Tiệm Đồ Cổ Á Xá

Chương 69: Song Khiêu Thoát


Đọc truyện Tiệm Đồ Cổ Á Xá – Chương 69: Song Khiêu Thoát

1

Lục Tử Cương ngồi trước tủ quầy của Á Xá, mượn ánh sáng của đèn cung Trường Tín, nhìn cặp vòng hoa chạm rỗng khắc hoa chìm vừa mới ra lò đó.

Cặp vòng này sử dụng chất liệu ngọc Hòa Điền thượng hạng, nhìn kỹ thực ra có hai tầng, tầng mặt của vòng ngọc dùng đao công cực kỳ tinh tế tỉ mỉ, khắc một cành dải đồng quấn quýt, có thể nhìn thấy rõ cả những đường gân trên lá cây, còn cả những hạt sương đọng trên lá. Mà tầng thứ hai chính là bản thể chiếc vòng tròn trịa và bóng loáng, giữa hai tầng khéo léo dùng dải đồng để nối liền nhau, nhưng nếu khi đeo lên tay người, thì chỉ thấy một vòng dải đồng sống động như thật, có thể nói là kỹ thuật tuyệt đỉnh. Mà bên mặt trong của chiếc vòng, lại khắc ký tên Tử Cương nức tiếng gần xa.

(Dải đồng là hai cây một chính một phụ bám sống cùng nhau, với ngụ ý vợ chồng quấn quýt bên nhau)

Nhẹ nhàng đặt cặp vòng tay này lên miếng vải gấm, Lục Tử Cương day day cổ tay phải hơi ê mỏi của mình.

Anh gần như bỏ tất cả tích lũy của bản thân, dùng khối ngọc lớn để rèn luyện kỹ thuật chạm điêu khắc ngọc của mình, cuối cùng sau khi khắc hỏng mấy miếng ngọc, đã khắc ra được một đôi vòng ngọc tương đối vừa ý.

Lục Tử Cương nhìn chằm chằm đôi vòng ngọc, giống như đang nghĩ một vấn đề do dự chưa quyết, anh ngồi ngả người ra sau trên ghế dựa, giấu mặt mình ở nơi đèn cung Trường Tín không chiếu đến, ngồi bất động không nhúc nhích.

Trong Á Xá chỉ có cây nhang đen trong lư hương Long Bác Sơn bằng vàng ròng đang yên lặng nhả khói, những làn khói lượn lờ bay lên trong tĩnh lặng giữa bầu không khí.

Ngồi im lìm thật lâu thật lâu trong bóng tối, Lục Tử Cương cuối cùng cầm điện thoại di động lên, bấm một số điện thoại, đối phương qua một lúc lâu mới nghe máy. Vì Á Xá thực sự quá yên tĩnh, cho nên khi điện thoại kết nối, những tạp âm của bên kia cũng cùng lúc vang lên với giọng nói của đối phương.

“Lục Tử hả! Sao thế? Không phải hai tiếng nữa mới tới giờ sao?”. Bác sĩ vẫn luôn nói lớn giọng như thế.

Lục Tử Cương cầm điện thoại cách xa ra một chút, nói với vẻ không tự nhiên: “Lần trước chẳng phải la bàn bị lỗi, chúng ta bị kẹt lại ở triều Minh mấy ngày mới về được sao? Để phòng ngừa chẳng may, vẫn nên tạm thời ngưng sử dụng, tôi cần tính lại một chút phương vị địa bàn trên la bàn đã”.

“Thế cũng được! Lúc nào có thể dùng lại thì nhớ gọi tôi đấy! Vừa khéo tôi đang tăng ca bên cấp cứu nên cũng chẳng đi được”. Bác sĩ trả lời rất dứt khoát, đi xuyên thời gian không gian là chuyện ở tầm to tát lớn lao, đương nhiên phải toàn vẹn thì mới có thể tiến hành, nếu không ngộ nhỡ một đi không trở lại, bác sĩ không muốn xa điều hòa không khí và điện thoại di động một chút nào cả. Hơn nữa, ngoài lý do chủ tiệm mấy tháng trước đột ngột không biết đi đâu nên lòng nóng như lửa đốt ra, hiện tại anh cũng dần dần nhìn thông rồi. Anh có thời gian, anh có thể bỏ ra được, thậm chí anh còn nghĩ đến việc sẽ dừng kỳ nghỉ phép của năm nay, đi đến những danh lam thắng cảnh trong nước, nói không chừng còn thực sự có thể tìm được manh mối gì đó.

Lục Tử Cương mặt không biểu cảm ngắt điện thoại, thở hắt ra một hơi rất dài, sau vài giây im lặng, liền bắt đầu hành động.

Lấy ra một bộ áo dài bằng vải xanh của thời Minh, rồi soi gương đeo tóc giả xong xuôi, cẩn thận đặt đôi vòng ngọc trên vải gấm vào một chiếc hộp gấm rồi nhét vào trong lòng. Chuẩn bị tất cả xong xuôi, Lục Tử Cương mới lôi la bàn Lạc Thư Cửu Tinh ra, tỉ mỉ dịch chuyển kim châm trên mặt la bàn.

Anh đã ghi nhớ góc độ trong lòng từ lâu rồi, cũng nhẩm hàng trăm hàng ngàn lần trong đầu, sao có thể dịch sai kim được, nhưng anh vẫn nín thở, lòng bàn tay toát mồ hôi.

