Bạn đang đọc Tiệm Trà Sữa Của Tôi Toàn Là Dân Nằm Vùng Hệ Liệt – Chương 169: Hồi Ba Mươi Cest La Vie C
Vì đã tới giờ đi phát cơm nên Manuel Ngô đành cắt ngang cuộc vấn đáp với Trần Cảnh Chiêu mà quay lại nhà thờ Hội Thánh.
Chàng pháp y cũng không cầm chân, anh cất giọng cáo từ hai cha con cùng Đạo và hẹn sẽ quay lại ăn cơm với họ.
Cha Thành thấy buồn tai “Đêm Mê Linh” do nhạc sĩ Văn Giảng phổ nhạc theo lời của Võ Phương Tùng, do Hoàng Oanh trình bày; một bài hát nói về Hai Bà Trưng rất hay:
“…!Ta cháu con dân Việt hùng
Nơi Mê Linh ta trùng phùng
Đồng lòng nguyện vẫy vùng…”
Thầy Dự bình phẩm:
– Một trong số những bài sử ca đã bị thất truyền…!
– Phần đông nhạc Tiền Chiến thuộc thể loại hùng ca, sử ca và trữ tình.
– Còn bài “Trưng Nữ Vương” của nhạc sĩ Thẩm Oánh nữa.
Và bài “Hát Giang trường hận” của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước; sau này ổng sửa lời và biến nó thành nhạc Đỏ với cái tên “Hồn tử sĩ”.
– Vì tư lợi mà thay da đổi thịt “đứa con tinh thần” của mình.
Hai cha con chấm dứt chủ đề âm nhạc mà xoay quanh chuyện Đạo – chuyện đời.
Thầy Dự nói trước:
– Hồi mới di cư vào Nam, bố con có ở đậu dưới Giáo hạt Hố Nai vài tuần, rồi dọn về Sài Gòn sống.
Kế đó lạc tới Giáo xứ Saint Pio.
– Vậy hả?
– Bố.
– Sao con?
– Bây giờ có cái câu “Những người yếu đuối về mặt tinh thần thường hay sùng bái, dựa dẫm và cầu nguyện thần thánh”, Bố thấy có đúng không?
– Vậy Cha hỏi con: Donald Trump có yếu đuối về mặt tinh thần không?
Thầy Dự lắc đầu.
– Trên đây chỉ là một trong vô số những câu nói phiến diện về đức tin.
Những người sợ hãi ma quỷ, sùng bái thần thánh và mê tín dị đoan không chỉ xuất hiện ở một số người yếu đuối, mà còn ở rất nhiều kẻ gian ác, điêu ngoa, xảo quyệt, bàn tay từng nhúng chàm và không ít người lắm tiền nhiều của.
Theo thiển ý của Cha, thì chính nhóm người ở giữa và sau cùng mới là thành phần đông đảo sùng bái thần thánh cực đoan, bởi vì họ muốn được thế lực siêu hình bảo vệ bản thân nhứt.
Ngừng lại để uống vài hớp trà cho bớt đau cổ, Cha Thành mới diễn giải ý kiến của mình tiếp:
– Con cứ để ý coi, hễ ai phản bác lại khi họ nói câu trên thì họ sẽ đưa ra những bản tin và hình ảnh dung tục của các Đạo – Giáo để chứng minh đức tin là xấu xa, vô dụng và một trò bịp bợm.
Đó cũng là một trong những lỗi ngụy biện thường thấy, ở đây là đánh tráo khái niệm, tức là người ta phản bác rằng câu trên là một kiểu quy chụp về những dạng người sùng bái thần thánh, thay vì nêu lên quan điểm tại sao mình lại phát biểu như vậy thì họ lại “cất công” đăng lên đủ thứ đường dẫn bản tin và hình ảnh để chống chế.
Mệnh đề của người ta là “Sùng bái thần thánh”, nhưng họ lại đá giò lái sang mệnh đề “Sự phạm giới của các Đạo – Giáo”, cho nên đây là một trường hợp ngụy biện đánh tráo khái niệm nhằm mục đích chống chế cho sự bất lực về mặt ngôn từ.
Ngoài ra còn có một kiểu ngụy biện nữa, đó là đưa lên những đường dẫn hoặc hình ảnh mê tín dị đoan của những người có Đạo.
Tại sao gọi là ngụy biện? Bởi vì họ không chứng minh được có bao nhiêu phần trăm là người yếu đuối nên mới sùng bái thánh thần trong những bản tin và hình ảnh này, chỉ biết quy chụp rất chung chung rằng hễ có biểu hiện trên là bị giống như họ nói.
Lập luận mà họ đưa ra đã bị “bể”.
– Bố.
– Sao con?
– Đáng ra Bố nên làm trạng sư, vì Bố giảng bài chẳng hay mà đi tranh cãi lại quá giỏi.
Không luận đúng hay sai, thiếu hay thừa, ở đây con chỉ đề cập tới khả năng diễn giải quan điểm của Bố mà thôi.
Cha Thành vỗ vai con trai, rồi cười nói:
– Với những người chỉ thích bới rác, đừng nên tranh cãi với họ tiếp vì họ sẽ “tra tấn” con bằng hằng hà sa số hình ảnh và bản tin.
Cũng vậy, với những người thích đem bản tin và hình ảnh tiêu cực bên nước ngoài vô cuộc tranh biện để chống chế mỗi khi có ai đó nhận xét về thực trạng đất nước, con đừng thèm bận tâm, bởi “Tuệ nhãn” của họ đã bị mù hết một con rồi.
Khi con rơi vô tuyệt lộ, đức tin và tín ngưỡng đúng đắn sẽ kéo con thoát khỏi đó và tiếp thêm sức lực để con làm lại từ đâu.
Trăng đã gần tròn.
Không còn bao lâu nữa là Rằm.
Tết Trung Thu năm nay chắc có lẽ chẳng khác gì những cái Tết mà cụ đã từng trải qua cùng với xóm giềng và người thân yêu của mình.
Trước lúc ghé nhà hai cha con ăn cơm tối, Trần Cảnh Chiêu đã mướn phòng khách sạn tắm rửa, gội đầu sạch sẽ và thay sang thường phục.
Anh còn đem qua một con gà hấp muối mua ở tiệm chú Tiều.
– Oa, ông bô nhà tôi bị huyết áp mà cậu “bưng” nguyên con gà qua cám dỗ ổng.
Trong lúc hấp lại con gà, Cha Thành kể lại một câu chuyện mà thuở nhỏ cha nuôi thường nhắc:
– Thật ra, ngoài khái niệm “Bắc 54” ra, còn có một danh từ nữa mà giới trẻ hiếm lòng biết, đó là “Bắc triều Nguyễn”.
Sau khi vua Gia Long – Nguyễn Phước Ánh thống nhất giang san, tình hình giao thông trong Nước đã bắt đầu thông thoáng và tương đối an toàn, cứ hễ đúng mùa gió Nam là người dân Đàng Trong lại thấy ở cửa sông cái những chiếc tàu lớn của người dân Đàng Ngoài đậu tấp nập ở đó.
Để vượt sông vô Nam, những người Bắc Kỳ đó phải rong ruổi trên mặt nước suốt mấy tháng ròng, và phó mặc bản thân cho gió trời đưa đẩy.
Cho nên nhạc sĩ Phạm Duy mới viết trong “Trường ca Con Đường Cái Quan – Phần: Vào miền Nam” rằng: “Nhờ gió đưa về, về miền gió chan hòa, thơm lòng đất phù sa.”
Nhiều người hay coi thường dân vượt biển mà không hay rằng rất có thể tổ tiên của họ cũng đã từng vượt sông tìm vùng đất lành.
Mà kể cũng ngộ, những người “Bắc triều Nguyễn” đó ở cố lì tới chết luôn, không về thăm quê cha đất tổ một lần nào hết.
Bà con chòm xóm cũng không nhiều chuyện hỏi, thành thử ra chẳng ai biết lý do nào đã khiến họ dứt áo ra đi…!
– Thứ cho con thất lễ vì đã cắt ngang lời Cha.
– Không sao đâu con, chuyện gì nói đi.
– Dạ, hồi nãy con có nghe thầy Dự đây từng ở Giáo hạt Hố Nai.
– Ồ không, bố ruột tôi ở Giáo hạt Hố Nai, chứ không phải tôi.
Lúc đó bố mẹ tôi còn chưa quen nhau thì lấy đâu ra tôi?
– Rồi chừng nào thầy mới chào đời?
– Ưm…!Nếu nhớ không nhầm thì khoảng đâu ba, bốn năm sau.
Bố tôi đi Lễ ở nhà thờ Đức Bà gặp được mẹ tôi nên thương nhau luôn từ đấy.
Sau đó hai ông bà dọn về Giáo xứ Saint Pio sinh sống cho đến ngày về với Chúa.
Hồi đầu cả nhà sống bằng nghề sửa xe đạp, sau này ông học được nghề cơ khí nên gia cảnh khá lên đôi chút.
– À…!
Một người đàn ông cụt một chân mượn mái vòm bông giấy làm nơi đụt mưa.
Ông mở máy lên nghe bài “Hát cho linh hồn anh” của nhạc sĩ Ngân Giang và do Giao Linh ca cho đỡ buồn.
Chiếc xe xích lô của thằng bạn thiết đã theo nó về miền miên viễn, ông giờ đây chỉ có một mình.
Nghĩ cũng mắc cười, nhiều người thấy ông ngủ trên chiếc xe này rồi tưởng ông chạy xích lô, có một giò mà đạp xích lô được thì cũng là đại tài.
Cha Thành thấy người lạ bị tàn phế thì ngậm ngùi thương cảm nên mời ông bạn trạc tuổi vô nhà ăn cơm.
Nhờ vậy mà hai cha con mới biết số tiền mà họ cho Giác đi về đâu.
Thầy Dự cảm thấy áy náy đôi chút khi đã nghĩ xấu về người thanh niên kỳ lạ đó, nhưng vẫn không yên tâm để anh ta lui tới nhà thăm Bố.
Cha Thành nghe chỗ ngủ duy nhứt của người khách đáng tuổi em mình bị lấy mất, cụ thương cảm hỏi ông có muốn ở lại đây không.
Cụ hỏi mà mắt cứ ngó thầy Dự hoài.
– Được vậy thì tôi mang ơn anh Hai với cậu đây quá.
– Thôi, ăn thì nhiều chứ ở có bao nhiêu.
– Thầy Dự cũng cười xòa.
Chỗ ngủ mà hai cha con sắp xếp cho người phế binh già là phòng ngủ của khách có nhà tắm và nhà vệ sinh riêng, nằm giữa phòng khách và nhà bếp.
Hành trang cuộc đời của ông chỉ có mấy bộ đồ trong – ngoài và một đôi giày bốt-đờ-sô cũ nát, cùng hai cái khăn tắm và một cái gối đã ngả màu vàng mốc.
Cha Thành bèn cho ông mượn gối nằm, mền, mùng; còn thầy Dự thì cho ông mang đỡ đôi dép sandal đã chật của mình, nghĩ cũng ngộ, người ta chỉ còn một chân nhưng ông vẫn phải đưa trọn bộ hai chiếc, và người ta vẫn giữ chiếc giày không bao giờ còn mang được bên mình hằng bao năm qua.
Trần Cảnh Chiêu ngoài mặt vẫn ngồi điềm nhiên ăn cơm, nhưng trong dạ đang âm thầm quan sát thái độ và hành vi của từng người.
Anh tra lại tin tức về vụ nổ trực thăng của con trai cố tổng thống Bàng Đông Quân thì thấy số thương – phế binh lên tới mười người, trong đó có một người bị “miểng” của trực thăng văng trúng làm đứt một cái chân – Người này là một sĩ quan Hải Quân cấp tá, nghe đâu đã chết vì bị nhiễm trùng huyết thanh.
Sắp xếp xong xuôi chỗ ngủ cho người dưng nhỏ tuổi, Cha Thành mời anh bạn ra ngoài này ăn thêm lưng chén cơm với gà hấp muối.
Người phế binh già cũng không khách khí, bèn khập khiễng bước lại ghế và chật vật ngồi xuống.
– Con sẽ giúp ông có một cây nạng thiệt tốt.
– Thiệt hả con? Cho ông cảm ơn trước nghen?
– Trước đây ông đóng quân ở đơn vị nào? Hải, Lục hay Không Quân?
– Hải Quân, ở Trường Sa.
Trần Cảnh Chiêu đưa cho người Hải Quân già đọc mẩu tin rất cũ nhưng hãy còn khối người quan tâm tới tận bây giờ.
Ông bùi ngùi thuật lại với đôi mắt ráo hoảnh:
– Lần đó Thiếu tá Vũ tính rước đoàn chúng tôi tới vịnh Cam Ranh, nhưng chúng tôi chưa kịp lên trực thăng thì Thiếu tá phát tín hiệu nguy hiểm.
Rồi Thiếu tá và các anh em Không Quân đã bị nổ banh xác khi trực thăng chưa nhấc mình lên khỏi mặt đất.
– Vậy là…!vậy là không phải nổ khi đang bay sao?
– Chúng đã nói dóc để bảo vệ…!
Chàng pháp y không cưỡng cầu.
“Để trả lời một câu hỏi” nan giải thì đừng nên dục tốc.
– Hằng bao năm qua, tôi phải giả chết để tránh bị truy sát bởi những người theo phe kẻ đó.
– Thế thì hay rồi…!Ở đây cũng có một người phải thay đổi tính danh để tìm đường sống.
Vừa gắp cái đùi gà vô chén của người em mới quen mấy tiếng, Cha Thành vừa cười hỏi:
– Ủa mà anh đây theo Đạo gì?
Ông cảm ơn, rồi nói nhỏ:
– À, tôi theo Phật Giáo Hòa Hảo.
– Chắc anh ở An Giang hén?
– Dạ, khúc núi Cấm đó anh.
Cha Thành cười hiền:
– Còn hai cha con tôi với bác sĩ đây theo Công Giáo.
Nói xong, Cha Thành bỗng dưng nhớ đến ca khúc “Lesperance morte” của Linh mục Aime Duval, rồi tự cười tủm tỉm một mình.
oOo
“8 nẻo đường thành” do Thanh Tuyền ca, nhạc sĩ Hoài Linh sáng tác bài hát này để tưởng niệm những nạn nhân của vụ thảm sát Tết Mậu Thân.
Bữa ni Năm Tường bật bản nhạc trên cho ôn anh nghe.
– Ôn ngoại ơi, ni cháu của ôn đưa ôn về miền đất Chúa, dù cháu biết ôn là một người vô thần, rứa thì cháu có lỗi với ôn không hỉ? Khi tự tiện đưa ôn về đay chôn cất…!Ôn ơi, ôn nghe cố nhạc sĩ nói gì chưa hả ôn? Cậm hèn chi…!
– Anh Năm buồn chuyện chi rứa?
– Tôi để ôn ở đay ha nê?
– Răng mô.
– Ôn tôi, theo lời của bà con gần nớ, là người “lá lay thiên tặc”.
– Là răng?
– Có nghĩa là khoái làm ra mấy chuyện nỏ ai ưa nổi.
Tám Khiêm nhìn Năm Tường mà thở dài thườn thượt.
Rồi chàng bác sĩ nghe anh Năm nói tiếng “nước Huệ”:
– Cha răng ôn tôi mần cái chi ác rứa? Cha răng rứa? Tôi đời mô mà ngờ ôn tôi lại ra ri…!
Tiếng hát của Hùng Cường trong bài “Như mộng hãi hùng” do bác tự sáng tác, cũng là một bài hát kính viếng hương hồn các nạn nhân Tết Mậu Thân, lại đưa hồn người trai xứ Huế về lại Cố Đô.
Không biết cảm xúc chuyện chi mà mắt anh nhòa lệ, rồi anh ngẩng đầu và chắp tay khẩn cầu Đức Mẹ từ bi rằng xin hãy rủ lòng thương xót cho đồng bào anh…!
Có người bị mắc bệnh xương khớp muốn nhờ Tám Khiêm hướng dẫn cách chữa trị nên anh đành thất lễ tạm ngừng nói chuyện với người anh đồng Đạo, mà quay gót trở vô nhà thờ ngồi đợi người đó tới.
Sau một hồi chuyển mưa vần vũ, rốt cuộc trời cũng gieo mưa xuống mảnh đất này.
Không biết có phải là đứa cháu của người đàn ông tội đồ ngút trời nghe lầm hay là không, mà bên tai chàng Mục sư “Huế xưa” nghe thấy bản nhạc “Lưu vong khúc của người Việt Nam” do nữ ca sĩ hải ngoại Thúy Hằng ca; nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng đặt lời Việt từ ca khúc “The Exodus song” của nhạc sĩ Ernest Gold, nội dung trong bài gốc viết về dân tộc Do Thái.
– Mưa rồi mà sao anh Năm còn ngồi ngoài nớ? Ủa, anh khóc hả anh Năm?
Võ Kiến Tường không đáp.
Anh ngồi dựa lưng vào gốc cây sứ trắng và ngẩng đầu nhìn những giọt mưa rơi xuyên qua tán lá ken dày, xanh đậm.
– Chúa ơi, hết chỗ ngồi rồi hả? Mi muốn bị biến thành cột thu lôi hử?
Nghe Tư Hiếu mắng một cách thảng thốt như vậy, Năm Tường bật cười khanh khách nhưng hai hàng lệ nóng vẫn không ngừng chảy xuống.
Sau khi phủi xong quần áo, anh đội mưa mà đi thẳng xuống gian bếp của nhà thờ để uống miếng trà nóng cho đỡ mệt người.
Mười Anh đang cộng sổ sách để tính toán việc thu chi trong chuyện nấu cơm miễn phí cho người cần; mỗi quý, y sẽ kết sổ một lần, xong đâu vào đấy sẽ gửi cho hội trưởng và nhóm kế toán của chương trình bếp ăn tình thương kiểm kê lại.
Vừa làm y vừa ngó nồi chí mà phù to đùng trên bếp; đây là món tráng miệng của bữa cơm từ thiện tối nay.
Sợ làm rộn trí em trai nên Năm Tường im lặng pha trà; thường thì anh uống trà đã hãm trong bình, nhưng mỗi khi cần uống liền, anh sẽ pha trà túi lọc.
Mưa càng ngày càng lớn.
Ánh đèn điện trong phòng không đủ làm gian bếp vơi bớt nỗi u ám do bầu trời đầy mây mù và gió lạnh mang lại.
Mười Anh đứng dậy để đi đóng cửa sổ và tắt bớt một cây quạt gắn tường.
Y ngẫu hứng hát một đoạn nhỏ trong bài “Về nơi đất hứa”; nhạc sĩ Phạm Duy đặt lời Việt từ ca khúc “The Exodus song” của nhạc sĩ Ernest Gold.
– Ban nãy cậu hát bài này hả?
– Đâu có.
– Cậm hèn chi tôi thấy lời khang khác.
Rồi anh Năm nói như thì thầm một mình:
– Lời kia bi thiết, não nùng lắm đa…!
– Em đã gởi cho Alain bản dịch tiếng Anh bài “Về miền gian nan” do nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang đặt lời từ giai điệu của nhạc Do Thái, coi như là quà mừng sinh nhật nó.
– Ai làm giùm cậu vậy? Tám Khiêm hay Chín Tân?
– Cả hai.
Thấy bữa ni em Mười ăn nói hơi kỳ kỳ, dưới kinh nghiệm của một điều dưỡng viên lâu năm, Năm Tường thôi không hỏi nữa.
Anh múc một chén chè mè đen, rồi ngồi xuống cái ghế cạnh cửa sổ và ngắm màn mưa lạnh căm.
Giọng hát ai oán đó lại vang lên trong tâm trí anh…!
– Ọe…!
Tiếng nôn trớ của Mười Anh khiến Năm Tường phải bỏ dở chén chè.
Anh lo lắng chạy tới hỏi thăm em trai, rồi đỡ em trai lên võng nằm.
– Em đang bị lao lực quá sức…!
– Đủ thứ chuyện ập tới…!
– Em cộng sổ sách xong chưa?
– Dạ chưa.
“Két…”
Vừa bước vào gian bếp lạnh lẽo, Judas đã cởi phăng cái áo mưa xùm xụp ra để hết vướng víu và ngột ngạt.
Biết bữa nay là sinh nhật của hai em nhỏ dự tòng nên gã đã mua cho mỗi đứa một cái bánh kem “Baskin-Robbins” thật lớn để cả lớp có thể ăn chung; người phụ trách buổi học hôm nay là anh Hai Nghĩa và anh Tư Hiếu.
– Judas…!- Manuel Ngô giựt mình hỏi.
Judas cười tươi xác nhận với y và khoe:
– Tôi có mua cho mọi người phá-lấu lòng bò nướng và chim cút chiên bơ…!Manuel bị sao vậy hả anh Tường?
– Nó bị căng thẳng thần kinh.
Judas chỉ vào đống sổ sách trên bàn:
– Để tôi làm giùm được không?
– Cảm phiền anh vậy.
Ngập ngừng một đỗi, Mười Anh mới đánh tiếng hỏi:
– Anh kể tiếp câu chuyện về Matthew và Justin được không?
Judas gật đầu, rồi vừa dọn bàn ăn vừa thuật lại:
– Trở về quê nhà El Salvador, ̣điều trước nhứt mà Justin làm là ghé nhà thờ, không phải để thăm Chúa mà là viếng mộ cha; sau khi ông ta chết, không một ai mai táng và lo tang lễ, Linh mục Timothy – Petez Amanda Delacruz đã cáng đáng hết thảy phần việc đó và còn dành một chỗ chôn cất tử tế nơi nghĩa trang sau nhà thờ chính tòa.
Cũng như cha mình, Justin quyên góp cho nhà thờ rất nhiều tiền, nhưng hiềm một nỗi, cậu ấy không tin vào Chúa.
Trái ngược với dáng vẻ uể oải của Justin, Matthew lại thành tâm theo dõi buổi Lễ.
Nếu như không có biến cố năm hai mươi lăm tuổi, ắt hẳn Matthew đã có một cuộc sống an lành hơn bây giờ.
Nghe đâu để cho Matthew sống lại, Justin đã mời người làm nghi thức Satan Giáo; nhưng Matthew bác bỏ điều trên và cười nói Justin chỉ bị lừa tiền chứ không hề có vụ đó.
Năm Tường cau mày:
– “Sống lại” nghĩa là sao?
– Sau khi giúp thân chủ thắng kiện, Matthew đã bị ai đó mướn người hành hung tới dở sống dở chết.
Anh ta đã rơi vào tình trạng thực vật trong suốt hai năm.
Từ lúc tỉnh dậy, tâm tánh anh ta thay đổi hoàn toàn, không còn hòa đồng và thân thiện nữa, như thể đã bị một linh hồn nào đó chiếm cứ thân xác.
Hai Nghĩa đã đón bé Hải về.
Judas mời cha con vô ngồi ăn chung cho vui, hai cha con bèn lại bàn ngồi ăn.
Mười Anh vẫn còn nằm nghỉ mệt trên cái võng.
Thấy nội dung câu chuyện không có chi tiết nào có thể gây ảnh hưởng xấu tới bé Hải nên Judas mạn phép kể tiếp.
Chuyện rằng:
“Bắt quả tang rồi nghen?”
Vị Giám Mục chỉ vô trong chiếc xe hơi đắt tiền của Justin mà hớn hở nói:
“Con đã không vứt cây Thánh giá đi, nghĩa là con không hề chối Chúa như con đã lầm tưởng.”
“Ông đừng có tưởng bở.”
Nhưng người Giám Mục không hề khó chịu, mà còn nhắn nhủ với Justin:
“Nếu con cần người tâm sự, hãy đến gặp ông, ông sẽ lắng nghe con nói.
Đây không phải là xưng tội mà là một cuộc trò chuyện giữa hai thế hệ.”
Và quả đúng như những gì mà Giám Mục nói, khi ông lâm trọng bệnh, đích thân Justin đã tới chăm sóc ông như một người thân trong gia đình.
Nếu được sinh ra trong một gia đình đàng hoàng, ắt có lẽ Justin đã không biến thành một kẻ quái gở như bây giờ.
Hai Nghĩa hỏi về những người bị nuôi như Matthew, và được Judas trả lời như sau:
– Sau khi ông ta bị băng đảng khác thanh toán, những đứa trẻ đó được con trai ông ta tiếp tục nuôi dưỡng và chu cấp tiền ăn học tới lớn.
Trái ngược với sự biến thái của cha ruột, ảnh là một người hết sức thiện lương và nhân hậu, nên sau khi cha mất đã giải tán băng đảng và thành lập một nhà hàng do mình đích thân đứng bếp.
Mỗi bận Matthew về thăm Brazil, ảnh lại xin anh ta hãy tha thứ cho cha mình; Matthew cũng đâu có hận ông ta vì ông ta thực sự chưa từng làm cái gì quá đáng với anh ta cả.
Tôi rất thích món bánh Taco và sườn bò nướng do ảnh chế biến, lần nào tới đó tôi cũng phải ăn ít nhất là bảy món.
Nhân lúc mọi người không để ý, bé Hải gắp đồ ăn lia lịa.
Nhưng chưa được bao lâu thì đã bị Tám Khiêm phát giác, chàng bác sĩ vỗ đầu con trai anh Hai mà răn:
– Ăn riết phì lũ nghen con trai.
Bé Hải mắc cỡ nên giả chước cười bẽn lẽn:
– Dạ…!
Bữa nay Manuel Ngô và toàn thể Hội Thánh cùng các bà phước Công Giáo đãi bà con món cơm tấm sườn bò Đại Hàn nướng, chả trứng, bì heo và tàu hủ ky chiên giòn.
Người đài thọ là anh bạn thiết Judas, nhờ tấm lòng bác ái của anh mà bà con được một bữa tối thật ngon.
Judas đã dành sẵn cho Manuel Ngô và Sơ Hiền một bất ngờ, đó là một cuộc hội ngộ ở nhà hàng Ấn Độ tối nay.
Anh đã từng ghé đây ăn vài lần và cảm thấy đồ ăn rất ngon, mùi vị cũng không quá đặc thù Ấn Độ nên không gây khó chịu cho những ai mẫn cảm với nguyên liệu hăng, nồng.
