Tiệm Trà Sữa Của Tôi Toàn Là Dân Nằm Vùng Hệ Liệt

Chương 163: Hồi Hai Mươi Chín Con Tạo Xoay Vần A


Bạn đang đọc Tiệm Trà Sữa Của Tôi Toàn Là Dân Nằm Vùng Hệ Liệt – Chương 163: Hồi Hai Mươi Chín Con Tạo Xoay Vần A


Bảy Khanh đang ăn trưa sớm tại nhà một người bạn Mục sư ở quận Trúc Giang, thuộc thành phố Bến Tre; bữa nay gia đình quý bằng hữu đãi anh món bánh canh bột xắt nấu với thịt vịt xiêm và nước cốt dừa, ăn kèm huyết nếp và lòng vịt.

Tính tình anh dễ chịu và thoải mái hơn những người anh lớn; nhưng cũng đủ chín chắn về mặt mục vụ hơn các em nhỏ, nhất là Tám Khiêm.

Lần này anh xuống Bến Tre cùng Út An, nó đang phụ xây cầu với bà con ở Ba Tri.

Gọi nó là Út chứ tướng tinh nó “lực điền” nhất trong bọn, hễ có việc gì nặng là lại đến tay nó.

Có lần nó bị anh Năm sai làm bù đầu bù cổ, nó tức quá mới hỏi:
“Mi là anh tau phải hôn? Răng mà bắt tau mần hết vậy?”
Năm Tường đáp tỉnh bơ:
“Anh ghẻ.”
Câu trả lời đó khiến nó ngạc nhiên tới nỗi…!lủi thủi đi làm tiếp.

Nhìn cái tướng xụi lơ của nó mà Năm Tường mắc cười gần chết, anh không phụ nó một tay là vì mắc lo nấu nướng dưới bếp chứ chẳng phải cậy lớn hiếp nhỏ như nó lầm tưởng.

Trên đường đi kiếm Út An, Bảy Khanh tắp vô một vựa dừa mua một trái uống cho đỡ khát.

Anh chỉ vào buồng dừa “mẫu” có dán giấy ghi “Dừa dứa”, rồi hỏi:
– Anh biết chặt dừa hôn? Chặt giùm tôi một trái này đi.

Người đàn ông đó gật đầu.

Rồi mau lẹ cầm con dao cán dài chặt xuống cuống một trái dừa.

Anh ta thoăn thoắt gọt dừa.

Nhưng sự điêu luyện ấy chỉ tổ khiến Bảy Khanh ôm ngực thở dốc, anh chàng Mục sư hô hoán:
– Thôi, thôi, thôi, thôi cha…!Cha chặt kiểu gì mà lưỡi dao nó hướng vô cổ tay không vậy? Con canh nãy giờ muốn rớt tim ra ngoài luôn nè…!
– Tôi bị loạn mà, nên canh đâu có chính xác, chặt theo “quán tính” thôi.

– Rồi sao hổng đeo kiếng?
– Vướng.

Leo trèo khó lắm đa.

– Bây yên tâm đi.

Nó “thầu” được.

Ông lão chủ vựa ngó thằng cháu “rớt” mà cười hiền.

Rồi bước tới trao dừa và nhận tiền của khách.

– Tôi tưởng phải uống nước dừa pha…!xi-rô dâu rồi chớ!
– Sẵn bây qua nhà tao phụ lót cái sân trước, tao trả tiền thêm cho.

Anh ta khẽ gật đầu, rồi đội lại cái nón lưỡi trai và đeo kiếng vào trước khi qua nhà vợ chồng chủ vựa.

Không quên cáo từ Bảy Khanh một tiếng.

Trên thềm nhà, ông già Ba Tri đang hát một đoạn trong bài “Chiều mưa xứ dừa” của nhạc sĩ Thanh Sơn cho đám bạn nhậu nghe.

Mồi nhậu chỉ là một dĩa khô cá chỉ vàng nướng và một tô đựng đầy trái cóc chấm mắm ruốc.

Đặng Xương Tuyết vừa tới nơi liền bắt tay vào làm.

Khúc sân cần lót đan có diện tích ước chừng mười bảy mét vuông, anh làm đến chiều là xong.

– Vô hát đi Tuyết.

– Con mắc làm rồi ông.

Đợi xíu nữa nghen?
– Đứng đó hát luôn cũng được.

Biết không hát thì không yên với mấy chiến hữu già, Đặng Xương Tuyết đành phải ca đại một bản của Trần Thiện Thanh, mang tên “Tình thư của lính”, mà anh đã từng nghe qua phần trình bày của ban “Tứ ca Nhật Trường”.

Về sau có tam ca Lê Tâm – Gia Huy – Lâm Nhật Tiến trình diễn bài này cũng rất tuyệt vời, nhưng anh đã trót ưng cách hòa âm phối khí trong bài hát do bác Nhật Trường và các cô bạn đồng nghiệp trình diễn rồi.

– Anh hát nghe hay quá!
– Tôi chỉ có thể hát bè, hát lót, chứ tiếng hát có gì đặc sắc và độc đáo để được hát chính đâu.

– Nhưng bài khó như vầy mà anh hát nổi thì…!
– Ba bản là hết hơi, khàn tiếng rồi anh.

Dây thanh quản của tôi không đủ sức để hát lâu đâu…!
Người đàn ông cũng bị bệnh về mắt như anh niềm nở tới bắt tay anh.

Anh đành cởi găng tay ra, lau khô bàn tay ướt đẫm mồ hôi, rồi mới chìa tay bắt lại.

– Anh có muốn trở thành ca sĩ không?
– Thôi, nên tự lượng sức mình, đừng thấy hát hơi được là nhảy ra làm ca sĩ thì tội nghiệp cho nền âm nhạc Nước Nhà lắm.

Người đàn ông đó ngồi xuống băng ghế cách chỗ anh làm khoảng vài thước, rồi vắt tréo chân, tấm lưng thẳng tắp như một người lính đang đi diễn hành, hai bàn tay chụm lại và đặt trên đầu gối.

– Anh có kỷ niệm tuổi thơ nào vui vui, hay hay không? Kể cho tôi nghe đi.

– Bây giờ tuổi thơ đã trôi qua lâu lắm rồi, mà bộ truyện ấy vẫn chưa thành hình chớ đừng nói chi là xuất bản.

– Cụ thể là sao anh?
– Hai đứa khờ vẽ trên nền giấy tập “Làng Hương”, còn tự tin tuyên bố sau khi hoàn thành sẽ gởi cho nhà xuất bản.

Tuyến nhân vật chính là một đôi nam – nữ, theo như ý tưởng sáng tác của cả hai thì hai người này là bạn thân của nhau.

Chín Tân chống cằm lắng tai nghe.

– Tôi vẫn còn nhớ cuốn truyện “Đô-rê-mon tập Mười ba” cho nhỏ mướn bị chó nhà nhỏ cắn nát bìa.

Và cả những lần có tập nào mới hoặc sách truyện nào hay tôi lại mang sang cho hai chị em nhỏ coi.

Rồi những cây sống đời mà tụi tôi cùng nhau gieo trồng quanh nhà nhỏ.

Tới cái lầu có một nhà vệ sinh rất dơ và bụi bặm do lâu ngày không sử dụng.

Và những bức tranh vẽ trên giấy A4 bán trước cổng trường tôi và nhỏ hay mua về rồi dán dọc theo lối đi cầu thang nhà nhỏ, có lúc tụi tôi rủ nhau đi photo mấy tấm đó để làm giàu thêm bộ sưu tập.

Từ cái đài radio cũ mèm phát ra tiếng ca Duy Khánh trong bài “Người em xóm Đạo” của nhạc sĩ Bằng Giang; kể về chuyện tình của một người lính và cô em gái thanh mai trúc mã sống trong một xóm Đạo thuộc khu Hố Nai – Biên Hòa ở Đồng Nai, nhưng chiến tranh loạn ly đã cướp đi cuộc đời nàng.

Vẫn chưa rõ đây là kỷ niệm của chính tác giả hay chỉ là một khúc tình buồn dựa trên bối cảnh có thật.

“Ngày xưa tôi có một người em rất đẹp ở xóm Đạo
Những buổi tan trường thường hay tìm nhau
Xây mơ ước ngày sau…”
– Đừng cố “thần thánh hóa” bất kỳ ai thì sẽ không bị té đau đâu.

Tôi cũng thích tư tưởng và học thuật của một vài người, nhưng không bao giờ tôi tôn thờ hay làm nô lệ tâm thức cho họ.

– “Nô lệ tâm thức” nghĩa là sao?
– Nghĩa là hễ ai nói lên những mặt không tốt của người đó, anh sẽ nhảy cẫng lên mà mắng nhiếc xối xả người vừa phát biểu như thể anh ta là kẻ thù truyền kiếp của tổ tiên anh vậy.

Còn hễ anh nghe ai khen hoặc tâng bốc người đó hết lời, anh sẽ vội vàng tin rằng người vừa phát biểu là bạn tốt và đồng minh của anh, trong khi có thể lời khen ấy là lời khen đểu và sự tâng bốc đó là một cách nói kháy thâm sâu.

Nói tóm lại, tự anh biến mình thành nô lệ của người đó, người đó được khen – anh vui lây, người đó bị mắng chửi – anh giận lây, người đó bị phê bình – anh gân cổ biện minh giùm, người đó khóc – anh sụt sùi lau lệ, người đó chửi kẻ người đó ghét – anh xuýt xoa khen hay, người đó bị hiểu lầm – anh soạn “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” chửi rủa những ai mắc lỗi trên, người đó “xì hơi” – anh cũng gật gù nói thơm,…!
Chín Tân nhớ tới sự công kích tập thể mà một số Giáo dân ở Saint Pio đã làm đối với Cha Thành nên thấm thía những gì mà anh bạn mới quen đã và đang tâm sự.

Có kẻ phao tin ông đã nhận tiền của gia đình Khán Cảnh nên mới tỏ ra sốt sắng trong công cuộc tố cáo ban chấp sự thụ lý vụ án giết người trên.

– Cũng có nhiều kẻ biết tôi mến người nào, liền “a-lê-hấp” ráp nhau công kích người đó cho tôi tức chơi.

Nhưng rất tiếc, tôi đâu có dư thời giờ để mà tức.

– Anh bận chi?
– Đi làm vườn nè, viết vời nè, làm việc nhà nè,…!Hồi đó còn lo cho nhỏ em nữa, tôi đâu có quởn mà trở thành “người hâm mộ mất trí” của bất cứ ai.

Họ bị cái tư tưởng, “Mày ghét người tao thích thì chắc chắn mày thích người tao ghét” làm cho ngu muội và trở nên cực đoan.

– Anh nghĩ sao về cách tranh luận?
– Lời nhận xét công tâm và dựa trên quan điểm cá nhân một cách văn minh nó hoàn toàn khác với sự công kích soi mói và không dựa trên sự phân tích khách quan mà dựa trên cảm xúc tiêu cực cá nhân hoặc bị lây theo sự dẫn dắt như thù hằn, ghét bỏ, kỳ thị, đố kỵ,…!Thí dụ như tôi cho rằng cô Ngọc Lan hát nhạc Trịnh không hay bằng cô Khánh Ly, còn cô Khánh Ly hát nhạc trữ tình không truyền cảm và da diết bằng cô Ngọc Lan, ấy là quan điểm cá nhân của tôi dựa trên cảm nhận riêng của chính mình; bỗng đâu anh nhảy vào nói tôi biết gì về âm nhạc mà bày đặt nhận xét hai cô, có hát được hay nổi danh bằng người ta chưa mà dám phát biểu, thì lúc đó anh đã phạm lỗi nguy biện nghiêm trọng và đã tự biến mình thành người phản biện kém văn minh và lạc đề.

– Còn chủ nghĩa dân tộc cực đoan?
– Chủ nghĩa dân tộc cực đoan là như thế nào à?
Uống xong ly trà đá, Đặng Xương Tuyết mới đáp:
– Người ta giới thiệu mỳ gói Hàn Quốc, một số người vô nói loại mỳ này không bao giờ ngon bằng mỳ gói Việt Nam.

Người ta quay video ở những cửa hàng bán thức ăn liền như gà chiên, hamburger, pizza,…!hay những điểm bán món ăn truyền thống – đặc sản của nước mà người đó đang sống hoặc du lịch, lại nhảy vô chê thức ăn của người ta là rác rưởi, cho cũng không thèm ăn, nhìn là nuốt không trôi, mắc ói, thấy gớm, hàng thải,…!nhưng họ lại phản ứng rất tiêu cực với những ai nói thẳng rằng không thích đồ ăn Việt Nam; trong khi chính bản thân họ lại buông lời mạt sát nặng nề hơn thế với nền văn hóa ăn uống ở nước khác.

Bản thân mình thì ghét nghe người ta chê, thích nghe lời đường mật, nhưng lại khoái đi dìm hàng, soi mói và miệt thị cách ăn uống của người khác.

Anh có thể tìm hiểu hậu quả của chủ nghĩa dân tộc cực đoan thông qua cuộc đời của Phúc Trạch Dụ Cát – Fukuzawa Yukichi, người đàn ông này được in hình trên tờ tiền mười ngàn Yên của Nhật.

Kiến thức của tôi hạn hẹp và ngôn ngữ chuyên ngành không sâu lắm nên mong anh hãy tự đọc tài liệu đó cho dễ hiểu và trôi chảy.

Người đàn ông này còn là tác giả của một cuốn sách rất hay mang tên “Khuyến học”.

Vừa hay Út An về tới, Chín Tân từ giã anh bạn đeo kiếng giống mình, rồi theo em trai lên nhà thờ địa phương thăm các bạn mục vụ, Trưởng Lão và bà con Cơ Đốc Nhân.

Bảy Khanh không thấy Út An nên đã lên đó chờ hai người.

– Sao anh cười vậy Chín?
Chín Tân gác tay lên thành cửa sổ xe hơi, nghe làn gió đồng quê mơn trớn cánh tay mình.

Một đỗi lâu sau, anh mới hồi thần mà trả lời thắc mắc của em Út:
– Những người hướng nội một khi chấp nhận mở lòng với anh, họ sẽ cho anh thấy một thế giới đầy ắp kho tàng, tri thức và mầu nhiệm.

– Nhưng rõ ràng ảnh có dấu hiệu bị tâm thần rồi đó anh…!
– Đôi lúc điên cũng hay mà, có sao đâu.

Vì mình suốt ngày cứ đặt nặng lề thói bình thường nên tự làm khổ bản thân và áp đặt người khác.

Út An nhún vai.

Anh không thể hiểu nổi suy nghĩ của dân Luật và dân Văn.

Trước lúc bị rối trí do suy nghĩ lung tung, anh bèn mở bản nhạc thật vui tai “Chỉ riêng mình ta” do ca sĩ kiêm vũ sư Nguyễn Hưng trình bày lên nghe.

Ở nhà vợ chồng chủ vựa dừa, gã văn sĩ điên vẫn đang lót đan.

Ban nãy anh cố tình nói dông dài để đuổi khéo người đàn ông ăn mặc bặt thiệp và có dáng dấp của một luật sư sắc bén, nhưng bất thành, người đó vẫn ung dung nghe anh độc thoại như đang theo dõi hành động của luật sư bên phía đối lập.

Có thể đúng như anh đã đoán, anh ta là con nhà Luật khoa, và tiếp cận với anh để mong có thể củng cố cách tranh biện của mình, bằng cách tìm ra ra sơ hở trong luận cứ và thiếu sót trong dẫn chứng của anh.

Như vậy thì ắt hẳn anh ta đã thất vọng rồi, vì sở học thô thiển và yếu kém của anh chỉ tổ khiến anh ta phí thời gian vô ích mà thôi.

Đang miên man suy nghĩ như thế, chợt có người gọi tên anh thật lớn, anh bèn quay mặt nhìn về hướng ấy và hỏi:
– Dạ?
– Mai mày ghé nhà tao phụ mần đám nghen? Yên tâm đi, tao hổng biểu mày sát sanh đâu, chỉ lo dựng rạp với nấu nướng thôi.

Thì ra là ông Sáu Gụ, chuyên bỏ mối sỉ – lẻ đường xuyên tỉnh, hình như chồng sắp cưới của con gái ông là bác sĩ Nhi khoa trong thị trấn.

– Mày nấu cháo ngon lắm, có mày nêm giùm mấy bà bếp đỡ cực.

– Dạ.

Con sẽ ráng giúp ông lo liệu đám cưới tốt nhứt có thể.

Chưa tới bốn giờ mà anh đã lót xong khúc sân, được trả công ba chục đồng, nếu mua Salonpas chắc còn được hai chục.

– Sòng phẳng.

Đời con không thích mắc nợ ai.

Ông già Ba Tri mặt buồn hiu.

Nhưng biết thằng nhỏ không có ý xấu trong lời nói và suy nghĩ nên ông đành nhận tiền cho nó yên lòng.

– Mày tắm nước máy hay nước lạnh?
– Dạ, lạnh.

– Chìa khóa nhà tao nè thằng quỷ, lát có dìa sớm thì cứ vô tự nhiên.

Hãy còn sớm chán, Đặng Xương Tuyết bèn dạo chơi trong xóm nhỏ vắng teo.

Anh nhớ tới cái cảnh bát nháo ở một ngôi chùa ngoài Bắc, lòng tự hỏi những con người đang nô nức trẩy hội ấy có biết tới Kinh Nikaya hay không, hay là họ chỉ biết tới đạo Phật thông qua những buổi “thuyết giảng” sặc mùi kim tiền và nồng nặc mùi hoa giả trang trí.

Anh may mắn đọc được một bình luận trên mạng xã hội, người viết trích ra một đoạn Kinh Nikaya, trong bài “Jatilasutta”, kể rằng Phật đã nói khi chứng kiến lễ tế Thần Lửa và nghi thức trầm mình dưới sông để rửa tội của một nhóm người Jatila, “Sự tắm rửa nơi dòng nước này không thể nào giúp người đó gột rửa hết tội lỗi và được trong sạch.

Người nào tắm trong dòng nước Chân Thật và Thiện Pháp, người ấy mới là người trong sạch.” Lời gốc và bài kệ tiếng Pali anh không nhớ, nhưng đại ý thì anh nhớ khá rõ.

Và anh thường khuyên mọi người nên tìm đọc bài gốc cho rõ nghĩa và chính xác.

Bất cứ ai theo chân Như Lai chắc cũng phải biết Ngài luôn đề cao những điều gì và khuyên nhủ tránh né, buông bỏ thứ chi.

Bây giờ thì vô số người tự xưng là “Phật Tử” lại coi Phật như cái máy ban điều ước, hết xin cái này lại xỏ cái kia, mà không hề nhớ Ngài đã từng tuyên bố bản thân Ngài không ban phước hay giáng họa cho bất cứ ai.

Thời may có gốc cây đa dày lá, gã điên ấy ngồi xuống nghỉ chân và mở sổ ra ghi chép.

Danh sách phát nhạc được bật lên.

Tiếng ca ngọt ngào của cô Ngọc Lan trong bài “Trong nắng, trong gió” phần nào đưa gã điên ấy rời xa khỏi phiền não.

Ca khúc này được nhạc sĩ Phạm Duy đặt lời Việt từ bài hát Pháp “Dans le soleil et dans le vent” của đôi nhạc sĩ Claude Lemesle – Alain Yves Reginald Goraguer, lời Việt khớp ý với lời gốc đến chín mươi phần trăm.

– Nè, danh thiếp của tôi, có rảnh đi uống cà-phê với tôi nghen?
– Tháo cái mặt nạ xuống khỏe không?
– Khỏe.