Đúng thế, anh thực sự đã có những suy nghĩ không nên có.

La bàn Lạc Thư Cửu Tinh có năm mươi hai tầng, tầng nhiều nhất có 384 ô, nếu là người không hiểu, chắc chắn nhìn thấy hai mắt sẽ nổ đom đóm, còn Lục Tử Cương lúc bắt đầu cầm trong tay đã cảm thấy cực kỳ nhói tay.

Nhưng sau vài lần quay về quá khứ, anh đã nhớ góc độ dịch chuyển và triều đại trở về tương ứng, đã nắm được quy luật của nó. Cho nên, mấy tháng trước, anh thực sự có thể dẫn bác sĩ quay trở lại mấy tháng trước, tìm được xem rốt cuộc chủ tiệm ở đâu.

Nhưng anh đã không làm như vậy, nếu chủ tiệm trở về, anh đừng hòng được sử dụng la bàn Lạc Thư Cửu Tinh nữa.

Trong cuộc đời mỗi con người đều có chuyện cũ phải hối hận, anh cũng có chuyện muốn quay về quá khứ.

Lúc ban đầu, anh không hề có suy nghĩ này, chỉ là có ý tưởng làm thử vài lần để đảm bảo hơn, để bản thân dẫn bác sĩ đi qua đi lại giữa các triều đại. Vì anh biết, cho dù anh về quá khứ, thì đều không thể làm gì, mà chỉ có thể làm một người đứng bên quan sát, không thể thay đổi lịch sử. Nhưng sau khi bác sĩ cứu thiếu niên Dân Quốc nọ, anh không phát hiện có gì bất ổn cả, tuy ngoài miệng vẫn cứ là phản đối, nhưng cách nghĩ trong lòng lại dần dần thay đổi.

Cho nên trong lần xuyên không về quân doanh của Thích thiếu tướng quân tháng trước, Lục Tử Cương cũng mang tâm lý này, không thực sự quyết liệt ngăn cản bác sĩ cứu người.

Mà trở lại hiện tại được một tháng rồi, không có gì bất ngờ xảy ra cả, có lẽ những người họ đã cứu đó chỉ là những kẻ vô danh tiểu tốt trong lịch sử, căn bản sẽ không ảnh hưởng đến phương hướng của lịch sử.

Thế thì, anh có thể ôm chút hy vọng rồi chăng?

Lục Tử Cương bỏ tay khỏi kim la bàn, la bàn lóe lên một luồng ánh sáng trắng, mang theo nỗi thấp thỏm đầy mong chờ, anh chậm rãi nhắm mắt lại.

2

Năm thứ hai mươi mốt niên hiệu Gia Tĩnh triều Minh, kinh thành.

Hạ Trạch Lan ấn ấn vào túi thơm hơi gồ lên ở phần eo, trên gương mặt thanh tú không kìm được nở nụ cười rạng rỡ, vốn dĩ nhận lời Lý công công làm một bàn tiệc đồ ăn Tô Châu, nhưng cái gã mà phường Niễn Ngọc Tác muốn mời kia vì nàng nên đã bỏ đi trước, ngược lại nàng không cần nấu cơm nữa.

Không cần vất vả một buổi chiều mà cũng có thể nhận được khoản thù lao hậu hĩ, là ai thì cũng cảm thấy đúng là miếng bánh từ trên trời rơi xuống.

Nghĩ đến cái tên thợ ngọc hơi ngốc nghếch kia, ý cười bên khóe môi Hạ Trạch Lan lại càng sâu thêm. Có thể mời miễn phí một thợ ngọc có kỹ thuật cao siêu điêu khắc khối ngọc của nàng, thu hoạch hôm nay của nàng quả thực không nhỏ chút nào.

Hạ Trạch Lan đeo cái túi nhỏ bên trong có gói Côn Đao lên, từ sân nhỏ của phường Niễn Ngọc Tác đi ra. Tuy lần này không có người dẫn đường cho nàng, nhưng nàng vẫn dựa vào trí nhớ đi khỏi phường Niễn Ngọc Tác giống như mê cung này. Lúc đi ra qua Ngự Dụng Giám sát vách vẫn còn sáng đèn, nhìn thấy đám thợ thuyền đang chuẩn bị chế tác trước thời hạn các loại đèn Ngao Sơn, đèn hoa và đèn lồng xoay. Vào dịp từ hai mươi tư tháng Chạp đến mười bảy tháng Giêng hàng năm kinh thành đều tổ chức lễ hội đèn lồng, đèn lồng ngự dụng của toàn bộ kinh thành hoàng cung đều là do phường Ngự Dụng Đăng Tác phụ trách, tuy hiện tại vẫn còn hai tháng nữa mới đến cuối tháng Chạp, nhưng những người thợ này đã bắt đầu bận rộn.


Chỉ cần nhìn thấy những giấy đèn và lụa mỏng màu đỏ đó là đã khiến người ta khoan khoái từ tận đáy lòng. Hạ Trạch Lan nuông chiều bản thân dừng bước ngắm nghía một lúc, bấy giờ mới hài lòng quay người rời đi.