Nghe thấy bài hát có giai điệu quá đỗi tuyệt vời, Sơ Hiền bèn hỏi bồi bàn đó là bài gì; và cậu ta trả lời rằng “Teri Meri Kahani” do song ca Ranu Mondal – Himesh Reshammiya trình bày, cậu ta còn nói thêm:
– Tiếng hát như Thiên Thần, nhưng không ai ngờ rằng nữ ca sĩ đã cao tuổi và không được đẹp lắm.
Trước khi được Himesh phát hiện giọng ca tuyệt diệu và dẫn dắt vô nghề hát, bà đã phải kiếm sống bằng nghề ăn xin và hát rong trên một giao lộ sầm uất ở quê hương.
Có vẻ cảm mến người nữ tu có khuôn mặt hiền dịu, nên cậu ta giới thiệu thêm một bản khác của bài hát này:
– Sơ nên tìm nghe “Teri Meri” do song ca Rahat Fateh Ali Khan – Shreyal Ghoshal.
Đây là một bản khác của tình khúc trên.
Khi người bồi bàn đi khỏi rồi, Sơ than với con trai và bạn nó rằng không biết tiếng Ấn thì làm sao mà hiểu bài hát nói gì.
Judas nửa đùa nửa thật:
– Không hiểu thì coi “English translation – English lyrics”.
Cũng nội trong đêm hôm đó, Sơ Hiền tìm nghe bản dịch, rồi thất thần rảo bước trong khu vườn hợp chủng viện.
Đi hoài mỏi chân, Sơ Hiền bèn ngồi thu mình dưới bóng cây Vô Ưu mà khóc tức tưởi.
Từng câu, từng chữ của hai tình khúc đã cứa nát tim bà.
Phải, “Chuyện tình của đôi ta chẳng thể nào gói gọn trong mấy chữ”.
– Tại sao con khóc?
– Giám Mục.
Người Giám Mục lớn hơn người yêu của bà khoảng bảy tuổi ấy thong thả ngồi xuống cạnh bà.
– Cha không sợ bị người ta nói sao?
– Không, tôi với Hiền một lòng trinh bạch thì chẳng sợ gì hết.
Augustino Dương chống cằm và cười hỏi người Ma Soeur đáng tuổi em gái mình:
– Tình yêu đôi lứa là sao hả Sơ?
Vì quá đỗi ngạc nhiên trước câu hỏi của người anh đồng Đạo nên bà lặng thinh.
– Tôi lớn lên trong hợp chủng viện này.
Chẳng hiểu sao lúc còn đẹp trai, phong độ…!- Nói tới đây, Augustino Dương cười lớn.
-…!tôi không rung động bởi một ai.
– Yêu khốn nạn lắm Cha ơi.
Cha…!thực sự rất may khi không vướng vô cái bẫy tình đó.
– Cha, biết đâu người ta chê tôi xấu hay nghèo nên không thèm ghé mắt sao? Như vậy thì thiệt thòi cho tôi lắm đa.
Nói đoạn, ông trao cho Sơ Hiền cái khăn mùi soa để lau nước mắt.
– Cha cứ cà rỡn như vầy hoài Cha Trung rầu lắm, tại sợ mấy đứa nhỏ lờn mặt.
– Cây “Thượng Phương bảo kiếm” tôi treo trong văn phòng chưa đủ hù tụi nó sao?
– Có lấy ra đánh tụi nó lần nào đâu mà tụi nó sợ.
– Mà tại sao phải đánh tụi nó? Hồi nhỏ tôi còn lì hơn tụi nó gấp vạn lần.
– Đúng là…!ai gặp Cha cũng đều phải hết buồn.
– Hết buồn rồi vậy sao còn khóc? Phải cười lên chớ? Cười như vầy nè…!
Vừa dứt tiếng, vị Giám Mục già nhe răng cười toe toét.
Báo hại Sơ Hiền vừa cười vừa khóc, rồi trong một phút quên bẵng chức sắc của người anh đồng Đạo, bà đã đập nhẹ vô tay cánh tay của ông và mắng, “Quỷ”, sau đó hối hận mà cúi đầu nói:
– Con xin lỗi Cha.
– Có sao đâu mà xin lỗi tôi? Tôi cũng lỡ lời hoài chớ hay ho gì đâu.
– Tôi biết nhiều người nói tôi khùng, tưng tửng…!Tôi muốn đưa mọi người về với Chúa bằng con đường tràn ngập tiếng cười, sự cảm thông, lòng bao dung và tình yêu thương.
Sơ Hiền gật gù, chừng như xác nhận bâng quơ.
– Nãy đi ăn đồ Ấn ngon hôn?
– Dạ ngon.
– Tôi nói Sơ đừng buồn nghen?
– Dạ.
– Con trai Sơ…!hơi ngộ…!
– Dạ, tôi cũng lo lắm.
– Mong sao nó đừng trở thành mẫu người mà chúng ta đang liên tưởng tới.
Sơ Hiền sụt sùi.
– Đi, tôi với Sơ đi ăn hột vịt lộn.
– Dạ?
– Ăn xả xui.
– Chúa ơi, Cha nói vậy Cha Trung càm ràm nữa cho coi.
– Kệ ổng.
Già sanh tật khó chịu.
Hồi trẻ đâu có nói dài, nói dai như vậy đâu.
Hai người men theo lối cổng sau của hợp chủng viện mà ra ngoài.
Người chở họ đi là tài xế Uber sống ở Giáo xứ Saint Pio.
Augustino Dương để người em đồng Đạo ngồi một mình ở băng sau.
Chiếc xe hơi hiệu Subaru lao nhanh về phía khu chợ đêm gần xóm Chùa.
– Con đi ăn hột vịt lộn với Cha hôn? Nay Cha bao con với Sơ Hiền.
Anh chàng tài xế gật đầu lia lịa.
Gì chứ được ăn miễn phí là anh chịu liền.
Xe kẹo kéo đang phát bài “Mùa Thu chết” do Ngọc Lan ca; nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc theo bản dịch của cụ Bùi Giáng trong bài thơ “Ladieu” của thi sĩ Pháp Guillaume Apollinaire, đây là món quà mà hai người “muôn năm cũ” dành tặng cho cô Julie, tức người vợ đầu tiên của ca – nhạc sĩ Duy Quang, với mong mỏi bài hát này sẽ giúp cô vươn xa trên con đường âm nhạc, và quả hai cụ đã thành công.
– Mùa Thu còn đó, chết đâu mà chết.
Cảm phiền ông anh đây mở bài “Mùa Thu còn đó” do cô Julie trình bày.
Theo như lời kể của ông Châu Kỳ, thì ông nảy sinh cảm hứng sáng tác bài hát trên sau khi nghe xong bản “Mùa Thu chết”; như một lời phản bác góc nhìn về mùa Thu của nhà thơ Pháp Quốc.
Xúc cảm của Sơ Hiền chưa kịp tái hiện thì một “bài luận” của Giám Mục Dương đã dập tắt hết.
Bà nhìn ông và cười thật tươi, rồi mua ủng hộ ông anh bán kẹo kéo một chục cây.
– Còn có bài “Mùa Thu không bao giờ chết” do cô Thanh Lan ca, người sáng tác là nhạc sĩ Trần Văn Bùi đó Cha.
Cha Thành “Ồ” lên đầy thích thú, rồi quay sang vỗ ngực để chứng tỏ với người em đồng Đạo rằng lời khuyên lơn lúc ngồi xe là đúng.
Sơ Hiền ghẹo người anh đáng mến:
– Cha ơi, còn có bài “Mùa Thu không có anh” của nhạc sĩ Phạm Mạnh Cương nữa.
– Thì còn “Mùa Thu ru em” của nhạc sĩ Đức Huy.
Dù biết rất vô duyên khi chen giữa cuộc nói chuyện Cha và Sơ, nhưng chàng tài xế độc thân buộc phải lên tiếng:
– Cha ơi.
– Sao con?
– Sao con có cảm tưởng có ai đó lén chụp hình mình.
– Họ muốn làm gì thì làm.
Mà con ơi?
– Dạ?
– Bộ Cha đẹp trai dữ lắm sao mà họ phải cất công theo rình?
Anh ta tếu táo bình phẩm:
– Dạ, đẹp lão.
Augustino Dương giả bộ giận:
– Nè, bỏ chữ “Lão” cho tôi nghen? Tôi mới sáu mươi mấy xuân xanh thôi nghen.
Chưa có già à nghen.
Anh chàng tài xế cười lớn, rồi chắp tay tỏ ý ông nói đúng.
Cha Dương vỗ vai con trai, rồi giục cậu ta đi chọn món.
Chỗ này không chỉ bán hột vịt lộn, mà còn bán trứng cút, hột vịt, hột gà đủ cách chế biến và gà – vịt xác chiên.
Thấy hàng đồ nướng kế bên vắng khách, nên ông tắp qua mua giùm mấy con cút và chân gà rút xương.
– Con ơi, Cha với Sơ đây chưa muốn đi gặp Ngài sớm đâu.
Anh chàng tài xế giơ tay phải phát thệ:
– Dạ, con cam đoan không uống bia, rượu.
– Chuẩn bị tinh thần chưa Sơ?
– Dạ?
– Có người sắp viết tiểu thuyết về chúng ta rồi đó.
Sơ Hiền kinh hoàng kêu lên:
– Cha.
– Chà, không biết họ viết về tôi và Sơ theo lối văn của Shakespeare hay Victor Hugo đây…!
– Cha ơi.
– Có sao đâu Sơ.
Ai muốn thêu dệt, xuyên tạc thì cứ làm.
– Ai thèo lẻo, con vạt mỏ đứa đó.
Nghe anh tài xế taxi làm hung, Augustino Dương và Sơ Hiền cười như được mùa.
Tiễn chân Sơ Hiền về khu ký túc xá của các bà phước, dì dòng, Giám Mục Dương vô nhà thờ chánh tòa xưng tội với Chúa, ngôi Thánh Đường này nằm đâu mặt với vườn hoa và cách con lộ một khoảng vỉa hè rợp bóng me tây.
Đáng ra Sơ Hiền không được vô đây sống đời phụng sự Chúa.
Nhưng ông đã xin đặc cách cho Sơ vì hoàn cảnh của cô quá đỗi tội nghiệp.
Các chị em đồng Đạo cũng không ai nhắc lại nửa đời trước và đứa con trai của Sơ, cũng như đã giấu nhẹm chuyện Sơ đang ở đây hồi nó còn theo học và cả bây giờ.
Lúc cậu Ân còn sống, đã từng nửa đùa nửa thật rằng nếu ông không phải là tu sĩ ắt cậu ta sẽ yên tâm giao phó vợ con mình cho ông; ông cũng nửa đùa nửa thật trả lời rằng thấy cái gương lụy tình của cậu là sợ muốn chết rồi, ở đó mà ham gánh lấy giùm.
Ngồi một mình trong Cung Thánh yên ắng, ông tự nhiên cao hứng hát bài Thánh Ca “Tân ca” do Linh mục Tiến Lộc soạn nhạc và Linh mục Nguyễn Huy Lịch đề thơ.
oOo
Bữa nay Thương Hận xuống xứ dừa thăm ký giả Sương Tuyết.
Anh ta đã viết bài báo về vụ việc xảy ra một tháng trước.
Nghe đâu đám đó đã kéo qua nhà anh ta đang ở trọ và tạt sơn lên tường rào, nhưng không biết bằng cách nào mà cảnh sát đã tóm gọn hết.
– Tôi đãi anh món gỏi gà bóp rau răm với cháo khô mực nghen?
– Trời, vậy thì còn gì bằng?
Xương Tuyết mua một đôi gà trống – mái và một ký trứng gà non, dồi trường gà với mấy bộ đồ lòng gà.
Nghe Thương Hận nói thích ăn bánh quẩy với cháo nên anh mua cho mỗi người hai cặp.
Trong lúc đứa cháu nuôi rửa lại hai con gà với nước muối, ông già Ba Tri rủ hai thằng bạn trẻ theo mình ra sau hè hái rau.
Mảnh vườn rộng lớn nhưng thiếu tay chăm sóc nên đâm ra um tùm và muỗi mòng đầy rẫy.
Một mình thằng Tuyết làm không xuể, nay may nhờ có hai đứa kia phụ vô nên nhìn chỗ này quang đãng hẳn.
Vừa nấu xong nồi cháo gà thì chàng pháp y miền biển gọi đến.
Gã điên cáo lỗi với mọi người, rồi xin phép không phụ dọn mâm để bắt chuyện với anh bạn Bạc Liêu.
Hóa ra anh bạn Bạc Liêu gọi tới để giải thích về một số giáo lý của Công Giáo cho gã điên hiểu, trong đó có đôi nét về chuyện giỗ quải và thờ gia tiên.
– Tuyết ơi, vô lấy cái Laptop rồi kết nối Viber điện thoại qua nó đi.
Để còn ăn cháo nữa, kẻo nguội mất ngon.
– Dạ.
Khi chức năng ghi hình vừa được mở, Trần Cảnh Chiêu kịp thời nhìn thấy khuôn mặt luôn nghiêm nghị của ông già Ba Tri.
Có vẻ như anh đã từng gặp người này ở tòa án, nhưng không nhớ rõ lúc nào và điều đó có thật hay là không.
Bây giờ tới lượt Tuyết kể về đức tin của mình:
– Tôi từng nằm mơ thấy một giấc mộng rất lạ, rằng tôi thấy một người ngồi trên tòa sen hồng, bận đồ trắng như kiểu Quán Thế Âm Bồ Tát, tay bắt ấn và đặt trên đùi, không rõ dung mạo vì quầng hào quang tỏa ra từ trên đỉnh đầu quá sáng chói, đã hỏi tôi, “Ai con cũng thờ, sao không thờ Ta?” Tôi mới trả lời, “Con đâu có biết Ngài là ai đâu mà thờ?” Ngài ấy hình như đã cười và nói, “Ta là Mạn-Đà-La Bồ Tát.
Ta chính là người phù hộ cho con.” Rồi Ngài ấy dạy tôi rắc muối biển trong phòng ngủ để không còn bị ác mộng hành hạ nữa.
Và qua ngày sau tôi đã làm theo.
Đó là lần đầu tiên tôi được ngủ rất ngon và không bị mộng mị quấy nhiễu.
Tôi đã trải qua, chứng nghiệm và thành công nên tôi hoàn toàn tin vào Thuyết có rất nhiều vị Bồ-Tát và Chư Phật.
Nhiều người cho rằng Bồ-Tát và Chư Phật khác là “sản phẩm văn học” của Ba Tàu, còn tôi thì không vì tôi đã được mục sở thị rồi.
Thương Hận chen vô hỏi nên đặt muối ở đâu.
Và gã điên trả lời như vầy:
– Anh nên để chén muối dưới gầm giường, còn căn nhà trước kia tôi cư ngụ là lót đan nên không sợ dơ sàn.
Bởi vì Ngài biết nhà tôi ra sao nên mới biểu tôi rắc muối.
Không để chàng nhạc sĩ nói gì, gã điên tiếp luôn:
– Đi đêm đem theo muối cũng rất tốt.
Lỡ như anh bị tấn công, anh vục vô mặt kẻ đó là sẽ có cơ hội thoát thân rất cao.
Trần Cảnh Chiêu hỏi:
– Cái câu “Ai con cũng thờ…” nghĩa là sao Tuyết?
– À, hồi đó đó, mới theo Đạo Phật, tôi không biết bắt đầu từ kinh điển, tạng luật nào nên hễ thấy tên ai thì tra cứu tìm hiểu tên đó.
Có lẽ chữ “Thờ” mà Ngài ấy nói tới mang hàm nghĩa “Tìm hiểu”, chớ không phải “Thờ cúng”, vì tôi không lập bàn thờ vị nào hết trong khoảng thời gian đó, chỉ niệm danh hiệu thôi.
– Rồi anh có lập bàn thờ Ngài ấy bây giờ không?
– Không, ngay cả Đức Phật Thích Mâu Ni, tôi cũng không lập bàn thờ.
Trước khi đi ngủ, tôi thường niệm danh hiệu của Đấng Thế Tôn, Mạn-Đà-La Bồ Tát và Thánh Tăng Ananda; thói quen này đã được tôi duy trì cũng lâu rồi.
Phan Hoài Việt hỏi anh bạn ký giả tại sao không lập bàn thờ, thì anh ta giải thích như sau:
– Tôi lần về Phật Giáo Nguyên Thủy mới thấy cái bàn thờ chẳng quan trọng.
Đức Phật vốn không màu mè hay trọng hình thức, nhưng chúng sanh ưa chưng diện nên dầu nghèo cũng ráng sắm sửa bàn thờ cho sang, để rồi khi gia đình hụt tiền ăn, lại đứng trước cái bàn thờ chửi lộn um sùm.
Trần Cảnh Chiêu nêu thắc mắc:
– Vậy chẳng lẽ anh không có Thầy bên Đạo sao?
– Người Thầy của tôi là tôn giả Ananda.
Chính những giọt nước mắt từ bi của ông ấy đã giúp tôi vững bước trên con đường Đạo.
Đấng Thế Tôn đã nói với cô Ma-Đăng-Già như vầy, khi cô hỏi ông ấy có yêu ai không, và Ngài trả lời rằng, “Ananda yêu tất cả chúng sanh, không hận thù và ác cảm một ai.”
Ông già Ba Tri gắp cho thằng cháu nuôi hai cái phao câu, rồi bắt nó ăn bậy mấy muỗng cháo rồi hẵng nói, vì ông thấy nét mặt xanh chành do nhịn đói từ trưa đến giờ do mải đọc sách của nó.
Ăn cho vừa lòng ông già xong, gã điên kể tiếp:
– Lúc đó, ông chỉ biết bưng mặt khóc chứ không hề cãi hay chửi Đề Bà Đạt Đa một lời.
Rồi một con người háo thắng và ham thích tranh đua như Đề Bà Đạt Đa đã bị những giọt nước mắt đó làm cho cứng họng.
Đấng Thế Tôn đã ký thác cho ông thành Bồ Tát trong một kiếp rất xa xôi ở tương lai.
Ký thác cũng gần giống với hành động nhập học.
Tức là anh hoặc ai đó giúp anh nộp hồ sơ vô trường, nếu như anh hội đủ điều kiện thì tới lúc trường mở cửa sẽ gởi giấy báo mời anh nhập học.
Trước đây, người thức tỉnh Như Lai là Phạm Thiên.
– Nhưng Mạn-Đà-La Bồ Tát là ai vậy bây?
– Dạ, lúc đó con nghe lộn, phải nói đúng là Đà-La Bồ Tát, tức Tara – Bạch Độ Mẫu.
Thật lạ vì con chưa từng biết đến danh hiệu này, tới tận năm nay con mới biết người mà con diện kiến đêm đó là chư vị nào.
Theo như kinh sách, thì Ngài là ánh sao Bắc Đẩu chỉ đường dẫn lối chúng sanh thoát khỏi mê lầm và cái chết.
Năm ấy con quẫn trí tới nỗi muốn tự sát, và đó là lý do tại sao Ngài lại hiển linh trong giấc mơ của con.
Thấy dĩa gỏi gã sắp hết, Đặng Xương Tuyết rời khỏi bộ ngựa và đi lấy bao tay nylon, khẩu trang đeo vô trước khi xé gà, bóp gỏi và pha thêm nước chấm.
Vừa làm gã điên vừa kể:
– Có một vị cũng mang danh hiệu Mạn-Đà-La Bồ Tát nhưng toàn thân hắc sắc và vẻ mặt hết sức nghiêm trang, khác hẳn với người tôi đã thấy trong chiêm bao.
Nhưng tôi vẫn quen niệm “Nam Mô Mạn Đà La Bồ Tát”, coi như là niệm cho hai ngài luôn.
Trần Cảnh Chiêu e dè hỏi về cách giảng Đạo.
Suy nghĩ một lúc, gã điên mới đáp:
– Cư sĩ tại gia và giới mộ đạo không bị ép buộc phải rời bỏ thế gian, lìa xa Tham – Ái, vì Ngài biết họ không phải là bậc tu hành nên không cần phải gồng mình quá sức.
Nhưng ma Tăng rất thích giảng giải Giới Luật của bậc tu hành với tín đồ và khuyến hóa họ nghe theo, không ngoài mục đích nào ngoài sự mị dân cho chánh quyền và làm cho tín đồ thờ ơ với hiện trạng xã hội – đất nước.
Thành thử ra, để phòng ngừa tín đồ trở nên cuồng tín mông muội, Như Lai mới nói hãy lấy Chánh Pháp của Ta làm Thầy, hãy tự thắp đuốc mà đi trên con đường tu học, và hãy tự nương dựa chính mình, không nương dựa ai khác.
Nhìn dĩa gỏi gà mà anh bạn ký giả mới trộn mà Tào Việt Bân ứa nước miếng.
Thằng cha Đại Hàn đi mua hủ tíu giùm tới giờ này chưa thấy “bóng chim tăm cá”.
– Tôi biết một người chuyên môn “săn tin” xấu bên Chúa để đăng lên trang Facebook cá nhân, và ngược lại, cũng có một người chuyên môn “tìm kiếm” chuyện xấu bên Phật để đăng lên trang nhà.
Không biết hai người đó mà gặp nhau ngoài đời sẽ như thế nào ha?
Tào Việt Bân đưa cho chàng pháp y tô hủ tíu gõ, nên chàng ta phải thất lễ mà ngắt ngang cuộc đối thoại với mọi người.
Thấy vậy, ông già Ba Tri lại hối thằng cháu mau ăn hết chén cháo mà ông vừa mới múc thêm cho nó.
– Anh có câu chuyện nào kể về Công Giáo không Tuyết?
– Cô giáo dạy Anh Văn mà tôi từng theo học là một “Ma Sơ không mặc áo nhà tu”.
Số là vầy: Cô kể hồi cô mười tám đổ lại là một cô nàng ham chơi lười học, cũng may chưa sa vào con đường nghiện thuốc phiện.
Hôm đó, sau khi uống rượu say, cô đã ghé vô nhà thờ ngồi ngủ tự hồi nào mà cô chẳng hay biết.
Lúc tỉnh dậy, cô bàng hoàng nhìn xung quanh, đôi tay vẫn còn gối trên bàn.
Chợt ánh mắt cô dừng lại nơi tượng Đức Jesus Christ, tự nhiên đáy lòng cô nảy sinh cảm giác thân yêu kỳ lạ, cô chắp tay hỏi Chúa, “Thưa Ngài, Ngài có thể đưa con thoát khỏi con đường sa đọa này không?” Khi kể tới đoạn này, cô thuật rằng bản thân vẫn còn khắc cốt ghi tâm cái cảm giác xúc động của cái ngày định mệnh đó.
Bắt đầu từ ngày hôm ấy, cô không còn tham dự lễ lạc, tiệc tùng của đám bạn cũ, mà siêng năng đi nhà thờ và tìm hiểu Kinh Thánh, nhưng cô biểu cô vẫn chưa gầy dựng ̣được mối liên hệ mật thiết với Chúa.
Cho tới một ngày, người cha vô thần của cô đi khám sức khỏe định kỳ và bị nhận kết quả mắc phải căn bịnh trầm kha, vì đây là chuyện cá nhân của cha nên cô mạn phép không nêu tên căn bịnh với cả lớp; các bác sĩ tiên liệu mạng sống của ông đã ngàn cân treo sợi tóc, xin gia đình hãy chuẩn bị tinh thần.
Cô đã van nài Chúa xin hãy cứu cha mình.
Và một phép lạ đã xảy ra, cha cô đã bình phục chỉ sau một đêm ngủ trong bệnh viện, căn bịnh trầm kha đã hoàn toàn biến mất, trước sự kinh hãi của đội ngũ bác sĩ đang làm việc tại đây, ai nấy không thể hiểu nổi tại sao những dấu hiệu thông báo căn bịnh đó trên cơ thể ông đã không còn nữa, trái lại toàn là những chỉ số thông báo cơ thể có sức khỏe rất tốt.
Từ đó về sau, nguyên gia đình cô theo Chúa hết và cô hiện đang là cộng tác viên của một nhà thờ Tin Lành bên Hoa Kỳ.
Cô đã ăn chay theo kiểu Mùa Chay, tức là kiêng ăn thịt và chỉ ăn một chút đồ biển, còn lại là đồ chay; xin nói thêm, cô không lập gia đình và quyết sống đời độc thân phụng sự Chúa và nhân loại.
Khi khoa học không chứng minh được sự mầu nhiệm đó, họ đổ cho hai chữ “kỳ tích” và một mực phủ nhận sự hiện diện của đức tin.
Tôi tìm thấy sự mầu nhiệm nơi Phật, cô giáo Hoa Kỳ tìm thấy sự linh hiển nơi Chúa, cho nên đức tin của tôi và cô giáo rất vững.
Rất nhiều người chối bỏ đức tin và cười nhạo những ai có tín ngưỡng, nhưng hễ Trái Đất và nhân loại xảy ra chuyện gì thì họ lại ép Chúa, Phật, Thánh Allah phải đứng ra giải quyết và cứu rỗi; nếu không thực hiện như ý họ muốn, họ lại càng có cớ phỉ bảng tất cả các đức tin.
Trần Cảnh Chiêu lặng người nghe anh bạn bụi đời kể.
Hương thơm của tô hủ tíu gõ đặc biệt cũng không đủ sức lôi kéo anh cầm đũa lên ăn.
– Tôi không thích cách khoa học cố gượng ép và giải thích mọi thứ theo ý mình.
Nếu họ đã là nhà khoa học, thì xin hãy nhớ “Thuyết Tương Đối” của Albert Einstein.
Ngay cả những thuyết của Albert Einstein cũng không phải cái nào cũng đúng đâu.
Chàng pháp y nói một câu trước khi tắt máy để ăn cho hết tô hủ tíu gõ đặng còn tới nhà xác làm việc:
– Bây giờ tôi đã hiểu tại sao anh không bao giờ phủ nhận đức tin của ai hay ép buộc người nào tin vào Như Lai.
– Tôi còn nhớ một bài Thánh Ca mang tên “Chính Chúa chọn con”, gia đình cô giáo được Chúa chọn, còn tôi thì được Phật giác ngộ.
Nhân duyên đến với đức tin của đôi bên khác nhau, hà cớ gì phải cưỡng cầu người khác phải tin và nghe theo Kinh và giáo lý của Đạo mình khi người ta chưa từng trải qua sự chứng nghiệm như mình?
– Rồi ăn lẹ đi con.