Matteo Tân ngồi xuống cạnh anh bạn mới quen, trên một cái rễ của cây đa già cỗi, với kiểu ngồi bó gối đầy ý tứ của con nhà gia giáo nghiêm khắc.

– Ai cũng thích nhìn tôi đạo mạo trong bộ âu phục, đi đứng nghiêm chỉnh, nói lời hay ý đẹp, trau chuốt ngôn từ sao cho được lòng người nhất nhằm giúp họ giải tỏa khúc mắc và gánh nặng tinh thần,…!Đôi lúc các Thầy la Tám Khiêm ăn nói hàm hồ, Mười Anh sống quá cảm tính, chứ tôi lại thèm được như họ một lần.

– Nói chuyện với người điên thoải mái lắm đúng không?
– Phải.

Mà, bài hát đang phát tên gì vậy?
– “Emmanuelle – The joys of a woman” là tựa đề của cuốn tiểu thuyết gây tranh cãi ở Pháp vào đầu Thập niên Năm Mươi cho đến nay, vì nội dung miêu tả một cách trần trụi tình dục và những tư tưởng trái với luân thường đạo lý.

Và điều khiến nó bị phản đối dữ dội hơn nữa, thì bởi vì đây là chuyện thật của chính nữ tác giả.

Nhạc sĩ Phạm Duy đặt lời Việt cho ca khúc “Emmanuelle”, người hát là Jo Marcel.

Chín Tân xin phép được nghe bài khác.

Gã điên bèn đưa luôn cái điện thoại cho anh ta tự chọn.

Nhưng chàng Mục sư trả lại điện thoại, rồi bắt đầu tâm tình về con đường phụng sự Chúa của mình:
– …!Mười Anh vẫn còn nặng tư tưởng Công Giáo vì đó là cánh cửa mở lối cho nó tới với Chúa, Tin Lành chỉ là mới sau này.

Cái việc nó đã từng có tên Thánh chưa chúng tôi không được rõ, vì Thầy Phương không bao giờ nhắc tới hay trả lời câu hỏi đó.

Điện thoại của Matteo Tân báo có tin nhắn Facebook, anh đánh tiếng cáo lỗi rồi mở lên đọc.

Rất nhiều người bị oan sai đã thông qua trang mạng của tổ hợp anh mà tìm được công lý.

– Các Thầy muốn mọi người về với Chúa theo con đường “thuận theo tự nhiên” nhiều hơn là thông qua cánh cửa truyền đạo.

Tư tưởng và động thái của các Thầy có lẽ hơi…!hơi…!khác so với những Hội Thánh Tin Lành khác, nói ra thì dễ gây bất hòa nên về vấn đề này xin mạn phép không nhắc tới.

Đặng Xương Tuyết chợt nói:
– Tôi thấy có một hiện tượng rất đáng buồn, đó là hễ thấy bên đạo mình có người làm sai là lại lấy hình ảnh sai phạm của người bên đạo khác ra chống chế.

Thay vì ngồi “sưu tầm” ảnh phạm giới và dung tục của đạo khác, sao mình không dành thời gian chỉnh đốn bên đạo mình? Và nếu như người bên đạo mình làm sai thật, thì Đấng mà mình hằng tin kính có chấp nhận thái độ hèn nhát né tránh Sự Thật của mình và hành động bao che cho người làm sai chỉ vì họ và mình là đồng đạo không?
– Đó là những người không phân biệt hoặc cố tình lập lờ giữa hai khái niệm “chống phá đức tin” và “chỉnh đốn đức tin”.

Họ không biết rằng hành động và thái độ ấy sẽ khiến những người biết được nguồn cơn – ngọn ngành, ngoại đạo lẫn đồng đạo, trở nên bất mãn và hoài nghi với những người có chức sắc trong tôn giáo; tệ hại hơn nữa, điều đó có thể dẫn tới sự ngờ vực và bài xích đức tin, ví dụ như: Ôi, đạo đó mà tốt lành gì, toàn là mấy tay dóc láo, để tôi kể anh nghe chuyện tụi nó thấy kẻ làm sai mà còn ráp nhau bao che, bênh vực khứa đó và chửi mắng, hăm dọa người đi tố cáo.

Matteo Tân bỗng hỏi người bạn mới quen về nghĩa của chữ “tranh thủ”.

Và nhận được câu trả lời như sau:
– “Tranh thủ” trong tiếng Hoa và tiếng Việt hoàn toàn khác nhau.

Hoa thì có nghĩa là “giành lấy, tranh đoạt”, mình thì mang nghĩa “tận dụng thời gian để làm một việc chi đó”.

Nhưng có rất nhiều người sử dụng chữ này sai, chữ “tranh thủ” bị họ gán nghĩa tương đương với “cố gắng”, “nỗ lực”, “ráng làm”,…!Để cho đơn giản, dễ hiểu, tôi sẽ đặt một thí dụ nhỏ: “Tôi sẽ tranh thủ làm xong công việc trước tám giờ tối”, đây là một trường hợp dùng sai và khiến câu bị tối nghĩa, câu đúng phải là: “Tôi sẽ cố gắng/ráng làm xong công việc trước tám giờ tối.”
Chín Tân không đi ăn tối với anh Bảy và em Út, mà lại nhà ông già Ba Tri dùng bữa cơm do người điên đó nấu.

Sau cơn mưa, con lộ mới trải nhựa áo một lớp màn nước mỏng như sương; bước chân anh trở nên dè dặt hẳn, không dám sải chân đi vội vì sợ trợt té.

Hơi đất quyện với mùi cây cỏ tắm trong nước mưa mát lạnh, lại hòa với hương nắng, bỗng gợi cho anh cảm giác thoáng nhớ thoáng buồn.

Phượng đã nở đỏ trên những nhành cây, sắc màu tựa xác pháo ơ hờ đợi đời mình kết thúc.

Quanh co qua những nẻo đường vườn ken dày hoa lá xanh tốt khoảng chừng nửa tiếng, anh đã tới được ngôi nhà nằm chơ vơ trên một mảnh đất trồng kiểng bán Tết.

Cơn mưa ban nãy đã cùng gió dữ làm rụng mấy trái dừa; trái rớt xuống mương, trái nằm lại trên bờ.

Cái nhà nhỏ xíu, đi vòng ra sau là đã thấy gian bếp không vách tường ngăn cách với thiên nhiên hay bảo vệ an ninh cho gia chủ như trên thành phố.

Hai bên nội – ngoại của Chín Tân đều thuộc dạng khá giả nên anh chưa từng ở một ngôi nhà quá đỗi mộc mạc và lộng gió như thế này, lại ám hương khói nồng đậm giống vầy.

Anh đưa mắt ngó dàn xoong, nồi, quánh, chảo và niêu đất treo trên bức vách đất nhàu nằm đối diện cái bếp lò xi-măng đúc, rồi lại dõi nhìn qua cửa hậu dẫn lên gian nhà trên để tìm kiếm người bạn đường mới quen.

– Bây tìm thằng Tuyết hả? Nó đi mua đồ giùm tao rồi…!Lại rửa tay, rửa mặt cho mát rồi lên bộ ngựa chờ ăn cơm với tao và thằng Tuyết.

– Rửa ở đâu ông?
Ông già chỉ cái lu dựng ngay giữa hai cây cột:
– Đó, cái lu đó đó, bây lấy gáo múc nước mà rửa.

Làm theo lời ông già xong, Chín Tân tính xắn tay áo lên dọn cơm, thì đã bị ông già sáng ý xua tay cản bước:
– Công tử bột làm ơn làm phước ngồi đó để tui và thằng Tuyết dọn cơm.

Mấy cái này nóng lắm đa, bưng hổng cẩn thận là a thần phù để lại thẹo liền.

– Dạ, có cơm cháy không ông?
– Có, nhóc luôn, chỉ sợ răng cậu hổng đủ cứng để ăn hết thôi.

– Dạ, con thích ăn cơm cháy lắm mà ra quán bán vừa mắc vừa không ngon.

Đặng Xương Tuyết đội mưa mà về.

Anh ta xách theo một bịch nylon trong suốt đựng mấy món lỉnh kỉnh như cái tĩn đựng nước mắm đong, gói đường cát và hộp kẹo ho.

Gặp lại anh, người điên không mừng cũng không khó chịu, anh ta chỉ gật đầu chào một cái thật nhẹ rồi mời ông già dọn cơm cùng mình.

Mâm cơm có món canh chua bông súng tép mòng, bầu luộc, cá trê chiên xù chấm nước mắm gừng, thịt kho tiêu và một rổ rau miệt vườn xanh mởn.

Mới nhìn là đã muốn bưng chén cơm lên ăn.

Chín Tân có từng ghé ăn một số nhà hàng “giả cách” miệt vườn, nhưng thức ăn nêm nếm không vừa miệng mà giá còn khá cao.

Còn vài chỗ khác bán đồ ăn – thức uống rất tuyệt, song lại không mang được cảm giác dung dị và an bình của một vùng quê như trong ý đồ mà kiến trúc sư và các nhà thiết kế nội – ngoại thất cố gắng sắp đặt và tạo dựng.

Ông già bày tỏ nỗi bất bình:
– Có nhiều kẻ tôn sùng một chính khách đến mức cực đoan và mù quáng, mỗi bận ai đụng tới người mà kẻ đó sùng bái là lại nổi cơn Tam Bành như thể đã mất sạch lý trí.

Thấy hai đứa trẻ chịu lắng nghe, ông già cô quạnh trình bày tiếp:
– Thay vì ngồi chế ảnh dung tục và tuôn lời thất học, sao không dành thời gian suy nghĩ để câu biện luận của mình được sắc xảo và củng cố logic.

Cách hành xử đó chỉ tổ bôi tro trát trấu lên người họ thích mà thôi, và còn có thể khiến người ta nghĩ người họ thích chắc không ra gì nên mới gây ảnh hưởng xấu lên họ.

Đặng Xương Tuyết góp lời:
– Ngụy biện ngu nhất là như vầy: “Dẫu có lầm lẫn thì điều đó cũng không ảnh hưởng tới/thay đổi/làm khác đi kết quả.

Đây là mẫu câu mà bọn chửi thuê, bồi bút, văn nô và nhóm hâm mộ mất trí thường dùng để chống chế giùm người mà bọn họ được lệnh bảo vệ hoặc yêu thích.

Thí dụ như tôi viết bài báo giới thiệu công dụng của rau tập tàng như vầy anh sẽ nghĩ sao: Bài thuốc của rau tập tàng trong món canh rau ngót.

Ông già bật cười, làm bàn tay đang bưng chén cơm run run:
– Viết cái tựa vầy ai hiểu cha?
– Thì đó, lầm lẫn và sai cấu trúc văn phạm nghiêm trọng vậy mà có kẻ còn ráng cãi cố và đăng ảnh bôi nhọ đối phương hòng bảo vệ người viết mới ghê chớ.

Còn chửi người vạch ra lỗi sai là “Sủa” nữa.

Matteo Tân nhã nhặn nói:
– Chỉ cần viết đơn giản là: Bài thuốc trong món canh rau tập tàng.

– Nhưng thật tâm tôi không biết ai là “Ông Tổ” của ngành văn nô – bồi bút.

Nếu chửi thuê – khóc mướn thì đơn giản rồi, anh không cần lý lẽ hay đòi hỏi học thức chi cả, cứ việc rống họng lên thôi.

Còn đằng này, có đầu óc mà lại đi làm con rối cho người ta…!
– Họ đã tự trói buộc đời mình vào con quỷ kim tiền rồi thì lương tâm đâu còn nữa để mà anh tốn hơi nhớ tới.

Chúa Jesus chịu khổ nạn cho thế gian trên cây Thập Tự…!
– …!Phật Tổ dành hết cả cuộc đời đi hoằng pháp Thiện cho thế gian…!
– Cả hai Ngài đều không thể giúp thế gian xóa đi bóng hình của những con quỷ đội lốt người và bầy đàn, tôi mọi của chúng.

– Sau khi chết, quỷ dữ và bầy đàn, tôi mọi của chúng sẽ trở về đất độc.

Hai đứa bây mau ăn cơm đi.

– Trong Phật Giáo có một câu nói, “Hiến dâng Sự Thật là sự hiến dâng tối thượng, vượt lên trên mọi hiến dâng”.

Bởi vì có những kẻ thà chết chứ nhất quyết không chịu phơi bày Sự Thật, và do đó mà chúng đã nuôi sống mầm mống Dối Trá và gieo trồng Ác Nghiệp trên thế gian.

Tiễn chân Chín Tân xong, Đặng Xương Tuyết trở xuống chái bếp rửa chén.

Ông già đang xịt nước tẩy để làm sạch mặt kiếng, hương chanh do bà bán chạp-phô chọn, chớ ông hổng rành ba cái thứ này.

– Con tưởng về đây sẽ lánh xa thế tục, rốt cuộc cũng bị cuốn vào.

– Tao thấy hết hí kịch ở đời nên mới bỏ về miệt này sống nốt kiếp người còn lại…!Sau này tụi nó có kiếm cớ khiến bây phải bỏ nghề viết, hãy về đây làm vườn với tao, hai đứa mình sẽ làm Bá Nha – Tử Kỳ.

– Lánh đời như thi sĩ Hữu Loan hả ông? Hay rong chơi trong cõi thơ “điên” như thi sĩ Bùi Giáng? Hoặc làm thi sĩ Hàn Mặc Tử kết giao với gió trăng?
– Ai cũng được.


Miễn đừng là loài chửi thuê, viết mướn và bán rẻ nhân phẩm vì kim tiền thế tục.

Ông già ngồi trên bộ ngựa kiểm tiền bán dưa hấu và một số hoa màu khác trong vườn.

Ông sẽ chia món tiền làm bốn: Một phần mua phân bón và đất dưỡng cây, một phần để dành phòng thân, một phần sung vô quỹ chi tiêu sinh hoạt và phần còn lại đi làm từ thiện.

Cái đài radio phát những bản nhạc Vàng – nhạc Tiền Chiến yêu thích của ông già cổ quái.

Dù nghe nhạc nhưng ông vẫn đếm không sai một li, tờ tiền nào rách ông sẽ để riêng để đem đi đổi ngân hàng.

– Nhiều khứa nói nhạc Vàng lai-căn, trong khi chúng lại ăn nói và bình luận một cách lai-căn, tỷ như “giả tạo” thì sửa thành “giả trân”, “không” thì chuyển thành “khum”, “cay cú” thì nuốt luôn chữ “cú” chỉ còn mỗi chữ “cay”, không mắc các bịnh liên quan tới nội tiết mà suốt ngày cứ “vãi”, “như thế nào” thì cố tình đổi thành “như lào”, “như nào”, nhờ người khác giới thiệu sản phẩm mình cần thì lại dùng câu rất ngớ ngẩn kiểu như “các bác vả vào mặt em mặt hàng này đi”, còn chữ “chiếc” thì dùng rất bừa bãi và kỳ khôi như “chiếc cây”, “chiếc nhà”, “chiếc video”,…!chưa kể tới còn chữ “quả” nữa, ai đời lại có “quả video”, “quả đầu”, “quả tóc”,…!Ngoài ra còn rất thích gắn chỗ dưới của phụ nữ lên cửa miệng mình, cứ một câu là lại nhắc tới một lần.

Thằng bạn trẻ tuổi gật đầu một cái để cho ông biết rằng anh ta có lắng nghe.

Còn mấy thứ nữa là xong công việc.

– Nhiều khi tao cũng hổng hiểu mấy khứa đó căn cứ vô đâu mà nói nhạc Vàng lai-căn và phản động.

Chắc phải “hú hú”, “dé dé” như một số bài hát hiện nay mới là yêu Nước quá.

– Có người hỏi con rằng tại sao lại thích tạo ra nhân vật khó ưa và tự nhiên đang “dễ ưa” bỗng phát hiện mặt “dễ ghét”? Con mới trả lời là, đó không phải là thích, mà đây là điều tất yếu của một tác phẩm theo thiển ý của tôi; có đa dạng quan điểm, tính cách và tư tưởng thì cốt truyện mới sinh động và thực tế, như Victor Hugo chẳng hạn, tôi đang thiện cảm với Gwynplaine, đùng một cái anh ta thay đổi tâm tánh hẳn khi biết mình thuộc dòng dõi Hoàng tộc Anh, dù biết chính vì sự thay đổi này mới dẫn tới tấn bi kịch ở phía sau nhưng tôi vẫn sốc.

Vốn đã quen với cách đổi đề tài bất thần của thằng bạn trẻ, nên ông già chẳng lấy làm khó chịu:
– Đọc đa dạng thể loại cũng có cái hay hén?
– Không muốn bị lừa thì nên đọc đa dạng thể loại rồi tự rút ra kết luận, chứ ngồi đó tin vào sách sử một chiều và quan điểm của người khác thì mãi mãi bị nắm đầu và dắt mũi.

– Tao chỉ khuyên mày một câu duy nhất, rằng hễ thấy đứa nào biện luận mà có đính kèm chữ “lưu vong”, “phản động”, “sủa”,…!với hàm ý miệt thị thì nên chấm dứt tranh luận ngay lập tức, vì nói chuyện với người vừa kém hiểu biết, vừa thiếu lịch sự, vừa quen thói chụp mũ thì chỉ tổ tốn thời gian.

Kiến thức nên trao đổi với người có đầu óc khai phóng và tôn trọng tự do ngôn luận – tư tưởng của người khác, chứ đừng nên trao đổi với người chỉ muốn tin vào những gì mà họ đã nghe và đọc dù bản thân họ không dám chắc điều đó đúng hay sai, có thật hay là một trò dàn dựng.

– Dạ, trong “Kinh Pháp Cú – Phẩm người ngu” có đề cập chuyện này.

Con thấy Phật Tổ dạy rất đúng.

Thấy thằng bạn đã rửa chén xong, ông già rủ nó ra mé hiên ngồi ăn đu đủ mới hái hồi sáng.

Tiền bạc không dư dả mấy, chớ hoa màu thì đầy rẫy.

Cái đài radio đang phát tới bản “Hoa vẫn nở trên đường Quê Hương” do Duy Khánh trình bày, một sáng tác của nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ.

Mưa vẫn bay ngoài trời, ông trăng nép mình sau lũy tre dày đặc tiếng trao trảo kêu.

– Hồi đó tao có tranh luận với một thằng trẻ, nó cãi không lại tao nên chế ảnh dung tục đăng lên rồi đính kèm câu hỏi: “Mày tức không?” Tao đáp: “Tao không tức mà tiếc, tiếc vì đã phí phạm thời gian quý báu của mình cho một thằng đần độn, cố chấp và ương bướng như mày.”
– Con thấy nhiều rồi ông, nên con thấu hết những gì ông nói.

– Có vài người đã ra đi mà tao cứ tiếc nuối suốt.

Họ vừa học thức, vừa ăn nói lịch sự, từ tốn, cách hành xử cũng rất mực đàng hoàng và ngay thẳng.

Khỏi cần tao kể ra, chắc mày cũng biết rồi chớ?
– Dạ, con biết được một người, còn những người còn lại con không biết chắc chắn.

Rồi gã điên nói nhỏ vào tai ông già.

Nghe xong, ông già vừa cười ngất vừa gật đầu lia lịa.

Đoạn ông lẩy “Kiều”:
– “Trải qua bao cuộc bể dâu.

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.”
Rồi ông già cao hứng hát theo cố – ca nhạc sĩ Duy Khánh, cháu của Đại Thần Nguyễn Văn Tường triều Nguyễn:
“…!Dù bóng đêm đang gieo kinh hoàng
Dù mái tranh bơ vơ điêu tàn
Từng cánh hoa, từng cánh hoa
Hoa vẫn nở trong tôi niềm tin
Hoa vẫn nở trên đường Quê Hương!”
Đặng Xương Tuyết vô bếp rót cho ông bạn già một ly nước trà lài hãy còn âm ấm.