Giờ trời đã tối lại không có việc gì làm, thế thì quay về Thượng Thiện Giám là hợp lý nhất, Hạ Trạch Lan vừa đi vừa nghĩ. Trong các cung uyển của hoàng cung đều có một gian bếp nhỏ, người của Thượng Thiện Giám cũng dần dần thay phiên nhau đến làm việc ở các nhà bếp nhỏ. Buổi tối hôm nay có lẽ nàng đến lượt tới chỗ của Đoan phi nương nương, nhưng vì nhận việc của Lý công công, nên nàng đã đặc biệt đổi ca cho Ngọc Mai, giờ này quay về, nói không chừng cũng không cần làm phiền đến Ngọc Mai.

Nhẩm tính hai lạng bạc dư ra trong túi có thể mua thêm vài bộ đồ ấm cho mùa đông sắp tới, Hạ Trạch Lan rảo nhanh bước đi vào cánh cửa lớn của Ngự Dụng Giám, ở eo nàng còn giắt yêu bài của Thượng Thiện Giám, cho nên thủ vệ của Ngự Dụng Giám không làm khó nàng. Hạ Trạch Lan vừa mới bước chân qua bậu cửa của cánh cửa lớn Ngự Dụng Giám thì nhìn thấy có một người đứng xa xa ở đối diện bên kia đường, ánh mắt đối phương nhìn nàng rực sáng, cho dù nàng muốn làm lơ cũng không thể làm được.

Đó lại chính là gã thợ ngọc vừa mới bỏ đi mất ban nãy, hơn nữa rõ ràng là đang đợi nàng.

Hạ Trạch Lan lập tức đi qua đó, tò mò ngẩng đầu nhìn hỏi: “Lục đại sư, sao huynh lại ở đây? Có phải huynh muốn quay về tìm ti chính không?” Hạ Trạch Lan cảm thấy biểu cảm của đối phương rất kỳ quái, nàng cũng cảm giác quần áo đối phương đang mặc không phải là bộ ban nãy, chỉ là màu sắc na ná nhau thôi, nhìn kỹ thì hoàn toàn khác. Lẽ nào đã quay về thay bộ quần áo khác?

“Không cần gọi ta là Lục đại sư, gọi ta là Lục đại ca là được rồi. Ừm… ta.. “Người thợ ngọc trẻ tuổi nhất thời lóng ngóng, trên gương mặt tuấn tú bỗng nhiên đỏ hồng.

Hạ Trạch Lan ngẩn người ra một lúc, lúc nãy hai người ở riêng với nhau trong nhà bếp, cũng không thấy người này dễ dàng xấu hổ như thế! Nhưng ngay lập tức Hạ Trạch Lan liền phát hiện tư duy của mình có vấn đề, thế nào gọi là ở riêng với nhau, trai đơn gái chiếc, may mà không có ai nhìn thấy, nếu không danh tiết của nàng sẽ ra sao? Nàng lại nghĩ tới ban nãy nàng chủ động đi tới tìm hắn nói chuyện, bất chợt hai má cũng đỏ lựng lên. Ở nơi đông đảo mọi người, cho dù Hạ Trạch Lan có qua loa đại khái hơn đi chăng nữa thì cũng cảm thấy không ổn.

Ai bảo Thượng Thiện Giám đều không phải là phụ nữ mà là các ông chú, những gã đàn ông trẻ trung một chút mà nàng có thể tiếp xúc phần nhiều đều là thái giám, cho nên nàng không hề có khái niệm nam nữ thụ thụ bất thân.

Hai người đứng trước cửa lớn Ngự Dụng Giám nhìn nhau đỏ mặt cũng chẳng phải là chuyện gì ghê gớm! Hạ Trạch Lan cúi đầu định mau mau gật đầu chào hỏi rồi đi, nhưng không ngờ gã thợ ngọc lại mở miệng trước.

“Xa quê gặp người quen chính là một trong bốn chuyện vui lớn của đời người, cô nương có thể cho phép tại hạ mời một bữa được không? Vì… bữa cơm rang trứng của mười năm trước?”

Hạ Trạch Lan sững sờ, nhìn gã thợ ngọc có gương mặt tuấn tú trước mặt, càng nhìn lại càng thấy quen mắt, nhớ đến Á Xá mà hắn vừa nhắc tới, khẽ “a” lên một tiếng: “Huynh chính là tiểu ca ca nhà bên đó?”

Gã thợ ngọc trẻ trung chậm rãi gật gật đầu, ánh mắt trong veo chất chứa hàm nghĩa phức tạp mà Hạ Trạch Lan nhìn không thấu.

“Trời ạ, không ngờ lại trùng hợp như vậy!”. Xác nhận thân phận của hai người rồi, Hạ Trạch Lan cũng không kìm nổi kinh ngạc than rằng duyên phận thật diệu kỳ, cũng hiểu được tại sao trước đó khi gã thợ ngọc nhìn thấy khối ngọc trên cổ nàng lại xúc động như vậy, còn chủ động đòi đem về để điêu khắc, hóa ra họ chính là người quen cũ!

Hai bên đã tỏ rõ thân phận, sự bối rối vừa nãy đã bị quét sạch trơn, Hạ Trạch Lan nghĩ một lúc, cảm thấy cơ hội hiếm có, dẫu sao nàng cũng đã đổi ca với Ngọc Mai, chẳng thà thư giãn một lúc, dẫu sao lần sau cũng có thể làm thay Ngọc Mai một lần.