Có ăn đùi gà không tao gắp cho?
– Dạ không, ông với anh đây ăn giùm con đi, con không thích ăn đùi gà lắm.
Ngoài trời mưa lất phất rơi, từng hạt mưa sa như châu ngọc, ông già Ba Tri là người mừng nhứt trong bọn vì khỏi phải tốn tiền nước tưới tiêu.
Nam Kỳ có hai mùa: Mùa mưa và mùa nắng; Xuân – Hạ – Thu – Đông chỉ là những mùa tồn tại trên “danh nghĩa”.
Trên đài đang phát bản tin thời sự trong nước, Lương Thái Anh và Phạm Đình Vân không có mặt trong bản tin tối nay.
Vừa nhúng miếng thịt gà vào cháo, ông già Ba Tri vừa chỉ vô mặt của một tên tù nhân can tội tham nhũng:
– Nhất lé và tam hô có nhiều khi không phải do bẩm sinh, mà là do ứng xử tạo thành.
Tức là nói chuyện liếc ngang liếc dọc riết thành ra mắt bị chinh, và chu miệng chửi rủa, quát tháo riết thành ra bị hô hoặc nhọn.
Phan Hoài Việt ăn được một cái bánh quẩy rồi đâm ra ngán nên Thương Hận “xu” luôn mấy cái còn lại.
Có người lượm ve chai sống ở xóm trên vô xin đồ bỏ được ông già Ba Tri cho năm bịch cháo gỏi gà và đồ lòng gà kèm theo mấy cái bánh quẩy đem về.
Ông còn nhắn ngày mốt nhớ lên xách dưa hấu về ăn cho mát.
Tiễn chân người hàng xóm tới tận cây gòn phân chia ranh giới giữa hai xóm, ông mới quay gót về nhà; mưa vẫn nhè nhẹ bay.
Gã điên đang tán gẫu với hai người bạn:
– Nhiều lúc thấy người ta biểu làm cái này, không làm cái kia để sống lâu tôi thấy mắc cười.
Thương Hận cười hỏi:
– Tại sao?
Tuyết nhìn màn mưa giăng đầy ngoài song cửa sổ mà trả lời bâng quơ:
– Nhiều người theo Phật mà sợ đủ thứ: Vô sinh, Đẻ con bị dị tật, Chết yểu, Ung thư, Nghèo khổ,…!Vì tôi tin vào Thuyết Luân Hồi – Nghiệp Quả nên đã từ rất lâu buông bỏ những nỗi sợ đó xuống.
Ông già Ba Tri dầm mưa dãi nắng nguyên ngày nên bị trúng gió, ăn lưng chén cháo nữa thì leo lên võng nằm.
Nằm một hồi thấy không xong, ông nhờ mấy thằng bạn trẻ cạo gió giùm; chàng nhạc sĩ phong trần nhận lãnh “sắc lệnh” trên.
Gã điên đang trả lời anh thầy thất chí:
– Cũng có người ở gần độc tài riết rồi bị lây nhiễm luôn tư tưởng độc tài.
Nói cụ tỷ như một số người ưa quy chụp LBGT là người xấu và đòi giết chết không tha; nghe luận điệu này có giống với cái nhóm ưa quy chụp họ là “Phản động” không ha?
Ngừng lại để uống hớp nước trà đặc, gã điên trình bày tiếp:
– Anh không thích, thậm chí ghét cay ghét đắng đi chăng nữa, anh cũng không nên đòi chém giết hay xử tội những ai mà anh không vừa mắt.
Nhiều người khoái nói khích tướng tôi lắm, nhưng rất tiếc, tôi không quởn ngồi đó gây lộn với một người trên mạng xã hội.
Hết.
Ông già ngứa miệng chen vô nêu quan điểm cá nhân:
– Nếu một chính trị gia chửi thề, ăn nói bỗ bã và dùng từ ngữ nặng nề, có hai trường hợp sẽ xảy ra: Với chính trị gia họ thích, họ sẽ khen người đó thật bộc trực, không màu mè đạo đức giả.
Nhưng với người họ ghét, họ sẽ chửi người đó là quân mất dạy, đồ thất học và không xứng đáng đứng ở cương vị đó.
Thương Hận gật đầu:
– Một chính trị gia phải biết kiểm soát lời ăn tiếng nói của mình và chịu trách nhiệm từ ngôn từ cho đến hành động.
Phan Hoài Việt bấy giờ mới lên tiếng:
– Ăn nói bỗ bã và thô thiển không đáng khiển trách bằng việc ăn nói ngu dốt và nổ banh nhà lồng.
Rất nên thông cảm cho một người chính trị gia có tài nhưng “xấu miệng” và không giỏi khống chế cảm xúc.
Gã điên dẫn chủ đề vấn đáp về “đơn vị cũ”:
– Mình ghét ai thì đừng trở thành bản sao của kẻ đó, coi kỳ lắm.
Giống như một người luôn lên án một đám người suốt ngày mở miệng ra là chém giết, chửi thề và ăn dơ ở bẩn; nhưng chính người đó lại nói, “Đ* má, tao mà gặp tụi nó ở đâu tao thề tao giết sạch hết” mỗi khi đề cập tới đám người đó.
Chàng nhạc sĩ và anh thầy ôm bụng cười ngặt nghẽo.
Đây là lần đầu tiên họ chính tai nghe thấy ký giả Sương Tuyết chửi thề.
Cái giọng đơn đớt vì phải miễn cưỡng nói câu mà bản thân không muốn thốt ra nghe mới mắc cười làm sao.
– Nếu mình để bản thân hành xử và ăn nói y chang đứa mình ghét thì coi như mình đã bị thua một trái rồi.
Anh thầy giơ ngón cái, biểu thị sự đồng tình.
Rồi anh phát biểu:
– Đừng để kẻ thù đồng hóa mình.
Thương Hận gật đầu lia lịa.
Đoạn hỏi:
– Nhiều người cho rằng anh là phường ngụy quân tử, cuội,…!anh thấy sao?
Gã điên bật cười ha hả, và đáp:
– Rồi bị gán mấy câu “Đạo đức giả”, “Phật online”, “Kẻ nói đạo lý thường sống như…”,…!có làm mình lùn xuống miếng nào hay mất đi một năm tuổi thọ hay không, mà phải bận tâm tới nỗi bỏ thời giờ sống quý báu ra cãi lộn với một kẻ người dưng trên mạng xã hội? Đó là quyền tự do ngôn luận và tư tưởng của họ, và tôi cũng có quyền tự do ngôn luận và tư tưởng của tôi; tôi sẽ phản bác lại nếu lời bình phẩm của họ có thể gây tổn hại nghiêm trọng tới danh dự và công ăn việc làm của tôi, còn nếu đó chỉ là những lời bình phẩm thông thường trên mạng, tôi sẽ không xen vô.
Muốn nói tôi Cuội, Hằng Nga, cây Đa hay Thỏ Ngọc đều được, tôi chẳng rảnh chứng minh bản thân với ai đâu.
Ông già Ba Tri che miệng mà ngáp ngắn ngáp dài.
Cơn buồn ngủ do mấy viên thuốc Tây rủ đến đã nhận chìm ông vào giếng sâu mộng mị.
Chàng nhạc sĩ hỏi ý kiến của anh bạn ký giả:
– “Sử dụng” hay “Xử dụng” hả anh?
– Là “Sử dụng”, trong Hán – Việt chữ “Sử” này có bộ Nhân đứng trước, còn nếu không có thì là chữ “Sử” trong “Lịch sử”.
Muốn kiểm chứng, hãy tìm đọc cuốn “Việt Nam tự điển” của hội “Khai Trí Tiến Đức”.
Phan Hoài Việt hỏi anh về hai chữ mà mình đang thắc mắc, và nhận lại câu trả lời như vầy:
– Offline hay Online dịch ra thuần Việt hay Hán – Việt đều không đúng và sát nghĩa hết, ông bác đó khuyên tôi nên giữ nguyên gốc tiếng Anh.
– Ông bác đó tên chi vậy anh?
– Ổng họ Võ.
Không phải là cái người mà anh biết đâu.
Nhờ người này mà tôi mới biết thêm chữ Nôm và sửa lỗi chính tả tiếng Việt.
– Có thể giới thiệu rõ hơn không?
– Ổng là kỹ sư đã về hưu, hiện đang sống ở tiểu bang Florida, Hoa Kỳ.
Ngoài ngôi nhà riêng bự như biệt thự, ổng còn có mảnh vườn rất lớn trồng toàn những giống cây ăn trái thân thuộc của Việt Nam.
Có lẽ bị trời gầm đánh thức nên ông già Ba Tri vừa ngáp vừa hỏi:
– Cha, ở Mỹ mà mua được miếng vườn như tao thì chắc ông này phải giỏi lắm đa?
– Dạ, kỹ sư hẳn hòi mà ông.
– Nhiều đứa hổng thích nghe câu chuyện “Người Việt thành đạt ở Hoa Kỳ” đâu, tụi nó khoái nghe mấy cái tin người Việt vô gia cư và đói khổ bên đó hơn.
Thương Hận mời gã điên nói tiếp.
Nhưng anh ta khoát tay từ chối, rồi viện cớ mỏi mắt nên thất lễ đi ngủ sớm.
– Tuyết mệt rồi.
Nghe anh thầy nói vậy, chàng nhạc sĩ sững người:
– Người điên cũng biết mệt hả?
– Và cũng biết buồn nữa.
Từ ngoài đồng không mông quạnh vọng vào bản “Đi từ đồng ruộng bao la” của ca – nhạc sĩ Duy Khánh, do tam ca Duy Khánh – Mai Hương – Hương Lan trình bày; trước đây bác song ca bài này với cô Hà Thanh.
Không biết ai là chủ nhân của cái đài bỏ túi cổ lỗ sĩ đó.
– Tôi làm anh Tuyết buồn hả?
– Không, ảnh buồn ngủ.
Mấy bữa rày phải ngồi viết truyện thay em gái thâu đêm nên giờ anh thèm ngủ lắm.
– Vậy anh nghĩ cụ Bùi Giáng có buồn không?
– Có, cho nên cụ mới mặc lớp áo Điên.
Nhiều người không tin cụ điên, mà cho rằng cụ đã tự chuốc say mình trong cõi Thơ để quên đi con tạo xoay vần và “Lá đổ muôn chiều”.
Thương Hận đọc tờ nhạc đang viết dở dang, rồi cất giọng phê bình:
– Trịnh Công Sơn đã mượn ý thơ của cụ để viết nhạc nhưng chỉ có một số bài đính kèm tên cụ, như “Nguyệt ca”, “Còn hai con mắt”,…!
– Tắc kè bông đứng ở núi này
Dõi đôi mắt trông qua núi nọ
Tới chừng khi ở trên núi nọ
Lại thầm than, tiếc nhớ núi xưa
Ngâm xong bài thơ, ông già Ba Tri quay mặt vô vách ngủ tiếp.
Phan Hoài Việt đốt đèn dầu.
Đợi ngọn lửa nhóm lên như ánh sao băng đêm mưa, anh thầy mới tắt hết đèn điện.
Mưa vẫn rả rích rơi ngoài kia.
Lẫn trong tiếng lửa lách tách vì thiêu thân hủy đời, giọng anh trầm thật trầm:
– Nếu anh làm nghề viết mà ai nói gì anh làm theo đó thì thôi anh bỏ nghề cho rồi.
Cái mà anh Tuyết giữ gìn, là thế giới trong đầu ảnh, chớ không phải là đẹp lòng thiên hạ hay vừa mắt ai.
Thương Hận ngó qua cái võng, rồi ngó lên bộ ngựa, hai người điên kia đều đã ngủ say; chàng nhạc sĩ nhớ về bản tin tự tử của một người diễn viên nữ mà cảm thán nói:
– Trên thế giới này, lúc nào chẳng xảy ra hiện tượng tung hê cho đã rồi đạp người ta xuống đất.
Đã biết nhân vô thập toàn thì hà cớ gì phải tôn sùng người dưng nước lã một cách mù quáng và thái quá, để rồi phải nhận lại thất vọng ê chề khi người ta phát biểu, hành động và sống không đúng ý mình, cũng như trái luân thường đạo lý?
Trời bỗng nghỉ làm mưa.
Gió lạnh cũng bớt lùa những cơn rét vào gian nhà sau lắp cửa như cho có.
Anh thầy và chàng nhạc sĩ rủ nhau đi thăm mảnh đất thấm đẫm phù sa và đầy rẫy cây lành – trái ngọt.
Đôi bạn loạng choạng bước trên những mô đất phân ranh giữa hai thửa ruộng.
Sao nhiều và gần đến độ cảm tưởng với tay hái được từng vì xuống.
Họ còn nhìn thấy một đàn đom đóm lập lòe bên hàng rào bông bụp của một ngôi nhà lợp mái ngói Âm – Dương.
Đi ngang qua một lò bánh tráng đã đóng cửa vì ông chủ mất, họ chợt thấy chạnh lòng: Nghe đâu hồi còn sống, một tay ông chủ lo liệu việc làm bánh, bà chủ chỉ có việc phơi bánh lên liếp và đi bán, nên giờ ông mất đi rồi bà không sao cáng đáng nổi lò bánh tráng; từ đó mỗi mùa Tết bà con dưới đây vắng xấp bánh tráng của họ.
– Ông Tư dè sẻn từng đồng từng cắc nên không đi thăm thám sức khỏe định kỳ, thành thử ra bịnh phát bất thình lình thì không trở tay kịp, ông than mệt rồi “đi luôn”.
Nghe anh thầy thất chí kể như vậy thì chàng nhạc sĩ cảm thấy rất buồn, anh dõi đôi mắt nhìn những vì sao hấp hối trên nền trời hừng đông rực rỡ như thể tìm kiếm câu trả lời về nhân tình thế thái ở đó.
– Nhiều người trách bà Tư có phước mà không chịu hưởng, ngày nào cũng lôi chồng ra càm ràm, nhiếc móc, hoạnh họe…!Giờ đây chăn đơn gối chiếc mới hối hận.
Căn nhà mà hai má con thím Bảy đang ở tắt đèn tối thui, cửa đóng then cài chắc chắn.
Con nhỏ đã lên Sài Gòn vào khoảng mười hai giờ trưa hai bữa trước, nghe thím Bảy thuật lại thì nó cần phải ở trỏng mấy tuần để điều trị bịnh tình.
– Anh Việt.
– Hửm?
– Nghe đâu cái chất gì có trong cuống rốn có thể chữa được bệnh ung thư.
Phan Hoài Việt bật cười:
– Anh hỏi lộn người rồi.
Tôi đâu có phải bên Y Học đâu mà biết.
Mải lo nói chuyện, hai người đi xuống khu xóm trên tự bao giờ.
Nơi đây có một ngôi chùa mới cất khá lớn, là chùa của ni cô và sa-di nữ.
Do không biết đường về nên họ quẹo lộn vô một con hẻm lạ hoắc lạ huơ.
Thương Hận vốn đã quen với việc lang thang khắp nẻo Sài Gòn nên rất dạn dĩ trong chuyện “thám hiểm” những cung đường mới; chàng ta hối người bạn đồng hành mau theo mình đi sâu hơn.
Thương Hận ngứa miệng nên mở bài “Đoàn người lữ thứ” của nhạc sĩ Lam Phương do Thanh Phong ca lên nghe rồi hát nho nhỏ theo.
– Đa đi hia!
Anh chàng nhạc sĩ cụt hứng nên tắt nhạc.
Anh quay qua hỏi người thầy Kiến Hòa:
– Khứa đó nói gì vậy anh?
– À, đây là tiếng Nam Kỳ cổ, có nghĩa là “Đi chỗ khác”.
Mèn đét ơi, giờ còn sót lại một người Nam Kỳ biết câu này.
Vì tò mò nên Thương Hận bước lại gần hàng rào và ghé mắt nhìn vào trong coi ai ở trỏng.
Té ra là con nhồng.
Chắc sợ chủ bị ăn trộm nên nó mới cao giọng xua đuổi.
Thương Hận đoán chừng nó khoảng bảy tuổi, do chú anh bán chim chóc nên anh có thể đoán được.
– Đa đi hia!
Sau hàng rào trà vọng ra tiếng mắng nhỏ của một ông cụ, con nhồng lập tức im phăng phắc.
Nó cúi đầu rỉa bộ lông già xơ xác, dáng chừng như đang đánh trống lảng với chủ.
– Người ở ngoài kia nếu biết đờn ca tài tử thì vô đây hát đôi câu vọng cổ được không?
– …!Dạ, con không rành Cổ nhạc…!
– …!thì hát Tân nhạc…!
Thì ra ông cụ thời trẻ là một kép hát, vừa mới chập chững có tiếng thì hỡi ôi con Tạo xoay vần nhấn chìm hết bao công lao gầy dựng của cụ, khiến cụ phải bỏ nghề và lui vào bóng tối.
– Tại sao bây giờ không ai trở thành soạn giả cải lương giỏi à? – Cụ vừa cười vừa vuốt chòm râu bạc như cước.
– Giờ ưa chuộng cái “mốt” chửi hay như hát, ai ăn nói bặt thiệp thì chê bôi đạo đức giả, lời ca và cách hành văn mà trau chuốt, trang trọng quá thì phê phán người ta màu mè, sáo rỗng và sến rện; biểu sao cải lương không chết dần chết mòn kia chớ?
Phan Hoài Việt xin được pha trà giùm.
Ông cụ vui vẻ chịu liền, rồi chỉ đường cho anh thầy xuống nhà sau.
Gian nhà sau vẫn bày trí y hệt kiểu cách thập niên Năm Mươi, với bộ xoong, nồi, quánh, chảo treo trên vách và bộ mâm đồng đặt trên bộ ván gõ.
Cái sàn nước nằm cạnh con mương chuyển màu đen ngòm và nặng mùi vì nước thải sinh hoạt; hồi lên hỏi ông cụ mới hay trước đây có cây bần ngọt mọc sát mé mương, sau nước trong mương chết, nó cũng chết theo, thành ra ông mới chặt bỏ và sửa sang chỗ này thành sàn nước.
Ông cụ xẻ bánh Trung Thu nhưn thập cẩm ra đãi hai ngươi khách trẻ tuổi.
Con trai ông thí cho ông già nó mấy hộp bánh cao sang rồi leo lên xe về đô thành với gia đình mẫu mực của nó.
Thương Hận khoe rằng bữa nay mình số hưởng, toàn được ăn món ngon và hợp khẩu vị.
Nghe vậy, người kép hát già vuốt râu cười hề hà, chừng như rất vui với lời cảm thán của cậu nhạc sĩ đó.
– Nghe một vở cải lương hay có thể giúp mấy đứa học Sử và văn hóa Đàng Trong, cũng như nắm được lối đối nhân xử thế mà ông bà xưa thường làm khi giao tế.
“…!Ai có thương con nước tràn bờ?
Con nước nhớ nguồn, con nước khóc than
Còn tôi ngẫm lại phận mình nên tủi buồn rưng rưng lệ…!ớ…”
Do tuổi tác đã cao nên ông cụ không nhớ rõ lời, thành ra đắp chữ này thế chữ kia vô cho khớp điệu Nam Ai.
Hai người trai trẻ vẫn cảm nhận được cái hay và mùi trong giọng hát của người đàn ông sắp sửa tròn trăm.
Thương Hận hỏi:
– Cụ có ái mộ ai không?
Cụ vỗ đùi một cái đét rồi cười hớn hở:
– Có chớ, anh Thành Được nè, anh Hùng Cường nè, anh La Thoại Tân nè,…!
– Cụ ơi…!
Thấy người trai có vóc dáng tiều tụy và khuôn mặt xương xương ngập ngừng mãi mà chẳng nói tròn câu, cụ giục:
– Nói phứt ra cho cụ nghe đi con.
– Con muốn nghe một bản nhạc yêu thích của cụ.
Cụ già nghiêng đầu nhìn anh thầy, rồi chỉ chỉ tay bâng quơ mấy cái trước khi đi lấy cái máy hát.
Bài hát mang tên “Tình trăng Bến Hải” do nghệ sĩ Hùng Cường tự sáng tác và trình bày.
– Đây không phải là bản nhạc yêu thích của cụ, song cụ cho mấy đứa nghe đỡ trước khi nhớ ra tên bài hát đó.
Khi một tuần trà qua đi, ông cụ mới nhớ ra tên bài hát ấy, đó là bản “Chiều vàng” của nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh do “người đàn anh” của cụ, tức Hùng Cường ca.
Thương Hận bình phẩm:
– Bài này bác Sĩ Phú ca cũng hay lắm cụ.
Ông cụ gật gù:
– Phải, gì chớ giao tình ca cho anh Sĩ Phú biểu diễn thì nhạc sĩ yên dạ lắm.
Mảnh trăng khuyết mọc muộn ngơ ngác trôi giữa con sông Ngân rực rỡ và lung linh.
Chở nó đi là áng mây hình cánh buồm đen, những đường vân của áng mây vằn vện như da hổ, nhìn trông thật lạ.
Ông cụ đưa mắt ngó trời mà phán:
– “Trăng quầng thì hạn, Trăng tán thì mưa”.
Không biết điềm gì sắp xảy ra mà coi bộ hung nhiều hơn kiết.
Hai người khách nhỏ tuổi vừa ăn bánh, uống trà vừa nghe ông cụ tự dưng cao hứng diễn vai Gia Cát Khổng Minh.
– Sao Thái Bạch, hay còn gọi là Kim Tinh – Venus, sao Hôm, sao Mai, mà mọc gần trăng lưỡi liềm thì thường trong nước sẽ xảy ra đại dịch, nạn đói, vua tôi và quan thần tranh đấu, nhân dân lầm than…!
Ngừng lại uống một ngụm trà chát, ông cụ mỉm cười nói với hai đứa nhỏ đáng tuổi cháu mình:
– Hồi đó đang soạn dang dở vở tuồng này thì…!”Bùm”…!xong phim.
Thương Hận bùi ngùi thương cảm cho người kép hát tài hoa nhưng số phận vô duyên với nghề.
Nhìn người rồi ngẫm lại phận mình, chắc không sớm thì muộn anh cũng phải hát bản “Người ngoài phố” của nhạc sĩ Anh Việt Thu với cây đàn guitar này.
Phan Hoài Việt muốn ông cụ vui nên khai thác thêm đề tài đó:
– Vở tuồng này tên chi thưa cụ?
– “Thầy mò mắc nạn”, phê phán thói bói toán, dị đoan của một số bà con Nước mình.
– Cụ ca mấy câu cho tụi con nghe được hôn?
Ông cụ vỗ đùi mà nói:
– Được chớ…!Được chớ…!
Rồi cụ tằng hắng mấy cái trước khi biểu diễn:
– …!Bớ cô tiểu thơ đang đi đằng kia xin cho tôi nói đôi lời
Kìa trông sắc diện cô có điều chi phiền muộn?
Có phải là đang buồn gia đạo hay tình duyên?
Có phải cha mẹ hứa gả cô cho người mà cô không thích…!ớ…”
Uống cạn chung trà đắng như thuốc, ông cụ cười sảng khoái:
– Cái ông thầy mò này rất mê cô tiểu thơ khuê các nên tính lập mưu rước nàng về dinh, ai dè đâu ông hội đồng ổng phát hiện được nên “vời” lên nọc cho mấy mươi hèo.
Rồi ông cụ say sửa kể chi tiết vở tuồng dang dở do mình soạn.
Có những “miếng hài” rất duyên mà hai người may mắn được thưởng ngoạn, làm cả hai thi nhau ôm bụng cười ngặt nghẽo.
Tuần trà thứ hai vừa dứt, kế Phan Hoài Việt than thở với người kép hát già về cái nạn giả gái diễu hài đang tràn lan như dịch bịnh hiện nay.
Cụ thở hắt ra một hơi, rồi tâm sự:
– Trong nghề của cụ có nhiều người “bóng gồng” lắm.
Nhưng họ không có lố lăng hay mê trai như nhiều người lầm tưởng, mà lại sống rất bình thường và có nghĩa tình.
Nhiều lúc bà đào bả bị bịnh “thời tới” bất tử, mấy ông bạn cụ nhảy ra đóng thế luôn, coi họ diễn còn xuất thần hơn mấy bà đào nữa.
Thương Hận đăm chiêu thưa:
– Bịnh “thời tới” là bịnh gì hả cụ?
– Hành kinh.
Chưa có ghệ phải hôn?
– Dạ.
Nhìn sắc mặt đỏ ửng như phong pháo ngày Tết của cậu trẻ nhạc sĩ, ông cụ cười giòn:
– Mắc cỡ gì bây? Mốt nó đẻ con cho mày, mày phải đi mua băng vệ sinh giùm nó, ráng mà biết đôi điều về sinh lý phụ nữ để trọn nghĩa tào khang đi.
Nghe ông cụ mắng yêu như vậy, hai người trai trẻ chỉ biết ngượng nghịu cười xòa.
– À…!
Rồi cụ kể cho hai người trai trẻ nghe câu chuyện một bà đi coi cải lương lên sân khấu đại náo.
Số là vầy: Có một phân cảnh nữ tướng thất trận ôm bụng bầu tháo chạy, đằng sau là một viên võ tướng phe địch xách kiếm rượt theo truy sát.
Không biết coi nhập tâm cỡ nào mà bà đó bang lên sân khấu chửi “viên võ tướng” một tăng: “Mụ nội mày, con người ta có bầu mà mày cũng hổng tha nữa.
Thứ dòng bất nhơn thất đức.
Mày nhìn nó khóc lóc vậy mà mày hổng biết thương nó hả? Mày còn cầm cây kiếm nữa hả? Bỏ cây kiếm xuống liền cho tao coi…” Bả chửi xối xả tới đâu, bà con ở dưới ôm bụng cười rần tới đó.
Ông bầu phải ra năn nỉ bả lui gót ngọc xuống khán đài mãi, bả mới chịu yên.
Nhưng hai kép hát mắc cười quá không diễn được nữa, cứ đứng cười hoài nên ca cải lương không được, thành thử ra vở tuồng bữa đó “banh ta lông”.
Câu chuyện xảy ra ở Tân Thạch, Kiến Hòa; chuyện thiệt một trăm phần trăm mà cứ như bịa.
Thấy trời đã tang tảng sáng, hai người giựt mình xin phép cáo từ ông cụ để tránh khiến cho ông già Ba Trí và anh bạn điên ở nhà lo.
Biết không thể cầm chân được hai người khách mà mình hết sức cảm tình, ông cụ buồn thiu bắt hai đứa nhỏ chờ, rồi quày quả xuống nhà sau lấy lên hai hộp bánh Trung Thu chưa hết hạn mà đã phủ bụi vì cụ không thèm đem cất.
Sau khi lấy chổi lông gà quét sơ, rồi lấy khăn ướt lau chùi kỹ lưỡng, ông mới đem lên đưa cho hai cậu trẻ.
– Chà, hiệu này mắc tiền dữ nghen cụ?
Ông cụ vỗ vai chàng nhạc sĩ trẻ mà cười nói:
– Mắc gì bây? Cầm về ăn cho cụ vui nghen…!
– Dạ…!
Quang cảnh hãy còn đắm trong màn sương lành lạnh.
Hừng đông mới hé không đủ thắp sáng đất lành.
Ấy vậy mà những loài chim hiền đã thi nhau hót véo von trên những cành cây sum sê, đặc rật lá.
Đâu đó có mấy thím đã ngoài bốn mươi quải đôi quang gánh ra chợ quê để bán đồ ăn sáng; xuống dưới cái miệt rừng dừa này mới thấy áo bà ba còn sống, còn đượm hương da thịt người chớ hổng bị bỏ xó vô góc tủ hay bị chê bôi quê mùa.
Tức mình một cái là ban nãy lỡ ham ăn bánh Trung Thu quá, nên sáng nay không thể rủ hai ông cháu “người dưng” ghé chợ làm bậy một món lót lòng, hay nói cao sang là đi ăn điểm tâm sáng.
Bà con sống bằng nghề ruộng đã ra đồng gần đủ mặt, cánh đồng đương mùa lúa chín tỏa mùi thơm rất đỗi dịu dàng và gây xốn xang trong dạ một nỗi tình cảm thương yêu tràn trề.
Một nhóm học sinh đạp xe đi ngang qua họ, đứa nào đứa nấy kể lể bài kiểm tra một tiết bữa nay khó dữ lắm, gặp bà cô đi dạy mà mang bản mặt đằng đằng sát khí y như ông Bao Công lúc xử chém Quách Hòe, trưa nay chắc nuốt cơm hổng trôi; có đứa, chắc đứng nhứt từ dưới đếm lên, năn nỉ mấy đứa bạn cho mình “cập-dê”, giọng điệu thê thảm còn hơn Hạng Vũ bại trận.
Chưa kịp nghe mấy đứa bạn của nó giãi bày sao, thì tiếng kèn của một chiếc xe hơi chở mướn hiệu “Ford – Discovery” làm át đi tiếng đám học trò nhỏ, một thoáng tuổi thơ vụt bay theo âm thanh đô thị ồn ào.
Đặng Xương Tuyết đang cuốc đất trồng khoai trong mảnh vườn sau hè.
Ông già Ba Tri thì lo quét dọn và lau chùi nhà cửa.
– Ông ơi, Tuyết ơi, có bánh Trung Thu nè.
– Ờ, tôi nghe rồi cậu Tư.
Ăn gì chưa mấy cậu?
– Dạ, tụi con ăn bánh Trung Thu no rồi.
– Vậy tôi với thằng Tuyết ra chợ ăn sáng nghen?
Anh thầy thất chí la hoảng:
– Ế, cho tụi con đi chung với.
Gã điên rút vô nhà tắm rửa mình rửa mẩy rồi đổi sang bận bộ đồ mới.
Ở gần riết họ mới biết anh ta rất ít khi mặc áo sơ-mi và quần ka-ki, trang phục thường ngày hay thấy là áo thun, áo ba lỗ và quần jeans.
Quán hủ tíu nằm ngay đầu khu chợ quê, kế bên chỗ giữ xe và bán bánh mì của hai vợ chồng bác Năm, mới mở cửa được vài tiếng mà đồ bán đã gần hết.
Bốn người chọn bàn ngoài hiên quán, trời lại sắp chuyển mưa nên nắng không gắt mấy.
Anh thầy và chàng nhạc sĩ ngồi uống trà chanh và ngó hai ông cháu nuôi ăn hủ tíu xì xụp.
Con gái của vợ chồng chủ quán đang nhún nhảy theo bài “Giấc mơ Don Quichotte” do Duy Quang ca; nhóm nhạc sĩ “Trịnh Lâm Ngân” đặt lời Việt từ ca khúc “Don Quichotte” của ca – nhạc sĩ Julio Iglesias.
– Có một câu nói dựa trên tư tưởng Phật Giáo rằng, “Im lặng là câu trả lời tốt nhất cho những ai không coi trọng lời nói của bạn.” Tôi chỉ nói nhiều với những ai chấp nhận lắng nghe tôi nói, còn thường thì tôi sẽ im lặng.
Thương Hận hỏi:
– Tôi nên tìm hiểu Kinh Phật từ đâu?
– Tôi khuyến khích nên tìm hiểu Phật Giáo thông qua Kinh Nikaya, tức “Tương Ưng Bộ”.
Chứ không phải là trên những diễn đàn Phật Học đầy rẫy ở mạng xã hội; người viết và người bình luận vẫn còn cái Ngã quá lớn nên không thể ngồi xuống nói chuyện với nhau một cách ôn tồn, thành thử ra chỉ tổ “đa thư loạn tâm”.
– Anh có tin vào Nhân Quả – Báo Ứng không?
– Có, bởi vì tôi đã chứng kiến, nghe thấy và trải qua rồi nên tôi hoàn toàn tin.
Ba người kia hối gã điên kể.
– Có một số người hay nói cái đám đó làm ác vậy sao không bị Quả Báo, nhưng kỳ thực là có mà bị chúng giấu nhẹm hết.
Trước đây có một kẻ chuyên đi săn lùng phe đối lập, hễ nghi ai là sai phe của ông ta tới bắt trói và cột cứng người đó dưới chân cầu, rồi để mặc cho con nước lên nhấn chìm người đó chết ngạt một cách từ từ.
Sau này về già bị trổ bệnh lạ, bỗng dưng bị sốt cao và nói sảng không ngừng, con cái của ổng nghe rằng, “Chú Tư ơi, thím Mười ơi, con biết lỗi rồi, cởi trói giùm con đi, con không muốn chết đâu.” Vốn dĩ là một gia đình vô thần, vậy mà con cái của ổng phải rước thầy về tụng kinh cho ổng.
Người thầy pháp đó than rằng làm bao nhiêu chuyện ác thì ai cứu nổi đây.
Để giảm bớt cơn đau cho ổng, người thầy pháp đó đặt con dao bầu dưới gối nằm rồi cùng các đệ tử niệm Kinh.
Rốt cuộc sau mười ngày tụng kinh trì chú, ông ta mới được chết, nhưng chết mà mắt vẫn mở trừng trừng như đang đau đớn cực điểm, con cái vuốt mắt không biết bao nhiêu lần hai mắt ông ta mới chịu khép lại.
Chuyện thứ nhì: Có một ông cũng theo phe ổng chuyên môn tra tấn người tình nghi thuộc phe đối lập, sau này tự nhiên phải cạo trọc đầu và giữa trưa nắng phải nhảy ùm xuống mương ngâm mình hàng giờ liền như con trâu tránh nóng.
Cứ hễ để tóc là đầu ông ta đau như búa bổ, còn cơ thể thì hễ đúng Chánh Ngọ là bốc hỏa như bị nung trong nồi nước sôi.
Phan Hoài Việt cau mày:
– Tại sao gia đình của cái ông đầu tiên không đưa ổng đi bệnh viện?
– Bị bệnh viện trả về.
Nuốt thuốc bao nhiêu, ói ra bấy nhiêu.
Cực chẳng đã người ta phải mời Tăng sĩ tới cứu, mặc dù trong tâm không hề có đức tin hay kính trọng Đạo Pháp.
Người nhà thuật rằng nhờ tụng kinh trì chú mà ổng đã bớt mê sảng và đau đớn trong suốt những ngày cuối đời của mình.
Nguyên cả cái xóm đó làm chứng cho hai câu chuyện trên.
Ông già Ba Tri đợi cho thằng cháu nuôi nói dứt câu, liền gọi thêm một tô xí quách, khô mực cho nó ăn tẩm bổ.
– Người hay kể chuyện này cho tôi nghe luôn dặn tôi phải nhớ kỹ câu, “Thiện – Ác đáo đầu chung hữu báo”.
Gạt người được, chớ gạt Ông Trời hổng được.
Vì nhân viên bưng đồ ăn lên gã điên ngừng kể.
Anh thấp giọng cảm ơn người phục vụ rồi quay lại trình bày tiếp:
– Quả Báo chứ không phải trái cây mà muốn nhìn lúc nào cũng có.
Ý là tôi quan sát bầu trời đêm suốt bao nhiêu năm qua mà chỉ thấy được một hiện tượng thiên văn lý thú có một lần; đó là một vật thể sáng đỏ to bằng nắm tay em bé và trông như thiên thạch xẹt từ chòm sao Bắc Đẩu xuống hướng Tây, nó bay khá chậm nên mắt tôi thấy rất rõ ràng.
Thương Hận chống cằm hỏi:
– Còn chuyện của anh thì sao?
– Tôi sẽ kể cho mọi người nghe vào bữa cơm tối nay…!
Ăn uống xong xuôi, nguyên đám rủ nhau đi chợ quê coi dân tình buôn bán và trả giá.
Thương Hận ghé sạp trái cây mua cho mỗi người một bịch ổi trộn muối ớt sẵn cho đỡ buồn miệng.
– Anh Tư! Em mới dìa nè anh Tư!
Con nhỏ bữa nay trông như cây củi.
Nước da trắng xanh bệch bạc.
Cái đầu đội bộ tóc giả làm từ tóc thiệt của má nó bây giờ nhìn chẳng khác nào trái dừa éo.
– Ăn gì chưa em? Dạ thưa thím Bảy.
– Em nó không đói con.
Thím biểu nó kiếm gì ăn mà nó nhứt quyết hổng chịu.
Lì thiệt là lì.
– Anh Tư hát cho em nghe đi.
Đặng Xương Tuyết xía vô:
– Vậy anh mua cho em tô nui thập cẩm, em phải ráng ăn cho hết nửa tô đó nghen?
Con nhỏ chun mũi làm xấu, thay cho lời phản đối.
– Còn thím…!
– Thôi, thím ăn phụ nó.
Bỏ mứa tội lắm.
– Thím muốn ăn gì để con mua riêng.
Bây giờ không lẽ thím trả lời món chi thím cũng thèm hết thì coi không đặng, cho nên thím đành ậm ừ cho qua chuyện, nhưng vẫn bị anh Hai hàng xóm phát giác.
Ông già Ba Tri bèn gợi ý mua cơm gà xối mỡ ở quán cơm người Tiều cách khu chợ này khoảng một cây số về phía Bắc; rồi không đợi người bạn hàng xóm ừ hử gì, ông đã leo lên xe lam và dông mất.
Một số nam thanh nữ tú phát giác ra sự có mặt của Thương Hận nên túm tụm thành vòng tròn xung quanh chàng nhạc sĩ và hai người bạn của anh.
Vài người bắt đầu mới anh hát, và anh đành mượn cây đàn guitar phủ bụi dựng trong góc sạp bán trái cây để chiều theo ý các khán giả trẻ:
– Tôi xin phép được trình bày ca khúc “Còn nhìn nhau hôm nay” của nhạc sĩ Nguyễn Trung Cang; ca sĩ Elvis Phương và “Phượng Hoàng band” biểu diễn rất hay.
Tôi xin dành tặng bài hát này cho cô bé dễ thương đang ngồi ăn bột nui đằng đẵng.
Vì có thuộc lời bài hát nên gã điên tham gia phụ họa để giúp người bạn nhạc sĩ đỡ hụt hơi.
Thương Hận hát tiếp bản “Tôi muốn” của nhạc sĩ Lê Hựu Hà.
Anh vừa hát xong đã có người cất tiếng trầm trồ:
– Oa, giọng cậu nghe giống ông Lê Hựu Hà quá.
– Dạ, thì con có chút tiếng tăm là nhờ có giọng hát na ná cố nhạc sĩ mà.
Ông bác mặc áo sơ-mi trắng và quần jeans đen đứng chắp tay sau lưng gục gặc đầu.
– So với hai cây đại thụ Nguyễn Trung Cang và Lê Hựu Hà, thì những gì con viết ra không đáng để vào mắt.
– Cậu theo “trường phái” của hai cố nhạc sĩ phải không?
– Thưa phải.
– Rất khó để học theo, từ lời ca cho đến giai điệu.
Tôi có thể chỉ ra vài chỗ còn dở và thừa trong bài “Đời cọng rơm” của cậu.
– Dạ, rất mong bác chỉ dạy cho con hay.
Con xin chân thành cảm ơn bác trước.
– Cây guitar đó là của tôi.
Trước năm 75.
– Bác có từng theo học lớp dạy nhạc của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông hoặc của ba ông Lê – Minh – Bằng không?
Nhưng ông bác không trả lời, chỉ cười lấy lệ rồi ngồi xuống cạnh chàng trai cũng nợ đàn một kiếp như mình.
Bấy giờ anh mới phát hiện ngón trỏ tay phải của bác mất hết một đốt.
– Tôi với cậu cùng chung một tính, đó là không đủ can đảm để biểu diễn những bài do mình tự sáng tác.
Ông bác chợt mời người ký giả “Mác-tăng-xít” ca chơi một bài, gã điên bèn hát bản “Cuộc đời” của nhạc sĩ Lê Hựu Hà:
“…!Buồn ta cứ khóc, cần chi phải giấu
Đời đâu có ai thương mình…”
Đợi người đàn ông có nước da ngăm đen như cột nhà cháy “trình diễn” xong, ông bác cất giọng hỏi:
– Theo cậu thì những câu “Người ta có tiền nên người ta có quyền”, “Không được như người ta nên ghen tị rồi soi mói hả?”,…!như thế nào?
Gã điên bật cười không thành tiếng, rồi xoa xoa tay và nói:
– Tự dưng làm nô lệ tâm thức cho người dưng nước lã.
Thuở xưa, người ta bị ép buộc, tù binh chiến tranh hay đói khát mới phải cam chịu phục tùng kẻ có quyền thế và giàu sang.
Ngày nay bỗng nhiên tự nguyện đội kẻ có quyền thế và giàu sang lên đầu.
Ông bác lại hỏi cảm nghĩ của anh về câu “Có làm được như người ta không mà ý kiến ý cò”, và gã điên đáp rằng:
– Chẳng lẽ tôi phải từng giết người mới được quyền chỉ trích kẻ sát nhân sao?
Phan Hoài Việt bị Thương Hận mời tới hát hợp ca cùng mình và người điên mê văn chương.
Anh thầy thất chí đành phải đồng ý.
– Tôi cùng hai anh đây sẽ hát bài “Nguyện cầu” của nhạc sĩ Nguyễn Trung Cang.
Và ba người hát rằng:
“…!Xin cho nhân thế vơi đi hận sầu
Đã bao mồ chôn biết bao linh hồn…”
Có người mời Thương Hận tới đám cưới con gái nhà họ biểu diễn nên anh đành cáo lỗi với quý khán giả để đến đó chung vui cùng gia chủ.
Cuộc vui đành tàn ngang xương.
Anh thầy thất chí rủ người bạn ký giả theo mình ra đồng ngắm ruộng lúa.
Vụ mùa năm nay coi bộ khấm khá lắm, cũng hy vọng bà con nông dân sẽ lời hơn mấy năm trước.
Bất chợt Tuyết ngẩng đầu nhìn mây trời mà cười.
– Chuyện gì vậy Tuyết?
– Không biết trên đời này có ai không bị kẻ thù đồng hóa không.
Chứ tôi thấy ở đây vô số người ghét kẻ thù của mình nhưng lại hành xử và ăn nói y chang người họ ghét.
Nói cụ thể như chỉ trích kẻ thù của họ dùng chữ trật lất, nhưng bản thân họ lại diễn giải sai chữ nghĩa để giành phần lợi về mình.
Phan Hoài Việt “À” lên một tiếng.
– Cho nên tôi mới dành thời gian tìm bài của ông bác người dưng họ Võ để mà đọc; vì khi đề cập tới chủ đề chữ nghĩa, ông và các bạn không lồng ghép tôn giáo của mình vào trong cuộc tranh luận, và luôn tôn trọng tiếng địa phương sử dụng đúng của nhau.
Diễn đàn tranh luận thật văn minh; và không bao giờ bắt chước lối ăn nói của kẻ mà họ ghét, hễ thành viên nào tính nói giễu bằng lối nói đó đều bị những thành viên khác cảnh cáo và khuyên gỡ bài, hoặc bắt buộc phải bỏ cái chữ đó vô trong ngoặc.
Điểm mà tôi vô cùng thương các anh, các chị, các cô, các chú, các ông, các bà trong diễn đàn đó là không bao giờ chửi thề hay đòi chém, giết hoặc hành hung những ai trái ý mình; bởi vì phương châm của mọi thành viên là “Chúng ta không phải là chúng”.
Tiếc thay, diễn đàn đó đã “đóng cửa” rồi.
Phan Hoài Việt phì cười:
– Mà nghĩ cũng ngộ đời thiệt, ghét cái lối nói đó mà lại đi giễu nhại bằng chính lối nói đó.
– Có lần diễn đàn đề cập chữ “Chuẩn xác”, các thành viên cựu trào đã cắt nghĩa rất rành mạch rằng tại sao có thể sử dụng chữ mới này, và vì lý do gì mà không nên xài chữ “Chuẩn” một mình.
Họ bàn hay đến nỗi tôi có cảm tưởng đang lạc vào một buổi diễn thuyết của các học giả Sư Phạm, và khiến tôi phải thấy mắc cỡ vì trình độ hiểu biết hạn hẹp của mình.
– Anh thấy nếu diễn đàn đó còn tồn tại thì ai sẽ không thích hợp tham gia?
– Diễn đàn đó không phù hợp với những ai khoái chửi tục và ưa câu “Những người nói đạo lý thường sống như…”; bởi ở đó chỉ có văn chương, chữ nghĩa mà thôi.
Vừa hay bên đường có cây mận mọc dại nên Phan Hoài Việt với tay lên hái.
Hái đâu được mấy trái, anh cất giọng hỏi người bạn thiết:
– Thời đại Hùng Vương có thật không anh?
Như để chắc chắn với những gì mình nói, Đặng Xương Tuyết mở điện thoại lên và chậm rãi trình bày:
– Theo ông Phạm Trần Anh thì có một chi tiết liên quan tới thời đại này được đề cập trong quyển sách “Cultural frontiers in ancient East Asia” của tác giả William Waston, đó là các nhà khảo cổ đã tìm thấy cái qua có khắc chữ Nhược Ngao – Một loại vũ khí của người Việt cổ – ở vùng Hồ Nam bên Tàu.
Đây là nguyên văn mà ông ấy viết, “Theo Sử Ký Tư Mã Thiên và Xuân Thu tả truyện thì vị vua có hiệu là Nhược Ngao là vua Hùng thứ 14 tên thật là Hùng Nghi hiệu Nhược Ngao cai trị vào năm 789 trước Tây Lịch.
Đây là vị vua Hùng thứ 14 trong 18 vị Hùng Vương, mà chúng ta thường gọi là 18 đời Hùng Vương.”
Ngừng nói để lấy hơi một lát, gã điên mới nói tiếp:
– Tôi xin phép đọc tiếp nguyên văn:
“Nguyễn Như Đỗ thời vua Lê Thánh Tôn ghi lại công trình nghiên cứu của Trần Huy Bá về “Hùng Vương sự tích Ngọc Phả cổ truyện” cho thấy thời đại Hùng Vương kéo dài 2622 năm gồm 47 đời vua.
Theo bản “Hùng Vương Ngọc Phả” thì đời vua cho thấy chữ Hán là “Thế”, “Thế” không phải là một đời vua mà là một dòng vua, một triều đại gồm nhiều đời vua.
Riêng chi thứ 18, chi cuối cùng của thời đại Hùng Vương gồm 3 đời vua trị vì suốt 150 năm.
Hiện ở Đình Tây Đăng, huyện Ba Vì tỉnh Vĩnh Phú còn thờ bài vị “Tam vị Quốc Chúa”, chi này chấm dứt năm Quý Mão 258 TDL vào cuối đời Chu.
Mỗi dòng vua được xếp theo thứ tự bát quái và thập can như sau: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài và Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý.
Theo ý của người viết bài này, thì “…!18 đời ở đây là 18 chi, 18 triều đại và mỗi triều đại gồm nhiều đời vua, tất cả là 47 đời vua Hùng trị vì 2622 năm.”
Trên đây là quan điểm và tài liệu của học giả Phạm Trần Anh, tùy hỷ người suy nghĩ, tôi xin thất lễ không phát biểu ý kiến của mình.
Còn ba chữ “TDL” theo tôi có nghĩa là “Trước Dương Lịch”.
Sau khi tắt điện thoại, bỏ nó vô túi quần, gã điên khui chai nước suối rồi tu liền nửa chai.
– Cảm ơn anh đã chịu khó đọc cho tôi nghe.
Vừa nâng cánh tay lau miệng, gã điên vừa cười biểu:
– Vẫn theo lệ cũ, “Đọc để tham khảo, chứ đừng tin liền”.
– Phải, như lời Như Lai đã nói trong Kinh Kalama, “Đừng vội tin…” Nhưng mà công nhận anh thích đọc chữ thiệt đó, hầu như tôi thấy đề tài nào anh cũng có coi qua.
– Tôi chỉ kể cho người khác nghe những gì tôi biết và đã đọc qua, chứ không đời nào tôi kêu gọi người khác phải tin, làm, học theo hay sùng bài những gì tôi kể.
Tôi tôn trọng nhân quyền của mọi người, vậy thôi.
Đợi cho áng mây trôi ngang qua ngôi nhà lầu, gã điên mới nói:
– Nếu ai yêu lối văn và muốn biết về đời sống Nam Kỳ, hãy tìm đọc sách của cụ Tiểu Tử.
Hai người ngồi nghỉ dưới gốc cây đa chừng hơn một tiếng đồng hồ mới thấy mặt chàng nhạc sĩ.
Thương Hận trao cho anh bạn ký giả hộp thuốc lá, rồi cất giọng cáo từ hai người.
Anh sẽ xuống Đồng Tháp ở chơi với ba má nửa tháng, hoặc cũng có thể là hết quý này, rồi mới trở lại Sài Gòn.
Nhưng anh chẳng nói lộ trình này cho ai hay để tránh gây nguy hiểm cho người thân của mình.
oOo
Ignacio Cường mời JB Khải một bữa cơm ở quán dì Năm.
Sự xuất hiện của người Linh mục bị treo Chén đã gây một trận “cuồng phong” bất đắc dĩ cho Giáo xứ Saint Pio, bởi Giáo dân lầm tưởng anh ta tới đây để nhậm chức Chánh xứ.
Người vui buồn lẫn lộn nhứt là Thầy Phó Tế, ông rất có cảm tình với JB Khải mà cũng giận cậu đó vì chuyện với cô Theresa Thảo.
Dượng Bảy đã đọc qua hồ sơ ghi chép về lý do bị nghỉ mục vụ của JB Khải nên trong tâm ngờ rằng cựu Linh mục này bị oan.
Do đó khi thấy cậu ta bước vô quán cùng Cha Cường, ông bày tỏ thái độ cảm thương chớ không phải khó chịu như một số Giáo dân ở đây.
– Hai Cha ăn gì?
– Xin dượng đừng gọi tôi là Cha, tôi đã bị treo Chén rồi…!
Dượng Bảy gật đầu.
Rồi hỏi JB Khải dùng chi.
Anh ta trả lời rằng muốn ăn lại món mỳ kéo tay gia truyền của bên vợ ông.
Còn Linh mục Vũ thì gọi một tô hủ tíu gà và một chén hoành thánh.
– Anh làm Cha Phó được bao lâu trước khi bị treo Chén vậy?
– Ba năm…!
– Rồi Cha Sở “second-hand” tìm cách khiến anh bị nghỉ mục vụ hả?
– Ừ.
– Sao các Giám Mục…!
– Họ ngụy tạo chứng cớ tôi ăn chơi trác táng và có tác phong không đàng hoàng để tôi bị treo Chén.
Số là vầy: Có người gọi điện thoại báo cho tôi hay cô Theresa Thảo bị móc túi ở quán rượu nên không có tiền trả, giờ bị người ta tính giở trò bỉ ổi để cấn qua.
Tôi mới hỏi sao không báo cho ba má cổ biết mà lại gọi cho tôi, thì người đầu dây nói cổ sợ ba má la nên nhờ Thầy giúp giùm.
Tôi hỏi bao nhiêu, người đó nói chừng hai trăm đổ lại; tôi vét hết túi được ba trăm rồi tới đó bằng taxi.
Không hiểu ai đã chụp ảnh mà toàn là hình tôi đứng sát vô cổ, tức là tôi đứng sau lưng cổ chớ không phải đang ôm ấp gì nhưng do góc chụp nên thành ra y như là…!
Dượng Bảy và những thực khách bàng hoàng trước những lời mà người Linh mục bị treo Chén vừa nói.
– Cổ khóc quá trời quá đất.
Cổ nói tại cổ mà tôi bị vu khống.
– Bây giờ coi máy thu hình giám sát của quán rượu là biết anh bị oan liền.
– “Còn gì nữa đâu mà khóc với sầu…”
Hát xong một câu trong bài “Ngày buồn” của nhạc sĩ Lam Phương, JB Khải cúi đầu chà chanh lên đôi đũa tre đen mun.
Ngoài trời nắng như đổ lửa, trời hầm kinh khủng, giờ chỉ mong một trận mưa dông thật lớn trút xuống cho mát cửa thoáng nhà.
Nhưng nói đi thì cũng phải nói lại, nhờ thời tiết như vầy nên nước sâm của hai vợ chồng dượng Bảy bán rất đắt.
– Nói nào ngay Cha Đoàn có nói đỡ cho tôi.
Tới lúc tôi bị treo Chén, ảnh viết thơ tay gởi từng Giám Mục xin hãy điều tra lại; nếu như tôi sai hoàn toàn, thì cũng xin cho tôi một cơ hội sửa sai và được tiếp tục làm ngôn sứ của Chúa.
– Ủa? Sao các Giám Mục…!
– Những bức thơ tay của ảnh không tới tay các Giám Mục.
Chúng bị nằm dưới đống độn nơi đường mương của Giáo xứ.
Tôi còn giữ mấy tờ khá khô ráo và ít bị nhòe chữ.
Xém chút nữa là dượng Bảy đã làm đổ hai ly nước sâm dứa sữa xuống bàn.
Tin này giáng xuống đầu ông còn hơn Trời đánh.
– Ảnh đã lăn dấu vân tay bằng máu của mình trên mỗi phong bì.
Vì tôi nhìn thấy dấu vân tay in trên đó và cánh tay trái quấn băng trắng xóa của ảnh.
– Tôi đã hiểu tại sao các Giáo dân ở đây coi anh Mỹ như Cha Sở “dự bị”.
– Ảnh luôn tâm niệm câu, “Phúc cho ai chết vì sự công chính, vì Nước Trời là của họ.” Nên ảnh không ngại xả thân vì mọi người.
Sau bữa ăn, Ignacio Cường mời người bạn đồng Đạo theo mình vô nhà thờ thăm viếng.
Cảnh cũ còn đây nhưng người xưa ít nhiều đã thay đổi, thay đổi về mặt tâm tánh là nhiều chứ tướng tá chẳng khác bao nhiêu.
– Tự nhiên tôi nhớ thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên quá…!
Ignacio Cường nghiêng đầu nhìn anh bạn mà cười hỏi:
– Nhớ sao anh?
– “Tượng Chúa gầy hơn xưa.
Chúa bây giờ có lẽ xuống trần gian trong mưa.” Nhạc sĩ Phạm Duy phổ bài thơ “Hai năm tình lận đận” mà chú Hải viết cho cô Bắc Kỳ tên Duyên học Luật Khoa thành bản nhạc cùng tên.
JB Khải bước lên bục và quỳ xuống dưới hình tượng Đức Jesus Christ thọ nạn trên cây Thánh Giá mà chắp tay thưa Chúa, thưa rằng con đã trở về ngôi nhà dưới trần của Ngài và Đấng Jehovah.
Một vài Giáo dân ghé nhà thờ chứng kiến cảnh tượng trên tuy ngoài mặt không bình phẩm chi hết nhưng trong bụng ít nhiều đều có lời để nói.
Xong xuôi đâu đó, Ignacio Cường dẫn JB Khải đi thăm viếng những nơi khác trong nhà thờ; vừa đi anh vừa kể lại diễn biến của những buổi Thánh Lễ và sinh hoạt Giáo xứ trong những năm vừa qua.
Người bạn đồng Đạo chỉ cười mỉm, chứ không bình luận gì.
Lên tới gác chuông, lúc bấy giờ JB Khải mới lên tiếng:
– Có biết tại sao Cha Thành lại nói “Xịt lốp” không?
– Không.
– Hồi đó, hồi mà ba thầy Dự còn sống, ổng mở chỗ sửa xe đối diện chân cầu chữ Y.
Xe đạp của Cha bị bể bánh nên vô đó vá lại, Cha nói, “Vá vỏ xe đi anh ơi.” Ổng đáp tỉnh rụi, “Ông này buồn cười nhở? Vỏ xe còn lành lặn thì vá làm gì?” Cự qua cự lại một hồi, ổng mới vỗ trán than, “Bác tha lỗi cho tôi nhá, tôi quên mất trong này vỏ xe tức là cái lốp xe, tôi cứ nhớ tiếng địa phương hoài nên đâm ra nhầm lẫn.” Thành thử ra, sau này sống chung với thầy Dự, hễ mỗi lần vá vỏ xe là Cha lại biểu cái lốp, riết rồi quen miệng luôn.
– Tôi sợ Cha không phải là quen miệng đâu…!
– Mà là gì?
– …!mà là ghẹo thầy Dự riết bị lậm.
Cha có cái tật hễ thương ai là ghẹo người đó cho tới khi nào người ta giận mới thôi.
Chợt chuông nhà thờ ngân nga theo giai điệu bài “Kìa con bướm vàng”, rồi trịnh trọng gõ hai tiếng: Bây giờ là hai giờ chiều.
– Lần trước Cha nhắc tới chữ “húy kỵ” của thầy Dự, nhìn mặt thầy “vui” như mới vừa mất sổ gạo.
– Ignacio Cường nói trong khi đưa mắt nhìn toàn cảnh Giáo xứ.
Hai người tha thẩn một hồi, rồi lạc vào bãi tha ma của Giáo xứ tự bao giờ mà chẳng hay biết.
Từ ngôi nhà bên kia đường vọng sang bài “Chuyện tình T.
T.
Kh của Song Ngọc” do Ngọc Lan ca; nhạc sĩ Song Ngọc phổ nhạc từ bài thơ “Hai sắc hoa Tigôn” của nữ sĩ T.
T.
Kh, trong tác phẩm này ông ký tên là Hoàng Ngọc Anh.
Nhạc sĩ Trần Thiện Thanh cũng có một bản phổ nhạc có tên là “Hai sắc hoa Tigôn (Một mùa Thu trước)”; người trình bày thành công nhất phải kể đến Thái Thanh, Hương Giang, Hoàng Oanh,…!Ngoài ra, còn nhạc sĩ Anh Bằng, nhạc sĩ Trần Trịnh và nhạc sĩ Hà Phương, cả ba ông đều lấy tên bài thơ đặt cho tình khúc phổ nhạc của mình; và có lẽ để tránh nhầm lẫn với những người khác, cụ Bằng đã đặt thêm tên “Chuyện hoa Tigôn” cho tác phẩm của mình, bài này có Như Quỳnh ca rất hợp giọng.
Tới tận bây giờ không ai rõ thân phận của người phụ nữ ẩn danh T.
T.
Kh là ai.
– Sao không ai sửa sang bãi tha ma vậy anh Khải?
– Nhà thờ không có tiền để sửa.
– Ủa? Giáo dân không phụ tiền vô hả anh?
– Không, có sự bất chính trong vụ hùn tiền nên anh Mỹ trả hết cho từng nhà rồi.
Ảnh nói sao người ta đóng rồi mà lại không ghi vô sổ.
Hai người đang nói tới đó, chợt họ thấy Antonio Vũ đang lúi húi sửa lại hàng rào cho ngôi nhà bên kia đường.
– Vũ!
– Ơi! Tôi nghe rồi anh Cường!
Hai người phóng qua con mương để tới chỗ Antonio Vũ.
Ngồi sau lưng anh ta là một cụ bà mặt mày phúc hậu và dễ mến; cái ghế bố, nếu như Ignacio Cường nhớ không lầm thì đó là món quà mà con trai lục tuần tặng cụ bà nhân ngày lãnh lương tháng vừa rồi.
Cụ bà nhỏm dậy làm dấu Thánh với cả hai người, rồi tính dợm bước đứng dậy đi lấy ghế nhưng đã bị hai chàng cản lại.
Tuy vậy cụ bà vẫn ráng hết sức kêu đứa cháu trong nhà chặt dừa đãi hai chàng.
– À, còn vụ Lễ “lớn”, Lễ “nhỏ”, có từng xảy ra ở đây không anh Khải?
Nghe Antonio Vũ hỏi như vậy, bất đắc dĩ JB Khải phải trả lời thật:
– Lai rai.
– Hả? Tệ dữ vậy sao?
– Ông ta đưa người của mình vào, ăn tiền quá nên bị Giáo dân phản đối nên rút lui rồi.
Hết “vẽ” xây cái này lại đặt ra điều luật kia, thành thử ra họ “ghim” tôi luôn từ đó.
Antonio Vũ thở dài thườn thượt.
Người cháu bưng mâm trái dừa ra tới ngạch cửa nhà sau thì đứng khựng lại mà thảng thốt kêu lên:
– Ủa, Cha Khải, Cha về hồi nào vậy Cha?
– Dạ, tôi không còn là Linh mục nữa nên xin đừng gọi tôi bằng cái danh cao quý đó.
Trong lúc JB Khải đang vấn đáp với thím Tư, cụ bà bất thình lình đứng lên và đi lại gần Ignacio Cường.
Cái lưng còng đã giúp cụ nhìn rõ thứ mà cụ cảm thấy khó hiểu; sau một hồi nhìn chòng chọc vạt áo dòng mà người Linh mục trẻ đang mặc, cụ dè dặt gọi:
– Cha Cường?
– Dạ, con đây thưa cụ.
– Sao con thấy áo của Cha dính cái gì đen đen giống máu quá vậy?
– Dạ, hồi nãy con phóng qua cái mương độn…!
Dường như cảm thấy có điều chi rất đáng sợ, ba người chạy tốc tới cái mương độn đó kiểm tra, và chia nhau tìm kiếm trong một sự bàng hoàng khôn tả.
– Xác…!xác của ai ở đây vậy?
Tiếng la thất thanh của Ignacio Cường khiến cho thím buông luôn cái mâm đựng mấy trái dừa xuống đất, xém chút nữa là dập bàn chân.
Thím quýnh quáng bấm số gọi cho Thầy Phó Tế, rồi gọi tiếp cảnh sát địa phương; nếu đúng là người chết bị hung thủ giấu xác ở đây thì coi như nhà thím năm nay gặp đại họa và phiền hà lớn rồi.
oOo
– Anh tên chi?
– Tôi tên Ngọc.
Út An nhờ người đàn ông lạ mặt giúp mình sơn tường rào vườn trẻ.
Vườn trẻ này được chính phủ xây cất hồi đầu năm nay, diện tích ước khoảng một ngàn mét vuông.
Phần mà chàng Mục sư đô con đang làm là quà của Hội Thánh dành tặng các em nhỏ xứ dừa.
– Tay anh bị gì mà mang sẹo dữ vậy?
– Bảo vệ John Tẩy Giả.
Vì Stephen đoàn nói nhỏ quá nên Út An nghe lộn thành “Bảo vệ vườn cây ăn quả”, nên chắc mẩm anh ta từ ngoài Bắc vô, thành ra anh hỏi:
– Lóng rày trộm cướp lộng hành dữ lắm.
Mấy nhà vườn ở đây mỗi bận vô mùa hái trái nhức cái đầu với đám đó.
Stephen Đoàn hỏi ở đây có việc nào mà mình có thể làm hay không, và chàng Mục sư đáp rằng ở đây đang thiếu người giữ trẻ.
– Tôi mà trông trẻ chắc hổng có đứa nào đi học đâu.
– Ờ há…!Cho tôi xin lỗi nghen? Tôi quên mất đây là “Điệp vụ bất khả thi”.
Stephen Đoàn mím môi sơn tường tiếp.
– Thôi, anh vô đây gác trường cũng được.
– Ừ.
Chợt điện thoại của người đàn ông cao gầy vang lên.
Anh ta cáo lỗi với Út An rồi đi một hơi ra ngoài mé mương và đứng dựa gốc cây mắm mà trả lời cuộc gọi.
Người đàn ông lạ mặt đó vừa rời đi chưa được nửa tiếng, kế đó Bảy Khanh xách hai thùng nước đi vô.
– Anh Bảy.
– Gì mậy?
– Có ông nào tới xin việc mà mặt mày coi ngộ lắm.
– Tao thấy mày mới ngộ.
Mặt mũi người ta sao thì thây kệ người ta.
Bình phẩm cái gì?
– Ờ, tui hổng nói cho ông nghe, lát ông té ngửa ráng chịu nghen?
– Gì đâu mà mày làm quá…!Ôi Chúa ơi!
Đó là khuôn mặt mà đạo diễn cần tìm cho vai phản diện: Mặt thoảng dài, mắt một mí hơi xếch và sắc lẻm, mũi cao như gọt và miệng không rộng lắm.
Stephen Đoàn gật đầu chào Bảy Khanh, rồi cầm cây cọ lên sơn tường tiếp.
Nét mặt khó chịu bẩm sinh của anh khiến cho hai người kia cảm thấy ngột ngạt.
Mục sư ở nhà thờ gần đây nhờ một người bà con tín hữu đi mời hai anh em lại nhà riêng của ông ăn trưa.
Tuy đã hết lời nài nỉ, mời mọc nhưng người đàn ông đó vẫn “kiên gan” từ chối hai anh em.
Anh ta viện cớ có tánh làm thì phải làm cho xong mới nghỉ tay ăn trưa được.
Hết cách, hai chàng Mục sư Lutheran đành “phó thác” bức tường cho anh ta, dù trong bụng áy náy khôn cùng.
Đã hơn một giờ trưa mà Stephen Đoàn vẫn chưa chịu nghỉ tay.
Mồ hôi mồ kê vã ra như tắm.
Áo quần, đầu tóc cũng nhuộm mùi chua vì mồ hôi.
Bỗng đâu có tiếng hát Anh Ngọc và ban “Tiếng tơ đồng” trong bài “Tạ từ” của nhạc sĩ Tô Vũ vẳng bên tai người Linh mục đã rũ bỏ áo dòng.
Anh cứ tưởng đâu nơi này chỉ có một mình anh, ai ngờ đâu…!
– Dạ, anh tên chi?
Cô gái đó dong dỏng cao, măt cười bán nguyệt và khuôn miệng cười rộ như hoa hàm tiếu.
Mái tóc búi cao, cố định bằng một cái kẹp chấu tóc nhựa màu trà.
– Anh Ngọc.
– Dạ, tôi biết người hát tên Anh Ngọc rồi, ý tôi muốn hỏi là…!
– Tôi tên Anh Ngọc.
Cô gái “À” lên một tiếng, rồi cười giòn:
– Anh cắt kiểu tóc nhìn giống mấy ông Cha trong nhà thờ quá.
– Vậy hả?
– Coi bô trai lắm.
Đôi má Stephen Đoàn bừng lên sắc đỏ.
Anh cười gượng gạo nói:
– Cảm ơn.
Ngoài mẹ tôi ra, trước giờ chưa có ai khen khuôn mặt tôi dễ coi.
Cô gái trẻ lúc lắc đầu, nét cười trên môi còn đậm hơn ban nãy:
– Ai cũng cười mẹ tôi đặt tên con “nổ” quá.
– Anh có biết “Vật cực tất phản” không?
– Là sao cô?
– Theo tướng pháp, xấu phải xấu hết sức, đẹp phải đẹp vô cùng, nó mới tốt; còn đẹp chín xấu một sẽ bị phá tướng.
Thập Trọc hoặc Thập Thanh, Ngũ Đoản hoặc Lục Trường, Toàn Xú hoặc Toàn Tú.
Rồi cô quay sang nhìn anh mà dịu dàng trình bày:
– Cũng vậy, một người mặt toàn những nét bạc ác chưa chắc ác, một người mặt thánh thiện như Thiên Tiên chưa chắc hiền; vì nhiều người bị phạm vô “Vật cực tất phản”, tức cái Thiện dồn hết vô Tâm và cái Ác phô ra hết trên mặt nên nhiều người lầm tưởng người đó là rắn độc, anh thuộc trường hợp đó đó.
– Cô thấy tôi tốt sao?
– Phải.
– Sẽ chính xác hơn nếu mình coi luôn lá số Tử Vi.
Stephen Đoàn quýnh quáng:
– Thứ lỗi, tôi không muốn coi Tử Vi.
– Đâu, tôi thí dụ thôi hà, chớ có biết gì về Tử Vi đâu mà anh sợ lỗi Đạo.
– Sao…sao cô biết hả cô?
– Cây Thánh Giá mà anh đeo trên cổ kìa.
Hai anh kia không để tâm tới anh nên không thấy được điều này.
Sao anh phải tới đây ở vậy?
– Tôi đã làm chuyện không nên làm…!
Lại một lần nữa, cô gái đó lại xua tan bóng tối trong anh:
– Tôi tin anh bị người ta gạt chớ anh hổng phải người xấu.
Như trước đây nè, lâu thật lâu rồi, nhiều người xách đồ giùm người ta ở phi trường mà phải lãnh án oan.
– Cảm ơn cô.
Cô gái cười khanh khách.
Vẻ mặt rạng rỡ của cô đối lập với sự u tối nơi sắc diện anh khiến hai người càng thêm xa cách.
– Mà nè, ba má của anh còn chớ?
– Ba mẹ ruột đều mất hết rồi.
Chỉ còn lại Cha nuôi, nhưng thận ông ấy không mấy tốt.
– Nếu như nội tạng của tôi còn xài được, tôi sẽ cho cha anh trái thận.
– Cha tôi đã ngoài tám mươi…!
– Hổng sao, cho ổng sống khỏe mạnh với con cháu thêm mấy chục năm nữa, rồi chừng ổng chết lấy hai trái thận đó cho người cần.
– Cô bị cái gì hả cô?
– Tôi bị khối u trong não.
– Sao tôi không thể nào lạc quan được như cô…!
– Chúa gọi tôi về với Ngài.
– Hả?
– Nếu như anh tin vô Chúa Trời, thì hãy nghĩ như vậy đi.
Sao nhiều người ham sống sợ chết vậy cà?
Stephen Đoàn bỏ cây cọ xuống kệ, rồi khoanh tay hỏi cô gái rằng cô nghĩ gì về đức tin.
– Đức tin có lẽ chẳng mài ra cơm gạo được, nhưng đức tin đúng đắn sẽ là thành trì bảo vệ nhân cách của chúng ta.
Tiền có thể mua được cơm gạo, nhưng vĩnh viễn không mua được nhân cách và thay đổi bản tánh của người khác.
Bởi vì nhân cách, tình yêu và sự chân thật vốn không bao giờ bỏ tiền ra mua được, cũng như dễ dàng giữ lấy cho tới khi lìa đời.
Nói tràng giang đại hải một hồi, cô gái mới sực nhớ hình như người đàn ông thất nghiệp này chưa có gì bỏ bụng nên cất giọng mời anh về nhà mình ăn hủ tíu.
Chàng Linh mục đoán rằng gia đình cô gái sống bằng nghề bán quán ăn.
Stephen Đoàn chở cô gái về nhà bằng chiếc xe gắn máy Piaggio màu ghi của mình.
Ai cũng cười thầm màu chiếc xe xứng với chủ nhân, tức là đôi bên cùng xấu đều.
– Tôi hay nghe “Quán Âm Thập Nhất Diện” của cô Tinna Tình.
– Hóa ra cô là Phật Tử.
Cô gái nói lảng:
– Bà Thái Thanh và cô Thái Hiền khi tuổi đã xế chiều đều lựa chọn trở thành cư sĩ Phật Giáo.
Rồi cô lại kể:
– Trước lúc chết, nhạc sĩ Trần Thiện Thanh đã thực hiện Lễ Rửa Tội Gia-Tô.
Nhưng tới chừng ổng mất, gia đình chia làm hai phe: Bà Mỹ Lan tổ chức tang lễ theo kiểu Đạo Chúa, còn mấy đứa con vợ trước thì làm hình thức Phật Giáo.
Bởi vậy nên tôi hổng biết cuối cùng Chúa hay Phật là người đón nhận linh hồn ổng nữa.
Nhưng chuyện này cũng chỉ thuộc loại hình “trà dư tửu hậu” nên không biết được bao nhiêu phần trăm chính xác nữa.
Qua đúng như suy đoán của Stephen Đoàn, gia đình cô gái mở quán bán đồ ăn kiếm sống, thực khách là chòm xóm gần đó và lâu lâu mới có khách vãng lai.
Sau khi thưa hỏi hai đấng sinh thành và người anh Hai của cô gái, Stephen Đoàn theo chân cô gái ra ngoài hiên ngồi cạnh hàng bần cho mát.
Hàng ba này nằm cạnh sông nên gió thổi mát rười rượi, bông bần rụng xuống sàn nhiều vô số kể.
Tía của cô gái thường hay ngủ trưa trên cái võng mắc ở khúc cuối hàng ba; để tránh bị muỗi chích, ông treo một cây đèn măng-xông phía trên chân võng.
Bản nhạc “Mai Lệ Xuân” của nhạc sĩ Song Ngọc do Nhật Trường ca gợi cho anh không khí ngày Tết, dù rằng hãy còn xa xôi lắm Tết mới chịu ghé chơi.
– Bài hát nghe buồn quá anh hén?
– Dạ, buồn sao cô?
– “…!Tôi với nàng không có tiền duyên, nên mỗi lần Xuân đến dương gian, mang kỷ niệm xưa nhắc tên em.”
…!
Đám con nít đang lóng tai nghe Stephen Đoàn đọc sách “Chuyện đời xưa” của cụ Petrus Trương Vĩnh Ký; có đứa mê tới nỗi há hốc miệng mà không biết nước miếng nhễu nhại nãy giờ.
Cô giáo Xuân nói với nhỏ bạn đồng nghiệp:
– Con nít không như người lớn, thích trông mặt mà bắt hình dong, nên tụi nó ít lầm lắm.
Sau giờ học, Út An mời anh bạn tên Ngọc với cô giáo Xuân đi ăn hủ tíu tại nhà cô; Bảy Khanh đã ngồi ở đó đợi chắc được khoảng mươi, mười lăm phút.
Má cô Xuân đang nghe bản “Chuyện tình người trinh nữ tên Thi” của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ do nữ ca sĩ hải ngoại Thúy Hằng ca.
– Xin lỗi, tự nhiên tôi lại vô duyên khóc.
– Con đau ở đâu hả Xuân?
– Dạ không má, chỉ là…!
Bà ngó người trai tên Anh Ngọc một đỗi, rồi cười rộ lên:
– Mèn ơi, con Xuân nó nhắc anh suốt, nó khen anh dễ thương quá chừng…!Gì mà nhăn hả con gái? Tao nói thiệt chớ có nói dóc đâu mà mày hờn mát
Út An thấy anh bạn mới tới nay đã có “mối” thì mừng thầm cho người ta.
Anh “đôn thêm” vài lời tốt đẹp về anh bạn với má cô Xuân.
Bà nghe tới đâu mát ruột tới đó.
Riêng chàng Linh mục sượng trân, thiếu điều chết đứng như Từ Hải.
– Nay ăn gì hả cậu Ngọc? Qua ăn hủ tíu rồi thì nay đổi qua ăn bánh canh bột xắt hén?
– Dạ…!Dạ, sao cũng được, thưa thím.
oOo
– Một là kêu “Dĩa hát”, hai là kêu “Đĩa nhạc”; chứ tôi chưa thấy ai nói là dĩa nhạc hết, chắc có lẽ tại tôi sinh sau đẻ muộn hoặc ít đọc bài của tiền nhân nên không thấy.
Người khách hỏi:
– Chữ nào có trước anh?
– Theo tôi thì chữ “Dĩa hát” có trước, vì việc thâu âm và phát hành nhạc dưới dạng băng cối, đĩa than ra đời ở miền Nam trước tiên.
Đặng Thừa Tân trao cái bìa dĩa hát to gần bằng cái mâm cho người khách mới ghé quán lần đầu, rồi mời anh ta đọc những chữ in trên đó.
Trên đó đề “Dĩa hát Việt Nam” cùng tên bài hát, ca sĩ, nhạc sĩ, người hòa âm và ban nhạc góp mặt trong chương trình lần này; ngoài ra xung quanh còn ghi rõ ràng địa chỉ, ngày – tháng – năm và giấy phép phát hành, kèm theo một số chi tiết khác.
– Anh cho tôi nghe bài “Chim chiều không tổ” của nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn do Hà Thanh ca đi.
– Có liền.
Nghe được đâu nửa bài, người khách bình phẩm:
– Cụ Lê vẫn còn bị âm hưởng của bài “Nắng chiều” ám ảnh nên giai điệu của bài hát này hơi na ná bài kia.
– Nếu để cho lớp trẻ nghe, họ sẽ chụp mũ đạo nhạc Hoa liền.
Một người khách ngồi ở quầy thu ngân bật cười hỏi:
– Anh hình như vẫn còn bực mình vì một số người giúp Tàu nhận vơ bản quyền âm nhạc?
– Phải, nói cụ thể như bài “Người tình mùa Đông” do nhạc sĩ Anh Bằng đặt lời Việt, bản gốc là bài nhạc Nhật “Rouge”, dịch tạm bợ theo thiển ý của tôi là “Son môi hồng”, đây là một sáng tác của nhạc sĩ Nakajima Miyuki; vậy mà nhiều người lại khăng khăng cho rằng bản gốc là bài “Người con gái dễ bị tổn thương” của một nhạc sĩ người Hoa! Tự nhiên đi đòi bản quyền một cách bộp chộp cho Tàu.
Vừa dán “nắp” cho các ly trà sữa mới làm, anh chủ quán giãi bày quan điểm của mình:
– Không phải bản nào nổi tiếng cũng là bản gốc đâu.
Nhiều khi do thời cuộc nên bản gốc bị chìm nghỉm, rồi nhân một sự tình cờ mà một nhạc sĩ ngoại quốc nghe thấy giai điệu hay thì về đặt lại lời theo ngôn ngữ quê hương của anh ta, nhờ gặp thời mà bản hát lại nổi tiếng hơn bản gốc, sau đó các nước lân cận lại lấy về đặt lời khác nữa.
Tam sao thất bổn một hồi mất luôn xuất xứ của bản gốc.
Ban nhạc “Tokyo Square” đặt lại lời Anh là “That is love” sau khi thấy ca khúc “Người con gái dễ bị tổn thương” nổi đình nổi đám.
Bởi vì bản gốc “Rouge” không thành công trên chính quê hương của mình đâm ra không mấy ai biết tới, nên càng gây ngộ nhận bản tiếng Hoa là bản gốc; điều trớ trêu là sau khi bản Hoa nổi tiếng, bản gốc mới có chút tiếng tăm, tức là bản gốc phải “mượn vai” bản hát lại để thành danh.
Người khách “mới toanh” nhìn anh mà hỏi:
– Bài hát “Con yêu” với những câu “Mẹ là nắng ấm áp tỏa xuống con đường” có phải là nhạc Việt thuần túy không anh?
– Không, đây là lời Việt của ca khúc Philippines “Anak”.
Tôi sẽ cho anh nghe qua giọng ca của cô Lưu Bích.
Anh chủ quán mở bài “Tango Tím” của nhạc sĩ Anh Bằng do Thế Sơn trình bày theo yêu cầu của người khách đeo máy quay phim hiệu Canon trước ngực.
Rồi hỏi anh ta muốn uống gì, anh ta đáp rằng muốn uống hồng trà sủi bọt.
Gặp lại người khách đã đặt câu hỏi mà mình không trả lời được hôm bữa, anh chủ quán mừng quýnh vẫy lại và nói một lèo:
– Tôi tìm được một bài, ban “Tứ ca Nhật Trường” hát bài “Lời buồn Thánh” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
Nhưng tiếc là đã bị rè nên nghe rất dở, thành thử ra tôi không thể phát cho anh nghe.
– Thôi không sao, biết được câu trả lời là tôi vui rồi…!Cho tôi ly cà-phê ít ngọt như thường ngày đi anh.
– Nhưng mà ở băng nhạc nào vậy anh?
– Băng nhạc “Nhật Trường 9 – Yêu, Ghen, Mơ”.
Người khách ái mộ nhạc sĩ Trần Thiện Thanh kể cho những người ngồi gần mình và anh chủ quán hay một câu chuyện:
– Tôi nhớ có người hát bài “Chuyện tình Mộng Thường” của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh mà dám sửa lời thành: “Nàng yêu anh quân nhân bộ đội”!
Người phóng viên cười hỏi:
– Câu gốc là gì?
– “Nàng yêu anh quân nhân Biệt Động”.
Anh chủ quán góp lời:
– Tự nhiên tôi nhớ tới cố nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9: “Bố lạy con, con làm ơn đừng có hát nhạc của bố nữa, con hát bố buồn lắm.”
Người phóng viên xoay xoay ly nước hồng trà:
– Bài phỏng vấn nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 đã bị thay đổi chữ nghĩa.
Tức là người đăng đã viết lại dựa trên cách sử dụng chữ nghĩa của mình; thí dụ như nhạc sĩ nói “rõ ràng”, nhưng người đăng đổi thành chữ “chính xác”.
Cho nên muốn nghe đầy đủ hơn thì nên coi đoạn phim hoặc nghe băng ghi âm phỏng vấn nhạc sĩ.
Ban giám khảo của cuộc thi sáng tác “Hoa không gian” đang mượn quán vắng làm nơi bàn luận về cách sử dụng chữ nghĩa của các thí sinh.
Ông bác nhà báo về hưu tức mình nói trước:
– Trước năm 75 gọi đơn giản là “tiếng địa phương”, sau này đổi thành “phương ngữ”.
Rất nhiều chữ đơn giản bị đổi thành phức tạp, và rất nhiều chữ chuyên môn bị “biến âm” sang nghĩa trật lất và thô kệch.
Chủ nhiệm tờ báo “Bút Tre” chen ngang:
– Ngày xưa gọi là “Thảo trình – Thảo trình viên”, sau này sửa thành “Lập trình – Lập trình viên”.
“Cương liệu – Nhu liệu” chuyển sang “Phần cứng – Phần mềm”.
Người trai đáng tuổi cháu ông chủ nhiệm đánh tiếng hỏi tại sao lại sử dụng hai chữ trên, thì ông giải đáp như thế này:
– Bộ phận của máy vi tính chỗ nào mềm và chỗ nào cứng mà lại xài “Phần mềm – Phần cứng”? “Cương liệu – Nhu liệu” có thể chướng tai với một số người, nhưng nó đúng về mặt sử dụng từ ngữ chuyên môn, và anh không thể lấy lý do thuần Việt để xài chữ thuần Việt một cách trật lất được.
Bà tổng biên tập của nhà xuất bản “Anh Thư” nêu ý kiến của mình:
– Tiếp theo là “Ương cây” chớ hổng phải “Ươm cây”.
Chữ “Ươm” này người Bắc dùng nhiều, điển hình có nhà văn Đinh Tiến Luyện thường xài chữ “Ươm mơ”.
Còn cụ Hồ Biểu Chánh thì lấy chữ “Ương” mỗi khi nhắc tới trồng trọt, gieo mầm.
Tôi tra cứu trong quyển “Việt ngữ chánh tả tự vị” thì thấy không có chữ “Ươm”, chỉ có mỗi chữ “Ương” khi đề cập tới hành động trồng trọt, gieo mầm.
Một dịch giả đã ngoài bảy mươi vuốt râu cười hề hề:
– Và “Đài truyền hình – truyền thông” chớ không phải “Kênh truyền hình – truyền thông”.
Cái kênh hay cái kinh là vùng nước, hết.
Ông nhà báo về hưu hỏi ông bạn dịch giả xứ Bắc:
– Tôi đố anh một câu: Chữ “Ùm” mang nghĩa gì trong xứ Nam Kỳ? Gợi ý trước nghen, đây không phải là một chữ chỉ tiếng động.
– Chịu thua, anh cắt nghĩa cho tôi hiểu đi.
– Về hỏi vợ anh á, chỉ người miền Tây mà.
– Ê, không có thọc cho tôi hỏng thân già nhá?
– Đừng có nằm mơ, cha nội.
Bà tổng biên tậ̣p thấy mấy ông bạn già đang lạc đề nên mở miệng nói:
– Tiếp theo, “Đại tỷ – Đại ca”; ai đời sửa thành nửa nạc nửa mỡ “Chị đại – Anh đại”.
Hoặc nếu yêu thích “Tiếng Việt trong sáng” thì nói phứt ra là “Chị lớn – Anh lớn” cho rồi.
Ông chủ nhiệm gật gù:
– “Khai triển” không phải “Triển khai”, “Thành hình” không phải “Hình thành”, “Bảo đảm” không phải “Đảm bảo”,…!
Ông dịch giả cao tuổi nói bằng giọng rầu rầu:
– Chúng ta thực sự rất cần một Viện Hàn Lâm.
Đặng Thừa Tân mở bản “Màu hoa cúc” do Đức Minh hát theo yêu cầu của một người khách cao niên; tên đầy đủ của người ca sĩ là Trương Đức Minh, ông có một người con trai rất hiếu thảo tên là Trương Thế Phong, con trai ông cùng đại gia đình hai bên hiện đang sưu tầm những đĩa hát có sự góp mặt của ông và đã đăng tải lên mạng cho mọi người cùng nghe để quảng bá giọng ca ấy.
Nhân bữa nay quán ít khách nên anh mới có dịp tìm nghe những đĩa nhạc bỏ quên trong kho.
– Trời, ông chủ tui ngộ đời nghen? Bán ế thấy mụ nội luôn mà ngồi cười tươi như không có chuyện gì.
– Tiền đâu mà người ta uống hoài hả mày? Vả lại, cũng phải nhường cho quán khác bán được chớ.
Em họ của anh chủ quán bùi ngùi nhớ tới những cái quán cóc lèo tèo dưới quê.
Có mấy bịch bánh, dây dầu gội – sữa tắm,…!thì làm sao mà đủ tiền nuôi gia đình chứ?
Ông chủ nhiệm đọc tin về một người ca – nhạc sĩ thời nay tài thì ít nhưng tật thì nhiều thì lòng chợt cảm thấy buồn nên phát biểu như sau:
– Nhạc sĩ Thái Ngọc Sơn đã gần chín mươi tuổi, hiện đang sống tại Sài Gòn cùng gia đình.
Cụ là một nhiếp ảnh gia, nhạc sĩ, ca sĩ, diễn viên, nhạc công, soạn giả cải lương, họa sĩ vẽ tranh minh họa trước 75.
Xin giới thiệu thêm, nhạc sĩ Đài Phương Trang là cháu của cụ.
Ông nhà báo về hưu vỗ đùi cái đét:
– Cha, cụ cũng đa tài đa nghệ như cụ Nguyễn Đình Toàn, ông Hùng Cường, ông Trần Thiện Thanh và ông Hạ Quốc Uy.
Ông dịch giả xoa xoa cái đầu hói họi:
– Sao ông phải giới thiệu luôn cả họ thế?
– Tại vì bên hải ngoại có nhạc sĩ Trần Ngọc Sơn nên tôi thường thêm luôn họ của cụ để dễ phân biệt giữa hai người.
Ông chủ nhiệm trợn mắt:
– Ủa ông Trần Ngọc Sơn này là ai mà tôi không biết vậy cà?
– À, ổng là con trai thứ của nhạc sĩ Anh Bằng, tức cụ Trần Anh Bường.
Ông chủ nhiệm lại hỏi:
– Ổng có bài nào hay hôn anh?
Tới đây ông nhà báo về hưu bị bí nên đành cầu cứu anh chủ quán.
Đặng Thừa Tân bèn mở bản nhạc “Hạnh phúc lang thang” do Ngọc Lan ca, và niềm nở giới thiệu:
– Bài hát này là một trong vài sáng tác chung của hai cha con.
Ông chủ nhiệm phụ họa:
– Điều đáng buồn là ổng chết trước cha mình.
– Thưa phải, cụ Anh Bằng sống thọ dữ lắm, nhưng chắc là vì quá đau buồn trước cái chết của con nên chỉ năm năm sau cụ cũng cất bước theo nó.
Chớ nếu hổng có chuyện trên, dám chừng cụ sống trên trăm tuổi lắm.
Đợi cho bản nhạc kết thúc, một người đàn ông đầu trọc mặt âu phục đen bước lại quầy đặt đồ uống và hỏi về bài hát nhạc Hoa lời Việt “Ngọc Lan” do ca sĩ Ngọc Lan ca.
Và nhận về câu trả lời như thế này:
– Tôi không rõ nữa, chỉ thấy đề vỏn vẹn “Ngọc Sơn” nên không rõ là nhạc sĩ nào.
Đây là một ca khúc nhạc Hoa lời Việt và được thâu âm trong băng nhạc “Đời 11: Dạ vũ biển” và băng nhạc “Hoa lan”.
Vừa lau khô tay với khăn giấy, anh chủ quán vừa trình bày thêm:
– Nhưng tôi nghi là của ông Trần Ngọc Sơn, vì ổng cũng có đặt lời Việt từ nhạc ngoại quốc mấy bài, còn cụ Thái Ngọc Sơn thường tự sáng tác lời và giai điệu.
Nhận được câu trả lời rồi, Thạch Sang quay về chỗ ngồi đã chọn để soạn thảo giấy tờ và tài liệu cho thân chủ Anton Phạm Thành Nhân.
Đáng ra gã định quay về nhà riêng làm việc, nhưng vì thấy quán vắng quá nên vô đây ngồi.
Anton Nhân đã bớt lì nên gã và thân bằng quyến thuộc cũng đỡ lo.
Gã nghe phong thanh rằng còn có một hung thủ nữa trong vụ án sát hại tên Lê Hoài Sang, người đó là nữ giới.
oOo
Báo chí hổm rày “nô nức” đưa tin tổng thống Khánh khóc khi hát tình ca.
Lần này chú khóc thật thì bị nói nước mắt cá sấu, tới chừng giả bộ sụt sùi lại vô tung hô.
Những chuyện quan trọng như canh tân nền khoa giáo Nước Nhà thì kiếm đỏ mắt mới thấy lèo tèo được vài bài, còn cái chuyện cảm xúc bộc phát của chú lại làm rùm beng lên một cách lố lăng như thể không biên bài thì ngày mai tận thế vậy.
– Đang nghe bài gì thế chú?
– “Wild” do bộ ba Jessie J – Big Sean – Dizze Rascal trình bày.
– Nghe như thể cuộc đời của chú.
Hác Đăng Khánh gục gặc đầu:
– Phải.
– Tôi có cảm tưởng ông Luận muốn thọc tay vào vụ này.
– Vậy hả? Thời “đình chiến” nên nhiều tướng rảnh lắm.
Không hề có âm mưu lật đổ chú trong đường dây giết người theo lệnh, mổ cướp nội tạng và bán dâm này, trước mắt thì chú nhẹ bớt một gánh.
Dù vậy hai vai của chú vẫn nặng trĩu, vì phải san sẻ sức nặng của cái gánh còn lại.
– Chú nghĩ sao về Khổng Tử hả chú?
– Có cái đúng, có cái sai.
Jacqueline ngỏ lời mời người anh nuôi nêu quan điểm riêng.
– “Sống thoáng” quá mức như phương Tây dễ xảy ra nạn phá thai và bỏ rơi con, “sống khép” quá mức như phương Đông dễ gây nên tâm thức nô lệ và làm cho đất nước dậm chân tại chỗ.
Có nhiều chủ thuyết tôi không thích, nhưng tôi vẫn ráng đọc để tìm hiểu quan điểm của người viết nhằm nâng cao tư duy tranh biện của mình.
Và cũng để củng cố lý do tại sao tôi lại phản đối và bài bác chủ thuyết đó.
Cho nên, nếu đã bài xích Nho Giáo và Đạo Giáo thì phải biết được người sáng lập chủ thuyết đó là ai và thành hình khi nào, chứ bài xích theo kiểu phiến diện thì tôi không đồng tình.
Có người gộp luôn Đạo Giáo và Nho Giáo làm một, điều đó khiến tôi cảm thấy thật nực cười.
Cái nào hay và đúng thì chúng ta nên lắng nghe.
Như câu “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” của Khổng Tử, tạm dịch là “Cái gì mình không muốn thì đừng làm với người khác”, câu này đúng hay là sai hả Jack?
– Ưm…!Năm mươi – Năm mươi.
Thí dụ như mình không muốn bị gạt tiền thì đừng có bày trò lừa đảo người ta, đó là trường hợp áp dụng đúng.
Còn nếu thấy tội phạm đang lẩn trốn chính quyền núp ở địa phương mình thì mình phải báo ngay cho cảnh sát, chứ bao che là sai hoàn toàn; trên đây là trường hợp áp dụng sai.
– Tôn sùng văn hóa và thể chế phương Tây cực đoan sẽ giết chết văn hóa và bản sắc dân tộc.
Ngược lại cũng vậy, suốt ngày thủ cựu với văn hóa – bản sắc dân tộc và bài trừ văn hóa – thể chế – khoa giáo Tây phương cực đoan sẽ giết chết đất nước.
Bây giờ đâu thể nào vác chông, bắn cung chiến đấu được, mà bắt buộc phải sử dụng vũ khí có xuất xứ từ trời Tây…!
Hác Đăng Khánh che miệng ho khan.
Rồi rửa tay với gel sát khuẩn và lau khô bằng khăn mùi soa trước khi nâng ly trà Thiết Quan Âm lên uống một ngụm lớn để bớt đau khổ.
Kế đó mới hỏi cô em nuôi tóc tém:
– Như những người vô gia cư bên Hoa Kỳ, phần đông là những người yêu chuộng lối sống tự do và không theo khuôn khổ; đa số họ đều được chính phủ trợ cấp hằng tháng…!Jack nghĩ sao về việc này?
– Tôi thấy…!
Kim phút đã nhích thêm vài bước mà lời trên môi của Jacqueline vẫn chưa thành hình.
– Cứ nói, tôi đang lắng nghe.
– Tôi thấy…!họ hơi thiếu trách nhiệm với đất nước.
Chú phì cười, làm hằn rõ những vệt chân chim nơi đuôi mắt.
Vừa đứng dậy và đi lại gần cửa sổ, chú vừa cười nói:
– Rất nhiều người đi làm công ăn lương bên bển hết sức bất mãn với họ, vì họ phải nuôi báo cô một đám người dưng ngồi chơi xơi nước; nói cho rõ ràng hơn là món tiền trợ cấp của đám người đó xuất từ xứ từ tiền thuế, phí và án phạt công lộ (nếu có) của họ.
Và đương nhiên, một số ông nghị cũng cho rằng họ là gánh nặng của Hoa Kỳ.
Ở đây, tôi không đề cập đến những hoàn cảnh khác như người già, người tàn tật, trẻ em cơ nhỡ, cha – mẹ đơn thân nuôi con, những người lính bị sang chấn tâm lý hậu chiến tranh, người bị bệnh thần kinh gây ra việc mất khả năng lao động, người bị thất nghiệp bất lình thình và ngoài ý muốn, người phải ở nhà để chăm sóc người thân có sức khỏe yếu, sinh viên nghèo hiếu học, người không may phá sản,…!vì các trường hợp kể trên thuộc tình huống bất khả kháng và số trường hợp cố ý muốn sống phụ thuộc vào tiền trợ cấp không nhiều.
Trời đã vào Thu.
Nhưng chẳng có dấu hiệu nào thông báo cho người ta biết cả.
Nắng vẫn chói chang và mưa vẫn thất thường như thế.
– Vậy thì theo Jack có nên cổ xúy tư tưởng tự do theo kiểu “cánh chim phiêu bạt” này không?
– Không.
– Cái nào của Nho đúng thì giữ lại, sai thì xóa bỏ.
Những cái “Tôn sư trọng đạo”, “Tiên học Lễ, hậu học Văn”, “Uốn lưỡi bảy lần trước khi nói”, “Mai cốt bất mai tu”, “Liêm ngoan lập nọa”,…!có đáng bị bài trừ không? Tôi xin lặp lại lần nữa, giữ lại cái hay để học chứ không phải là giữ lại để tôn thờ và sùng bái.
Có lẽ cảm thấy ngột ngạt nên người tổng thống ngũ tuần ấy đẩy cửa sổ sang trái để rước gió trời vô phòng.
Hương sứ trắng ngọt ngào lập tức lan tỏa khắp nơi.
Vách tường này làm bằng kính cường lực và ngăn đạn, ở giữa vách kính lắp khung cửa sổ có viền gỗ sơn màu đen theo dạng cửa lùa, không có treo rèm vì chú muốn được nhìn rõ khu vườn xinh tươi bên ngoài.
– Có nhiều người còn nói cha mẹ không nên ép buộc con cái phải có Hiếu với mình, nên họ chỉ có “Hiếu” với cái gia đình riêng của họ thôi.
Cha mẹ đói khổ, bệnh tật, đi làm còng cưng cúp cổ dù tuổi tác đã cao họ cũng không thèm ngó tới.
Ở đây, cái tinh thần Nho Gia phải được giữ lại, dẫu sao cũng là hai đấng sinh thành đã cho mình tấm thân, dầu không thương vì những lý do xảy ra lúc nhỏ song cũng nên có cái nghĩa một chút, lâu lâu gọi điện thoại về thăm hỏi sức khỏe hay biếu đồ ăn – thức uống không được sao?
– Chú thấy chuyện gì đáng để bận tâm nhất?
– Tôi thấy một số người trẻ hiện nay không chịu tự đi tìm sách và tài liệu để kiểm chứng mà toàn dựa vào lời nói của người mình thích để tin rằng, “À thì ra cái đó là như vầy”.
Tôi đố Jack, “cái muôi” là cái gì?
– Hỏi nhằm Bắc Kỳ chính gốc rồi chú.
Là cái muỗng múc canh chứ gì.
– Vậy nếu như tôi nói đó là cái vá bới cơm, Jack không phải là người Bắc thì Jack sẽ tin chứ?
– Hên xui.
– Anh Phan Hoài Việt cũng hay hỏi cơ học trò như vậy để rèn luyện tính tự học và tăng khả năng suy luận cho họ.
Hác Đăng Khánh tự sao chép mớ giấy tờ báo cáo chi ngân sách, vừa làm chú vừa nói:
– Tôi thà bị gán cái mác “Đạo đức giả” còn hơn làm dơ miệng mình bằng những chữ nghĩa thô tục, dâm uế.
Cũng may phước mấy người “Đạo đức thật” ít ai ủng hộ tôi.
– Chắc có lẽ do chú xuất thân từ trường Luật…!
– Một phần thôi Jack.
Đầu bếp thông báo bữa trưa đã chuẩn bị xong, hai người ngắt ngang cuộc đàm luận mà đi xuống nhà ăn.
Trưa nay có món rau trộn, tôm càng xanh nướng bơ tỏi, gà chiên sốt mật ong và mỳ xào cay với kimchi kiểu Đại Hàn.
– Những người có đầu óc khai phóng thì họ luôn sáng suốt dù cho hoàn cảnh, môi trường sống xung quanh và chế độ khoa giáo có tệ lậu như thế nào.
Tại sao họ lại sáng suốt? Tại vì họ chịu bỏ thời giờ đọc sách và tài liệu Đông Tây kim cổ; rồi tự nghiền ngẫm, tự suy luận coi sách nào nói thật và sách nào nói dóc, sách nào không hợp thời và sách nào còn áp dụng được, sách nào hoa ngôn xảo ngữ và sách nào chỉ dẫn đúng đắn, sách nào đáng quý và sách nào đáng liệng xuống cống,…!Chưa kể tới là họ còn bỏ công đối chiếu kết luận và quan điểm của mình với những người khác, và bỏ cái bản ngã xuống đất khi làm chuyện này, tức là họ đến bằng trái tim cởi mở và cái đầu biết lắng nghe, tiếp thu và sửa sai.
Cái tác hại của sự ái mộ là nó rất dễ khiến cho chúng ta bị dẫn dắt theo ý đồ người mình thích.
Ở đây có hai trường hợp: Nếu người dẫn dắt chúng ta là người trí thức và đức hạnh, chúng ta sẽ được “cứu rỗi” và cải thiện bản thân; nhưng vì người dẫn dắt vẫn là một con người nên không thể lúc nào cũng đúng và cái nào cũng biết, nên hấp tấp nghe theo mà không kiểm chứng sẽ gây nên hậu quả khôn lường.
Còn trường hợp thứ hai chắc Jack cũng hiểu hén?
– Vâng.
– Những bộ sách về Gia Cát Khổng Minh, Hán – Sở,…!vốn là tiểu thuyết dã sử chứ không phải là tài liệu lịch sử của Tàu, coi và đem ra bàn luận cho vui thôi chứ được bao nhiêu sự thật mà tin.
Cho nên đưa ra quan điểm coi mấy cái này riết đầu óc “có vấn đề” là một điều hết sức sai lạc và phiến diện.
Bà con, nhất là mấy ông bác lớn tuổi thường hay nói với con cháu, “Phim gì xạo quá bây?”, tức là họ hoàn toàn nhận thức được những thứ trong sách và phim – ảnh là hư cấu, và họ truyền đạt lại ý nghĩ đó với con cháu thông qua hình thức cảnh báo bằng lời, chứ không phải họ ngu tới nỗi tin theo sái cổ.
Jacqueline đợi chú ngừng nói hẳn mới phát biểu ý kiến:
– Bên mình có cụ Nguyễn Quỳnh chuyên viết tiểu thuyết dã sử, như cuốn “Thầy tăng mở nước”, “Đội cấn khởi nghĩa”,…!
– Nên phân biệt giữa tài liệu lịch sử, tiểu thuyết dã sử và giai thoại lưu truyền trong dân chúng.
Không phải vì điều đó có lợi cho phe mình nên tin, hoặc ngược lại, bất lợi với phe mình nên bác bỏ.
Sự Thật luôn trần truồng và khó chấp nhận.
Jacqueline đặt con tôm đã lột vỏ sạch sẽ vào chén của người anh nuôi.
Rồi cầm con tôm khác lên lột tiếp.
– Theo quan điểm cá nhân của tôi, cụ Sĩ Tải – Trương Vĩnh Kỳ là một tấm gương sáng tiêu biểu cho việc cân bằng giữa Nho Giáo và văn hóa – thể chế – khoa giáo phương Tây.
Tôi biết được điều này thông qua cuốn sách “Trương Vĩnh Ký” do cụ Lê Thanh biên soạn.
Hãy đọc hết quyển này rồi tự rút ra coi có nên bài trừ Nho Giáo hoàn toàn hay là không?
Jack thường xuyên lên mạng xã hội và cũng đã thấy, như tôi, cái “Quốc nạn” rành rành ngay trước mắt: Đó là chửi tục và bỡn cợt bằng những từ ngữ khiếm nhã; hễ mà ai không theo họ là bị chụp mũ đạo đức giả liền.
– Chú nhắc tôi mới nhớ, cụ Đào Văn Bình từng phê bình giới báo chí hiện nay sử dụng chữ nghĩa như phường chợ búa và khoa trương khủng khiếp, chưa kể đến còn cái nạn không hiểu nghĩa của chữ nên đặt câu nghe vừa tệ vừa sai văn phạm nghiêm trọng.
Tới đây hai anh em nhìn nhau mà cười, rồi người này hối người kia mau ăn lẹ lên kẻo nguội mất ngon và dễ gây đau bụng.
Trong lúc đợi đầu bếp dọn món tráng miệng lên, Jacqueline vui miệng bình phẩm:
– Ngày xưa, điện ảnh Hồng Kông có rất nhiều bộ phim ý nghĩa và châm biếm thật hay.
Họ cũng quay cụ thể cái nết ăn tánh uống của một người; chi tiết này góp phần giúp cho ta hiểu tâm tính nhân vật và thói quen của một phần người dân ở nước đó, nên không thể nói chi tiết này là thừa thãi và nhằm kéo dài thời lượng phim được.
Hác Đăng Khánh cũng góp vài lời:
– Người Nhật rất khôn khéo khi lồng ghép nét ẩm thực xứ họ vào trong truyện tranh và phim ảnh, nhờ vậy mà họ thu về một mối hời rất lớn từ những người ái mộ các nhân vật của “thế giới ảo” đó.
Như nhắc tới Naruto thì tự nhiên người ta nghĩ đến ramen chẳng hạn.
Đầu bếp đặt hai dĩa bánh chuối đã chan nước cốt dừa và rắc muối mè lên bàn, rồi cúi đầu chào hai người trước khi lui xuống bếp dọn dẹp.
Chú và người phụ tá cúi đầu đáp lễ và nói lời cảm ơn với ông ta.
– Có rất nhiều người thường hay bỉ bôi, “Thời nào còn đem các cụ ra nói và làm theo.” Vậy thí dụ, nếu như giới khảo cổ tìm thấy sổ tay hướng dẫn xây cất Kim Tự Tháp thì liệu họ có đồng ý với việc học cách xây cất của các cụ ngày xưa hay không? Câu trên là một câu chụp mũ thường thấy ở rất nhiều người.
– Chú làm tôi nhớ một người theo Đạo Phật nhưng ủng hộ giết động vật vì cho rằng chúng nó sinh ra là để nuôi chúng ta.
– Tôi có coi rồi.
Theo Đạo “hờ”.
– Đạo “hờ” là sao chú?
– Là theo Đạo cho vui thôi, chứ rất ít khi nào đụng tới kinh điển, tạng luật và trì chú.
Bây giờ hỏi người đó “Túc cụ” là gì chắc khứa phải tra cứu Google mới biết.
Tay sát thủ đang ngồi ăn một mình kế bên ao cá của Phủ Tổng thống.
Hắn đang đọc một quyển sách rất dễ gây tranh cãi; có đôi chỗ hắn không đồng tình, còn lại thì gật gù tán thành.
– Tôi nấu món Bắc ngon hôn cậu?
– Vâng, cũng ngon, cảm ơn bác.
Thể theo nguyện vọng của gã trai xứ Bắc, ông đầu bếp đã nấu cho hắn một nồi bún thang và pha một bình nước sấu.
Đây là lần đầu tiên ông làm món này nên chắc hương vị còn nhiều sai sót và không đúng với cách nấu thông thường của họ.
– Đang đọc sách gì vậy cậu?
– “Việt sử xứ Đàng Trong” của cụ Phan Khoang.
Bác có đọc sách thường xuyên không?
– Ưm…!- Ông đầu bếp gãi đầu cười trừ.
– Toàn là sách dạy làm bếp hông hà cậu ơi.
Mấy cái sách chữ nhỏ xíu như con kiến riện giống vầy đọc mệt mắt lắm, với lại tôi cũng nản nữa, đọc được chút xíu là buồn ngủ hà.
…!
Qua ngày hôm sau, đang ngồi làm việc thì Hác Đăng Khánh bị một “quân đoàn” Cộng Hòa vô “khủng bố”.
– Bộ cái Nước này độc đảng à? Khi chúng tôi đưa ra một chính sách, Cộng Hòa, Thái Bình Thạnh Trị, Việt Long tại sao không lên tiếng phản đối hay phê bình – góp ý, mà đợi chúng tôi làm xong rồi mới hé miệng ra chỉ trích?
Một thành viên trong ban cố vấn của Hác Đăng Khánh bồi thêm:
– Ngay từ khi tổng thống Khánh đề xuất dự án cung cấp “Lá phổi xanh” cho thành đô, cái miệng của các anh tại sao lại “đình công” trong lúc đó vậy? Bây giờ chúng tôi đã hoàn thành kế hoạch di dời dân rồi, mới nói láp nháp mấy tiếng phản đối.
Có ngon thì tới tận nhà từng gia đình mà đòi lại hai trăm ngàn và kêu gọi họ quay về chỗ cũ ở đi!
Một dân biểu thuộc đảng Cộng Hòa giơ hai tay lên và từ trốn trình bày:
– Chúng tôi nghi ngờ tổng thống Khánh tham nhũng…!
Nhưng anh ta chưa kịp nói xong thì đã bị một thành viên khác trong ban cố vấn tổng thống cắt ngang:
– Tôi nói rồi, không tin thì tự đi đến đó và lập bảng khảo sát.
Người dân biểu đó tức giận, xấn tới chỉ thẳng mặt người cố vấn có đôi mắt xếch:
– Anh là cố vấn của ông Khánh, bớt nói chuyện hàm hồ và cộc cằn như vậy đi.
Mắt Xếch đáp trả lại:
– Ủa, nghe đồn đảng Cộng Hòa mến chuộng mấy người thẳng tính, bộc trực lắm mà? Sao giờ tôi ăn nói đúng ý “đồng đảng” các anh, các anh lại bất bình chớ?
Hai người nghị sĩ Cộng Hòa vô tình mà quát hỏi cùng lúc:
– Còn “đồng đảng” mấy người thì sao?
Bên Dân Chủ cũng không vừa, ai nấy đằng đằng sát khí mà hất hàm hỏi:
– Thì sao hả?
– Thôi, cho tôi xin!
Hác Đăng Khánh đứng tựa cửa ra vào dẫn vô phòng làm việc của chú mà cười mơn khuyên giải.
Kế người tổng thống đã hơn năm mươi mời đôi bên vào phòng ăn ngồi nói chuyện.
Ở đây đặt một cái bàn đá vân hình chữ nhật và hai mươi hai cái ghế làm bằng sợi thủy tinh áo sơn trắng rất đẹp, bốn góc tường được lắp kệ hình vòng cung có gắn đèn ở trần kệ và trên đó đặt một vài món đồ trang trí hoặc chậu cây nho nhỏ; ngoài ra trên trần còn treo một bộ đèn chùm pha lê tinh xảo.
Chú ngồi xuống ở cái ghế đầu bàn mé bên tay phải, ngồi đâu mặt với chú là người bạn thân của thủ tướng Mateo Nhã.
Ban cố vấn ngồi gần chỗ chú, và đương nhiên những cái ghế còn lại là của phe Cộng Hòa.
Jacqueline đang ở trong phòng làm việc soạn thảo tài liệu theo lệnh của chú.
– Bữa nay có mặt đông đủ đôi bên, tôi xin mạn phép xuống bếp làm vài món chiêu đãi các vị.
Bạn thân của Mateo Nhã cười nhạt:
– Đáng ra ông Khánh nên tới ở với Gordon Ramsay.
– Đó là một hân hạnh rất lớn lao của tôi nếu như vị đầu bếp tài ba ấy đồng ý cho ở chung.
Chú vừa rời khỏi phòng ăn được mười phút, hai phe bắt đầu đứng bật dậy cãi lộn, chủ đề bắt đầu chuyển hướng sang biển Đông.
Biết trước trong phòng ăn đang xảy ra khẩu chiến, nhưng Hác Đăng Khánh vẫn bình thản nêm nếm thức ăn.
Bữa nay chú chiêu đãi “đồng ̣đảng” hai bên món tôm sú rang trứng muối, sườn heo xào chua cay, chân gà rút xương nướng saté, hột gà chiên tóp mỡ và canh bún Nam Kỳ.
Còn về phần đồ uống, chú sẽ mời họ uống rượu.
Nghe thấy tiếng nện gót giày của người tổng thống đầy rẫy tai tiếng vang lên càng ngày càng rõ, ai nấy chỉnh sửa cổ áo rồi ngồi xuống ghế của mình một cách nho nhã, ý tứ.
Hác Đăng Khánh đích thân rót rượu “Martel” cho từng người.
Bốn năm phụ bếp và chạy bàn bên Anh Cát Lợi đã giúp chú có kỹ năng điêu luyện này.
Trong lúc quay về chỗ của mình, chú vui miệng hỏi:
– Tôi đố mấy anh: Hai người cùng sinh sống trên một vùng đất, về sau anh A đi sang vùng đất khác cư trú, để lại anh B ở đó một mình.
Hỏi anh B có phải tổ tiên của anh A không?
Một thành viên bên phía Cộng Hòa lên tiếng:
– Không.
Gì mà tổ tiên, chỉ là hai người cùng sống chung một chỗ ở một thời điểm thôi.
Bên phía chú cũng có một người phụ họa:
– Nói tổ tiên, vậy chẳng lẽ tôi rước em vợ lên ở chung nhà cho bà xã đỡ buồn, chẳng lẽ nó cũng là họ hàng ruột thịt của tôi sao?
Chủ đề hãy còn dang dở, nhưng Hác Đăng Khánh thôi không đề cập tới.
Chú mời cả bạn lẫn thù ngồi xuống ghế, rồi tất tả quay vào bếp phụ các đầu bếp dọn bàn ăn.
Còn chưa bước vào cửa, Hác Đăng Khánh lại đặt câu đố:
– Chữ “Ghe” đối với người Bắc là một chữ tục.
Vậy theo các anh thì người miền Nam có nên bỏ chữ “Ghe” không?
– Không.
– Mọi người trả lời gần như là đồng thanh.
– Cũng vậy thôi.
Một số chữ “sống hai mang”: Đi riêng thì tục, đi cùng thì thanh; điển hình như d*i tai, d*i mít, bím tóc,…!Anh ghét người ta bác bỏ tiếng địa phương của mình, thì cũng đừng áp đặt quy chuẩn tiếng địa phương của mình lên lời ăn tiếng nói của người ta.
Bạn thân của Mateo Nhã cũng góp lời:
– Có người còn diễn giải không đúng nhóm chữ “Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ”, lịch sử hình thành nước Mỹ và quy trình bầu cử ở đó, nhưng lại được rất nhiều người hưởng ứng.
Người này nói “Hợp Chúng Quốc” mới đúng, nhưng chữ này là một “phát minh” của tác giả chứ không hề đúng trong thực tế.
Hác Đăng Khánh nghiêng đầu mà nói:
– Hãy tìm hiểu tu chánh án thứ Mười bằng tài liệu tiếng Anh thì sẽ hiểu bầu cử ở bên Hoa Kỳ ra sao.
Luật pháp A Mỹ Lợi Gia chứ không phải là truyện kể bé nghe mà dễ hiểu và ngắn gọn; thành thử ra, mỗi bận đề cập tới chủ đề này, cả người viết lẫn người tranh biện hãy nên cân nhắc trước khi chửi người ta ngu và thiếu hiểu biết, bởi có thể ngay cả người viết lẫn người tranh biện cũng chưa chắc gì nói đúng và đầy đủ đâu.
Đặc Vụ số Hai đã nắm được ý của tổng thống nên quyết định giúp chú khai triển cách mở bài:
– Rất khó để bản thân không bị kẻ thù đồng hóa tư tưởng và hành động.
Có người ghét kẻ thù sống nhỏ mọn, hẹp hòi, ưa rước cái tốt về phần mình – còn cái xấu đẩy cho người, nhưng lại diễn giải chữ nghĩa sai lệch y chang kẻ thù.
Một người dân biểu Cộng Hòa lên tiếng:
– Phải, có người ghét kẻ nói ngọng và sai chính tả, nhưng lại nói giễu kẻ họ ghét bằng chính lối nói đó.
Một thành viên trong ban cố vấn của chú khoanh tay cười nhạt và nói:
– Các anh làm tôi nhớ vài người, hễ ai tốt thì khen phe Cánh Hữu, còn xấu thì đổ phe Cánh Tả.
Tôi nhớ trong quá khứ có người lật đổ một chính khách, hồi đầu bị chửi dữ lắm, sau thấy người đó tốt lại lật mặt nói, “Ồ, ông này tuy thuộc phe Cánh Tả nhưng mang tâm hồn người phe Cánh Hữu.”
Đương nhiên còn ai trồng khoai đất này ngoài cố tổng thống Bàng Đông Quân.
Sau khi lật đổ tổng thống tiền nhiệm Trịnh Thiên Đăng, ông đã bị chỉ trích bằng những lời lẽ vô cùng nặng nề.
Chỉ trong vòng hai năm cầm quyền, ông đã dẹp yên đám bức cung và hành hạ tân binh, bấy giờ những người chửi ông lại quay sang khen ngợi ông mang tâm hồn người Cánh Hữu!
Hác Đăng Khánh niềm nở cười:
– Bây giờ các anh Cộng Hòa đã hiểu tôi muốn nói tới chuyện gì chưa?
– Đã hiểu.
– Các anh cũng là một viên chức chính phủ như tôi, nhờ người dân thương mến gởi gắm mới được hưởng những đặc quyền như bây giờ.
Các anh tại sao lại im lặng trong lúc tôi đưa ra chính sách và thảo luận kế hoạch thành lập – phát triển dự án? Để đến nỗi gạo nấu thành cơm mới chạy tới đây phê bình.
Đương nhiên có vài con nhạn đi rêu rao phe Cánh Tả chúng tôi…!
Nói tới đây, người đàn ông ngũ tuần tạm ngưng cuộc vấn đáp.
Chú im lặng trở vô nhà bếp, rồi nhờ “ba ông đầu rau” làm thêm vài món nhắm rượu.
Ngoài kia “dông như rặc”.
Chú vừa quay gót trở vào phòng ăn, tiếng lao xao cũng kịp thời im bặt; ai nấy đưa mắt nhìn chú, chờ coi chú nói cái gì để còn biết đường mà ứng đối lại.
– Thưa các vị Cộng Hòa, tôi muốn hỏi các vị không hài lòng điều chi trong việc chi ngân sách của tôi?
Người dân biểu có vầng trán cao rộng giơ tay xin phát biểu.
Chú làm cử chỉ mời nói, rồi anh ta mới trình bày rằng:
– Mỗi căn nhà trong khu xóm đó có giá trị thực tế không quá một trăm hai mươi ngàn, kể cả nhà lầu và có thêm khoảnh sân sau cũng không có giá cao như vậy, vậy thì tại sao ông lại tính tới hai trăm ngàn một căn?
– Tám chục ngàn tiền dư là tiền để giúp người dân trang trải cuộc sống trong khoảng thời gian nghỉ việc mà ở nhà thu dọn nhà cửa và lo đổi giấy tờ cho gia đình.
– Chúng tôi cần bản sao báo cáo chi ngân sách đặng làm minh bạch rõ chuyện này.
– Jacqueline!
Cô phụ tá của chú đã soạn xong xấp tài liệu mà những người bên đảng đối lập cần.
Trước lúc nhờ chị phát giùm, chú mở từng tập hồ sơ ra kiểm tra lại nội dung, coi có ai “hữu ý” thêm bớt điều chi để vu oan giá họa cho mình không, xong đâu vào đó mới đưa lại cho cô em nuôi.
Chị từ tốn trao cho mỗi người một bộ tài liệu; hễ đưa cho ai, chị lại hỏi người đó có cần tổng thống Khánh giúp gì nữa không, và ai nấy cũng đều trả lời rằng, “Cảm ơn nhã ý của chị, tôi sẽ hồi âm sau.”
– Theo luật, tôi sẽ không đưa cho các vị trước, nhưng vì bản thân chẳng thâm lạm đồng nào nên không cần phải giấu giếm hay giữ kỹ những xấp tài liệu này.
Ông đầu bếp đứng ngoài hành lang cất tiếng xin phép dọn món đồ ăn.
Chú niềm nở gọi “ba ông đầu rau” vô phòng, rồi giục bên bạn lẫn bên thù mau mau ăn uống no say với mình.
Đáp lại thịnh tình giả tạo của chú là ánh mắt đề cao cảnh giác của nhóm người Cộng Hòa, họ gắp đồ ăn mà mắt cứ liếc chừng về phía chú.
Rốt cuộc bữa cơm “miễn cưỡng” cũng kết thúc.
Sau khi tiễn chân đoàn người bên đảng đối lập, Hác Đăng Khánh viện cớ sình bụng nên cáo lỗi với cô em rồi vô phòng ngủ nẳm nghỉ.
Dù không hiểu “sình bụng” nghĩa là gì nhưng Jacqueline vẫn sốt sắng đưa thuốc giảm đau cho anh nuôi, không quên dặn người anh kết nghĩa nhớ đừng để nhiệt độ của máy điều hòa thấp quá kẻo bệnh trở nặng thì khốn.
“Cạch.”
Tiếng cửa phòng đóng lại như một hồi chuông thông báo sự phân định giữa hai bờ trong tâm hồn người tổng thống tóc vẫn còn xanh.
Có câu “Nhân đạo với kẻ thù là tự sát”, còn Hác Đăng Khánh thì tự răn mình bằng câu “Bắt chước cái dở của kẻ thù là đại ngu”.
Chửi người mình ghét thì dễ, nhưng ăn nói sao mà người đó tức tới nỗi ói máu và bể đầu mới khó.
Và chú chưa tìm thấy ai có thể làm điều đó, đa số cứ hễ bị khích tướng là lại chửi thề một cách mất trí, rồi hành xử y chang cái người mà họ ghét.
Cứ hễ phiền muộn, chú lại mở máy hát đĩa lên và để nó phát bản “Johnny Johnny” do nữ ca sĩ Pháp Jeanne Mas trình bày.
Chú ngồi nhìn cái nhẫn đính hôn không bao giờ trao đến tay người yêu cho tới khi bản nhạc đó kết thúc.
Rồi cất cái hộp ấy vào trong ngăn kéo của cái tủ đầu giường.
Và đứng dậy sửa sang trang phục trước khi rời khỏi phòng ngủ và quay lại phòng làm việc.
oOo
– Ủa, mày về sớm vậy Hoàng?
Nghe thằng bạn răng khểnh nói vậy, Đức Hoàng bực mình ký đầu nó mấy cái cho bõ ghét.
– Ủa, đằng đó có mua vịt quay cho mình ăn hả?
– Tao cho mày ăn cái cù lôi đó con.
Tao dìa sớm hổng pha trà rót nước tiếp đón, ở đó còn giở thái độ chưng hửng nữa.
Tống Ngạn chen vô hỏi:
– Lâu lâu mới có dịp về thăm nhà, không ở chơi thêm dăm bữa nửa tháng mà quay gót trở về đây chi lẹ vậy?
– Ngồi coi ổng bả bàn đề riết chắc tao ói máu chết.
Để không khiến thằng bạn Bảy Núi nhớ tới cảnh nhà mà sinh muộn phiền, Khán Bình hối mấy đứa kia mau theo mình xuống bếp dọn đồ ăn và làm nước uống.
Không ngờ thằng nghèo mạt rệp như nó lại mua một con vịt quay và hai gà xối mỡ cỡ lớn nhất về đãi đằng bạn bè; không chỉ vậy, nó còn mua đồ lòng và lưỡi vịt nữa.
Cái thằng thiệt tình…!
Thấy Chí Công đang tính dạm bước vào hành lang dẫn vô phòng ngủ của nó, Đức Hoàng mới gọi với theo:
– Lấy tao cây dũa để tao giũa móng chân.
– Có cần chai nước sơn không?
– Tao xán cho hai bạt tai, chớ ở đó ghẹo tao? Lẹ lên coi! Gãy móng nhìn khó chịu quá trời.
Để vực mình dậy mỗi buổi sáng, thằng bạn nghèo rớt mồng tơi dán mấy tờ giấy nợ trên trần nhà để mỗi lần mở mắt sẽ lấy chúng làm “động lực” rời khỏi giường.
Tống Ngạn mở truyền hình lên coi ca nhạc.
Chương trình đã diễn ra hơn nửa tiếng mà chưa thằng nào thấy ai hát nghe lọt lỗ tai.
Đức Hoàng ca cẩm:
– Chời ơi, con nhỏ này nó hát như vầy thì làm sao nó cảm âm để mà nhảy được chớ?
Chí Công hỏi:
– Nó hát sao mậy?
– “Cha…!chà…!cha…!chá…!cha…!cha…chà…”
Bây giờ mấy đứa bạn của hắn mới biết hắn không chỉ hát dở mà còn lãnh luôn phần ngân nga tệ.
– Nó hát mà y như nhai nuốt cái lưỡi luôn, ông cố nội tao sống dậy cũng hổng hiểu nó hát cái gì.
Chí Công vỗ vai thằng bạn:
– Mày với nó mà song ca bảo đảm lượt xem cao đụng trời, tại vì người ta phải nghe đi nghe lại cho tới khi hiểu hai đứa mày hát cái gì mới thôi.
– Còn cái cô ca sĩ ngoại quốc kia thì đọc rap như kể chuyện bé nghe trước khi đi ngủ.
Nó dở như hạch vậy đó.
Hổng rap được thôi, ráng chen vô mấy dòng hát rap làm chi.
– “Tôi ca không hay, tôi rap nghe cũng dở…” là mày đó Hoàng.
Khán Bình giờ này mới có cơ hội mở miệng nói:
– Hát còn học được, chớ rap thì do thiên phú.
Thằng bạn Bảy Núi chuyển sang đài khác.
Vừa dò đài, hắn vừa kể:
– Còn thêm khứa nhạc sĩ nào sáng tác cái bài “Ở nhà rảnh quá…”, tao thấy ổng ở nhà rảnh quá thì nên học lại nhạc lý giùm cái đi.
Dòng nhạc chiêu hồi ngày xưa cũng là một thể loại nhạc tuyên truyền, nhưng không xét về nội dung, chỉ xét về giai điệu và giọng hát của ca sĩ cũng đủ ăn đứt mấy bài hát cùng thể loại hiện nay…!
Chưa nói tròn câu, nhạc chuông điện thoại của thằng bạn Bảy Núi vang lên, khiến mấy đứa bạn của hắn cười ngất ngơ ngất ngưởng:
“…!Tiền ơi hỡi! Tiền ơi hỡi!
Chắc là vui lắm, khi cuộc sống có tiền
Tiền ơi hỡi! Tiền ơi hỡi!
Chắc là vui lắm, ôi cuộc sống đã giàu…”
Nhạc chuông của Lê Đức Hoàng là bài “Tiền” do tam ca Ngọc Tuyết – Lê Toàn – Lê Trí, bản nhạc này là lời Việt được viết theo theo giai điệu của ca khúc “Money Money Money” của ban nhạc bất hủ “Abba”.
Chí Công vừa lau nước mắt vừa cười nói:
– Nó nghèo tới nỗi phải cài bản này để chiêu tài…!
– Có chuyện rồi bây ơi…!
Nghe tiếng rên thảm thiết như bị mất sổ gạo của Đức Hoàng mà mấy đứa kia đâm lo.
Vừa kiểm tra lại hộp thư điện tử, hắn vừa rầu rĩ thông tin:
– Thằng bạn đồng nghiệp nó báo cho tao hay mới phát hiện thi thể nữ ở Giáo xứ Saint Pio.
Chưa kịp để mấy đứa bạn phát biểu ý kiến, thằng Hoàng đã làm một tăng:
– Tao đâu có ngu mà nói rõ cho bả biết suy luận trong đầu.
Phải nói trớ đi để đánh lạc hướng chớ? Lỡ đâu có thằng nào đứng rình bên ngoài nó hay nó “hốt xác” nguyên nhà tao sao? Tao chết thì được, chớ nhứt quyết không để ba má và mấy đứa em bị thiệt thân.
Khán Bình nắm tay thằng bạn miền Tây mà nhíu mày hỏi:
– Có phải là mày đã nói trúng tim đen ai không mà nó lấy cái xác này làm vật hù dọa mày?
– Mèn đét ơi, tao đâu phải Sherlock Holmes, tao nói tầm bậy tầm bạ với bả không hà.
Tống Ngạn khoát tay:
– Giờ mày phải nói phứt với tụi tao, rằng mày đang tính toán cái gì? Nói liền cho tao nghe coi Hoàng.
Đức Hoàng nói mà mặt mày méo xẹo như bị giựt kinh phong:
– Tao đang liên lạc với người chuyên bán đồ ăn sáng cho con nhỏ nghi là ghép thận của ông Thành.
Nay chắc con nhỏ đã thành bà cô năm mươi, còn ông kia thì đã hóa thành người thiên cổ.
Biết “thiên cơ bất khả lậu” nên Chí Công khuyên lơn hai đứa kia đừng tra hỏi thằng Hoàng nữa.
Y giục mấy đứa bạn mau khui bia Corona ra uống và ăn vịt quay với mình.
Thấy cách hành xử của mình có phần nặng nề và quá trớn, Tống Ngạn cúi mặt xin lỗi đứa bạn thiết, Khán Bình cũng nối gót gã.
– Gì mà khách sáo dữ tụi bây.
Mau cầm đũa, bưng chén lên ăn với tao coi.
Khán Bình cười giả lả:
– Ăn vịt quay chưa ngán hả mày?
– Có ăn được mấy cục mô mà tau ngán hè?
– Gì? Mày mua ba con lận mà.
– Tao nhường cho ba má với mấy đứa em.
Sáu người ăn sáu cái đùi và nửa cái phao câu vịt.
Riêng tao cạp cổ, cánh và đầu vịt với mấy cục thịt chút éc.
Hồi đầu Khán Bình không biết nên trách thằng bạn Bảy Núi là đồ bòn tro đãi trú vì cứ xin đồ cũ của mình mặc hoài, sau này mới hay gia cảnh nó khốn cùng không tưởng tượng nổi, từ đó mới thương và quý nó hơn.
Nay lại nghe chuyện cha mạ nó ghiền đề tới nỗi bỏ đói bản thân họ và các con, tự nhiên mũi hắn cảm thấy cay xè như vừa xức dầu Con Ó.
– Có ông mách phương pháp trị bịnh đánh đề cho ba má tao.
Nghe xong, thiếu điều ổng bả muốn vác dao rượt chém ông đó luôn.
Chí Công trợn mắt hỏi:
– Ổng nói sao?
– Ổng nói có nước chặt hai tay, hai chân mới hết đánh đề.
oOo
Không ai ngờ từ cuộc đàm thoại điều tra vụ án, nguyên đám lại chuyển tông sang lên án Ba Tàu và thảo luận sôi nổi về tình hình biển Đông và diễn biến ở Trung Đông, rồi chuyển tâm điểm sang Hoa Kỳ và Do Thái.
Trần Cảnh Chiêu nói với nhóm tình báo:
– Tàu Minh Hương, Tàu Tiều, Tàu Hẹ, Tàu Cảng Thơm, Tàu Lá,…!chơi được.
Nhưng Tàu Vịt quay thì “no no no”.
Tình báo viên có đôi mắt mí lót ngẩng đầu hỏi.
Nước cà-phê trong cái ly giấy nhỏ sóng sánh theo cử động của anh ta:
– “Tàu Lá” là gì?
– Đảo Đài Loan có hình dạng gì?
– Chiếc lá.
– Thì đó.
Bữa nay nguyên đám bị cái nắng gay gắt của những ngày cuối Hè nên làm biến ra ngoài ăn uống.
Những người tình báo của chính phủ và viên cảnh sát của Tổ Trọng Án đành cậy nhờ chàng trai Đại Hàn nấu vài món bổn xứ ăn cho đỡ đói.
Cậu ta bèn nấu mỳ gói sốt cay ăn kèm với kim chi dưa leo, bánh gạo xào, trứng chần và dồi heo kiểu Hàn do cậu tự làm.
Tình báo viên có đôi mắt sáng và hắc – bạch phân minh hỏi Tào Việt Bân:
– Đằng đó nấu mỳ hiệu gì vậy?
– “Nongshim – Buckwheat in noodles air dried”.
Cô gái đứng gần cậu nhất cầm bao bì lên và đọc:
– Có chữ “Xuất sắc” trên bao bì nè.
– Phải, có lẽ thấy xứ này cũng mê ăn mỳ như xứ tôi nên họ thêm tiếng Việt vô để đánh vào tâm lý khách mua ngoại quốc.
Người đàn ông hỏi tên hiệu mỳ ban nãy gật gù:
– Một hình thức quảng bá sản phẩm rất hay.
Vì chỉ cần nướng dồi và luộc mỳ rồi trộn nước sốt, nên không quá một tiếng là Tào Việt Bân đã chế biến xong.
Sau khi phát cho mỗi người đang có mặt ở đây một tô mỳ, cậu bưng khay mỳ đi đến phòng của những ai đang bận rộn làm việc.
Trưởng phòng đang ngồi nghe bài “Xa lộ không đèn” của nhạc sĩ Y Vân do Phương Dung ca trong lúc phiên dịch tập tài liệu của “khách hàng”.
Thông qua vách kính, cậu thấy sắc diện trưởng phòng rất xấu, không biết có điều chi bất minh trong mớ tài liệu đó không.
Nghe thấy tiếng gõ trên mặt kiếng của bức vách, trưởng phòng ngẩng lên nhìn và cười thật tươi khi thấy khay đồ ăn – thức uống trên tay người bạn Đại Hàn.
– May quá, xém chút nữa là tôi chết đói rồi.
Tào Việt Bân bật cười, rồi dọn bàn ăn giùm anh ta.
– Có một số chỗ trong tập tài liệu này tôi không rõ lắm, hình như đây là tiếng lóng ở xứ anh.
Tào Việt Bân hẹn sẽ quay lại dịch giùm anh ta sau khi phát xong thực phẩm; anh ta vui vẻ ưng thuận, rồi hớn hở soạn đũa, muỗng để dùng bữa trưa.
oOo
Từ ngày Trưởng lão Như Phong và Thủy Diệu về trú tại ngôi chùa Khánh Hỷ, lượng khách thăm viếng chùa tăng cao một cách không tưởng tượng nổi.
Có nhiều bà xồn xồn hay mấy ông rượng đực cố tình tìm cớ gặp riêng Thủy Diệu, nhưng đều bị chú khước từ hết; sự việc trở nên tệ đến nỗi chú phải xuống dưới hầm trốn.
Người cúng dường bữa cơm trưa nay là một nữ thí chủ bị chứng mất ngủ kinh niên.
Cô mang tới một cái thùng lớn, bên trong đựng ba món gồm có canh mồng tơi nấu chung rau dền và tôm khô, thịt kho tiêu quéo và cá lù đù muối sả ớt ăn với cơm trắng.
Cô bạch rằng nhà không có dư tiền để nấu món chay nên đành mời các vị Tăng sĩ ăn như vầy; nếu mấy đứa nhỏ ăn chay được thì cô đã sửa soạn mâm cơm đúng lễ hơn.
Nghe xong, Trưởng lão bật cười:
– Một miếng ăn không làm nên tu sĩ.
Mình giữ giới mà sanh phiền hà cho người khác thì cũng coi như là trái Chánh Pháp.
– Dạ, thưa Thầy, xin Thầy làm ơn cắt nghĩa cho con hiểu.
– Có một câu chuyện bên nước Tàu, kể rằng có một sư thầy ăn chay trường, không may bị mắc bịnh nặng cần phải ăn thịt để tẩm bổ.
Mấy người đồ đệ thương sư phụ quá đỗi nên đã lén nhờ đại phu đi mua cháo gà.
Ăn xong, quả nhiên ông hết bịnh.
Ông mới hỏi các trò rằng đã cho thầy ăn cái chi mà công hiệu vậy.
Họ đành thú thật với ông.
Ông đau khổ tới nỗi đứng tim mà chết, rồi thành quỷ lảng vảng trong ngôi chùa đó luôn.
Cho tới mấy đời sau, một người thầy tu đã thành tựu ghé ngủ qua đêm tại ngôi chùa bị bỏ hoang đó.
Và cũng như những người khách lỡ đường kia, ông lại nghe tiếng ngâm thơ trách móc của con quỷ hiền lành; ông mới họa thơ lại và nói, “Khi nuốt thứ đó xuống bụng, rõ ràng ông đang mê sảng nên không hề biết đó là cái gì, chớ không phải là ông cố ý phá giới để thỏa mãn cái miệng của bản thân.
Vậy hà cớ gì phải dằn vặt bản thân và trách móc đồ đệ hằng bao nhiêu năm thế chớ?” Kể từ ngày hôm đó, con quỷ hiền lành đã biến mất, bởi vì vị sư thầy đã buông xuống được cái Ngã chấp trong lòng mình nên đã không còn bị ràng buộc với ngôi chùa đó nữa.
Nữ thí chủ như sực tỉnh.
Cô lặng thinh đợi người Tăng sĩ Theravada giảng giải tiếp:
– “Nhất niệm thành Ma, nhất niệm thành Phật” là vậy.
– Dạ, Thầy ơi…!
– Thí chủ bị mất ngủ phải không?
– Dạ phải…!Dạ phải…!
– Thí chủ nên nghe bài “White Tara Mantra – Chú Bạch Độ Mẫu”.
Người mắc tâm bịnh nghe những loại Chú có giai điệu như vầy tốt lắm, vì sẽ giúp đầu óc họ cảm thấy đỡ căng thẳng và nặng nề.
Vả chăng, giai điệu êm ái tựa lời ru mẹ hiền sẽ làm thí chủ dễ chịu, từ đó dễ đi vào cõi mộng hơn.
– Nhưng Chú này có công dụng gì khác không thưa Trưởng lão?
– “Linh tại ngã, bất linh tại ngã”.
Thấy sắp tới giờ đón con nên nữ thí chủ mạn phép ra về.
Trưởng lão tiễn chân cô đến tận cổng trước, rồi làm ấn thủ chúc phúc trước lúc dời gót xuống nhà sau.
Thủy Diệu đang quét sân ở bên hông khuôn viên ngôi chùa; vừa làm vừa đọc Kinh.
Dáng vẻ thanh thoát của chú đã làm những kẻ háo sắc ngây người.
– Thủy Diệu
– Tôi đây.
Người thầy dạy Anh Văn xuýt xoa hỏi:
– Bữa nay tôi bận việc nhà, anh vô dạy thế được không?
– Thưa được, xin thí chủ hãy an lòng.
Mới bước qua ngạch cửa của lớp học, Thủy Diệu đã nghe thấy tiếng la hét tràn ngập sự hân hoan của mấy cô nữ sinh.
Chú vừa cười mỉm vừa nhẹ lắc đầu, rồi bồi hồi nhớ lại kiếp trước của mình…!
Còn ở ngoài sân sau của ngôi chùa Khánh Hỷ, Vệ Thu đang ngồi nói chuyện với đứa cháu Tố Nguyệt; thủ tục đã xong, giờ chỉ còn ngồi đợi ngày cùng nó sang Mỹ.
Để cho tên tròn với ba đứa con ruột Kích – Cung – Thương, ông đã đặt cho đứa cháu cái tên Giản, một loại binh khí gần giống với nhị khúc côn nhưng khác ở chỗ không có sợi xích kết nối hai cây côn.
– Ông ơi…!
– Sao con?
– Đôi lúc con không hiểu Pháp của Thầy Lợi và Thần Thông của Thầy Thương.
– Người đã đắc đạo thì không thích thuyết giảng mấy vì biết có nói cũng bằng thừa.
Chẳng những chúng sanh không hiểu và sanh tâm phỉ báng Tam Bảo, mà còn đánh giá các Thầy xuống ngang hàng với bọn Ma Tăng.
– Dạ?
– Chúng sanh không hiểu về Nghiệp, lại bị Ma Tăng diễn giải sai về Nghiệp, nên chữ Nghiệp lại càng rỗng không.
Bây giờ lại còn cái trò sửa chữ “Quả Báo” thành “Quả táo”, đụng đâu cũng nói tới chữ “Độ” và “Siêu thoát”.
Như Phong chắp tay xá, thay cho lời chào, hai bác cháu.
Vệ Thu liền mừng rỡ đỡ cụ ngồi xuống cạnh mình.
– Tôi sắp sửa đưa Vệ Giản đi chích ngừa rồi, Thầy thấy sao?
– Tôi sẽ không nói về các loại vaccine và Y Học.
Vệ Thu nhịp ngón trỏ trên cái cằm có ngấn của mình và hỏi tại sao.
Người Tăng sĩ già ân cần trình bày:
– Nếu tôi khuyên người ta đi chích ngừa mà vô tình khiến cho người ta bị phản ứng thuốc nên chết hoặc về sau bị biến chứng – dị tật trên cơ thể hay đời con cái, tôi đã phạm tội “đẩy người ta vô con đường chết và thống khổ”.
Nếu tôi khuyên người ta không chích ngừa mà vô tình khiến cho người ta không có “thứ đó” bảo vệ cơ thể khi nhiễm bệnh nên chết, tôi đã phạm tội “can người ta tìm con đường sống”.
Thành thử ra, về vấn đề có nên chích ngừa các loại vaccine hay không, tôi xin mạn phép không trả lời, hãy để guồng quay Nghiệp – Quả tự vận hành.
Vệ Thu giơ ngón cái, tỏ vẻ tán thành với ông cụ thầy bạn mình.
– Còn về chuyện Y Học, tôi không có chuyên môn về bên Tây Y nên sẽ không giải đáp thắc mắc của bất cứ ai.
– Dạ, vậy Thầy có biết Đông Y không?
– Phải, già này chỉ biết chút chút về Đông Y, như cầm máu, chữa rắn cắn, trị cảm mạo, ho gà và hen suyễn…!
Một người có tác phong giống phóng viên bước tới xin phép phỏng vấn người Tăng sĩ cao niên, và cụ vui lòng chấp thuận:
– Quá khứ của già à? Già đã từng là lính…!
– Dạ, cụ thuộc đơn vị nào vậy?
– Thì nghe thử bản “Viết từ K.B.C” do nhóm nhạc sĩ “Lê Minh Bằng” sáng tác đi, bài này ba ông ký tên là “Hoàng Minh – Mạc Phong Linh”.
Hồi đó già và mấy đứa bạn hay nghe Duy Khánh ca, từ ngày đắp áo cà-sa không còn nghe lại nên chẳng còn nhớ lại.
– “Khu Bưu Chính”?
– Thưa phải.
Người đàn ông đó mạn phép hỏi cao danh quý tính của cụ.
– Tôi tên Phong, má nuôi tên Như, nên tôi chọn pháp danh là Như Phong.
– Dạ, cách tu hành của chùa mình như thế nào vậy cụ?
– Nguyện, trì chú và niệm hoặc tụng Kinh là ba phương pháp kết nối với cõi Phật của chúng tôi.
Chúng tôi không gõ mõ, đánh chuông hay lần tràng hạt.
– Nhưng vẫn đốt nhang và thắp đèn cầy khi có ngày Lễ phải không cụ?
– Thưa phải, bà con bán bông ế thường đem tặng chúng tôi mớ thừa; sau khi rửa lại và cắt bớt những cành héo, dập nát, chúng tôi đem cắm bó bông vô cái lục bình mà má tôi tặng tôi nhân ngày tôi xuất gia.
– Nhưng Trì Thương có thần thông thật không cụ?
Như Phong không hề ngạc nhiên trước câu hỏi kỳ khôi của người đàn ông mới ghé nơi này lần đầu, cụ cười tươi trả lời:
– Có cũng được, không có cũng chẳng sao.
Người Tăng sĩ già cười móm mém.
– Thưa cụ…!
– Hửm?
– Cụ nghĩ như thế nào về hai chữ “Đại đức”, “Thánh Tăng”, “Bồ Tát”?
– Tự xưng “Đại đức” cũng bị mắc tội vọng ngữ.
Nhận lấy đồ cúng dường mà không chịu giữ giới nghiêm chỉnh sẽ bị đọa Địa Ngục Vô Gián; vì khi trao đồ cho mình, người thí chủ đó rất mực tin kính mình là người thầy tu nhà Phật đức hạnh, mà mình lại phụ rẫy tấm lòng và cảm tình của họ tức là đã phạm phải tội dối trá, nói phứt ra là lừa đảo.
Còn hai chữ “Bồ Tát”, nếu áp dụng hai chữ này lên người khác một cách không suy xét, rất dễ khiến người nhận bị gánh Nghiệp vọng ngữ chung với mình.
– Dạ, cụ cảm thấy như thế nào khi thấy đạo Phật bị bôi nhọ? Cụ có từng bực mình không?
– Bực? Tại sao lại bực?
– Dạ.
Vệ Thu cảm nhận được sự gài bẫy trong câu hỏi của người tự xưng là phóng viên.
Ông tính mở miệng xua đuổi, nhưng Trưởng lão đã lên tiếng kể chuyện:
– Thời Đấng Thế Tôn hãy còn tại thế, có một người thầy tu chuyên môn rình coi ai phạm lỗi gì thì méc lại với Ngài để “lập công”.
“Nhờ vậy” mà ngoài việc trở thành một kẻ nhiều chuyện ra, ông ta không đạt được thành tựu gì.
Cho đến một ngày, ông ta lại vô mách lẻo nữa, và Đức Phật đã quở trách luôn chứ không còn im lặng bỏ qua.
Thì cũng vậy thôi, thay vì tự biến mình thành kẻ theo đuôi người chuyên môn rình coi Phật Giáo có chuyện gì xấu để đem ra làm chủ đề bàn tán, cười cợt với nhóm của họ, thì hãy dành thời giờ đó mà làm những chuyện mình cảm thấy dễ chịu và thư thái.
Có những thí chủ đã kể với tôi về những bài viết mượn chuyện xấu của ma Tăng để đả kích và châm biếm Phật Giáo, tôi đã nói lại rằng hễ thấy những bài viết đó, con hãy gieo trồng một cái cây.
Có thí chủ khéo tay nên đã làm cho khoảng trống trên sân thượng thành vườn rau xanh um; kể từ đó về sau, tôi không còn nghe thí chủ đó nhắc tới chuyện đó nữa, đổi lại là những tiếng hoan hỉ vì đã giúp gia đình thí chủ đó có rau sạch để ăn thường xuyên.
Có thí chủ không trồng được cây nào, nên than thở với tôi rằng mất tiền mà không thu hoạch được gì; tôi mới trả lời rằng, “Tiền xài phí về sau có thể kiếm lại được, nhưng thời giờ xài phí mãi mãi không quay trở về.
Vậy thì hà cớ gì phải bận tâm tới miệng lưỡi thế gian, để rồi phung phí những phút giây được sống đáng quý của mình?”
Cho nên, thay vì bàn luận về đức tin của người khác và lên tiếng phản đối những ai nói lời không hay về Phật Giáo, chúng tôi dành thời gian để bàn luận về đức tin của mình.
– Nhưng “Cây muốn lặng, mà gió chẳng ngừng”…!
– Họ muốn là cây, là gió, là mặt trời, là mặt trăng, là tinh tú, là đất bằng,…!thì tùy hỷ họ.
Người đàn ông đó chưa kịp mở miệng khích tướng thì đã bị cụ chặn đứng ý đồ:
– Xin hãy nhớ tới bài pháp “Hãy học Hạnh của Đất, Nước, Gió, Lửa”.
Người đàn ông đeo máy quay phim hiệu “Canon” chắp tay xá vị Tăng sĩ già, rồi xin phép cáo từ.
Đợi người đàn ông đó leo lên chiếc xe Range Rover bán tải đi khuất qua nghĩa trang, Vệ Thu mới trở lại chỗ ngồi và lắc đầu than thở:
– Ngôi chùa này đang bị biến thành chiêu bài truyền thông…!
Đã tới giờ thọ thực nên Trưởng lão kết thúc chủ đề một cách dang dở.
Cụ cùng các trò ra sân sau dùng bữa; trong bếp, Quý Tâm đã nấu nướng xong, hiện đang múc đồ ăn vô y bát của thầy và các huynh đệ đồng Đạo.
Châu Lợi dằm cơm với canh cho thật mềm, rồi đút từng muỗng cơm cho người Thầy mà ông kính trọng như cha.
Trong lúc Thầy ông nhai cơm, ông sẽ bưng y bát của mình lên và múc ăn.
Thỉnh thoảng, ông sẽ vừa ăn vừa lau miệng cho Thầy.
– Có một số người dựa trên tư tưởng Phật Giáo mà soạn ra những câu nói thật hay.
Thí dụ như “Cách giết bạn nhanh nhất chính là việc để tâm tới người khác quá nhiều”.
Nghe Trì Thương nói vậy, Như Phong bật cười và gật đầu.
Rồi cụ phát biểu cảm nghĩ của mình:
– Con người không hiểu chuyện suy nghĩ độc lập và lắng nghe người khác là hai việc nên làm cùng một lúc.
Con người thường hay tách đôi hai việc trên ra nên dẫn đến hậu quả xấu, xấu nhất chính là đánh mất bản thân.
Tiếng hát trong bài “Thăm những vùng địa sử” của nhạc sĩ Thanh Sơn do song ca Bùi Thiện – Thanh Tuyền trình bày vang đến nơi thọ thực của nhóm Tăng sĩ Theravada.
Người tài xế taxi bật bản nhạc này trong lúc đợi hành khách viếng mộ thân nhân của họ xong.
Từ ngày thành lập khu chợ đêm, nghĩa trang không còn đáng sợ và cô tịch nữa vì con đường này không khi nào ngớt tiếng xe cộ và bước chân người bộ hành qua lại.
– Trải qua trăm năm dâu bể đời người, có những giấc mộng đã tan thành mây khói ngay từ thuở mới chớm sơ khai.
Phải kể đến là giấc mộng “Nhà Việt Nam” của nhạc sĩ Thẩm Oánh, rồi thì những khát vọng hòa bình được gởi gắm trong một số bài hát của các nhạc sĩ yểu mạng như Anh Việt Thu, Anh Thy, Võ Đức Thu,…!
Thủy Diệu chắp tay thưa rằng:
– Thưa Thầy, con từng nghe nói trên thế giới có hai đại dương không bao giờ hòa lẫn vô nhau, thậm chí tới màu sắc của mỗi cái cũng khác nhau luôn.
– À, hồi nhỏ ta có học qua, là Đại Tây Dương và Thái Bình Dương.
Trên đời này còn nhiều vùng nước không hòa lẫn vô nhau lắm đó mấy con.
Hoàng Kỳ cười hiền mà bạch:
– Con thấy như vậy cũng tốt mà Thầy? Không hợp thì cứ tách ra, cứ dằng dai níu kéo chỉ tổ sanh phiền não.
Như Phong tạo ấn thủ trì chú, rồi cười thật tươi trước khi nói:
– Sadhu…!Con đã buông bỏ được nghiệp đánh người kiếm tiền, đó cũng là một chiến thắng rất đáng nể.
Thường thì người ta sẽ vin vô cớ đam mê hay tình cảm để giữ rịt thứ gây phiền não cho họ.
Sau bữa ăn, những người đồ đệ của Như Phong lui vô phòng thiền tĩnh tọa, riêng vị Trưởng lão còn chờ một người…!
Một đàn kiến lửa đang khuân những hột cơm, mẩu thức ăn thừa mà cụ và các đồ đệ làm vương vãi.
Cái tổ của chúng nằm trong hốc của cái chậu trồng cây lá cách.
Cụ nhìn chúng mà nhớ tới đám bạn đã khuất bóng, lòng ngậm ngùi thương cảm cho kiếp người của chúng sanh cõi Ta-Bà sao quá mong manh và ngắn ngủi.
Người đàn ông đội nón cao bồi và đi xe hơi Dodge không biết vì lý do gì mà ghé đây viếng chùa.
Anh ta mang theo nhang trầm và một giỏ trái cây được cột nơ rất đẹp.
Trong chùa không có hòm công đức, khiến anh ta quá đỗi ngạc nhiên.
Nhưng cơn xúc cảm chưa kịp lắng xuống, thì hình ảnh người Tăng sĩ già đã gây nỗi buồn man mác nơi anh; anh nhớ ông cố ngoại của mình, nhớ rất nhiều, thương rất nhiều.
Anh đặt đại cái giỏ trái cây xuống bục thang dẫn lên bàn thờ, rồi chạy chân không ra ngoài mà thưa cụ.
Như Phong dịch sang trái để rộng chỗ ngồi cho người trai trẻ đáng tuổi chắt mình.
– Thưa thầy…!
– Con cứ gọi ta là “ông”, “bác” hay “cụ” nếu muốn.
Chữ “Thầy” chỉ nên gọi khi lòng đã tin tưởng ta.
– Dạ.
Không biết nói cái gì nên anh khách lạ đành nói đại hòng níu kéo câu chuyện:
– Nếu một người đàn ông nhỏ tuổi thích một người đàn ông lớn tuổi hơn thì sao ông?
Nói một lèo xong, chàng ta mới cảm thấy hối hận.
Như Phong cười hiền, rồi xin phép được cầm đôi bàn tay của người khách viếng chùa.
Sau khi được sự cho phép của anh ta, cụ mới làm thế và nhắm nghiền mắt quán sát.
Vẫn còn nguyên tư thế như vậy, cụ từ tốn trình bày:
– Tình cảm mà người trai vừa chớm trung niên dành cho người đàn ông sắp chạm ngưỡng tứ tuần đó là tình cha con.
Bởi vì mồ côi cha từ nhỏ nên người trai đó có một sự ngưỡng mộ đặc biệt với người bạn đồng giới lớn tuổi; nói cụ thể là mỗi hành vi, cử chỉ của người bạn đó đều làm người trai liên tưởng tới cha ruột, những lúc đó người trai tự nhủ thầm “À, nếu ba mình còn sống thì chắc ổng cũng sẽ làm như vầy, nói như vầy, khuyên dạy như vầy,…!với mình”.
Nhưng thân bằng quyến thuộc lại lầm tưởng rằng người trai đó đã nảy sinh mối tình đồng giới với người bạn kim bằng, thành thử ra ai nấy đều cố sức ngăn cản và can gián.
“Tự tâm tình tưởng rồi tự tâm mình sinh phiền não chứ chẳng ai làm khổ mình hết.”
Anh khách lạ giật nảy người:
– Sao…!sao ông biết con đang nghĩ tới ai?
Người Tăng sĩ cao tuổi nhìn anh bằng đôi mắt hiền từ, sáng rỡ một cách lạ thường.
Cụ cười mỉm và nói:
– Sadhu.
Đoán được người giống ông cố ngoại thân yêu không muốn nói nữa, nên anh khách lạ cáo lỗi, rồi sải bước vào Chánh Điện để lấy đôi giày đặt ở trên kệ gỗ.
Rời khỏi ngôi chùa mái ngói rêu phong, anh ta ghé quán bún bò Huế o Thơm ăn bữa trưa muộn.
Dọc đường đi, phải khó khăn lắm anh ta mới kiểm soát được cơ thể mình để tránh va chạm bất đắc dĩ với dòng người ngược xuôi tấp nập.
Trên đầu anh là “Vùng lá me bay”, lá me bay lả tả khắp nơi như một cơn mưa phùn.
Quán của o Thơm đón tiếp anh khách lạ bằng bản “Mùa Thu nhớ ai” do nữ ca sĩ hải ngoại Thúy Hằng trình bày, nữ nhạc sĩ Khúc Lan đặt lời Việt từ giai điệu của một ca khúc ngoại quốc.
– O Thơm?
– Mi đi mô rứa mà nỏ ghé quán của o eng hè?
Không đợi cho mối quen kịp trả lời, o Thơm đã tất tả xuống bếp và hối nhân viên bắt bún cho anh ta.
Chín Tân mua bún bò cho Tư Hiếu xong, liền quày quả quay gót ra xe thật mau để tránh cái nắng đốt da cháy thịt của buổi xế trưa.
Có một tín hữu muốn liên lạc với tụi anh để cung cấp tin tức về cha của em Mười, nơi người đó chọn làm điểm hẹn là nhà nguyện do anh Ba và anh Tư phụ trách.
– Chúa ơi…!Ai ghẹo con kỳ cục vậy hỡi Chúa ơi?
Trên nắp ca-pô chiếc xe hơi hiệu “Mercedes – Maybach” bị xịt sơn đen theo hình Thánh Giá ngược.
Anh cởi phứt cái áo vest của mình ra, rồi cố sức tẩy vết sơn quỷ quái đó đi.
Nhưng anh làm đến mướt mồ hôi mà nó vẫn “kiên gan” ở đó.
Cực chẳng đã, anh đành lên xe rời đi.
Tay trái anh điều khiển bánh lái, tay phải lần chuỗi Mân Côi.
Bản Thánh Ca “Sám hối” do nam ca sĩ Gia Ân trình bày làm vơi bớt nỗi hoang mang trong lòng chàng Mục sư “con nhà giàu”.
Ngang qua khu đ* điếm ở quận Mười, anh tình cờ nhìn thấy em Mười đang ngồi nói chuyện với hai cô gái làng chơi trên bãi đất chứa đầy vật liệu bỏ hoang.
Sẵn đang trên đường tới nhà nguyện, anh quyết định tắp vô đón nó.
Một trong hai cô gái bất ngờ bật bản “Material girl” do Madonna ca, rồi hát lại một đoạn lời Việt của ca khúc này là bài “Cuộc đời là mơ” theo tông giọng của Trizzie Phương Trinh:
“…!Dù bao lời cầu xin, bao lời tha thiết cũng không làm xiêu lòng
Em sẽ trao trọn tình em về anh khi đã mang đến em tiền…”
– Tôi không có tiền.
– Nhưng hình như bạn cưng có.
Đi cái xe đó mà nói hổng có thì xạo dữ lắm nha.
– Bao nhiêu?
Ả điếm thứ hai cười ngả ngớn:
– Anh muốn cho nhiêu cũng được…!
Nhằm tránh việc có người lấy tấm chi phiếu của mình làm vật chứng phạm tội, Chín Tân đưa hết xấp tiền trong bóp cho hai cô gái, rồi kéo em trai đi về phía chiếc xe đang đậu.
– Em có sao hôn?
– Anh ơi, hai người bạn Linh mục của em tìm thấy một cái xác của một người phụ nữ khá lớn tuổi dưới mương nước của Giáo xứ.
Em không biết nữ điều tra viên kia còn sống hay đã chết nên tới đây kiếm, nhưng không có ai ở nhà hết, thành thử ra em phải bắt chuyện với hai cô gái kia.
Chín Tân đã cố hết sức mà vẫn không sao tra chìa khóa vào ổ cắm.
Anh đành nhờ em trai cắm giùm.
Rồi chật vật cài dây an toàn.
Ngoài trời lại đổ mưa; hai cô ả kia vừa chạy về chỗ làm vừa nói cười hỉ hả, tự nhiên hai người hết bực bội và cảm thấy thương hại hai người con gái bán phấn buôn hương không rõ danh tính kia.
Trên đường chạy tới nhà nguyện, hai anh em không nói với nhau tiếng nào; mỗi người đều bị nỗi sầu muộn riêng tư nhấn chìm vào bể khổ..