Người cao tuổi cần giữ ấm cổ họng để tránh mắc bệnh cảm.

Uống xong vài ngụm nước trà, ông già vỗ vai để thay lời cảm ơn thằng bạn trẻ, rồi thủ thỉ với nó:
– Hai đứa mình cứ “Ngồi nghe sóng vỗ”.

Chim Bằng thì phải ở chỗ lớn, chim Sẻ thì phải ở chỗ nhỏ, không thể để Bằng – Sẻ chung chạ được.

“Nam Hoa Kinh” của Trang Tử rất đúng và có giá trị tới ngày nay phải không bây?
– Dạ phải.

– “Vô vi” ơi “Vô vi”.

Chỉ có “Vô vi” mới là lẽ Trời.

– Học thuyết của Lão – Trang ngay từ đầu không phải là một tôn giáo hay đức tin, nó chỉ là những triết lý cá nhân của hai ông về quan điểm đời sống, chính trị và xã hội chung quanh, tựu trung đều hướng con người về con đường Chân – Thiện – Mỹ, đề cao nếp sống thanh sạch và giảm bớt tham muốn ích kỷ.

Có tích truyện kể Trang Tử đã từng chất vấn một vị vua tại sao lại muốn đi chiếm đất của nước láng giềng, bộ ông ta không biết rằng khi chết đi chẳng mang theo được gì sao, vậy hà tất phải gây ra đau thương, tang tóc cho người khác lúc còn sống?
– Một khi người tài đã chán với cách đối xử tệ bạc của cố hương, họ sẽ như chim mà vỗ cánh bay đi tìm vùng đất mới, dẫu nơi đó có bão bùng, chông gai cỡ nào đi chăng nữa họ vẫn vui lòng chịu đựng, miễn sao trí tuệ của họ có chỗ phát huy.

Suốt ngày ép buộc người ta “yêu Nước”, “ở lại xây dựng Quê Hương – Đất Nước”, trong khi đó lại đày đọa người ta ở những công việc không đúng với trí tuệ họ có.

Mà cũng ngộ, lúc mạt sát những người ra đi thì hăng lắm, chớ tiền người ta gởi về thì vẫn xài như thường.

Không có ngoại tệ, tôi cũng không biết tình hình kinh tế sẽ ra sao…!
– Đa số những người giở giọng ấy không có đọc sách hay tài liệu về lĩnh vực Kinh Tế, nên nói năng chi cũng thừa…!
– Cho nên tao chỉ nói cho bây nghe, chớ nói cho tụi nó nghe làm gì?
Thấy ông già ngáp ngắn ngáp dài, Đặng Xương Tuyết đỡ ông đứng dậy rồi dìu ông vô buồng ngủ.

Mỗi bận ghé đây ở trọ, anh thường lên bộ ngựa đặt trong khu chái bếp nghỉ lưng, sống bụi đời đã quen nên không cần đòi hỏi cao sang.

– Bây ngủ trong mùng hay để không?
– Cứ để trống cho khoảng khoát đi ông.

– Muỗi chích mày ráng chịu nghe?
– Dạ…!
– Tuyết, nhắc lại lần nữa, nếu sau này tụi nó triệt đường sống của mày, hãy về đây tao nuôi.

Tao chỉ xin mày đừng trở thành tụi nó mà thôi.

Có tiền ăn cơm, cháo; sạch túi hái dưa hấu lót lòng.

– Ông muốn theo con lên Thất Sơn không?
– Nói tới mấy ông thầy chùa tao chán lắm mày ơi.

– Đi đại đi ông, dẫu sao Trưởng lão Như Phong cũng đã suýt soát một trăm rồi…!
– Thôi được.

Để tao kiếm gì cúng dường cho mấy ổng, chớ tao sợ…!
– Họ không cần gì hết.

– Nếu họ đúng là những Tăng sĩ tốt như các vị Tỳ-Kheo thời Đấng Thế Tôn vẫn còn tại thế, thì phước báu cho tao lắm, vì tao đã đợi ngày gặp bậc chân tu hơn nửa đời người rồi.

Ông già Ba Tri tuy ngoài mặt phản ứng và nói lời dữ, nhưng trong bụng cũng khấp khởi hy vọng.

Kể từ lúc xảy ra sự kiện vua của một nước theo Hồi Giáo truyền lệnh tấn công Phật Giáo, theo dòng chạy nạn của những Tăng sĩ và con của Như Lai, Phật Giáo bước ra thế giới và để lại vô số hệ lụy không nhỏ lên Chánh Pháp và kinh điển của Ngài.

Ông già bị cái suy tưởng đó thổi bay giấc ngủ, đành vén mùng ngồi dậy rồi đi ra vườn thăm dưa hấu.

Chiếc ghe của gia đình nhà ai neo nhờ gốc bần của ông, từ trong khoang vọng ra tiếng hát trong trẻo của cô Thái Hiền trong bài “Lời ru, bú mớm, nâng niu” – Nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc từ thơ của thiền sư Phạm Thiên Thư.

Ông nhớ ca sĩ này tuy tuổi tác đã cao nhưng giọng ca của cô vẫn hay và trong vắt như suối reo, một điều hiếm có ở những ca sĩ đã qua thời xuân sắc.

– Ơi ông gì đó ơi, cho vợ chồng con neo nhờ một đêm nghen, sáng mơi tụi con đi liền.

– Ờ, tao nghe rồi…!Cơm nước gì chưa bây?
Vẫn là giọng đàn ông ban nãy:
– Dạ chưa.

– Để tao vô hâm đồ ăn rồi mang ra đây cho bây…!Nhớ chờ tao nghen.

Ông già chạy tốc vô nhà rồi lay thằng bạn trẻ dậy.

– Kiếng của mày nè.

Đeo vô rồi chiên giùm tao hai con cá trê.

Với nấu giùm tao nồi canh chua bông súng luôn.

– Ông mần cái chi mà đói bụng lẹ dữ.

Mà, đợi con đánh răng, súc miệng cái đã.

Dơ dáy thế này sao dám nấu cho ai ăn.

Trong lúc Đặng Xương Tuyết làm cơm, ông già đội nón lá mà ra vườn hái mớ rau sống về ăn cặp với món cá trê chiên.

Sương khuya sau cơn mưa dầm dày hơn ngày nắng ráo, hơi nước lạnh lẽo làm thân thể ông run lên cầm cập, cái áo gió hàng chợ không đủ ấm cho ông.

Đôi vợ chồng trẻ sốt ruột tính biểu nhau hồi ông chủ đất lại để dắt cả nhà đi ăn hủ tíu gõ, chớ ngồi đợi cơm của ổng chắc hư bao tử quá.

Đang lúc hai người xầm xì bàn bạc, ông chủ đất quơ cây đèn pin đã bật sáng trưng xuống khoang ghe, rồi cất giọng mời gia đình linh đinh theo con nước nổi trôi vô nhà ăn uống.

Gã điên ấy dọn cơm xong rồi leo lên bộ ngựa ngủ tiếp.

Ban nãy vào nhà vệ sinh, nhờ ô cửa sổ thông gió và những ngọn đèn điện treo nơi vườn rau mà anh ta thấy rõ dáng dấp của đoàn người sắp vô bếp; anh chồng cao lêu nghêu và rắn rỏi, chị vợ hơi thấp và mập ẵm đứa con hãy còn nhỏ xíu, còn đứa gái áng chừng mười tuổi vừa đi vừa nhảy chân sáo chắc cũng là người trong gia đình sông nước này.

Thấy mâm cơm tươm tất và nóng hổi, hai vợ chồng cúi đầu mà nói lời cảm ơn ông chủ đất, rồi quay qua giục con gái khoanh tay thưa ông.

Trong lòng người mẹ trẻ, đứa bé trai no sữa nên đã ngủ ngoan, trông nó vô cùng bụ bẫm và đáng yêu.

– Dạ ông ơi, ông cho con coi truyền hình được hôn ông?
Người mẹ trẻ khẻ tay cô bé, ra chiều quở trách.

Ông già cười xòa:
– Con ăn cơm xong rồi hãy xem truyền hình.

Trời cũng sắp chuyển mưa nữa rồi, hai vợ chồng neo ghe lại cho cẩn thận rồi vô nhà tao ngủ đỡ một đêm cho chắc ăn.

Người chồng rối rít cảm ơn:
– Dạ, được vậy thì tụi con mang ơn ông lắm.

Hồi bị thằng tham quan cướp đất, cả nhà tụi con chỉ kịp đem theo mớ giấy tờ và ít đồ đạc, nên phải thuê ghe ở tạm.

– Tao còn một miếng đất, hai đứa bây dựng chòi ở đậu đi.

– Thiệt hả ông?
– Miếng đất đó gần trường học, bây đổ rau câu hay bán sinh tố cũng kiếm được ít chục mua đồ ăn, còn chồng bây theo tao làm vườn, tao trả công hậu cho.

Người vợ bẻ miếng đậu rồng giùm đứa con gái, rồi quay qua xoa lưng cho đứa bé trai mới sinh ba tháng dễ ngủ.

Không biết ai chiên cá trê mà thiệt khéo, thịt cá thật ngọt, da cá rất giòn, mà không bị gắt dầu và nặng mùi tỏi phi.

Đã vậy chén nước mắm gừng nêm rất vừa ăn và thơm lừng mùi gừng, sả và ớt.

– Để tao kêu thằng Tuyết viết bài, nó điên nên nó dám “đâm mấy thằng gian bút chẳng tà” như cụ Đồ Chiểu.

Người chồng vừa dẻ cá, vừa ngần ngừ hỏi ông già:
– Ảnh có gặp chuyện chi bất trắc không ông?
– Người ta đe dọa riết giờ nó lờn luôn rồi.

Giờ thêm một mớ nữa cũng hổng sao đâu.

Trả lời xong, ông già đi nấu nước sôi phòng khi hai vợ chồng cần sử dụng.

Mùi dầu dừa chảy ra trong những miếng miểng gáo dừa khô cháy đượm bốc mùi hơi gắt mũi và nồng nồng.

Nhưng nấu nước sôi bằng miểng gáo sẽ lẹ hơn nấu củi cây nhiều, còn củi cây phù hợp với việc nấu ăn hơn.

– Mà này bé con, không được bước chân vô nhà của bất kỳ ai mà không có sự cho phép của cha mẹ hoặc không có cha mẹ đi kèm, đã nghe rõ chưa?
Người vợ gật gù:
– Ông dặn đúng đó con.

Đứa gái lí nhí “Dạ”, “Dạ”, rồi bưng chén lên ăn cơm.

Nó cố tình ăn cho thật mau để được coi truyền hình, dù thức ăn rất ngon miệng và hợp khẩu vị.

Ngôi nhà cấp Bốn có tổng cộng bốn phòng ngủ để có dư chỗ cho những người bạn lang bạt của ông nghỉ chân và tạm gác việc đời.

Gia đình màn trời chiếu đất đó ở hai phòng, cũng may do ông siêng năng quét dọn nên phòng nào cũng sạch sẽ và không bị ẩm mốc, đóng mạng nhện.

Ba người lớn phụ nhau dọn dẹp bàn ăn xong, liền trở về phòng mình ngủ.

Người vợ xách theo cái bình thủy đựng đầy nước sôi; còn người chồng thì vô buồng trước để lo giăng mùng cho con gái và kiểm tra phòng ốc của hai buồng ngủ, anh đã neo ghe cẩn thận trước lúc vô đây ăn cơm nên giờ không cần phải dầm mưa ra đó cột lại.

Một khi cơn buồn ngủ đã qua đi thì thật khó khăn để ngủ lại.

Ông già bèn mở radio lên nghe nhạc.

Đang nghe dang dở bài “Trăng tàn trên hè phố” do Giao Linh hát, bỗng đâu tiếng ru con ngọt ngào của người mẹ trẻ vọng sang phòng ông, làm lòng ông bồi hồi nhớ lại thuở cắp sách đến trường.

Vì má bán bánh mì và súp cua trước cổng trường nên mỗi sáng ông phải dậy thật sớm để đỡ đần má.

Có lúc làm biếng ông đã vái trời mưa để má khỏi bán đặng được nằm “nướng” thêm một chút nữa.

Những lúc ấy, sau một giấc ngủ thật ngon, ông sẽ thấy má ngồi thừ người ngắm mưa rơi trong cái chái bếp đượm mùi khói ám và hỗn hợp hương liệu gia vị nấu nướng; mưa tới đâu, má lau nước mắt đến đó…!
“Uống nước nhớ nguồn
Làm con phải hiểu
Em ơi hãy nhớ năm xưa
Những ngày còn thơ công ai nuôi dưỡng…”
Tiếng hát của Duy Khánh trong bài “Ơn nghĩa sinh thành” của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước cứ thế đưa ông già thất thập cổ lai hy vào giấc mộng đẹp, ở đó ông được nói với tía má hai tiếng “Xin lỗi” vì những lần ngỗ nghịch và bất hiếu của mình.

…!
Một ngày đã trôi qua mà không thấy bóng dáng anh bạn bất bình thường, Trần Cảnh Chiêu bèn đi hỏi hai người bạn điều tra viên.

Mạnh Cường vừa chiên trứng ốp-la cho món điểm tâm sáng, vừa trả lời bác sĩ pháp y:
– Ảnh sẽ về trước đám giỗ nhỏ em một ngày.

– Hụt tiền thì hê lên một tiếng, tôi ứng cho.

Người đâu mà “thanh bai” dữ.

– Sáng nay mình ăn gì vậy Cường?
– À, ăn đơn giản thôi.

Bánh Toast BLT phết phô-mai ăn kèm với trứng ốp-la.

Nếu thấy ăn không đủ no thì tôi sẽ chiên thêm xúc xích tỏi.

Trần Cảnh Chiêu xuýt xoa:
– Tôi chưa ăn thử món này bao giờ.

Chắc lạ miệng lắm đây!
Bữa nay là thứ Bảy, trên đài đang phát sóng chương trình tài liệu Lịch sử và Văn hóa Cố Đô, bản nhạc được lồng vào cảnh phim là bài “Chuyện một chiếc cầu đã gãy” của nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng do cô Hoàng Oanh trình bày.

Đã tìm thấy danh tính của một trong tám cái chân trong vụ án “Bát Bửu”, người đứng ra thử ADN là một bà mẹ già trên bảy mươi tuổi đăng tin tìm con suốt một tháng nay.

Vì cuộc sống quá chật vật nên con bà phải hành nghề tay trái là “chèo truyền thông – lái dư luận” theo lệnh của chủ thuê, do đó đã gây ra hiềm khích với không ít người ở phe đối lập, cụ thể chủ thuê bên phía đối lập là những người đang hoạt động trong giới giải trí.

Có lần bà vô tình đọc được bình luận phản biện lại phía đối lập của nó, bà đã giận run hết cả người vì không thể tin nổi đứa con bà tảo tần nuôi cho tới lớn, dầu nghèo khổ cỡ nào cũng ráng cho nó học ra trường, lại ăn nói mất dạy và bỗ bã như vậy; mà cái người nó bênh vực trong trường hợp này sai rành rành, ấy thế mà miệng lưỡi nó lại trơn tru ca tụng “công đức” và “tiết hạnh” của ả tới sởn gai óc.

Bên điều tra xin bà giữ kín chuyện này, bà hứa sẽ không thốt lên một lời nào trước lúc tìm thấy các phần còn lại của thi thể con trai.

Trần Cảnh Chiêu nói trong lúc ngắm từng giọt cà-phê nhỏ xuống ly:
– Tôi muốn ăn thử bánh chiên của Đô-rê-mon mà toàn mua trúng chỗ bán quá ngọt.

– Đợi một xíu tôi làm cho mà ăn.

Sau giờ ăn, Trần Cảnh Chiêu tới nhà xác làm việc, Mạnh Cường và Tào Việt Bân cũng ghé văn phòng dịch thuật để họp với các cảnh sát chìm.

Đợi sắp nhỏ đi hết, Cụ Ghiền Cải Lương mới gọi cho người bạn già tới coi nhà.

Cụ Nhà Cấp Bốn có giao kèo trước rằng sẽ ghé chăm sóc vườn tược một cách ngẫu hứng “Lý qua cầu”, nên ai nấy đều tự giác cất giấu tài liệu, sổ sách quan trọng và để tiền, thẻ cùng biên lai các loại trong két sắt cá nhân.

Mãi đến hai giờ trưa, chàng pháp y Bạc Liêu mới xách cặp về nhà.

Ban nãy anh có ghé quán bún thịt nướng làm một tô thập cẩm, nên giờ bụng no căng.

Không biết “Áo lụa Hà Đông” có giữ lời hứa với anh không ta?
Vừa bước qua khỏi cổng, Trần Cảnh Chiêu đã tinh ý phát hiện ông cụ chủ nhà có tới đây.

Bằng chứng là đám kiểng được cắt tỉa gọn ghẽ và khoảng sân hãy còn ướt nước.

Đời thuở nào mà anh và các bạn bỏ công tưới tiêu và biết tạo hình cây cảnh chớ?
“Đêm dài tôi mơ trên bến Pedro…”
Đó là bài hát “Đảo thần tiên” do cô Tuyết Hương trình bày, cô cũng là người viết lời Việt cho bản này, tức ca khúc “La isla bonita” lừng danh của Madonna.

Dòm qua cửa sổ ở vị trí đặt bàn ăn, chàng ta thấy “công tử Hàn đới” đang ra sức nhào bột.

Có lẽ đây là khúc quan trọng nhứt của khâu làm bánh.

– Sao nấu ăn mà phải đeo khẩu trang vậy?
– Quen.

Đi làm riết rồi thành hình thói quen.

– Gia đình anh làm nghề gì?
– Tiệm thuốc Đông Y của ông sơ tôi ra đời trước khi xảy ra chiến tranh Cao Ly cho đến nay là gần tám mươi mấy năm.

Mọi người không còn mến chuộng cách chữa trị theo lối thảo mộc và các phương pháp dân gian nữa, nên ba và các bác, các cậu khuyên tôi nên học ngành khác cho dễ sống.

Trần Cảnh Chiêu đặt giày sát ngạch cửa, rồi bước chân trần tới tủ lạnh lấy táo gọt ăn.

– Anh có từng làm qua rất nhiều nghề trong khoảng thời gian học Đại Học như tôi không?
– Có, làm bánh men bỏ mối cho các nhà thờ, chiên gà cho một quán nổi tiếng bán ở gần khu đại học mà tôi đã trúng tuyển, kết mắt thú nhồi bông cho một cơ sở bán đồ chơi…!
– Anh biết làm bánh men hả?
– Có gì đâu mà ngạc nhiên cha? Đói thì đầu gối phải bò thôi.

Học phí luôn là gánh nặng của phần đông sinh viên ở khắp các quốc gia mà.

Mạnh Cường nhớ tới kỷ niệm đi giao hàng thời còn mài đũng quần trên giảng đường tuổi trẻ, bây giờ ngẫm lại vẫn còn ớn lạnh.

Hết bị người ta quỵt tiền, lại tới việc chủ tráo hàng nên khách không nhận rồi lôi anh ta ra mắng vốn và bắt đền.

Đến chuyện bị quẹt xe, cán đinh, lạc đường và sụp ổ gà như cơm bữa.

Thậm chí có sự còn đáng buồn hơn, một số bạn đồng nghiệp của anh moi thùng hàng của khách để ăn cắp; thùng hàng mà họ nhắm tới thường là quà của người nước ngoài gởi về cho bà con, thân bằng quyến thuộc và khách hàng trong Nước của họ.