Nhưng khi nàng gật đầu đồng ý thì biểu cảm trên gương mặt của gã thợ ngọc trẻ tuổi bỗng ưở nên cứng đờ.

Nhìn thấy hắn cuống quýt sờ tới sờ lui trên người, Hạ Trạch bèn hiểu ra, hắn thay y phục gấp như thế, không mang theo túi tiền.

Hạ Trạch Lan khóc dở mếu dở, như thế này mà cũng muốn mời khách sao? Nàng lườm hắn một cái, vỗ vỗ vào túi thơm giắt ở eo mình, khẳng khái nói: “Bữa này để muội mời đi!”.

3

Địa điểm Ngự Dụng Giám của phường Niễn Ngọc Tác là ở phía Tây Nam bên ngoài cổng Tây Hoa, nơi đây sau năm trăm năm sau, chính là chỗ Lục Tử Cương thường xuyên dạo chơi trong thời gian thực tập ở Bảo tàng Quốc gia, Tây Đơn của kinh thành Bắc Kinh. Địa điểm của Ngự Dụng Giám rất rộng rãi, từ miếu Chân Võ của vành đai số hai Phục Hưng Môn Bắc Kinh, cho đến một vùng Tiền Môn, đều thuộc về phạm vi của Ngự Dụng Giám, phía Đông là Ngoại Khố và Đại Khố, phía Tây là Hoa Phòng Khố, phía Nam là Băng Ấm Khố, bên trái bên phải có bốn phường Mộc Tất Tác, Niễn Ngọc Tác, Đăng Tác và Phật Tác.

Lục Tử Cương còn nhớ hơn năm trăm sau anh từng đến miếu Quan Đế ở đường Tiền Môn Đông, đều là di chỉ cũ của Nam Khố thuộc Ngự Dụng Giám, liền cảm thấy thế sự đổi thay, thực sự khiến người ta khó lòng tin được.

Những gì hiện tại anh quan sát thấy, đều là những tòa kiến trúc cổ tinh tế và bắt mắt của những năm Gia Tĩnh triều Minh, còn những người đi ngang qua mình, đều đã là người thiên cổ. Theo lý mà nói anh đã xuyên thời gian được mấy lần, đáng nhẽ không có bất cứ cảm giác khó thích nghi nào, nhưng không có một lần nào anh nhàn tản tự tại đi dạo trên đường phố cổ đại giống như thế này, hơn nữa cảnh tượng còn không khớp với thành phố Bắc Kinh tương lai trong lòng mình, loại cảm giác này, thực sự không cổ cách nào diễn tả với người ngoài.

Lúc này đây, thậm chí Lục Tử Cương còn bắt đầu cảm giác nếu như mình và bác sĩ cùng đến thì tốt hơn, như thế còn có thể có đối tượng để châm chọc.

Nghĩ đến đây, Lục Tử Cương bất giác chuyển ngay lập tức ánh mắt nhìn xuống chân mình sang người thiếu nữ đi sau anh nửa bước chân.

Đúng thế, là thiếu nữ, tuy mười tám, mười chín tuổi đối với phụ nữ cổ đại đều có thể lấy chồng sinh con rồi, nhưng đối với Lục Tử Cương, cô ấy cũng mới chỉ là một cô gái vừa tốt nghiệp phổ thông. Trên thực tế, Lục Tử Cương cũng không có suy nghĩ đặc biệt gì với cô gái này, dẫu sao anh biết kiếp trước của mình từng dùng sinh mệnh để yêu thầm cô ấy, nhưng đối với anh của hiện tại, cũng chỉ là chuyện đã xảy ra trong một kiếp, giống như mình đang xem câu chuyện của người khác vậy.

Nhưng anh cũng thực sự thổn thức vì câu chuyện này. Từ đầu chí cuối, anh của kiếp trước đều không biết tên cô ấy, còn thiếu nữ cũng không biết đã từng có một người coi nàng là ánh sáng duy nhất trong cuộc đời. Điều này cũng trực tiếp dẫn đến bao năm nay, trong những giấc mơ không ngừng lặp đi lặp những cảnh tượng của kiếp trước, ngay cả một số chi tiết cũng đều nhớ đến rõ ràng, thậm chí kỹ thuật điêu khắc ngọc của kiếp trước cũng luyện thành trong thời gian mấy tháng. Điều này rõ ràng… giống như bị cưỡng ép chịu đựng một mảnh đời khác.

Sau khi vừa mới thôi việc và làm thay (chủ tiệm) ở Á Xá, anh cố ý đi tìm đại sư hỏi, rõ ràng khi bác sĩ tìm lại ký ức kiếp trước thì không như vậy, còn anh tại sao lại như thế này?

Đại sư sờ sờ cái đầu trọc lốc nhẵn bóng của ông, giải thích rằng vì bác sĩ chuyển thế với hồn phách không đầy đủ, cho nên không chỉ là mỗi lần chuyển thế đều sống không quá 12 tuổi, có khóa Trường Mệnh bảo vệ cũng chỉ có thể sống đến 24 tuổi, mỗi lần đầu thai đều là vận rủi liên miên, không chỉ là nhà tan cửa nát người chết thì cũng là vắn số đoản mệnh, nói theo cách nói thịnh hành giờ thì đó chính là sao chổi chuyển thế. Tình hình như thế thì tự nhiên sẽ không bị những oán niệm của kiếp trước bám lấy, khi nhìn thấy cảnh tượng của kiếp trước, cũng chỉ hời hợt như khói mây trôi qua mắt mà thôi.

Còn Lục Tử Cương nhớ lại kiếp trước như thế này, thực sự là oán niệm của kiếp trước cực kỳ mạnh, rất khó giải thoát. Lục Tử Cương thừa nhận điều đó đúng, vì anh đã từng nhìn thấy rất nhiều ví dụ, ví dụ như gã họa sĩ mỗi ngày đến Á Xá để vẽ một bức tranh như ngày hôm trước, như gã trạch nam yêu làm vườn mở một tiệm hoa bên góc phố, như đôi tình nhân sinh viên thỉnh thoảng lại đến Á Xá ngồi… Anh không biết còn có bao nhiêu người nhớ lại kiếp trước giống như anh, nhưng anh biết, nếu cho gã họa sĩ đó một cơ hội quay về quá khứ, hắn nhất định sẽ trực tiếp trao ngôi báu cho một người phù hợp, chứ không còn tham luyến ngai vàng cô độc lạnh lẽo đó nữa.

Nhưng tình hình của chính anh lại không giống với những người khác, thiếu nữ đằng sau lưng này kỳ thực là một lần chuyển thế của Phù Tô, vì hồn phách không đầy đủ, cho nên căn bản sẽ không có ký ức của chuyển thế. Cũng có nghĩa là, anh của kiếp trước chỉ có thể có một kiếp này mà thôi, nếu không thể viên mãn, thì chỉ có thể oán hận đến hết đời. Không thể giống như gã trạch nam mở cửa hàng hoa tìm lại người yêu của mình trong kiếp này.

Vì thế khi có la bàn Lạc Thư Cửu Tinh trong tay, một ý nghĩ không thể kiềm chế nổi đã từ từ sinh sôi trong lòng anh.


Kiếp trước của anh chỉ là một thợ ngọc, người anh yêu cũng chỉ là một trù nương bé nhỏ, sự sinh tồn hoặc tử vong của hai người, căn bản không thể thay đổi đến đường đi của bánh xe lịch sử. Tại sao anh không thể làm chút gì đó?

Lục Tử Cương của kiếp trước và thiếu nữ ngẫu nhiên gặp lại nhau ở Niễn Ngọc Tác, vì khối ngọc trước ngực cô ấy nên nhận ra bạn thanh mai trúc mã hồi nhỏ, bèn yêu cầu mang khối ngọc đi để chạm trổ. Có lẽ là trùng hợp, một khi ngọc rời người, thiếu nữ liền gặp phải cung biến năm Nhâm Dần tối hôm đó, vì liên lụy nên bị xử trảm.

Nếu như Lục Tử cương đem khóa Trường Mệnh trên cổ trả lại cho thiếu nữ này, thì liệu có đảm bảo cho nàng có thể sống bình an thêm mấy năm nữa không?

Nhưng những thứ tương đồng giữa hai người chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian ngắn, nếu chỉ là khoảnh khắc thì còn không gây nhiễu loạn gì, thời gian dài ngộ nhỡ xảy ra loạn thì biết làm thế nào? Lục Tử Cương không dám khinh suất hành động. Anh chỉ muốn ngăn cản thiếu nữ bị cuốn vào vòng xoáy cung biến Nhâm Dần kinh động triều dã đó, nếu có thể thuận tiện làm mối cho cô và anh của kiếp trước, thì há chẳng phải có thể xua tan những oán niệm vẫn luôn đeo bám trong trí óc anh sao?

Dẫu sao họ cũng chỉ là những nhân vật nhỏ trong lịch sử, chẳng phải vậy sao?

Cho nên anh khắc đôi vòng ngọc đó, muốn tìm cơ hội tặng cho thiếu nữ.

Vòng ngọc ở thời cổ đại, tương đương với nhẫn trng thời hiện đại. Thời Hán cổ “Định tình thi” viết rằng: “Hà dĩ chí khiết thoát, nhiễu oản song khiêu thoát” (Lấy gì để thể hiện tình cảm thắm thiết giữa hai ta, đeo một đôi vòng ngọc trên cổ tay). Trong đó hai chữ “khiết thoát” trích từ “Thi kinh”: “Sinh tử khiết thoát, dữ tử thành thuyết. Chấp tử chi thủ, dữ tử giai lão”, mà “khiêu thoát” có nghĩa là vòng tay, là tín vật các cặp tình nhân tặng nhau lúc hẹn ước.

(Trích bài thơ “Kích cổ”, Tạ Quang Phát dịch: “Lúc tử sinh hay khi cách biệt, Chẳng bỏ nhau lời quyết thệ rồi. cầm tay nàng hẹn mấy lời, “Sống bên nhau mãi đến hồi già nua”)

Anh của kiếp trước chỉ cần nhìn thấy kỹ thuật chạm khắc và dòng lạc khoản này thì sẽ biết được là do ai khắc. Có lẽ tuy không biết tại sao trên đời này lại có một bản thân thứ hai, nhưng anh của kiếp trước vẫn luôn trông coi tiệm Á Xá, có gì quý hiếm cổ quái mà chưa từng thấy đâu, tự nhiên cũng sẽ đoán ra thôi. Lục Tử Cương ấn ấn chiếc hộp gấm trong lòng, tâm tình hơi ổn, anh cũng ngăn cản thiếu nữ quay về cung làm việc, thế thì hiện tại chỉ cần tìm cơ hội đem đôi vòng ngọc này tặng cho nàng là đại công cáo thành rồi.

Trong lúc suy tư, Lục Tử Cương phát giác họ đã đi xuyên qua ngõ rất lâu rồi. Kinh thành xưa nay vẫn có cách nói đông giàu tây quý nam nghèo bắc hèn, phía Đông của hoàng thành thường là chỗ ở của thương nhân, phú quý ngút trời. Mà bách quan để tiện cho việc được tuyên triệu, thường tụ tập ở khu phía Tây thành. Phía Nam nghèo tức là từ Thiên Kiều ở Tiền Môn Ngoại cho đến Vĩnh Định Môn đều là nơi tụ tập của bách tính bình dân tam giáo cửu lưu, mà vùng từ Chung Cổ Lâu kéo sang phía Bắc cho đến Đức Thắng Môn đều là nơi ở của thân quyến của cung nữ và thái giám, những người này luôn bị người khác coi thường, vì thế mới gọi là bắc hèn. Lục Tử Cương biết hiện bọn họ đang ở khu vực phía Tây, đã đi vào chỗ nơi nơi đều là phủ đệ của quan cao, đâu đâu cũng là thâm trạch đại viện, cho dù có tửu lâu thì xem ra cũng cực kỳ cao cấp, có lẽ đến tiền thưởng cho tiểu nhị của quán họ cũng chẳng trả nổi.

Hạ Trạch Lan giới thiệu bản thân một cách đơn giản, Lục Tử Cương chí ít cũng biết họ của nàng rồi, nhưng khuê danh thì không tiện hỏi quá kỹ càng. Ở thời cổ đại, khi thực hiện tam thư lục lễ trước lúc đính hôn mới có thể hỏi đến tên tuổi, còn anh chỉ là một người đàn ông bên ngoài ngẫu nhiên gặp gỡ, đối phương chịu nể tình mời anh ăn một bữa cơm là đã không phù hợp với lễ giáo rồi.

(Tam thư là: sính thư, lễ thư và nghênh thư. Lục lễ là toàn bộ quá trình từ cầu hôn đến lúc kết hôn)

May mà ở triều Minh tuy quản chế với nữ giới rất nghiêm, cũng chỉ giới hạn trong phạm vi các tiểu thư phu nhân của các gia tộc lớn, còn nữ giới của bình dân bách tính cũng phải vì kiếm sống mà xuất đầu lộ diện. Cho nên Lục Tử Cương và Hạ Trạch Lan gần như không sóng vai với nhau đi trên đường, cũng không gây nên sự chú ý của quá nhiều người.

Hạ Trạch Lan sau khi xóa bỏ nỗi thẹn thùng lúc đầu bèn bắt đầu giới thiệu phong cảnh kinh thành dọc đường, vì nàng biết anh chàng thợ ngọc trẻ tuổi bên cạnh mình vừa tới kinh thành chưa lâu.

Có người làm hướng dẫn viên, Lục Tử Cương cầu còn chẳng được, nhưng anh nghe mà cảm thấy có gì đó sai sai.

“Ai da, món chân giò lợn hầm tương của Thiên Phúc Trai làm quá ngấy và rất mặn, chắc chắn sẽ không hợp với khẩu vị người miền Nam chúng ta”.

“Bánh nướng ngọt nhà này làm cũng khá, nhưng buổi sáng ra đến ăn thì khá ngon, còn buổi tối ăn bình thường”.

“Món vịt quay của Hồng Phong lâu ngon, nhưng phải đặt trước một ngày mới được, hôm nay chắc chắn không kịp rồi”.

“Món lẩu dê của Thái Đức Phúc cũng tạm, nhưng vị tanh vẫn còn nồng lắm, muội sợ huynh không quen”.

Suốt dọc đường đi Lục Tử Cương toàn nghe Hạ Trạch Lan lải nhải đánh giá những quán ăn ven đường, cuối cùng cũng nghe ra, đây tuyệt đối chính là cùng ngành thì hay chê nhau… Hạ Trạch Lan vừa nói lại vừa cân nhắc trong lòng. Thỉnh thoảng nàng lén liếc khuôn mặt nghiêng khôi ngô sáng sủa của anh chàng thợ ngọc trẻ tuổi, bỗng nhớ ra tin đồn nghe được bên chỗ Lý công công trước đó. Nghe nói anh chàng thợ ngọc mới đến từ Tô Châu này, tuy đã hơn hai mươi tuổi, nhưng không có gia quyến đi cùng.

Không có gia quyến, lẽ nào là chưa lấy vợ?

Hạ Trạch Lan theo thói quen đưa tay lên sờ sờ khối ngọc ở cổ qua lần áo, trên tay lại trống rỗng, mới nhớ ra mình đã đưa khối ngọc cho người trước mắt để chạm khắc. Lại đưa tay sờ túi thơm giắt ở eo, Hạ Trạch Lan cắn răng nặn ra một nụ cười: “Lục đại ca, để thể hiện thành ý, muội mời huynh về nhà ăn cơm nhé!”.

Lục Tử Cương sửng sốt vì được ưu ái, quả thực không biết con đường này đi như thế nào, cho đến khi anh đứng bên ngoài một quán ăn nhỏ đắt khách, rồi lại nhìn trái nhìn phải.

Chà… nếu như anh không nhớ nhầm, hơn năm trăm năm sau, chỗ này mở một cửa hàng KFC…

Mười năm trước Hạ Trạch Lan cùng cha mẹ vào kinh, khi đó tình cảnh gia đình nàng vẫn còn khấm khá, cha mẹ dùng tiền tích lũy mở một quán ăn nhỏ ở gần Tiền Môn, chủ yếu kinh doanh đồ ăn Tô Châu và đồ ăn Hoài Dương. Vì tay nghề chính thống, đồ ăn vừa ngon vừa rẻ nên cũng có chút tiếng tăm. Đáng tiếc cảnh đẹp chẳng dài lâu, cha nàng vì làm việc vất vả sinh bệnh nên đã sớm qua đời, mẹ nàng cũng bị đau buồn quá độ nên rời khỏi nhân gian, chỉ còn lại mình Hạ Trạch Lan trên đời.

Hạ Trạch Lan vốn nên làm theo di mệnh của cha mẹ, đưa quan tài về quê rồi ở lại Tô Châu, nhưng họ hàng phần nhiều xa cách, Hạ Trạch Lan cũng không muốn bị họ sắp đặt lấy mấy đám mù điếc, nên sau khi an táng cha mẹ liền quay trở lại kinh thành. Nàng một mình không quản lý được một quán ăn, nên cho thuê cửa tiệm, còn mình nhờ vào tài nghệ khéo léo mà được triệu vào làm trù nương của Thượng Thiện Giám. Vì song thân đã qua đời, không có ai quản chuyện hôn nhân của nàng, sống một mình tiêu dao tự tại biết bao nhiêu.

Đương nhiên, thường có những bà mối cạnh nhà nhiệt tình đến đàm phán giới thiệu, Hạ Trạch Lan luôn khéo léo từ chối, dẫu sao thì nàng một thân một mình ở kinh thành, không người thân thích, những bà cô đó thì có thể giới thiệu được mối gì tốt cho nàng chứ? Thà rằng ít mà chất, cho dù cả đời không lấy chồng thì cũng chẳng có gì không tốt, đây chính là điều mà Hạ Trạch Lan đã hạ quyết tâm từ lâu.

Chỉ là, hiện tại quyết tâm này, cũng có hơi hơi lung lay rồi.

Hạ Trạch Lan mặt không đổi sắc dẫn Lục Tử Cương đi vào quán ăn nhỏ mà nàng đã cho thuê, vì sắp tới giờ ăn tối, nên lượng khách khá nhiều, họ đi vào cũng không có mấy người để ý tới.


Lục Tử Cương theo nàng đi qua phòng ăn rồi vòng qua bếp một cách quen đường thuộc lối, sau đó lại đi vào một tiểu viện chật hẹp. Tiểu viện này chất đầy rau dưa đã phơi khô, rồi nấm hương, cà rốt xắt sợi và cải thảo đã cắt xếp thành chồng, còn có những xâu ngô màu vàng óng treo rủ xuống, hòa trộn thành một mùi thơm ấm tràn tới.

Hạ Trạch Lan thấy ánh mắt Lục Tử Cương hướng đến ngô, liền vội vàng giải thích: “Đây là “ngọc thục thử”, từ nước ngoài nhập về, nghe nói rất dễ bảo quản, rất nhiều người kiếm ăn trên biển đều thích ăn thứ này. Đây là loại thực vật vừa dễ trồng lại có sản lượng cao, gần đây kinh thành cũng rất ưa chuộng, lúc nhàn rỗi muội cũng nghiên cứu một số món ăn mới từ “ngọc thục thử””.

Lục Tử Cương nghe mà sững người, mới nhớ ra ngô có nguồn gốc từ châu Trung Mỹ, là loại lương thực chủ yếu của người Ấn Độ, khi Colombo phát hiện ra đại lục châu Mỹ, rồi du nhập vào Trung Quốc trong những năm Gia Tĩnh, nhưng phải đến thời kỳ triều Thanh nó mới được trồng trên phạm vi rộng. Chính vì thời gian sinh trưởng của ngô và lúa mì vụ đông giao nhau, nên khu vực miền bắc phụ cận lưu vực sông Hoàng Hà, có thể trồng xen canh gối vụ với lúa mì vụ đông, đạt được một năm hai vụ, trở thành lương thực chủ yếu của dân số tầng lớp dưới, đây cũng là một trong những nguyên nhân chủ yếu mà dân số Trung Quốc mau chóng tăng trưởng sau thế kỷ XVIII. Cho nên, ngô còn được người trên thế giới gọi là một loại cốc ngoài ngũ cốc, có thể thấy được tầm quan trọng của nó.

Nghĩ đến đây, Lục Tử Cương không kìm được nói: “Ngô luộc chín rồi ăn hoặc là chiên lên ăn cũng rất ngon, hầm canh thịt hoặc cán thành mì ngô, tách hạt xào rau, hoặc là thêm dầu và bột mì làm thành bánh ngô rán cũng rất ngon”.

“Hả?” Hạ Trạch Lan mời Lục Tử Cương về để làm cơm cho anh ăn, cũng là có ý để anh nếm thử loại ngọc thục thử quý hiếm này, kết quả đối phương lại còn am hiểu hơn cả nàng. Hạ Trạch Lan sau khi nản chí thì lại phấn chấn lại, hỏi cặn kẽ làm bánh ngô như thế nào, liền chọn hai bắp ngô rồi chui vào gian bếp nhỏ trong tiểu viện.

Lục Tử Cương cũng không bước vào trong nhà, mà đứng ở bên ngoài, giúp Hạ Trạch Lan làm một số việc vặt theo chỉ thị của nàng, như xách nước, lựa rau… Căn bếp nhỏ của Hạ Trạch Lan tuy có nhỏ hơn bếp của Niễn Ngọc Tác rất nhiều nhưng đồ dùng đều đầy đủ, trong đó chum vò rất nhiều, rõ ràng đều là của cải riêng tư của Hạ Trạch Lan.

Lục Tử Cương chưa từng biết nấu nướng lại cổ trình tự công đoạn rắc rối như thế, vì nhà bếp hiện đại đều là máy móc tự động hoặc là bán tự động, lúc này tận mắt chứng kiến cách nấu nướng của thời cổ, mới cảm thấy thần kỳ vô cùng. Đến lúc nấu cơm phải cho bao nhiêu củi cũng cần phải cẩn thận tỉ mỉ, bóng dáng thướt tha bận rộn trong nhà bếp đó, lại càng giống như đang chế tác một tác phẩm nghệ thuật, nhất cử nhất động đều tràn đầy sức hút khiến người ta không thể rời mắt, và mùi thơm nức mũi tỏa ra bốn phía càng khiến người ta vĩnh viễn khó quên.

Hai người kê một chiếc bàn tròn ở trong sân, đợi đến khi sắc trời hơi tối hẳn mới bày lên một bàn ăn khá là phong phú.

Bốn con cua sông đã được hấp chín đỏ au, sườn ngũ vị sốt cay, bánh ngô vàng ruộm giòn tan, lươn sốt tương đen, còn có một nồi đất hầm thịt cua viên hầm cách thủy, màu sắc hương vị đều đầy đủ, khiến người ta thèm rỏ dãi. Lục Tử Cương giúp nàng sắp bát đũa xong, liền ngồi ngay ngắn trước bàn ăn chịu đựng giày vò, lúc này anh mới nhớ ra mình đã vì căng thẳng trước lúc quay về quá khứ nên hôm nay chưa ăn tí gì vào bụng.

Hạ Trạch Lan rửa sạch tay, đi vào nhà thay bộ y phục đầy dầu mỡ ra, khi trở ra đã thay một bộ váy xanh lục, lại khoác ngoài một cái áo khoác bối tử tay rộng màu vàng phơn phớt, chỉ điểm xuyết một dải hoa đào màu hồng phớt ở trên vạt áo để trang trí, và cổ áo chạy thẳng xuống vạt áo, càng tôn lên vóc dáng thanh tú và gương mặt xinh đẹp của nàng, làn da không chút son phấn kiều diễm như hoa đào hoa mận, Lục Tử Cương nhất thời nhìn ngơ ngẩn.

Có một khoảnh khắc như thế, Lục Tử Cương bỗng hơi đố kỵ với bản thân của kiếp trước.

Xinh đẹp, dịu dàng, phóng khoáng, nấu ăn ngon. Một cô bạn gái như thế này ai mà chẳng muốn có! Thật sự là ra được phòng khách, vào được nhà bếp, vợ chồng hòa thuận.

Hạ Trạch Lan cũng chú ý tới ánh mắt nóng bỏng của anh chàng thợ ngọc trẻ tuổi, bước chân nàng hơi ngừng lại trong giây lát, rồi hạ thấp rèm mi, đặt một vò rượu nhỏ trong lòng xuống mặt chiếc bàn tròn. Khi ngẩng đầu lên đã lấy lại nụ cười mỉm mọi khi, chỉ là trên gò má mang theo sắc ửng hồng. “Đây là một vò rượu hoa quế muội xin từ chỗ Ngự Trà Phòng về, vừa khéo lại rất hợp với lúc ăn món cua viên này. Những người ở kinh thành này không thích ăn cua, chỗ này là bốn con cua đực của quán cơm phía trước bớt lại, bây giờ ăn là lúc vừa béo nhất, đúng là hời cho huynh rồi đấy”.

Lục Tử Cương biết đây chỉ là những lời khách sáo của Hạ Trạch Lan, cua sông tháng Mười, chính là lúc đắt nhất trong một năm, bốn con cua này, một con cũng to hơn nắm đấm của một người đàn ông trưởng thành, giá tiền một con cũng còn đắt hơn cả những món ăn khác trên bàn này. Anh cũng không hỏi nhiều làm gì, cầm lấy vò rượu đó, mở lớp bùn niêm phong trên miệng vò ra, một mùi rượu thơm nồng lay động tâm can mau chóng bay khắp tiểu viện.

Rượu rót vào chén sứ trắng hiện rõ màu hổ phách, uống vào miệng có ví êm êm tươi mới, ngọt ngào mà thanh khiết, còn lