Francois Bernheim – Didier Baberlivien.
“…!Xin cho tôi bay theo những đam mê lãng đãng trôi
Để cùng được sống với ai trong khung trời phiêu lãng
Xin cho tôi đi xa nơi thế giới bao nhiêu dối gian
Để cùng được sống với ai trong riêng một khu rừng muôn đời…”
Hoàng Lan gục đầu xuống đầu gối mà khóc tức tưởi.
Tiếng khóc của cô đã làm một người đang ngồi thiền sau tàng cây hoàng điệp không thể tĩnh tâm được, mà phải hướng mắt về phía cô và thì thầm một lời xin lỗi vì đã gieo mộng tưởng hão huyền cho cô.
– Mình xuống núi thôi, Lan.
– Trong “Cơn đau tình ái”, giọng nói của chú Thương không còn nét ấm áp và yêu chiều, thay vào đó là sự lạnh tanh như đang ra lịnh cho người yêu cũ
…
Đến tối muộn, Stephen Đoàn mới trở về tịnh thất.
Anh đã tìm thấy vị thầy lang chuyên bán các loại thuốc trị suy thận; người này là một cư sĩ thuộc Bửu Sơn Kỳ Hương phái, đây cũng là người đã cho nhóm Tăng sĩ thuốc phòng côn trùng cắn.
Trong lúc hâm lại nồi súp nui, Stephen Đoàn nghe thấy cuộc nhóm chuyện của nhóm Tăng sĩ sau hè.
– Tín đi đầu thú rồi.
Stephen Đoàn nghe thấy tiếng thở dài của Hoàng Kỳ.
– Nhưng, được hưởng án treo.
– Họ sợ Tín đi tù thì sẽ bứt dây động rừng nên tha bổng cho cậu ta.
– Cậu ta sao?
– Bị sang chấn tâm lý nên câm luôn.
Vì những người đồng nghiệp mà cậu ta tin tưởng nhứt đều đấu tố cậu ta với “kẻ chủ mưu”, không những vậy mà còn đổ trút hết mọi tội lỗi lên đầu cậu ta.
– Tín đang bị vu khống là hung thủ ở tòa tháp đôi sao?
– Phải.
Nói thêm được đôi ba câu nữa, nhóm Tăng sĩ “tan hàng”.
Chỉ còn lại Châu Lợi và Trì Thương ở ngoài đó, chàng Linh mục hiền lành nghe người Tăng sĩ tên Thảo nói rằng:
– Nhiều lúc huynh y hệt cha ruột của đệ.
Nhớ hồi đó mới lên đây ẩn tu, mỗi bận đệ thao thức không ngủ được – huynh lại ngồi kể chuyện thần thoại và cuộc đời của huynh cho đệ nghe.
– Vốn liếng Ấn Độ Giáo của tôi vẫn không khá lên chút nào.
Có cái nhớ, cái tầm bậy.
– Nếu như Đại Trưởng lão gốc Chàm còn sống thì chúng ta ắt sẽ rành rẽ hơn sự khác biệt giữa Phật Giáo và Ấn Giáo.
Có tiếng thở dài khe khẽ của Châu Lợi.
Stephen Đoàn chợt nhớ đến chuyện bên Đạo mình: Tin Lành và Công Giáo, đến nay nhiều người hãy còn mơ hồ về sự khác biệt và những điểm giống giữa hai hệ phái này, nói khan cả cổ mà bên Giáo và Lương hãy còn lơ tơ mơ.
Có lẽ anh sẽ về nói lại với người bạn đồng tu để cùng nhau tìm hướng giải quyết.
– Sadhu.
Châu Lợi thấy lửa vặn hơi cao nên lại gần chỉnh xuống, rồi ôn tồn chỉ cách luộc nui.
– Phải bỏ muối nữa hả Thầy?
– Phải, như vậy bột nui sẽ ít bị dính và ngon hơn.
Nói đoạn, Châu Lợi lấy muỗng hớt một xíu muối trong hũ rồi bỏ vô nồi.
– Chừng chín rồi, vớt ra rổ mà xả với nước lạnh rồi để ráo.
Có thể rưới chút dầu để ngừa dính và ngăn nát nui.
Trì Thương cười biểu:
– Trong nấu ăn, đại kỵ “dục tốc”.
Nhờ có sự “cứu giá” của hai vị Tăng sĩ mà ông Cha Phó thoát “bi kịch” ăn phải tô nui vừa mặn vừa nát.
Đây là lần đầu tiên mà anh tự tay hâm đồ ăn ngon như vầy.
Mà cũng phải công nhận cái cô Hoàng Lan và người thân của Trì Thương nấu ăn ngon ghê, món nào ăn cũng bắt ghiền.
Vừa chan nước mắm ớt vô tô nui, Stephen Đoàn vừa hỏi:
– Chuyện mà anh kể lần trước đó Thảo, hai chú – cháu đó sao rồi?
Gương mặt Trì Thương bỗng trở nên hoan hỷ tột cùng:
– Họ đã kết hôn với nhau.
Stephen Đoàn tròn mắt hỏi:
– Thật sao?
– Bịnh tình cô đó trở nặng nên gia đình phải tìm cách liên lạc với người đàn ông ấy để cứu mạng cổ.
Rốt cuộc, hôn lễ đã được diễn ra, và tụi tôi được mời đến làm Lễ cho họ.
Nói tới đây, Trì Thương đi lấy laptop để cho Stephen Đoàn hiểu rõ hơn.
Đến đoạn hát mừng, Stephen Đoàn biết tên một vài bài nên giới thiệu cho hai vị Tăng sĩ biết:
– Chú rể ca bản “Đừng xa nhau” của nhạc sĩ Phạm Duy; Duy Quang và Sĩ Phú ca bài này hay lắm.
Còn cô dâu thì ca bản “Xin mãi yêu anh” do nhạc sĩ Nam Lộc đặt lời Việt từ tình khúc “Let me get to know you” của ca – nhạc sĩ Paul Anka; về bài này thì không ai hát hay bằng Ngọc Lan, theo thiển ý của tôi là vậy.
Bỗng dưng, một giọt nước lăn dài xuống má phải Stephen Đoàn.
Hình ảnh chú rể gần năm mươi sánh vai cùng cô dâu chỉ mới ba mươi đã khiến cho trái tim anh quặn đau.
Nụ cười hạnh phúc của Xuân mỗi khi thấy anh hiện diện trước mặt nàng hãy còn vờn quanh tâm trí anh như bóng hồ điệp dưới trăng; ngoại trừ thân mẫu và các Thầy, các Cha ra, chưa có ai mừng vui khi nghe anh lại nhà họ chơi, họ ghét cha anh, rồi ghét lây sang cả anh vì vẻ ngoài của hai người quá ư giống nhau.
– Thầy Lợi.
– Sao?
– Hai người đó cưới nhau như vậy có sai không?
– Họ muốn lấy ai thì họ lấy, miễn sao không phải cùng chung huyết thống, tảo hôn hay giựt chồng – cướp vợ người khác là được.
oOo
– Tôi đang ở đâu vậy?
Trần Cảnh Chiêu đỡ người đàn ông ngồi dậy, không quên kê gối dựa lưng cho ông ta:
– Miệt thứ Cà Mau.
– Tôi đang ở trong tù trên Sài Gòn mà?
– Phải, chú ăn trúng chất thuốc ngưng tim tạm thời, rồi bị chúng dàn dựng thành hiện trường thắt cổ tự vẫn trên xà nhà buồng giam để cướp nội tạng và giác mạc.
Trong lúc đồng bọn của chúng “khám nghiệm tử thi” của chú, tôi và bằng hữu đã cứu được chú ra.
– Vợ con tôi đâu?
– Ở trỏng đó.
Thím Năm đang mần vịt ở nhà sau, còn con gái thím bị xích ở góc nhà mà coi hoạt hình Doraemon.
Trưa trời trưa trật mà không có một chút ánh sáng, bầu trời chuyển mưa đen kịt, gió lạnh thổi từng cơm vào nhà.
Cái bóng đèn huỳnh quang thước hai rọi sáng một cách gắt gỏng, chứ không dịu mắt như nắng trời.
Chú Năm lật đật lại gần con gái.
Sau cái ngày bị hại đời, nó tiêu – tiểu không kiểm soát, đã vậy còn mắc chứng sợ nước và rất ghét nam giới, cũng may nó chưa có ghét lây sang ông.
Mùi khai ngấy bốc lên nồng nặc, vậy mà vợ ông còn chưa thay đồ cho nó.
Pháp y Cảnh đang ở nhà trên viết báo cáo cho cấp trên.
Bác sĩ Tâm Lý mà họ chọn vẫn chưa đủ tin cậy để họ an lòng gởi đến chữa trị cho nạn nhân.
Nếu như không chữa trị cho tới nơi tới chốn, cô gái này sẽ phải sống kiếp điên suốt đời.
Gia đình làm mâm cơm cúng đất đai – Thổ Thần để tạ lễ cưu mang thân phận lưu lạc của họ.
Pháp y Cảnh ngồi ăn chung với chú – thím, còn cô gái kia thì bị nhốt trong phòng ngủ.
Tuy thím Năm nấu cháo thiệt khéo mà Cảnh Chiêu ăn chẳng thấy ngon.
Anh hãy còn bị ám ảnh những câu nói dâm uế thốt ra từ miệng cô gái ban nãy, đám khốn nạn đó đã bắt cô ấy phải nói như vậy, và giờ nó đã trở thành những cái đinh đâm thủng sự tỉnh táo của cổ.
Muốn thác loạn, sao không mướn đ* điếm mà lại bắt bớ con gái nhà lành người ta.
– Tạm thời chú đi chăn vịt, còn cô đây đổ rau câu và bánh flan cho căn-tin trường dạy nghề.
Thím Năm bặm môi, rồi hỏi:
– Tôi đi giao đồ thì ai ở nhà canh chừng nó?
– Sẽ có cậu Ba hoặc con cái của cậu đi giao đồ giùm cô.
Chú Năm gục gặc đầu:
– Như vậy ổn thỏa quá rồi.
Sau giờ ăn, cô gái đó được “tại ngoại”.
Đứa con gái của họ liền ra sau hè ngồi bệt dưới đất mà chọc chọc tổ kiến, ánh mắt ngây dại như đứa trẻ lên năm, đầu tóc lâu ngày không gội rối bù và bết gàu trông dơ không thể tả.
Dù trời đang vào Hạ, con nhỏ vẫn mặc đồ dày và khoác áo lạnh.
– Mỗi người giữ ba viên, hễ cổ lên cơn là cho uống liền.
Ngoài ra, chỉ được để ba viên thuốc hờ trong nhà, các loại thuốc khác phải cất hết trong tủ và khóa kỹ lại, nhằm tránh trường hợp cổ uống thuốc tự vẫn.
Thím Năm gục gặc đầu:
– Vậy là hóa chất gì cũng phải cất hết.
Ignacio Cường xuống sau bữa cúng chỉ độ chừng vài tiếng.
Anh đến đây làm Lễ Ban Phước cho gia đình nhỏ.
Con nhỏ thấy mình hôi tanh, dơ dáy quá nên mắc cỡ chạy vô nhà tắm gội và thay đồ mới.
Chú Năm e dè hỏi:
– Cha…!ăn được đồ cúng không Cha?
– Con không có nệ đồ cúng đâu chú thím.
Thím Năm bèn tất tả đi hâm nồi cháo, trộn gỏi bắp chuối và nêm lại chén mắm gừng.
Trong lúc đó, Ignacio Cường đi vòng quanh cuộc đất làm Lễ Ban Phước.
Ignacio Cường nghe thấy giọng hát của Hoàng Oanh trong bài hát dân ca Nam Bộ “Lý Lu Là” vọng ra từ chiếc ghe neo lại nơi bụi cây bần.
Cảm thấy có điều bất tường, anh dừng buổi Lễ lại và chụp lấy cây đòn vông dựng nơi hàng ba trước khi bước xuống kiểm tra.
Không có ai ở đó hết, ngoại trừ một trái bom hẹn giờ sắp nổ….