Đương nhiên, nghề nào cũng vậy, có kỷ niệm buồn thì cũng phải có kỷ niệm vui, rất nhiều lần hắn được khách “boa” và mời một chai nước suối mát lạnh; có bé con còn tặng hắn cục kẹo, ăn xong liền cảm thấy ngọt miệng, vơi bớt cái khổ của đời sinh viên con nhà nghèo.

– Tên Thánh của mẹ anh là gì?
– Grainne, nghĩa là “Tình yêu”.

– Còn anh?
– Matin, nghĩa là “Buổi sáng”.

Tào Việt Bân tính nhờ thằng cha Bạc Liêu phết nhân bánh giùm, nhưng nhớ thằng chả vừa từ nhà xác về nên hồi lại ý tưởng đó ngay tức khắc.

Có bốn loại nhân: Phô-mai, Matcha, Đậu đỏ và Kem tươi, cậu làm nhiều nhân vì không biết khứa này thích ăn vị gì.

– Như vậy là đã xác minh được danh tính của một trong tám cái chân bị cố tình vứt sau hẻm quán cà-phê “Sóng Nhạc”.

– Mạnh Cường vừa phết nhân bánh vừa hỏi ý hai người bạn thiết.

– Tôi lo anh Tuyết sẽ gặp nguy hiểm.

Ảnh gây thù chuốc oán khắp nơi…!
Tào Việt Bân nhún vai:
– Đừng lo hão chớ cha.

Tôi tin ảnh sẽ có cách đối phó với chuyện này…!Rồi, chiên…!
Không biết tự bao giờ, trong bếp lại xuất hiện cái nồi chiên dầu chuyên dụng của các cơ sở bán đồ ăn – thức uống.

– Ủa sao hổng chiên đi?
– Dorayaki thì nướng.

Còn đây là món bánh quẩy xoắn của Đại Hàn.

Ăn ngon lắm.

Tôi sẽ gởi cho nội anh một hũ thiệt lớn.

– Sao anh thương nội tôi vậy?
– Nội tôi mất lâu rồi.

Cũng may là vì hết tuổi thọ nên bà ra đi không bị đau đớn hay thống khổ.

Tôi chưa kịp tặng bà cái gì thì bà đã đi về miền miên viễn…!
Nói tới đó, chàng trai Đại Hàn thả những miếng bột bánh quẩy xoắn xuống nồi chiên đang sôi ùng ục.

Thao tác vừa nhanh vừa gọn mà không bị văng dầu hay rẩy bột lung tung.

Đoạn, cậu đặt khay bánh Doriyaki vào trong lò nướng mini, rồi chỉnh giờ và nhiệt độ.

Cậu buột miệng hát một khúc nhạc:
“My mama told me
She said,”Son, please beware…””
– Anh cũng biết bài đó à?
– Ừ, nghe thấy giai điệu ngồ ngộ nên thinh thích, rồi hát theo hồi nào không hay…!
– Bài gì vậy Bân?
– “Too late to turn back now”, tôi nghe ca sĩ Minh Phúc và ban “The dreamers” trình bày.

Bản gốc do ban “Cornelius Brothers and Sister Rose” hát.

– Thập niên Bảy Mươi.

Lúc đó tôi còn chưa có mặt trên đời.

– Trần Cảnh Chiêu cũng cất cao giọng ca.


Những bài hát về tình yêu tinh khôi và không chứa nhiều từ ngữ nặng mùi tục lụy như phần đông ca khúc Tây phương bây giờ.

Đứng nhìn cậu bạn Đại Hàn chiên bánh một đỗi, Trần Cảnh Chiêu mới nhớ ra một chuyện quan trọng:
– Nhưng mà để lâu sao được?
– Tôi biết cách làm gói hút ẩm từ thảo mộc, nên sẽ không hư đâu.

Vớt bánh ra rồi để ráo dầu khoảng nửa tiếng, Tào Việt Bân cho toàn bộ bánh vào một cái keo thủy tinh.

Bên trong keo đã lót sẵn hai gói hút ẩm thảo mộc.

– Con người ngày nay phụ thuộc vào hóa chất nên dễ sinh bệnh bậy.

Tôi có chỉ cách làm gói hút ẩm cho rất nhiều người nhưng chẳng có mấy ai mặn mà và chịu làm theo.

– Chỉ cho tôi đi.

– Được.

Tôi còn biết lõm bõm cách ướp xác nữa…!
Vốn là pháp y nên Trần Cảnh Chiêu rất hào hứng với chuyện ướp xác.

Có lẽ tổ tiên của cậu ấy có người từng là thái y trong triều nên mới rành rẽ việc này.

– Sao cậu không theo Tây Y?
– Tôi tôn trọng Đông Y của dòng tộc mình, nếu tôi bỏ sang Tây Y thì…!kỳ lắm.

– Có gì đâu mà kỳ? Sợ là học không nổi thôi, chớ có tài mà không theo học thì uổng lắm đa.

Mạnh Cường tính pha nước chanh uống giải nhiệt sau khi ăn mấy cái bánh quẩy xoắn giòn rụm, nhưng Tào Việt Bân đã cản lại.

Cậu ta vừa chuyện trò với chàng pháp y Bạc Liêu vừa làm đá me cho ba người:
– Tôi thấy ướp xác chi không biết.

Chết rồi có biết gì đâu mà thơm với thúi.

Vừa tốn tiền người sống, vừa làm màu người chết.

– Nhưng nếu ướp xác đúng cách có thể xóa các chứng cứ phạm tội không?
– Có thể.

Tôi chưa từng ướp xác ai bao giờ nên không thể khẳng định chắc nịch được.

oOo
Phiên tòa chẳng khác gì một cuộc họp giữa các bên liên quan và chấp sự của thảm án “Hai Mươi”.

Mấy ông gây ra sự “lầm lẫn” đều đã kiếm đường chạy hết, để lại một bầy cóc ké và “măng non” chịu đòn thay.

Bầu không khí nơi tòa án tối cao nóng bức như nắng Hạ Lào, dù trong phòng có gắn máy lạnh thổi gió mát rượi.

Ban chấp sự gồm có những người sau: Một chánh án, một phó chánh án, hội đồng thẩm phán, một bồi thẩm đoàn và một thư ký tòa.

Bên phía nhân chứng và nguyên đơn thì gồm có: Gia đình bị cáo Thường Khán Cảnh, đại diện gia đình của hai người bị hại là bà Nguyễn Khánh Tường Vân, ông Vũ Văn Ban, thầy giáo kiêm gia sư Phan Sơn Nam, Giám Mục La Viễn Phương, Tăng sĩ kiêm bác sĩ pháp y Quý Tâm, người thân của điều tra viên Tống Nhạn, bác sĩ pháp y Lê Vĩ Kỳ và hình cảnh Ngô Kỳ Ân; và một số nhân vật có liên quan khác.

Không có luật sư nào do tòa án chỉ định.

Viên thẩm phán trưởng là một người đàn ông có cặp mắt mí lót trông tinh anh như loài ưng núi, dáng dấp dong dỏng cao, hơi gầy, giọng nói sang sảng và mang âm vực rộng trái ngược hẳn với ngoại hình thư sinh của mình.

Anh ta để trách nhiệm vấn đáp cho những người cộng sự, còn bản thân thì ngồi yên quan sát thế cuộc.

Vũ Văn Ban là người trình bày lời khai đầu tiên.

Ông ta đã từng ở tù mười lăm năm vì tội trộm cắp, hủy hoại tài sản công dân và có hành vi đe dọa tới tính mạng – tinh thần chủ sở hữu vật nuôi.

Một người luật sư chuyên giúp đỡ dân oan và người cùng khổ đã khuyên ông ta nên dự phiên tòa này để tìm coi có cách nào lấy lại được tiền bồi thường cho năm năm bị tù oan của ông.

Dù biết rằng rất nguy hiểm, nhưng bước đường cùng rồi, ông ta đành đánh bài liều để có được chút đỉnh tiền trang trải lúc cuối đời.

Một ông thẩm phán trạc tuổi Vũ Văn Ban chất vấn ông ta đầu tiên:
– Anh quả quyết người đó chính là Cha Thành, nhưng anh có nghĩ tới việc anh ở trong tù gần mười năm ròng thì lấy gì làm sự xác tín cho niềm tin của mình.

Anh có nghĩ mình sẽ mắc phải tội khai khống và ngụy tạo khẩu cung không?
– Ờ há.

Xa Bố gần mười năm rồi, người ta tráo Bố với ông khác sao mình biết được mà tự nhiên khai chắc nịch vậy nhỉ? Thưa quý tòa, tôi xin khai lại ạ.

Để tránh chuyện vô tù “đếm thời gian” với mấy con thằn lằn và chuột nhắt, ông ta cố gắng thuật lại từ đầu chí cuối một cách thật rõ ràng và dễ hiểu.

Theo như trí nhớ đã kém của mình, ông ta nói Cha Thành làm Cha sở Giáo xứ Saint Pio tọa lạc tại địa hạt Thành Thái, Sài Gòn từ năm ba mươi hai tuổi, không gây mất lòng ai nhưng cũng chẳng được ai tín nhiệm vì cách nói năng thẳng đuột và lối hành xử nặng về lý trí hơn con tim.

Chi tiết này đã phần nào giải mã việc Cha bị chọn làm người đứng ra vấn đáp với Khán Cảnh, bởi họ nghĩ không ai thân cận với Cha thì sau này dễ ra tay thủ tiêu hơn.

Trước lúc gỡ lịch vì trộm chó nhà tham quan và biến nó thành mồi nhậu, ông ta có ghé qua nhà Cha hỏi xin cây đèn cầy, Cha cho liền hai cây còn nguyên; ông ta dùng nó để hoàn thành cái bẫy bắt chó.

Mấy năm đầu bị giam trong nhà đá, cứ đúng một quý là Cha lại mang đồ ăn và nhu yếu phẩm tặng ông, với lời nhắn nhủ ráng thay đổi tâm tánh và bỏ thói ăn nhậu để làm lại cuộc đời.

Lần cuối cùng ông ta gặp Cha là trước ngày diễn ra Lễ Phục Sinh, thấy sắc mặt của Cha buồn lắm nhưng vì thọ ơn quá nhiều nên ông ta không dám tự tiện hỏi thăm; Cha nói ông ta hãy cẩn thận với đám chấp sự trong tù và đừng bao giờ để ai đó nắm được cái thóp vì kẻ đó sẽ dùng nó sai khiến bản thân ông làm những chuyện thất đức.

Tới đây, một vị quan tòa giơ tay phải lên, ngụ ý xin phép cắt lời, rồi hỏi ông ta cảm thấy ra sao khi người duy nhất quan tâm tới mình lại biến mất không một dấu vết.

Thì ông ta trả lời là tức giận, buồn bực, hụt hẫng và chán đời; hỏi mình đang chới với dưới dòng nước tội lỗi, bỗng bàn tay ai đó nắm lấy kéo mình lên gần tới bờ rồi, mình đang hy vọng tràn trề, rồi tự dưng người ấy lại bỏ đi mà không nói lời nào.

Vậy là đã rõ.

Toàn bộ những người đã từng thấy mặt hoặc có quen biết với Cha Thành đều đã bị xử lý, để công cuộc tráo người được kín kẽ và khó bị lộ tẩy hơn.

Đáng ra tên trộm chó này chỉ bị xử mười năm, nhưng đã bị đôn thêm năm năm nữa; quả đúng như trong dự đoán của người luật sư kia, ông ta có thể lấy được một số tiền bồi thường không nhỏ.

Bây giờ tới lượt Miguel Phương, ông khai không khác là bao so với những gì đã ghi trong bản tường trình.

Manuel Ngô và Martino Lê thuật lại mọi sự theo lời kể của cha họ.

Hai người không phải là nhân chứng trực tiếp như cha ruột nên lời khai của họ chỉ mang tính chất tham khảo.

Sau một cuộc thảo luận kéo dài khoảng nửa tiếng với ban chấp sự tòa án, chánh án gõ búa thông báo kết thúc phiên tòa.

Matteo Tân mời một số nhân vật mà Hội Thánh có quen biết tới nhà hàng kiêm quán rượu của mình dùng bữa xế.

Nơi đây có phòng riêng cho thực khách cần sự thân mật và kín đáo.

Dù không ai nói ra, nhưng tất cả khách mời đều đồng thuận sẽ trả tiền “boa” để bù tiền ăn.

Vừa rót rượu “Jack Daniels Whiskey” vào ly thủy tinh đế cao của từng người, Matteo Tân vừa giới thiệu các món ăn nổi tiếng nhất ở đây, như giò heo muối chiên giòn, bò tùng xẻo, cá Sapa nướng giấy bạc,…!
– Trước mắt là phải tìm cho ra nơi chôn cất Cha Thành.

– Miguel Phương nêu ý kiến.

– Nội tạng của ông ấy còn tốt không? – Bạch Lãng hỏi trong sự dè dặt và ngại ngần.

– Tôi nghĩ chắc còn tốt.

– Chỉ sợ họ đã giết Cha trong lúc ông ấy đang mê man rồi phân xác lấy nội tạng thì khốn.

Sau đó ngụy tạo bằng một bệnh án không thật.

– Mỗi năm không biết bao nhiêu ca nhận và hiến tạng, làm sao để xác minh giả thuyết của thầy là đúng hay sai đây?
– Mười Anh.

– Dạ?
– Cha Thành có mắc các chứng bệnh liên quan tới đường huyết dễ dẫn tới ngất xỉu không?
– Con không biết, thưa Thầy.

Số lần con và Cha gặp nhau chỉ đếm trên đầu ngón tay, nên khi hay tin Cha ngất xỉu con chỉ ghé qua thăm hỏi vài câu rồi về liền.

Còn ngày Cha xuất viện thì không hiểu sao chẳng ai được phép đi đón, ngay cả việc tổ chức thông báo cũng không.

Hình như họ rất sợ mọi người nhìn thấy rõ khuôn mặt của Cha.

“Reng…”
Chuông điện thoại bàn reo lên.

Matteo Tân xin phép tiếp cuộc gọi đến.

Để tránh hai người chấp sự nghi ngờ mình làm chuyện mờ ám, anh chỉnh loa thật lớn để ai cũng nghe thấy.

– A-lô?
– Thưa ông, chúng tôi dọn bàn được chưa?
Thấy cái gật đầu của viên thiếu tướng luống tuổi, Chín Tân mới đáp rằng, “Xin các vị cứ tự nhiên.”
Thay vì ăn kiểu cách như bình thường, tức là có khai vị, các món chính, rồi kết thúc bằng một hoặc vài món tráng miệng, mỗi người lại ăn đơn giản với một món chính, một chén súp và một dĩa rau trộn.

– Cậu Khải thì sao?
– Dạ? Ý của bác là con có thân với Cha Thành không à?
Miguel Phương gật đầu.

– Nói sao ta…!- Cừu Đen cầm dao xắt thịt bò với vẻ mặt đăm chiêu nghĩ ngợi.

– Thấy con cao khỏe nên Cha thường nhờ con sắp xếp và dọn Lễ.

Mỗi bận xong việc, Cha thường cho con mấy đồng đi uống nước.

Có nhiều lúc con trốn học đi lang bang, Cha lại đứng ra làm cha của con luôn trong mỗi lần con bị kêu lên mắng vốn.

Cừu Đen đưa tấm hình chụp chung với Cha Thành cho Phạm Đình Vân xem.

Đó là tấm hình duy nhất mà hai người chụp chung, trong hình hai người đứng cạnh nhau và dựa lưng vào cây thông Noel được trang hoàng rực rỡ.

Manuel Ngô vừa ăn cơm gà xối mỡ, vừa miên man nghĩ tới anh họ.

Sự phân tâm của y đã lọt vào ánh mắt của Miguel Phương và Cừu Đen.

Dựa theo ký ức mong manh của Cừu Đen, đôi vợ chồng già tìm đến một khu xóm nhỏ nằm ven ngoại ô Sài Gòn.

Cây thầu dầu trước lối vào xóm nhỏ chắc đã ngoài hàng trăm, thân của nó to đến nỗi năm người ôm không xuể.

Một ngôi đình nhỏ xây ngay khúc ngã ba đường, đứng trong sân đình có thể nhìn một cách bao quát hai ngả đường rợp bóng mát của cây gạo đỏ, phía sau sân đình là một bãi tha ma hoang vu, u tịch.

Thầy Dự đang phơi miểng gáo ở sau hè.

Hình như hai vợ chồng thoáng thấy một ông già đang nằm vắt vẻo trên cái võng đã bục nhiều mắt nơi mái hiên nhà của chái bếp.

– Thầy Dự.

Thầy có phải là thầy Dự dạy Sinh lớp của cháu tôi không?
Thầy Dự nhìn Bạch Lãng mà cười xòa:
– Thưa anh, tôi nghỉ dạy lâu rồi.

Có lẽ cháu nhà anh đưa địa chỉ lộn.

– Dạ, xin lỗi vì đã vô cớ làm phiền anh.

– Không sao, không sao đâu…!Mời hai vị vô nhà uống trà, ăn mứt quả với tôi và Bố nha.

– Hình như anh là người miền Bắc? Vì cách dùng chữ của anh hơi ngộ, vừa Nam vừa Bắc lẫn lộn…!
– Vâng, tôi theo gia đình vào Nam lâu rồi, từ hồi năm 54 lận.

– Bố anh còn sống hả?
– Ồ không, Bố nuôi.

Bố nuôi kém tuổi hơn bố ruột tôi chừng một con giáp.

Bố nuôi của thầy Dự là một cụ già đã xấp xỉ gần tám mươi, dáng vẻ gầy gò, sắc mặt sầu khổ, khóe miệng trễ xuống như bao nhiêu ưu tư của nhân loại đều thu hết vào đó.

Cái đài radio cũ kỹ phát những bản nhạc thương nhớ cố hương của con trai cụ, qua phần trình bày của Duy Trác, Trần Ngọc, Ngọc Bảo, Ngọc Long, Anh Ngọc, Thái Thanh,…!
– Bố anh có vẻ thích nghe nhạc há?
– Vâng.

– Thầy Dự chuyển sang nói giọng cố hương.

– Tôi giúp Bố tìm được một đoạn băng trình chiếu “Tiếng hát Trần Ngọc (Nhạc sĩ Tuấn Khanh)”, ông mừng lắm.

Vì giọng ca này đã gắn bó với một thời tuổi trẻ của ông.

Có nó, ông cũng đỡ buồn.

Bạch Lãng kiếm chuyện để kéo dài thời gian nhằm nhìn rõ mặt Bố nuôi của thầy Dự:
– Cây mãng cầu này anh trồng sao khéo quá.

Trái trổ đầy cành luôn.

– Cây na này Bố trồng đấy.

Hồi mới dọn về đây ở, thấy ông rảnh rỗi nên hay nghĩ quẩn nên tôi bày việc làm vườn cho ông.

– Anh có đọc sách của một số nhà văn như Tự Hồng, Hình Dương,…!không?
– Toàn là tô hồng và mị dân thì đọc làm gì? Người viết lách mà phải vừa viết vừa né vừa bưng bô thì còn đâu ra thời gian để mà sáng tạo và thăng hoa với nghề?
– Mà tôi thấy nhà văn Hình Dương đã sao chép lại cách viết truyện của nhà văn Duyên Anh, nhưng thay vì để các nhân vật sống trong một xã hội hiện thực đầy rẫy tàn khốc và cạm bẫy, ông ta lại đổi thành xã hội bình yên đến phi thực tế.

Để tránh bị sinh nghi, hai vợ chồng đành nói lời cáo từ.

Trước lúc lên chiếc xe hơi thể thao hãng Honda, Bạch Lãng nán lại xin hột mãng cầu để về ương cây.

Thầy Dự hỏi ý kiến Bố nuôi đàng hoàng, mới đưa cho viên pháp y già một nắm hạt na.

Đợi chiếc xe hơi ấy “khuất nẻo chân mây”, thầy Dự bước lại gần Bố để bảo cụ vào trong nhà nằm nghỉ.

Cái divan được đặt đối diện gian bếp, nằm cách cửa hậu ước chừng ba thước, trên có mắc một cái võng lưới xanh lơ; Bố thầy thường nằm ngủ ở đây cho tiện bề đi vệ sinh và lấy nước, thuốc.

Cửa ra – vào phòng ngủ của thầy nằm ở hướng tay trái divan, nên rất thuận lợi trong việc trông nom bố nuôi.

Thầy Dự vừa lục tủ lạnh vừa nói với Bố:
– Người bị giết là một kẻ sống bằng nghề chửi thuê – viết mướn, có lẽ đã phát hiện bí mật của chủ nhân nên đã bị bịt đầu mối.

– Lại thêm một người bị giết vì thảm án “Hai Mươi”.

– Con có mua được ít quả sấu, Bố ăn canh chua sấu dầm cho mát nhé.

Cha Thành cười hiền.

Tuy cụ thích vị của món canh chua Nam Kỳ hơn là canh chua Bắc Kỳ, nhưng vẫn nói:
– Con nấu món gì Cha cũng ăn được hết.

– Vâng.

Con tính kho cá quả, làm món trứng đúc thịt và xào đậu cô-ve.

– Nay con nghỉ ăn rau muống hả?
Thầy Dự bật cười:
– Bố này, cứ chọc con mãi…!
Cha Thành cười hiền và vỗ vai con trai nuôi.

Rồi lên gác quét dọn cho qua thời gian.

Hai người chọn tầng gác mái làm nơi thờ phượng Chúa, nơi đây thường được khóa kỹ để tránh lộ thân phận của Cha Thành.

Đáng ra Cha đã bị giết từ hồi năm đó, nhưng do bác sĩ phụ trách xét nghiệm nội tạng của Cha biết được thận của Cha rất phù hợp với đứa cháu gái sắp chết vì bị suy thận của mình, nên đã cứu Cha để đền đáp ơn cứu mạng nó.

Cha không lấy gì làm tức giận khi bị lấy mất thận một cách tự tiện như vậy, bởi nếu trong hoàn cảnh bình thường, Cha cũng sẵn lòng tặng cho bé gái đáng thương đó một trái thận.

Đấng Christ chịu khổ nạn cho nhân loại được, thì Cha cũng làm được như Ngài.

Cha hãy còn nhớ như in, ông bác sĩ lớn hơn Cha chừng bảy tuổi, đã tiêm cho Cha một liều thuốc mê sâu nhằm giúp Cha giả chết, rồi nhờ con chiên đưa Cha đi trốn.

Cũng may tên đầu sỏ không có mặt ở đó nên vết mổ trên bụng Cha không bị phát hiện.

Sau vụ việc trên, ba đời nhà ông bác sĩ bán tháo tài sản rồi sang Hoa Kỳ định cư theo diện thẻ xanh EB5, không rõ hiện họ đang ở tiểu bang nào.

Trong Nam gọi “cá lóc”, ngoài Bắc kêu “cá quả”.

Hai cha con đôi lúc vì bất đồng ngôn ngữ mà xảy ra nhiều cớ sự cười ra nước mắt.

Tỷ như nó nói mua nem rán về cho cụ ăn, cụ tưởng là nem chua chiên giòn, hóa ra lại là chả giò.

– Bố, con mời Bố xuống ăn cơm.

Không có con trai đánh thức, ắt hẳn Cha Thành đã ngủ quên luôn rồi.

Ở đó lót sàn gạch, để sẵn tấm chiếu, nếu muốn cứ việc trải ra và kê gối mà nằm.

Nhờ giàn mồng tơi và trầu bà tươi tốt mà căn gác mái luôn mát rười rượi dù không gắn máy lạnh và quạt trần công suất lớn.

Tuy lương hưu không được bao nhiêu, nhưng thầy Dự vẫn cố lắp đặt máy lạnh cho phòng ăn, để ăn uống cho con miệng.

Nói phòng ăn cho sang, chứ kỳ thật đó là một góc nhỏ đặt một bộ bàn ghế, ngăn cách với chỗ nấu nướng bằng một tấm bình phong tranh kiếng treo rủ xuống và cách sàn nhà chừng ba, bốn tấc.

– Con định ra thư viện cộng đồng lấy lại cuốn sách “Khu vườn bí mật”.

– Kỳ Anh lấy nó rồi à?
– Vâng.

– Nó cũng nhớ tới Cha đó chớ.

Quyển sách ấy là món quà Giáng Sinh mà Cha tặng nó để kỷ niệm năm đầu tiên theo học ở hợp chủng viện.

Nó là một trong số những đứa trẻ ngoan nhứt ở đó.

– Vậy tại sao cuốn sách đó lại trở về tay Bố?
– Nó cho một người bạn mượn đọc, rồi thằng bé đó sơ ý làm rớt, Cha nhặt được…!
Cha Thành bị sặc ớt nên ôm ngực ho sù sụ, thầy Dự vội vàng đứng dậy vuốt lưng cụ, rồi kính cẩn đưa nước cho người bố nuôi.

– Chưa kịp đưa lại cho nó thì…!
Cha Thành lại ho sặc sụa.

– Kể ra cuốn sách này còn hơn chim Bố nhỉ? Bay qua bay lại khắp nơi.

– Nhờ dấu mộc đóng ở trang cuối sách mà nó nhận ra đây là quà tặng của Cha.

Và nó đã lần theo những con số Cha khoanh tròn để tìm đến miếng đất đã từng là tòa tư dinh cũ của hai nạn nhân bị sát hại dã man.

– Mỗi một con số là một chữ cái phải không Bố?
– Đúng rồi con.

Nó có khiếu thuộc lòng bảng chữ cái và số đếm La Mã nên Cha mới bày ra cách này.

Thầy Dự giúp Bố gỡ xương trong miếng cá quả kho.

Ông nêm hơi nhạt vì Bố mắc bệnh cao huyết áp, lần ngất xỉu định mệnh ấy là do cụ bị lên tăng-xông chứ không phải bị hạ đường huyết như nhiều người lầm tưởng.

Mỗi tuần ông sẽ pha trà đậu biếc hoặc trà chanh mật ong cho Bố hai lần; có nhiều người mắc bệnh như Bố uống hai thứ này thấy có hiệu quả nhưng vì hấp tấp chữa trị hoặc đơn giản là do không biết nên đã uống vượt quá mức cho phép, tức là ngày nào cũng uống, dẫn tới bị bệnh khác gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe hoặc tệ hại hơn là bị tụt máu mà chết.

– Con sợ hai người ban nãy tới đây tìm Bố…!
Cha Thành trấn an con trai:
– Cha đã trên bảy mươi rồi.

Không còn thời gian để mà tránh né nữa đâu.

“Cái gì của Caesar thì trả cho Caesar, cái gì của Chúa thì trả cho Chúa”.

Con hiểu chớ?
Tuy không hiểu mô tê chi sất, nhưng thầy Dự vẫn gật đầu với Bố.

Ông giục cụ ăn thêm đậu cô-ve, rồi gắp thêm vào chén của người cha già một miếng trứng đúc thịt.

Trời chuyển mây đen tự bao giờ, giông gió lại kéo tới nơi đây…!
…!
Về phần ông Văn Ban, sau khi rời phiên tòa bí mật, ông lủi thủi đi kiếm gì bỏ bụng, cũng may luật sư biện hộ cho ông quá giang một đoạn nên mới đỡ tiền xe.

Chỗ trọ của ông nằm tuốt trong xóm “gà”, bà con trong xóm thường gọi ông là “Van-băn”, tức họ hàng xa của “Van-ga”.

Quán bún riêu phát bản nhạc “Ngày về kẻ bụi đời” của nhạc sĩ Ngân Giang do Duy Quang trình bày, lời bài hát như nói hộ tâm tư Văn Ban; vì sinh kế ông bỏ quê tha hương lập nghiệp, rồi cũng vì sinh kế mà ông ở tù ở nơi đất khách quê người.

– Bộ nay tao bán hổng ngon sao mà bây ăn thấy oải quá vậy?
– Dạ không, ngon lắm má Ù.

Tại cái lưng của con…!
– Mèn đét ơi! Tao nói mày hổng biết bao nhiêu lần.

Già rồi thì kiếm chuyện gì nhẹ nhẹ thôi, đằng này đi phụ hồ.

Cháu tao còn trẻ mà nó làm còn hổng nổi, huống hồ chi là mày.

Má Ù múc cho Văn Ban một chén giò heo – huyết luộc, rồi hất cằm nói, “Nay má đãi con.”
Văn Ban bật khóc ngon ơ:
– Con cảm ơn má.

– Ra tù ở cái tuổi năm mươi, muốn làm lại cuộc đời chẳng dễ dàng gì, nhưng mà con hãy nghe má, ráng, mình ráng hết sức…!Mày thấy hôn? Tao là người đồng tính nữ, muôn đời bị kỳ thị, tao vẫn đạp lên miệng tiếng thiên hạ mà sống.


Tao tin Ông Trời không bao giờ tước mất cơ hội trở thành người tốt của ai hết.

oOo
– Oa, cây đàn guitar đẹp quá.

Ba Đức xách theo cây dương cầm điện, còn Năm Tường mang theo hai phần bún bò Huế do chính tay anh nấu.

– Cậu Nhân muốn ăn chưa? Tôi hâm giùm cho.

À, tôi là Năm Tường, người đẹp trai này là Ba Đức, còn kia là anh Hai Nghĩa.

– Làm phiền Mục sư quá…!
Anton Nhân tuy rời xa tây ban cầm mới có vài tháng, nhưng cậu đã nhớ nó quay quắt.

Sau một vài lần dạo phím bàn, chỉnh lại một vài thứ trên cây đàn, cậu bắt đầu đàn bản “Serenade” mà cậu đã từng nghe qua bản Việt của nhạc sĩ Phạm Duy mang tên “Dạ khúc”, người hát hay nhất theo ý cậu là bà Mai Hương.

Ba Đức hát nho nhỏ theo nhịp đàn của Phạm Thành Nhân.

Tiếng hát thánh thót, du dương của anh đã làm cậu trai mắc án oan ngẩn người.

Khi tiếng đàn tan hết, cậu mời anh hát một bài yêu thích của bản thân.

Ba Đức giới thiệu nhạc phẩm sắp trình bày là “Bài không tên số Hai” của nhạc sĩ Vũ Thành An, được biết đến qua giọng ca Sĩ Phú, Ngọc Lan, Trịnh Nam Sơn, Kim Loan, Tuấn Ngọc, Kiều Nga, Bằng Kiều, Khánh Hà, Vũ Khanh, Khánh Ly, Nguyên Khang, Lệ Thu, Duy Quang, Thanh Lan, Tuấn Vũ, Như Mai, song ca Nhật Trường – Như Thủy, tam ca Hạ Vy – Nini – Vina…!Anh thấy tiếng hát của Sĩ Phú, Trịnh Nam Sơn và Tuấn Ngọc là hợp giọng nhất trong số những ca sĩ trên.

“…!Đời một người con gái, ước mơ đã nhiều
Trời cho không ̣được mấy
Đến khi lấy chồng, chỉ còn mối tình mang theo…”
Cô y tá đứng lặng người nghe giọng hát Thiên Sứ của Ba Đức.

Chị không hề hay biết rằng mình đã khóc tự bao giờ.

Ngay cả ông bác sĩ vốn nổi tiếng khô khan cũng đỏ hoe mắt.

– Tới giờ thăm khám rồi mà tôi còn vẽ chuyện hát hò, thật là làm phiền các vị quá.

Vị bác sĩ hoàn hồn, vội vàng khoát tay:
– Không sao, không sao, cậu hát tiếp đi, hát tới tối luôn cũng được.

– Nếu cậu muốn, mỗi ngày tôi sẽ qua đây đàn hát với cậu.

Dẫu sao, công việc của tôi cũng không quá bó buộc thời gian.

– Cảm ơn Mục sư.

Nhưng, bò viên này mua ở đâu mà trông ngộ quá vậy mấy anh?
– Bò viên này là của con gái một bác trong viện dưỡng lão gởi biếu Năm Tường để thay lời cảm ơn vì đã chăm sóc mẹ của cô ấy.

Ba Đức thuật lại một kỷ niệm vui:
– Trước mỗi Mùa Chay, Năm Tường thường nấu bún bò đãi đằng các anh em với “ý đồ” làm tụi tôi ớn mùi thịt, hết đứa nào dám lén lút ăn.

Nhưng đó là chuyện lúc nhỏ, lớn lên chúng tôi tự ý thức phải giữ gìn bản thân trong Mùa Chay.

Đợi cho y tá và bác sĩ rời khỏi phòng, Anton Nhân mới kể cho nhóm Mục sư nghe về các Cha trong Giáo xứ mình.

Cậu ta rất mến Cha Vũ, tên đầy đủ là Antonio Cao Nhật Vũ; Cha nói tên của Cha mang hàm nghĩa “Ngày mưa”, còn cậu lại cho rằng nó có nghĩa là “Mưa giữa trời nắng”, tức “Mưa bóng mây”.

Cha Vũ dong dỏng cao, dáng dấp thư sinh, bàn tay Tháp Bút, mặt trái xoan, ngũ quan thanh tú, màu tóc, lông mày, lông mi và tròng đen hắc sắc như mực.

– Cha gởi cho tôi ca khúc “Look down” trong vở nhạc kịch “Les Misérables”.

Không biết các vị có ai đã từng đọc qua vở “Những người khốn khổ” của đại văn hào Victor Hugo chưa? Anh Đức đọc rồi à? Anh tóm tắt giùm tôi được không?
– Ông Jean đã đánh mất niềm tin nơi Chúa ở trong lao tù trần gian, nhưng đã tìm về với Ngài sau khi ra khỏi tù và thực hiện sứ mạng cõng Thánh Giá trên lưng tới tận khi lìa đời.

Căn nguyên ấy bắt nguồn từ một việc như vầy: Không một nơi nào tiếp nhận người khách ăn mặc rách rưới có tấm thẻ vàng, chỉ trừ một nhà thờ xập xệ, bé xíu trong vùng.

Ông Jean đã hỏi vị Giám Mục đó rằng tại sao lại cho mình vô nhà, thì Cha trả lời là đây là nhà của Chúa, rồi ông Jean hỏi tiếp: “Ông có biết rõ tôi là ai không mà dám chứa chấp?”, Cha đáp: “Biết, ông là anh em của tôi, như lời Chúa dạy.”
Ba Đức nhìn sắc mặt Hai Nghĩa một đỗi, mới hắng giọng, nói tiếp:
– Có những đoạn đại văn hào Victor Hugo nói về sự tha hóa, trọng hình thức và tham lam của một số nhà thờ thuộc thời kỳ mà ông đang sống, bên Công Giáo, Tin Lành, Chính Thống Giáo và Anh Giáo, tôi đọc mà phải tự kiểm điểm mình, xem coi Hội Thánh có mắc lỗi không.

Những dòng chữ đó đối với người cuồng tín thì chẳng khác nào là ngôn ngữ thù hằn và báng bổ nặng nề, nhưng đối với những ai thật tâm muốn gầy dựng đức tin lành mạnh và theo chiều hướng ngày một tốt đẹp hơn thì đó là các bài học quý giá và lời khuyên đáng nghe.

Năm Tường đã trở lại với khay đựng bún bò và súp bò viên nóng hổi.

Anh chạy bàn đã quen nên việc bưng bê dù nặng và nóng cách mấy cũng không làm khó được anh.

Mỗi người anh em của Marshall Tường lấy một chén súp bò viên.

Anh để cái khay đựng tô bún bò và chén súp còn lại trên cái bàn của giường bệnh mà Anton Nhân đang nằm.

Chàng Mục sư gốc Thần Kinh đặt hũ sa-tế lên bàn, và dặn:
– Tôi có đem theo hũ sa-tế.

Nếu thấy…!
– Ôi chu choa mạ ơi, dân Huế nấu bún bò mà mi lo nỏ cay phù mỏ.

– Tám Khiêm? Mi dám nhại giọng tau hỉ?
– Em giỡn xíu mà anh Năm làm dữ thấy ghê.

Sợ mọi người đói bụng, Tám Khiêm ghé “Minh Hương Ký” mua ít xíu mại, há cảo, sủi cảo và chân gà sa-tế về đãi đằng; anh còn chu đáo mua nước mía hạnh và sâm bông cúc.

Anton Nhân nhìn tô bún bò mà nuốt nước miếng ừng ực.

Nước lèo đỏ rực sắc ớt, thơm nức mùi sa-tế và ngũ vị hương.

Bên trên lọn bún trắng ngần là một nhúm cải xà-lách xanh mởn xắt nhỏ, rau muống và bắp chuối bào.

Các loại thịt như bắp bò, ve bò, chả quế và giò heo nằm ẩn dưới lớp bún để giữ chúng được nóng và không bị tanh do nguội lạnh.

– Ăn lẹ cho ngon đi cậu.

Để nguội ăn ngán lắm.

Húp xong một muỗng nước lèo, Anton Nhân che miệng ho sặc sụa.

Một chốc sau mới nói nổi:
– Cay thiệt…!Cay xé cái lưỡi luôn…!Nước…!
Tám Khiêm lẹ làng rót cho Anton Nhân một ly sữa lạnh.

Cơn đau nơi cổ họng của cậu ta chầm chậm lắng xuống.

Sau khi cơn xót miệng do chất cay gây ra đã tan hết, đọng lại trên vị giác của cậu là vị ngọt ngon mà rất thanh của nước lèo, điều mà rất nhiều người đứng bếp cố học nêm nếm mà không làm trọn vẹn.

Vừa gắp bún ăn, Anton Nhân vừa sụt sùi lau lệ vì hơi cay bốc lên:
– Anh Năm làm ơn làm phước cất giùm em cái hũ sa-tế…!
Tự nhiên Phạm Thành Nhân xưng “em” ngọt sớt với anh Năm làm nguyên đám bất ngờ nên cười rần.

Tám Khiêm vừa trả hũ sa-tế về cái bịch nylon, vừa trêu anh Năm:
– Làm thằng nhỏ sợ tới nỗi nó xưng “em” luôn kìa.

– Mi…!mi chỉ giỏi chọc tau!
Để giải vây cho Năm Tường, Ba Đức hỏi Anton Nhân có muốn nghe bài gì không thì lát nữa ăn xong anh sẽ trình bày.

Thì cậu đáp để suy nghĩ đã.

– Tôi đã được thông tin rằng đã tìm thấy nghi phạm giết ông mập đó.

Micae Nghĩa nghiêm mặt:
– Cố gắng hạn chế lối nói chuyện này đi cậu.

Cậu vẫn còn đang trong diện tình nghi đó.

– Cảm ơn anh đã nhắc nhở.

Tôi chỉ muốn thoát khỏi tình cảnh này càng sớm càng tốt thôi.

Ba Đức chống cằm nghĩ ngợi một đỗi, rồi e dè phát biểu:
– Tôi sợ đây là một cái bẫy.

Sẽ có người viết bài vu khống cậu vui mừng trước cái chết của ông ta.

“Rầm!”
Cú đập tay xuống bàn của Anton Nhân khiến bộ tứ hết hồn hết vía.

Cũng may nước lèo trong tô bún và chén súp không còn nhiều nên không dây bẩn ra giường và vương lại trên quần áo cậu ta quá nhiều.

– Tại sao tôi lại bị vướng vào chuyện này hả? Đất Nước này có hơn trăm triệu người, mà sao tôi lại là người bị chúng chọn để đổ vạ sát nhân? Ngày nào cũng đọc hằng hà sa số tin tức, thấy hàng loạt đoạn phim quay về mình với những lời lẽ khinh miệt, bươi móc và…!
Tám Khiêm sợ cậu nghi phạm trẻ tuổi bị bấn loạn tinh thần, nên anh lẹ làng bước tới trước mặt cậu, và dịu giọng nói:
– Vì Chúa, xin cậu hãy bình tĩnh lại.

Cậu có thể cho tôi số điện thoại của Cha Vũ được không?
Anton Nhân lần chuỗi hạt Mân Côi một đỗi, mới ngước mặt lên nhìn Martino Lê và đọc cho anh nghe số điện thoại của Cha Vũ.

Có được số điện thoại, Tám Khiêm liền gọi cho Cha Vũ.

Phải mất một lúc lâu sau, đầu dây bên kia mới bắt máy.

Anh vào đề ngay:
– Anh là Cha Vũ phải không?
– Anh là ai?
– Tôi là Mục sư Lê Vỹ Khiêm ở Hội Thánh Tin Lành Lutheran tọa lạc địa hạt Thành Thái.

Con chiên trong Giáo xứ của anh là Anton Phạm Thành Nhân đang bị bấn loạn tinh thần, xin anh hãy đến hiệp thông cho cậu ấy.

– Nhưng mà sao Mục sư lại…!
Không đợi Cha Vũ nói hết câu, Tám Khiêm đã bấm phím kết thúc cuộc gọi.

Không phải vì anh coi thường hay có ý xấu với người Linh mục trẻ tuổi ấy, mà là do Anton Nhân đang trong cơn thần trí bất ổn, nghe hai người nói qua nói lại rất có thể không chịu được mà nổi cơn điên, lại tạo cớ cho những kẻ vu vạ nữa.

Anh sẽ xin lỗi Cha Vũ sau, vì hành động bất nhã này.

Anton Nhân thắc mắc:
– Có thể cho tôi biết tại sao các anh lại nhờ Cha Vũ mà…!mà không tự làm?
Micae Nghĩa giải thích trong nụ cười hòa ái và đáng mến:
– Mỗi người có một con đường đến với Chúa riêng, thông qua cánh cửa Công Giáo, Tin Lành, Chínnh Thống Giáo,…!Cho nên chúng tôi không muốn cưỡng ép ai hiệp thông với Chúa bằng cánh cửa của mình.

Cậu là người Công Giáo nên Cha Vũ sẽ thích hợp hơn chúng tôi.

Ba Đức dịu dàng tâm tình:
– Các Thầy luôn dặn chúng tôi rằng hãy để mọi người tìm về với Chúa bằng sự tin tưởng tự nhiên và lòng thuần thành, không phải là nhờ những lời có cánh, răn đe dọa dẫm hay hứa hẹn một chỗ tốt trên Thiên Đàng.

Ngồi đợi khoảng một tiếng, Cha Vũ mới tới.

Cha mặc áo chùng thâm, chân mang giày da đế cao đen bóng, tay phải đeo một cái đồng hồ không rõ nhãn hiệu.

Cha có khuôn mặt rất hiền nhưng lạnh lẽo, tựa hồ như bức tượng Thiên Thần dựng tại nghĩa trang trong Hội Thánh của họ.

Ánh mắt của Cha đượm buồn, đó là nét buồn cố hữu bẩm sinh chứ không phải là do cuộc đối thoại ban nãy gây nên.

Trước khi theo chân các anh rời khỏi phòng, Tám Khiêm nán lại xin lỗi Antonio Vũ, và nhận lại một nụ cười dễ thương kèm theo câu nói, “Dạ, không có sao đâu anh.”
…!
Antonio Vũ ghé mua ít cái bánh tiêu để phát cho những người già neo đơn trong xóm nghèo, hễ ai là Giáo dân anh sẽ ở lại nói chuyện lâu hơn một chút để thông tin lịch sinh hoạt và chương trình sắp diễn ra trong Giáo xứ Saint Pio.

Thầy Dự rước người Linh mục trẻ tuổi vào nhà.

Rồi dẫn anh ta lên gác mái; Cha Thành đang ngồi đọc Kinh Chiều.

– Thầy con đang đọc Kinh hả thầy?
– Ừm.

Cha trẻ chưa đọc Kinh hả?
Antonio Vũ ngượng ngùng:
– Dạ chưa, ban nãy con vướng chuyện riêng nên không tham dự đọc Kinh Chiều.

Thầy Dự bật cười trước khuôn mặt đỏ như trái gấc của Antonio Vũ.

Nhớ ngày nào nó vẫn còn là đứa bé sống trong hợp chủng viện, với tánh nết nhút nhát và ngoan đạo cùng cực, nay nó đã trở thành một vị Cha sở đạo mạo, đường hoàng.

– Chúa hiểu sự vướng mắc của con mà, Cha trẻ.

Đợi Cha Thành đọc dứt bài Kinh, hai người mới lên trên gác.

– Con mới tới hả Vũ?
– Dạ không, con tới nãy giờ rồi thưa Thầy.

Thầy ăn bánh tiêu với con nghen Thầy?
Cha Thành sửa lại thế ngồi xếp bằng, rồi cười hiền mà nói:
– Rất sẵn lòng.

Đoạn ông hỏi thăm những người quen năm cũ bây giờ ra sao rồi, có giữ được đức tin hay là cải Đạo, trở thành người tốt hay đã thay tâm đổi tánh mà biến thành kẻ bất lương, và đời sống của bà con trong Giáo xứ có khá hơn xưa không.

Thấy trời sắp chuyển mưa, Antonio Vũ cáo từ hai người thầy mà về.

Vừa đi, chàng Linh mục trẻ vừa miên man nghĩ tới người bạn thuở thiếu thời Ngô Kỳ Anh.

Không biết cậu ấy đi lạc tới tận đâu mà những người phụ trách khu vực cắm trại không thấy.

Mà nay cậu ấy lại trở thành Mục sư Tin Lành.

Tên Thánh hồi trước của cậu ấy là Manuel, đó là cái tên do người cha đỡ đầu của cậu chọn.

– Quá giang không Vũ?
Người đàn ông để mái tóc hai mái như Cổ Thiên Lạc thời trẻ bất ngờ thò đầu ra khỏi cửa sổ xe hơi mà bắt chuyện với Antonio Vũ.

Người Mục sư trẻ ngờ ngợ đã từng gặp người này ở đâu đó, có lẽ là ở hợp chủng viện chăng?
Một cây Thánh Giá treo nơi gương chiếu hậu, trên thanh ngang có đắp một vòng hoa păng-xê ôm vòng lấy cổ Thánh Giá.

– Không sợ chết hay sao mà dám bén mảng tới đây hả Vũ?
Antonio Vũ hơi khựng lại, rồi thở dài một tiếng.

Anh vừa nói vừa cài dây an toàn:
– Anh là ai?
– Mới đó mà đã quên hết trơn rồi.

Nhưng tốt hơn hết là nên thế.

Nói đoạn, Ngô Gia Định mở bản nhạc “Tình nhân loại – Thú thiên nhiên” của nhạc sĩ Nguyễn Trung Cang do Elvis Phương trình bày, mà hồi còn nhỏ nhóm của họ thường hay nghe.

Nhưng Antonio Vũ mãi suy nghĩ chuyện riêng nên chẳng để tâm tới lời ca tiếng nhạc.

Anh vẫn chưa có cách nào đứng ra vạch mặt kẻ giả mạo Cha Thành; vì trong thời gian đánh chiếm thân phận, ông ta đã mua chuộc được vô số tín hữu hám tiền và những người làm trong ban mục vụ, có tiếng nói trong Giáo Hội.

Chúa ơi! Chẳng lẽ vì vật chất thế gian mà họ nỡ bán đứng đức tin và phụ rẫy Ngài sao? Không những thế, ông ta còn cấu kết với bọn ma tăng bên Phật Giáo và những tín đồ bất nhân thất đức để làm dồi dào nguồn cung cấp nội tạng từ chiêu bài hiến tặng…!
Đợi bản nhạc chấm dứt, Ngô Gia Định ngỏ lời mời người bạn chung trường của em họ đi ăn tối.

Song người ấy khước từ, viện rằng hẹn một dịp khác, bây giờ cậu ta phải về Giáo xứ để lo liệu việc Lễ.

Gã cũng không nài ép, đổi hướng cho xe chạy về Giáo xứ Saint Pio, hướng mà gã chọn sẽ băng qua ngôi chùa Khánh Hỷ, cũng đồng thời sẽ ngang qua chợ đêm náo nhiệt.

– Nhiều người trẻ bây giờ thích nhạc cổ phong của Tàu mà không biết tới nhạc Tiền Chiến của mình.

Có lẽ người bạn thân của em họ đã mở lòng với anh ta nên đã chọn một đề tài để nói.

Anh hỏi lại rằng:
– Cậu thích bài nào?
– “Vườn Thu” của nhạc sĩ Văn Thủy, do tam ca Bạch Lan Hương – Bạch La – Thu Thảo trình bày.

Một số bản của nhạc sĩ Văn Cao, Phạm Duy và Dương Thiệu Tước.

Còn anh?
– Những bản mang đề tài “liêu trai chí dị Nam Quốc” không chỉ gói gọn trong dòng nhạc Tiền Chiến mà còn có cả nhạc Vàng, thật khó lòng để chọn ra bài hát nào mà tôi thích nghe nhất…!Mà, có cái này tặng cậu.

Đó là một chai dầu thơm hiệu Lancôme cho nam, bao bì trông rất trang nhã và đẹp đẽ, không biết hương thơm có quá nồng hay giữ được mùi lâu không.

Trên vỏ bao có đề dòng chữ “La vie est belle”, Antonio Vũ buột miệng đọc thành tiếng.

– “La vie est belle” có nghĩa là “Đời vẫn đẹp sao”.

Antonio Vũ bật cười khanh khách:
– Anh có chắc mình dịch đúng không đó?
– Hãy để chữ nghĩa “sống”, đừng để nó “tồn tại”.

Nụ cười của gã đàn ông xa lạ cho quá giang xe trong một thoáng làm người Linh mục trẻ nhớ tới một người anh kết nghĩa rất đáng quý và đáng kính, mà anh đã vụt mất từ rất lâu…!
oOo
Vị khách xứ Phù Tang lại tới đây thưởng thức đồ uống với người bạn thân có phong thái như quý ông Pháp.

Anh ta lại yêu cầu một bản nhạc có liên quan tới Nhật Bản, và anh chủ quán liền chọn bài “Hoa đào ca” do Thanh Lan trình bày – Nhạc sĩ Phạm Duy đặt lời Việt từ ca khúc “Japanese folk song”.

– Phong trào đặt lời Việt theo giai điệu nhạc ngoại quốc đã có từ trước năm 75, khởi điểm từ nhạc sĩ Trường Kỳ – tức Lê Minh Trường, Lê Hựu Hà, Phạm Duy, Jo Marcel, Nhật Ngân, Xuân Vinh, Y Vân,…!Tất cả các thể loại nhạc đều chung sống một cách rất “hòa bình”, gu ai người nấy nghe, hầu như không ai tự cho mình là “sang”, “trình độ thưởng thức cao”, “tân thời” hay “yêu Nước” như một vài trang mạng Facebook tự phong cho một số bài hát hiện nay.

Một người khách cao tuổi xen vào:
– Nhắc mới nhớ, bài “Không” của Nguyễn Ánh 9 đã được danh ca Đặng Lệ Quân hát lại bằng tiếng Hoa và hình như có cả Nhật, bài “Diễm xưa” và một số bài của Trịnh Công Sơn cũng được người Nhật chuyển ngữ sang tiếng nước họ, bài “Vọng ngày Xanh” của Khánh Băng thì được một nữ văn sĩ Pháp viết lại lời Pháp, bài “Nắng chiều” của Lê Trọng Nguyễn đã được một số nhạc sĩ ngoại quốc viết lại bằng ngôn ngữ nước họ,…!
Một người khách nam đang đứng tính tiền ở quầy thu ngân cũng góp lời:
– Còn rất nhiều bài nữa mà chúng ta không biết tới.

Điển hình như bài “Mưa hồng” của Trịnh Công Sơn được Phí Ngọc Thanh hát lại lời Hoa.

Một người khách nữ dáng cao dong dỏng hỏi anh chủ quán nguồn gốc bài hát “Hạnh phúc nơi nào”, tình khúc này thường được biết đến qua giọng ca của cô Ngọc Lan.

Anh giải đáp:
– “Hạnh phúc nơi nào” do nhạc sĩ Nhật Ngân viết lời Việt từ ca khúc của Đức.

Nói cho rõ ràng hơn thì bài gốc “So viele lieder sind in mir” do đôi nhạc sĩ Robert Jung – Ralph Siegel sáng tác vào năm 1983, ca sĩ Hồng Kông Trần Tuệ Nhàn hát lại lời Hoa mang tên “Chuyến bay đêm” năm 1989, còn lời Việt của mình thì ra đời năm 1994.

Sau một hồi cân nhắc, Phùng Bác Văn chọn một ly “Mojito Bạc hà”.

Gã yêu cầu một bản nhạc thật lạ tai và phá cách, mà vẫn giữ được nét trang nhã và đượm vẻ hoài cổ.

– Nãy giờ anh cân nhắc chưa đủ sao mà giờ dồn tôi vào thế bí như thế này?
Phùng Bác Văn cười mỉm chi, ra chiều chờ coi ông chủ xoay sở ra sao.

“Một mùa Thu úa
Đường chiều lộng gió
Lặng lờ mình ta…”
– Đây là bản “Lá úa” do Duy Trác trình bày; nhạc sĩ Y Vân viết lời Việt từ nhạc phẩm “Les feuillies mortes” của hai tác giả Jacques Prevert – Josheph Kosma.

– Rất hay.

Một bài hát cổ điển Tây Phương kết hợp với vẻ đẹp tiếng Việt, rất đúng với yêu cầu mà tôi đặt ra.

– Ngoài lời này ra, theo như tin tức tôi đọc được thì còn có các bản tiếng Việt như sau: “Tình như lá rụng” của nhạc sĩ Phạm Duy, “Lá rụng” của nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn, “Lá Thu vàng” của nhạc sĩ Lữ Liên, “Những chiếc lá úa” của nhạc sĩ Phong Vũ, “Tình khúc mùa Thu” của nhạc sĩ Nguyễn Tuấn Kiệt và “Mùa Thu lá rụng” của nhạc sĩ Phạm Ngọc Lân.

– Hình như…!anh đang đợi ai?
Đặng Thừa Tân cười trừ:
– Phải.

Từ sau vụ đó, không rõ vì lý do gì mà người bạn cà-phê lại không tới quán.

Nếu nói anh ta sợ phiền phức nên tránh mặt anh thì sai bét, bởi anh cảm nhận được anh ta vốn không phải con người mang tính nết như thế.

– Tôi muốn nghe thêm một bài hát thật lạ nữa…!
– “Nhịp cầu Thệ Thủy” do cô cháu Mai Hương – Thái Hiền trình bày; nhạc sĩ Vĩnh Lạc lấy ý thơ của thi sĩ Lý Bạch và Nguyễn Du phổ thành nhạc dựa trên giai điệu của nhà soạn nhạc tài ba Pyotr Llyich Tchaikovsky.

Nhà soạn nhạc này là một người đồng tính có đời tư rất phức tạp và cũng vô cùng đáng thương.

– Bài này thật lạ tai.

Anh còn bài nào giống vầy nữa không?
– Xin anh hãy tìm nghe băng nhạc “Con tạo xoay vần (Nhạc Opera Tây Âu và Lời Thi Ca Đông Á)”, nó có đủ thể loại và cách kết hợp mà anh cần.

Trong đó có bài nhạc “Đánh cờ người” phổ từ thơ của nữ sĩ Hồ Xuân Hương trên nền nhạc Jacques Offenbach, miêu tả…!chuyện phòng the một cách duy mỹ và đối với tôi thì nó khá hài hước, ngồ ngộ.

Phùng Bác Văn vừa ngắm mặt nước trong ly sinh tố trà xanh, vừa kể cho anh chủ quán hay:
– Theo một số học giả thì bối cảnh bài thơ “Tĩnh dạ từ” như vầy: Ông Lý Bạch không phải nằm trên giường ngắm trăng, mà là đứng bên một giếng nước.

Có năm cách hiểu chữ “Sàng”, mỗi kiểu sẽ đưa chúng ta tới một bối cảnh và bầu không khí khác nhau.

Chắc chỉ có mỗi ông ấy mới biết chữ “Sàng” nào là đúng mất.

Đặng Thừa Tân nghe người khách đẹp trai kể về nguồn gốc thơ văn đến say mê.

Anh không chỉ yêu âm nhạc mà còn rất mến chuộng văn chương và các loại hình nghệ thuật khác.

Người bạn của anh khách đó hơi nhoẻn miệng cười, ra vẻ hãnh diện và…!yêu chiều lắm.

– Nhà văn Hồ Trường An đặt chân tới nước Pháp với cái túi rỗng, kinh nghiệm sống ở nước sở tại bằng không và trái tim lạc loài của một người tha hương trên đất khách.

Duyên nợ đẩy đưa thế nào mà ông gặp được một người trai Pháp mang tên Bernard Detrez; người ấy khuyên ông nên ở nhà để theo đuổi niềm đam mê viết lách, còn vấn đề tiền nong sẽ do ông ấy lo liệu hết.

Và họ đã bên nhau và yêu nhau suốt mấy mươi năm ròng như thế, rất đỗi lặng lẽ và dịu dàng.

Rồi một biến cố không may đã xảy ra, nhà văn bị tai biến mạch máu não nên sinh bại liệt, người tình của ông bây giờ không chỉ phải đi làm kiếm tiền mà còn phải chăm sóc ông, nhưng tình yêu của họ vẫn bất diệt và vững bền như cũ.

Người tình đất Pháp đã yêu thương và săn sóc ông cho tới ngày ông hết chống chọi nổi với bệnh tật mà lìa đời…!
– “Lamour cest pour rien”, tôi hay nghe nam danh ca Pháp Enrico Macias hát bản này.

– Lời Việt là “Tình cho không biếu không” của nhạc sĩ Phạm Duy, người trình bày mà tôi thường nghe là Elvis Phương.

Và một bản Việt khác có tiêu đề là “Sống lại tình yêu” do chính ca sĩ Thế Sơn viết lời và trình diễn.

Phùng Bác Văn nắm lấy bàn tay phải của người thương muôn kiếp, rồi giục anh chủ quán nói tiếp.

Đang kể dở dang về mối tình đồng giới của nhà văn Hồ Trường An và người tình đất Pháp Bernard Detrez, Đặng Thừa Tân thấy người bạn mắc nợ đời xăm xăm bước vô quán nên mừng quá mà reo:
– A! Anh tới rồi!
Sau một tuần đi làm công ở miệt Kiến Hòa, da dẻ của bạn anh càng thêm ngăm đen, lại gần nhìn kỹ mới thấy hai cánh tay đầy sẹo và vết rạch.

Có những con người thà để cho mình mẩy in hằn những vết thẹo xấu xí, chứ quyết không chịu nợ ân tình.

– Uống gì hôn? Tôi đãi.

– Tôi trả.

Trà dâu, lấy trà xanh, bỏ thật ít ngọt, nhiều đá.

– Anh lúc nào cũng thích sòng phẳng.

Muốn nghe bài gì không?
– “Một mình” do “người trong mộng” của nhạc sĩ Lam Phương là danh ca Bạch Yến trình bày.

Đôi tình nhân vẫn chưa rời quán.

Mỗi người gọi thêm một ly đồ uống và thay phiên nhau vào nhà vệ sinh đi giải.

Dù muốn dù không, Đặng Thừa Tân cũng phải ghé mắt đến họ.

– Anh biết lý do gì mà tôi phải tìm về nhạc ngày xưa để nghe không?
Đặng Thừa Tân lắc đầu, nhún vai một cái.

– Tôi nghe nhạc điện tử vì giai điệu bắt tai, còn muốn để tâm thức lắng sâu vào mênh mang cõi suy tưởng, nhạc ngày xưa đủ các yếu tố mà tôi cần.

Nói rõ ràng hơn, tôi cần một bài hát có nội dung, giọng hát không qua máy móc chỉnh sửa của người trình bày và sự biểu diễn của dàn hòa âm phối khí.

– Tôi hiểu ý của anh.

Thời buổi giờ phần đông các nhà sản xuất thích sử dụng nhạc cụ điện tử hơn là biểu diễn mộc, vô hình trung làm mất cái hay, chân thật và sắc sảo của giai điệu.

– “Triệu người quen có mấy người thân? Khi lìa trần có mấy người đưa?” Một câu rất đắt giá trong “Bài không tên số Bốn” của nhạc sĩ Vũ Thành An, đủ sức để giúp bản nhạc này tồn tại tới nay trong lòng người mộ điệu âm nhạc.

Đặng Thừa Tân cho anh bạn cùng họ nghe một bài hát trữ tình rất nổi tiếng hiện nay, rồi hỏi cảm nhận của anh ta:
– Không có gì đặc sắc hết.

Những ý tứ có trong bài hát này đã được nhạc sĩ Ngô Thụy Miên, Vũ Thành An, Nguyễn Đình Toàn, Từ Công Phụng, Văn Phụng,…!khai triển hết rồi, nên nội dung có thể mới mẻ với người chưa từng nghe thể loại Trữ Tình của dòng nhạc Vàng – nhạc Tiền Chiến, nhưng với người đã nghe mòn lỗ tai như tôi thì không.

– Kho tàng nhạc Vàng – nhạc Tiền Chiến gần mười ngàn bài, chỉ tính riêng nhạc sĩ Phạm Duy là đã chiếm gần hoặc hơn hai ngàn bài.

Có người khách trẻ tuổi yêu cầu bản “Tình thiên thu”, hay có tên gọi đầy đủ là “Tình thiên thu của Nguyễn Thị Mộng Thường”, do chính tác giả của bài hát là bác Nhật Trường ca.

– Nàng Mộng Thường bắt xe đò đi thăm người yêu là lính Biệt Động Quân đang ở An Lộc, thì lên trúng chiếc xe bị gài mìn dọc đường…!Nên mới có câu hát “Nhưng không chết người trai khói lửa, mà chết người gái nhỏ phương xa.

Một Xuân buồn có gió Đông qua.”
“Khi không thấy người yêu trở lại, tình yêu tìm không thấy ban mai, người không tìm ra dấu tương lai” Ngồi đợi mãi mà không thấy người yêu lên thăm như đã hẹn, chàng Phạm Thái đành quay gót về phòng.

Rồi hỡi ôi, sáng hôm sau chàng hay tin chuyến xe nàng đi ngang qua khúc đường bị gài mìn nên đã lâm nạn, và dù đã được đưa đi cấp cứu cấp tốc nhưng vì vết thương quá sâu và mất máu quá nhiều nên nàng đã lìa đời.

Người đã từng trải qua khói lửa chiến tranh, khoác màu áo lính, xông pha trên “bốn vùng chiến thuật”, chứng kiến cảnh Sinh – Ly – Tử – Biệt của bạn bè và người thân yêu quanh mình, mới có thể biến mỗi bản nhạc thành một bài sử thi bất hủ.

Anh có thấy Trịnh Công Sơn viết được bản nhạc nào về lính ra hồn không? Bởi sinh thời cụ trốn đi lính như cơm bữa thì làm sao cảm thấu được đời lính như bác Thanh?
Một người sinh viên nữ nhờ anh chủ quán kể rõ ràng hơn, thì anh nói vắn tắt như vầy:
– Nguyễn Thị Mộng Thường là chiêu đãi viên hàng không, có người yêu là quân nhân Biệt Động tên Phạm Thái.

Trong một trận đánh, chàng bị mất tích; ai cũng tưởng chàng đã tử trận nên đã gửi giấy báo tử cho gia đình.

Nhưng thật ra, chàng đã được một Ma Seour tìm thấy và đưa về nhà thờ chữa thương.

Tới khi lành lặn, chàng mới đánh điện tín thông tin cho chỉ huy và gia đình hay rằng mình vẫn còn sống.

Nhận được tin ấy, nàng mới vội vàng xin phép gia đình để bắt xe đò lên thăm người yêu ở An Lộc.

Và chuyến xe định mệnh ấy đã chia rẽ hai người mãi mãi…!
Đặng Xương Tuyết đưa tờ một đồng cho anh chủ quán, rồi biểu cho mình thêm một muỗng nước đá.

Tới nước đá mà anh ta cũng quyết không xin, Đặng Thừa Tân chỉ biết cười khổ với anh bạn ký giả.

– Nhạc sĩ Hoàng Trọng có cả thảy ba người con: Hoàng Nhạc Đô, Hoàng Cung Fa và Hoàng Bạch La.

Ông được mệnh danh là “Vua Tango” vì chuyên về giai điệu này.


– “Vua Bolero” là nhạc sĩ Trúc Phương.

“Ông hoàng nhạc Tây phương” là Dương Thiệu Tước.

Còn danh hiệu “Ông hoàng nhạc lính” theo thiển ý của tôi thì không thuộc về ai cả, vì quá khó phân cao thấp; Trần Thiện Thanh rất hay, mà Anh Bằng cũng tài không kém, xin đừng quên Duy Khánh, Hoài Linh, Trúc Phương, Anh Thy, Lê Dinh, Minh Kỳ, Nhật Ngân, Trần Trịnh, Y Vân – Y Vũ,…!
– Anh muốn nghe bài gì?
– “Xin em đừng hỏi” do Anh Khoa trình bày; do bộ ba nhạc sĩ Trần Thiện Thanh – Đào Duy – Nhật Bằng sáng tác, một trong những sự kết hợp sáng tác hết sức hiếm có của dòng nhạc Vàng.

Vì quán quá đông khách nên Đặng Thừa Tân đành thất lễ mà không tiếp chuyện anh bạn ký giả nữa.

Anh ta cũng không phiền lòng, cứ thế mở sổ tay ra ghi chép.

Có những người bạn cà-phê như anh ta thật đỡ, không cần phải khua môi múa mép hay trau chuốt câu từ vì sợ mất lòng.

Tiếng ca của bà Thái Thanh trong bài “Mơ Tiên” do nhạc sĩ Dương Thiệu Tước khẽ khàng đưa khách trong quán vào một đoạn truyện “Liêu trai chí dị”.

Đây có thể được coi là lời khác của bản “Mơ Tiên”, lời kia do cụ và vợ là bà Minh Trang đồng sáng tác, người trình bày bản ấy là bà Kim Tước.

– Ông Trần Quang Lộc bịa ra hoàn cảnh sáng tác bài “Về đây nghe em” để cướp trắng công sức của một nhà thơ ít nổi tiếng có bút hiệu là A Khuê, điều đáng nói ở đây người này là bạn rất thân với ông.

Nói cho rõ ràng hơn thì “Cha đẻ” của nhạc phẩm là thi sĩ A Khuê, còn ông Lộc chỉ là “Cha nuôi”.

Ông Lộc lấy thơ của ông Khuê phổ nhạc thành một ca khúc nổi tiếng rồi tự nhiên bị “mất trí nhớ”, quên luôn chuyện mình đã sử dụng tác phẩm của người ta, không những không ghi tên “Cha đẻ” mà còn tự nhận vơ là tác giả.

Muốn kiểm chứng lời tôi nói có thể tìm đọc bài thơ “Về đây nghe em” trong tập thơ “Vàng bay” do ông Khuê sáng tác vào năm 1970, được viết ra trước thời điểm bài hát “Về đây nghe em” ra đời.

Đặng Xương Tuyết chống cằm nghĩ ngợi mông lung, rồi cũng góp một câu chuyện:
– Ít ra cụ Phạm Duy còn đứng ra xin lỗi công khai thi sĩ Linh Phương vì đã lấy thơ phổ nhạc mà không lên tiếng và ghi nguồn rõ ràng, chưa kể tới là việc cụ còn bồi thường một số tiền khá lớn cho nhà thơ.

Hồi đó cụ lấy thơ của thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên phổ nhạc cũng y chang vậy, và theo lời nhà thơ thì cụ đã nhờ tòa soạn gởi trả một khoản tiền đủ để nhà thơ mua được một chiếc xe gắn máy, cũ hay mới thì tôi không nhớ, nhưng tôi nhớ nó là loại xe dành cho nữ.

Một cô gái trẻ hỏi anh chủ quán rằng bài hát đang phát ra đời năm nào mà nghe rất gần gũi với đời sống hiện nay quá vậy.

Anh đáp gọn lỏn, “Trước năm 75.” Cô ta lại hỏi tưởng đâu nhạc Bolero chỉ toàn bài buồn và sầu não.

– Vì những bài được cho phép phổ biến phần đông là những bài không mấy đặc sắc và có giai điệu không nổi trội, thành thử ra đã khiến rất nhiều người trẻ tuổi hiểu lầm rằng nhạc Vàng nghe rất buồn và chán.

Tôi là chủ quán cà-phê “Sóng Nhạc” mà, số lượng bài hát tôi biết có thể lên tới hai ngàn bài, nhưng nhạc phẩm mà tôi thích chỉ khoảng vài trăm nên có nhiều khi em tới quán mà nghe tôi phát đi phát lại một bài hoài.

Và, xin em đừng gọi là nhạc Bolero, vì dòng nhạc Vàng không chỉ có mỗi giai điệu Bolero, mà còn có Pop, Jazz, Soul, Boston, Chachacha, Tango, Slowrock, RnB, Twist, Rumba,…!
Đôi bạn kia vẫn chưa rời quán.

Hình như nơi đây mang lại một cảm giác bình yên và an toàn cho hai người nên họ mới không muốn rời đi quá vội.

Nhìn họ thật lâu, tự nhiên anh nghĩ họ là người yêu, chứ không phải là bạn thân.

Ban nãy, khi anh nhắc tới hai chữ “đồng tính”, ánh mắt của người đàn ông đội nón fedora hơi liếc sang người bạn mình với một nụ cười ý nhị rất duyên.

– Anh có nghe qua bản “M-16” do “bộ đôi sóng thần” Hùng Cường – Mai Lệ Huyền chưa? Mấy bài này dễ gì được cấp phép rộng rãi.

Một bản nhạc rất hay đã bị rơi vào quên lãng của nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng mang tên “Hòa bình ơi! Việt Nam ơi!” do song ca Thái Châu – Diễm Chi trình bày.

Nội dung của bài hát phần nào nói lên lòng nhân văn và yêu chuộng hòa bình của người nhạc sĩ Trung Kỳ vô Nam lập nghiệp.

Một cụ già tay cầm ly cà-phê đen đá bỗng bình phẩm:
– Tôi có thấy một trang mạng Facebook tâng bốc hết lời các “Đi ra – Đi vô”, vì nhiều chuyện nên tôi cũng ráng dành ra vài phút cuộc đời coi “tầm cỡ”, “hoành tráng”, “sanh chảnh”, “nâng cao nền âm nhạc Nước nhà”, “kỹ thuật thanh nhạc thuộc hàn lâm học viện”,…!thế nào.

“Thưởng thức” xong, tôi phải đi uống thuốc nhức đầu luôn, cái gì mà rống lên cao vút rồi cố ý ngân nga nốt nhạc thật lâu ở những đoạn xuống thấp, khẩu hình thì y hệt như chủ nợ tôi ngày trước hay tin tôi xin khất nợ vài ngày nên kéo tới nhà chửi đổng, nhưng nghe chủ nợ chửi tôi còn biết nội dung, còn đằng này nghe hát mà tôi chẳng biết đang đề cập tới cái gì.

Còn mấy cô, mấy cậu mộ điệu người này thì khen một cách nghe rất là bất bình thường và không đứng đắn…!
– Như thế nào hả cụ?
– “Hát nghe phê quá”, “Nghe xong muốn rụng trứng/muốn đẻ”,…!Nhận xét bài hát dung tục và không có một chút mỹ cảm trong lời ăn tiếng nói.

Hai người cùng họ đưa mắt nhìn nhau cười xòa.

Ông cụ phê bình đúng lắm, nhưng mấy ai trong số những người đó chịu nghe góp ý để sửa đổi chứ?
– Cho nên thứ cho ông già sắp xuống lỗ này, tôi vẫn còn ham sống lắm.

Nói tới đó, mấy người bạn đi cùng bày cờ cá ngựa ra nên cụ ngừng tâm sự mà bắt tay vô chơi với tụi nó.

Tuổi già không còn lại gì ngoài thời gian trước lúc chết, nên cả ông và đám bạn đều sống thật lòng thật dạ và hết mình, để khi ra đi không hối hận điều gì hết.

– À, có cái này, tôi muốn tặng anh.

Đặng Thừa Tân ngần ngại mở ba-lô ra xem.

Kể từ sau cái ngày định mệnh ấy, anh bỗng dưng có ác cảm với túi đồ màu đen.

– Cho tôi luôn à? Thiệt hả? Thiệt hả?
– Ờ, dẫu sao tôi cũng không có khả năng mua máy phát nhạc phẩm chất cao như anh, thà nó chạy riết rồi hư còn hơn hư từ từ do lâu ngày không sử dụng tới.

– Cảm ơn anh nghen.

Đặng Thừa Tân mở băng nhạc “Chân trời tím” do ca – nhạc sĩ Trần Thiện Thanh và ca sĩ Ngọc Lan trình bày lên nghe, theo như dòng giới thiệu trên bìa băng nhạc thì đây là băng nhạc đầu tiên của Nhật Trường tại hải ngoại.

Anh cũng có cuốn băng này nhưng đã bị hư do phát quá nhiều lần.

– Anh muốn ăn gì không? Tôi bao.

Vừa hay ở gần đây có quán cơm Minh Hương rất ngon, tụi mình tới đó nghe?
– Ừm.

– Ông chủ hay nói “Nị” thành “Lị” lắm, bị bà vợ la hoài.

Tám Khiêm hay tin Năm Tường bị bệnh nên tận dụng thời gian nghỉ trưa đi mua cháo cho anh Năm, sẵn tiện ghé ăn trưa luôn.

Ba anh tối ngày bù đầu bù cổ với mấy cái xác, má anh thì làm đồ đệ Long Tứ, nên thuở nhỏ anh như cây tầm gửi nương dựa chân Chúa và những người mục vụ của Ngài.

Vừa bước vào “Minh Hương Ký”, Martino Lê đã gặp lại nhân vật mà anh từng thấy trên đài truyền hình Sài Gòn mấy tuần trước.

Dù phải đeo kính, nhưng đôi mắt anh ta lại gây cho người đối diện một cảm giác nó hoàn toàn sáng rõ; thông thường những người mắt kém mỗi khi bỏ kính xuống sẽ hay nhíu mày hoặc có cái nhìn lờ đờ, thậm chí là bị lé một hoặc hai bên con ngươi, còn đằng này mỗi bận nói chuyện với ai anh ta lại nhìn thẳng vào mắt người vấn đáp mà vẻ mặt không hề có thái độ mệt mắt hay khó chịu.

Anh trộm nghĩ, với cái nhìn như thế này, những ai dối gạt anh sẽ bị lộ tẩy ngay tức khắc, vì hầu hết quân gian trá đều không dám nhìn thẳng vào mắt người đối diện khi nói chuyện.

Martino Lê vào nhà vệ sinh rửa tay, rửa mặt, rồi đứng làm dấu Thánh và đọc lời cảm tạ ơn Thiên Chúa trước gương, sau đó mới bước ra đặt cơm cho mình và cháo cho anh Năm.

– Xin lượng thứ vì đã chen ngang bữa ăn của hai anh, tôi có thể mạn phép ngồi chung bàn được không?
– Rất sẵn lòng.

– Đặng Thừa Tân đứng dậy kéo ghế mời người khách khoác áo blouse trắng ngồi xuống.

Martino thấp giọng cảm ơn.

Trong quán phần đông phát nhạc Lam Phương, vì đây là người đồng hương của ông chủ quán, cũng có tổ tiên thuộc phong trào “Phản Thanh phục Minh”.

Tiếng hát của cô Ngọc Lan trong bài “Chiều tàn”, “Mưa lệ” và “Say”, rồi giọng bác Thái Châu trong bài “Giọt lệ sầu” và “Cỏ úa”, kế đó là “Ngày buồn” do cô Giao Linh hát,…!lần lượt những tình khúc bất hủ của người nhạc sĩ quá cố được vang lên trong không gian quán cơm người đồng hương cách nhau mấy thế hệ.

– Nhiều người hỏi tôi rằng, “Mày ghét người tao thích, vậy chắc mày thích người kia hả?” Không, tôi chưa từng thích một ai hết.

Nếu họ có tài, tôi chỉ ngưỡng mộ và sẽ tìm hiểu cái hay của họ để bổ túc kiến thức, cũng như kinh nghiệm sống cho mình mà thôi.

Nếu họ sai, nếu có thể tôi sẽ vạch trần và phê phán.

Tại sao tôi phải trở thành nô lệ tâm thức của người dưng nước lã kia chứ.

Câu chuyện phiếm đàm giữa gã điên, ông già Ba Tri và vị luật sư hào hoa được khơi lại.

Chàng bác sĩ trung niên và anh chủ quán cà-phê bắt đầu trổ tài hùng biện, vì luận cứ và dẫn chứng rất mênh mông nên họ tha hồ mà lấy làm thí dụ.

Người nào người nấy chờ đối phương trình bày bị sơ hở hay thiếu sót là bắt phạt liền.

– Bác sĩ thứ lỗi cho quán nhà tôi nhé? Đông khách quá nên làm đồ ăn – thức uống chậm trễ.

Martino Lê cười hiền, biểu không sao.

Chắc giờ này anh Năm chưa ngủ dậy, bởi trong cử thuốc có chứa chất gây buồn ngủ.

Mà nếu ổng đói thì cũng ráng mà chịu, anh đâu thể “phi thân” về nhà liền được.

Tám Khiêm ngồi cà kê dê ngỗng thêm nửa tiếng, mới đủng đỉnh đi trả tiền cơm nước rồi phóng xe tới nhà anh Năm.

Nhà Năm Tường ở tuốt trong một xóm lao động nghèo, xa mút chỉ cà tha, cũng được năm mươi mấy mét vuông, xung quanh nhà trồng rất nhiều loài hoa dân dã và mộc mạc, trước lối vào nhà còn ráng dành ra một khoảng nhỏ cho cây sứ trắng.

Tới lần chuông reo thứ năm, Năm Tường mới ra mở cửa cho em Tám.

Mới có một ngày rưỡi mà trông anh Năm hốc hác và xanh xao thấy rõ.

– Xin lỗi vì đã bắt cậu đợi lâu.

– Anh uống thuốc chưa?
– Vẫn chưa.

Đợi có người mang đồ ăn tới mới uống.

– Thảm ghê ta ơi! – Tám Khiêm cũng đùa lại anh Năm.

– Em có mua cháo hải sản và bánh quẩy cho anh nè.

Giống như Mười Anh, nhà bếp của Năm Tường luôn được giữ sạch sẽ, ngăn nắp và thoáng đãng, bất kể chủ nhân của nó mạnh khỏe hay đau ốm.

Nhớ tới cái ổ năm thì mười họa mới nhấc cây chổi lên quét của mình, Tám Khiêm bất giác gãi đầu cười trừ.

Năm Tường mời em trai ngồi xuống ghế, rồi tự thân đi trút cháo ra tô và sửa soạn muỗng, đũa.

Trong lúc ấy, Tám Khiêm vào nhà vệ sinh rửa tay, rửa mặt và chỉnh sửa lại trang phục; tới chừng anh trở ra, anh Năm đã bày biện bàn ăn xong hết.

– Ai xài băng keo y tế vậy anh?
Đúng là con nhà Y, anh nó bệnh lên bệnh xuống không hỏi thăm, lại đi hỏi thăm dụng cụ trong ngành:
– À, Mười Anh.

Nó gọt trái bôm bị đứt tay.

Đúng rồi! Có dĩa bôm trong tủ lạnh đó.

Cậu lấy ra ăn đi.

Tám Khiêm bèn đứng dậy, đi lấy dĩa táo cất trong tủ lạnh.

Em Mười xếp những lát táo thành hình cánh hoa, chính giữa để sẵn chén muối ớt dầm nhỏ xíu.

– Có nhớ hồi nhỏ anh gom giấy vụn, phế liệu bán ve chai để mua kem cho em ăn hôn?
– Nhớ.

Cậu đã đưa tôi một bịch giấy hỉ mũi rồi…!
Không muốn bị khơi lại kỷ niệm đáng xấu hổ ấy nên Tám Khiêm chuyển đề tài:
– Sao tự nhiên bị cảm cúm vậy anh?
– Tôi lo cho một bà cụ trong viện nên bị lây cảm cúm.

Bà ấy thì hết bệnh, phần tôi thì nhiễm cúm.

Ngồi nhìn anh Năm ăn cháo một hồi, Tám Khiêm mới tâm sự:
– Em sợ Mười Anh sẽ nghĩ quẫn quá anh.

– Tại sao cậu nghĩ vậy?
Vừa chấm táo với muối, Martino Lê vừa giải bày:
– Nó là đứa luôn nghĩ cho người khác, nên thường xuyên phán quyết sai lầm và bộp chộp.

– Có người sẽ sửa sai giùm nó.

– Ai?
– Judas, đủ khôn ngoan và lý trí để chỉ cho nó đường hướng tìm thấy định mệnh của mình.

Với lại, anh ta là con nhà Luật nên sẽ giúp nó nắm vững về các vấn đề pháp lý, cũng như chuẩn bị tâm lý cho những lần hầu tòa sắp tới.

Có lẽ Thầy và anh Hai lo sợ, còn tôi thì không, vì tôi biết rất rõ nó và Judas chẳng có tình ý gì với nhau.

oOo
– Bác Phương nhờ tao làm cơm tháng cho thằng cháu kén ăn.

Bác nói muốn nấu món gì cũng được.

Lê Đức Hoàng xen vào:
– Tao nghi là do nhà nấu ăn dở nên nó nuốt không vô, còn ăn cơm bụi thì bị rối loạn tiêu hóa hay nhiễm trùng đường ruột nên giờ nó thấy đồ ăn là nó sợ, chớ chẳng phải kén đâu.

Nguyễn Chí Công lắc đầu, nhún vai một cái, tỏ ý “Ai mà biết?”, rồi dặn dò:
– Mày có dính mắc với ông Phương, tốt nhứt đừng có giao cơm, để tao với thằng Hoàng thay phiên nhau làm cho.

Đã nhận lời thì phải làm cho vuông tròn, nên trời vừa tang tảng sáng Nguyễn Chí Công đã thức dậy để lo sơ chế nguyên liệu và nấu nướng.

Y sẽ nấu canh sườn rau củ, trứng cá thu và đậu bắp chiên; sức ăn của nó không mạnh, làm nhiều món chỉ tổ khiến nó bỏ mứa mang tội.

Đang lui cui rửa rau củ với nước muối, Nguyễn Chí Công nghe thấy tiếng ngáp dài như sói tru của ai đó vang lên, y giật mình quay đầu lại nhìn, thì thấy thằng bạn Bảy Núi đang ẹo tới ẹo lui tập thể dục.

– Tụi tao lo cho mày lắm đó Hoàng.

Chơi lâu hiểu tánh nên tụi tao rất quý và cảm phục mày, nhưng người không thân không thích…!
– Đâu có sao.

– Lê Đức Hoàng chỉ vô rổ khoai tây chưa rửa.

– Muốn xắt thế nào? Tao rửa rồi làm luôn cho.

– Mày xắt lát dày đi.

Tao hầm sườn non với khoai tây, củ cải đường và cà-rốt.

– Ừm, thằng nhỏ ăn nhiều rau củ vô mới khỏe mạnh được.

Tao thấy nó cứ hắt-xì hoài, có thể đang thiếu vitamin gì đó hay mắc các bệnh liên quan tới đường hô hấp như dị ứng thời tiết chẳng hạn.

– Mày để ý ghê thiệt.

Sao hổng đầu quân vô Tổng Cục Tình Báo đi con?
– Vô trỏng làm thì đâu được nói chuyện thoải mái như vầy, mà còn hổng được làm bạn với mấy đứa bây nữa.

Đời buồn lắm ru.

Nguyễn Chí Công thấy không khí vắng vẻ quá nên mở truyền hình lên coi cho đỡ buồn.

Lướt tới đâu thấy nản tới đó.

Hết “Thánh hề”, “Thánh Bolero”, “Thánh ăn”,…!còn nhiều hơn sấu U Minh; bởi có bình luận trên Facebook nói nghe cũng chí lý: “Xứ này không khác chi “Thần thoại Hy Lạp”, ra đường toàn Thần với Thánh và Anh hùng.”
– Hát cũng la, diễn hài cũng la, dẫn chương trình cũng…!la!
Lê Đức Hoàng chán nản tắt truyền hình.

Rồi mở audio book lên nghe tác phẩm “Đò dọc” của nhà văn Bình Nguyên Lộc.

– Biết vậy hồi nãy tao bật audio book rồi.

Đỡ mỏi tay rà đài.

– Thằng bạn răng khểnh nở nụ cười khổ.

– Các cụ ngày xưa viết truyện châm biếm gây cười còn hay hơn mấy cái chương trình bây giờ.

Nghe audio book được nửa tiếng, cả hai chuyển sang nghe nhạc để giải khuây tâm hồn.

Món canh sườn rau củ được nấu bằng nồi áp suất nên rất mau chín, giờ chỉ còn mỗi việc chiên trứng cá thu và đậu bắp.

Đang nghe dở dang bài “Tà áo xanh (Dang dở)” của đôi nhạc sĩ Đoàn Chuẩn – Từ Linh qua phần trình bày của Lệ Thu, Nguyễn Chí Công thấy thằng bạn cười tủm tỉm nên tò mò hỏi:
– Sao tự nhiên mày cười?
– Tao nhớ tới một cái bình luận nên mắc cười.

Người viết cái bình luận đó nói ca sĩ Ngọc Lan nhận tiền trợ cấp chống phá chế độ, lý do mà người đó viết như vậy là vì cô Ngọc Lan hát một bài hát trái tư tưởng và quan điểm chính trị với người đó.

– Ca sĩ Ngọc Lan mất từ đời nào mà nghĩ sao lại đi vu khống cổ.

Thuở còn sinh thời, cổ toàn lo đi hát chớ có đụng chạm tới ai đâu.

– Có bao nhiêu luận điệu cứ xài đi xài lại hoài hổng biết chán.

Kế đó, đôi bạn cùng nhau nghe chuỗi tình khúc mà nhạc sĩ Mặc Thế Nhân viết tặng cho cô ca sĩ Võ Thị Lan Anh người Huế, gồm bốn bài “Tương tư”, “Em về với người”, “Cho vừa lòng em” và “Một lần dang dở”; trong đó có hai bài hát ông sáng tác chung với nhạc sĩ Nhật Ngân là “Cho vừa lòng em” và “Một lần dang dở, hai ông lấy bút hiệu là Phan – Trần, chữ “Phan” là họ thật của Mặc Thế Nhân và chữ “Trần” là họ thật của Nhật Ngân.

Bây giờ họ đang nghe tới bản “Một lần dang dở” qua tiếng hát ngọt ngào của Nhật Trường:
“Khi mới thương nhau em hay nắm tay dặn dò
Cho dù cuộc đời là bể dâu ngang trái
Đã thương nhau mình sắt son một lòng…”
– Chắc nhìn thấy ông Mặc Thế Nhân đã có vợ con đề huề nên cô Lan Anh mới bỏ về Nha Trang lánh mặt rồi có chồng luôn ngay sau thời điểm đó không lâu.

Cũng nhờ “tiếng sét ái tình” ấy mà sự nghiệp sáng tác của ông có thêm vài ca khúc rất hay và để đời.

Nguyễn Chí Công gật đầu, ra chiều đồng ý với thằng bạn.

Rồi nghe lại bản “Tương tư 4” do Sĩ Phú trình bày:
“Phải chi em đừng có chồng, và anh còn đơn côi
Thì giờ đây em đâu sầu, anh đâu buồn…”
– Ủa mày chưa nấu cơm hả?
– Bác Phương dặn tao khỏi nấu, giao đồ ăn thôi.

Thấy không còn nhiều việc nữa, Nguyễn Chí Công bèn kêu thằng bạn ngồi nghỉ.

Rồi múc canh và đồ ăn vô cà-mên.

– Sao tao nghi con Út của ông Phương có vướng mắc tới vụ “Hai Mươi” ghê mày ơi.

– Rồi à, nổi máu thám tử rồi à…!Mà, nhắc tới nghề điều tra mới nhớ, không biết anh Tuyết giờ này ra sao há? Báo chí và chủ biên làm rùm beng quá trời, ảnh mà chịu thì tên tuổi nổi như cồn.

– Có biết nhạc chuông của ảnh là bài gì không?
Nguyễn Chí Công lắc đầu nguầy nguậy.

– “Bài ca Ngông” do bác Elvis Phương và “Phượng Hoàng band” ca, một sáng tác của nhạc sĩ Nguyễn Trung Cang.

– Thôi tới đây là tao hiểu rồi…!
Lê Đức Hoàng thấy thằng bạn lu bu công chuyện nên không lải nhải nữa.

Hắn đang nằm tính kế để tìm cho ra nguồn cơn của chứng tâm thần mà con trai Út ông Phương đang bị.

Nếu không liên quan tới thảm án “Hai mươi”, hắn sẽ vùi chôn bí mật này.

oOo
Châu Lợi giúp Quý Tâm sắp xếp phòng học.

Căn phòng này khá rộng, có thể đủ chỗ cho sáu mươi người; hiền đệ còn dọn thêm một gian nữa nằm phía sau lưng căn phòng này để các trò học yếu tới đây học nhóm và có gì không hiểu thì nhờ cậu ấy và các bạn, các anh, chị khóa trên giảng giải.

Hiền đệ chiêu mộ được một cô giáo dạy Quốc Văn và một ông thầy dạy Anh Văn đã về hưu, hai người ấy sẽ dạy học ở hai căn phòng nằm đối diện căn phòng này.

– Hiền huynh Trì Thương có còn vướng mắc với thế gian không huynh trưởng?
– Đệ ấy không vướng mắc
Chỉ trân trọng chữ “Hiếu”
Người Sa-môn phải tránh
Đắm mình trong tham ái
Sắc dục của thế gian.

– Chừng nào hiền huynh mới trở lại núi Phượng Hoàng?
– Chừng nào tâm của đệ
Không còn bị dao động
Bởi Ngũ Uẩn Ta-Bà
Phiền não của vị lai
Hay lo nghĩ nhân tai.

Quý Tâm chắp tay trước ngực:
– Đệ hiểu rồi.

Rất cảm ơn huynh mình đã soi sáng đệ.

– Bây giờ không phải là thời đại đọc một bài kệ hay thuyết một câu kinh là người nghe sẽ chứng đắc quả vị.

Việc Chánh Pháp bị diễn giải sai lệch, kinh điển bị chỉnh sửa, cửa chùa trở thành nơi ô uế mùi Danh – Lợi tranh đoạt,…!không đáng để đệ phiền não hay cảm thấy cần phải chứng minh cho những người tới viếng chùa mình là một Tăng sĩ tốt hay Phật Giáo không phải như họ nghĩ.

Vốn dĩ nước mắt của Ananda không thể cảm hóa tâm ác của Đề-Bà-Đạt-Đa…!
– Có phải trước đây đệ đã từng nghĩ rằng chỉ cần cho nữ thí chủ ấy một số tiền thật lớn là sẽ vẹn toàn đôi bên không?
Quý Tâm gật đầu.

Tới đây hai người ngừng vấn đáp.

Châu Lợi đóng cửa phòng tọa thiền.

Còn Quý Tâm vô lớp ngồi soạn giáo án và thảo trình chương trình giảng dạy; thời đại tân tiến nên ông cũng phải học Công nghệ – Thông tin để cho công việc dễ dàng và lưu trữ tốt hơn.

Trời đã chạng vạng tối, phố xá đã lên đèn, dòng xe cộ đổ về đây đi chơi đêm nghe sao rộn rịp và tràn đầy nhựa sống.

Trên vỉa hè, người bán hàng rong đi lên đi xuống dập dìu như trẩy hội; tiếng rao miệng, tiếng rao loa xen kẽ nhau tạo thành một bản hòa tấu rộn rã.

Châu Lợi đang ngồi chuyện trò với hai hiền đệ, chợt có một cô gái mặt không trang điểm, ăn mặc kín đáo và lịch sự.

Cô ta bước tới trước mặt ông, chắp tay mà thưa rằng:
– Bạch Thầy, con xin xuống tóc Quy Y Tam Bảo.

Trì Thương và Quý Tâm im lặng chờ Châu Lợi lên tiếng.

– Ta sẽ tổ chức lễ Quy Y cho con.

Sau buổi lễ, con có thể dọn vô chùa ở.

– Thầy không sợ vì con mà các Thầy bị dị nghị, đàm tiếu sao?
– Miệng là của thế gian, tu là việc của mình.

Châu Lợi dẫn cô gái miền Tây đi xuống gian nhà lâu ngày bỏ trống có góc nhìn đối diện với lối vào phía Tây của khu chợ đêm, gần đó còn có một bốt cứu hỏa và đồn cảnh sát.

Với cách sắp đặt chỗ ở này thì cô sẽ không lo ngại các Thầy bị hiểu lầm, bởi lúc nào cũng có mặt khách bộ hành đi ngang và nhìn vô nơi cô lánh đời ẩn tu.

– Như Tỳ-Kheo Ni Liên Hoa Sắc, con sẽ làm lại cuộc đời từ đây…!
– Hai.

Mận quay lại nhìn em trai.

Rồi vừa khóc vừa dặn dò nó:
– Mày ráng theo Mục sư Võ Kiến Tường, còn tao, kể từ đây tao theo Phật.

Thằng Tũn che mặt khóc òa.

Nó lấy tay quẹt mắt, rồi tức tưởi nói:
– Hai nói dóc.

Hai nói…!Hai nói chừng nào Hai hoàn lương sẽ…!
– Bởi vì tao lo cho tương lai của mày đó…!
Dưới bóng mát của cội cây bồ đề, ba huynh đệ đồng đạo ngồi nghe gió đùa cành lá; họ tạm lánh ra sân sau để hai chị em có không gian riêng tư.

Trì Thương hiểu ý huynh trưởng nên mỉm miệng cười suốt.

– Thí chủ ấy vẫn chưa thể đi tu phải không huynh?
– Đi tu mà con mắt ngó ra thế sự, lòng hốt hoảng chuyện trần gian, tâm vướng víu cõi Ta Bà thì làm sao mà tu được…!
– Nhưng huynh muốn cho hai thí chủ ấy ở nhờ nơi đây phải không?
– Phải.

Chỗ này vừa gần trường học vừa gần chợ búa.

Em có thể đi học và chị dễ kiếm việc làm.

Sau một hồi nghe Châu Lợi phân giải, hai chị em đồng ý ở lại đây.

Nhìn nét chữ rất đẹp và rõ ràng của người Tăng sĩ lục tuần, thằng Tũn trầm trồ không ngớt.

Ông đang viết hồ sơ ghi danh xin học và xin việc cho hai chị em nó.

Đọc sơ qua nội dung ông viết thì thấy lối văn rất…!chuẩn mực và súc tích, nó mới học lõm bõm được vài ba chữ nên chẳng biết mô tả sao cho đúng.

Nghe cách hướng dẫn trả lời phỏng vấn của Châu Lợi, Mận ngờ ngợ người này có xuất thân không phải tầm thường.

Nhưng cô không dám hỏi han.

Sau khi sắp xếp đồ đạc và quét dọn phòng ốc, hai chị em rủ nhau đi ăn cháo lòng ở một quán rất đông khách gần đó.

Nợ nần đã trả xong, nhưng nợ đời vẫn còn nguyên xi, không biết đến bao giờ Mận mới khép lại được những dây oan nghiệt oán vì chữ Nghĩa, chữ Hiếu gây ra…!
Cũng trong lúc ấy, Vệ Thu đang dẫn ba đứa con trai đi ngắm phố phường; địa điểm mà ông chọn là chợ đêm Hòa Phát, gần chùa Khánh Hỷ mà Quý Tâm làm trụ trì.

Hai đứa lớn sẽ trở về Mỹ để lo liệu công việc, còn đứa nhỏ sẽ đây ở với ông.

Có một người anh nuôi ở miệt Cà Mau than với ông rằng thằng con lớn bỏ đi đâu biệt tăm biệt tích, thằng thứ và đứa út ham của nên không có ngày nào mà cụ được yên thân, cụ tuyên bố nếu biết thằng Hai tu ở đâu cụ sẽ cuốn gói tới đó tu chung với nó liền.

Trong khi chờ đợi đồ ăn, thức uống dọn lên, Vệ Thu kể cho các con nghe câu chuyện của người anh nuôi đáng tuổi cha, chú.

Ông cố ý nhấn mạnh đến sự bất hiếu của hai người con trai nhỏ và cách sống vô tâm của người anh lớn.

Đôi lúc ông ngừng lại để quan sát thái độ của các con.

Nhưng nói một hồi, ông lại tỏ ra tiếc nuối với anh con trai trưởng; theo như lời tự thuật của anh nuôi thì anh ta tốt nghiệp cử nhân Kinh Tế và đạt luôn chứng chỉ ngành Luật, trước lúc bỏ nhà đi tu còn soạn sẵn bản kế hoạch phát triển công ty trong vòng ba mươi lăm năm để cha anh nương vào đó xoay sở và gầy dựng cơ đồ, nhờ vậy mà gia đình anh nuôi mới phất lên như diều gặp gió.

– Baba…!Baba kể “sự tích tìm con” này là lần thứ mười bảy rồi đó.

Nghe Vệ Thương than thở như vậy, Vệ Thu cười gằn mà hỏi:
– Mày đếm kỹ quá hả thằng quỷ? Ủa, cậu Ba lên Sài Gòn hồi nào vậy? Sao mặc đồ nhìn ngộ dạ?
– Hình như ba nhầm người rồi…!- Vệ Cung vừa nói vừa đẩy mắt kính.

Lối ăn bận này của Đạo nào vậy cà?
– Thưa thí chủ, tôi là người mà anh nuôi của thí chủ muốn tìm..


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.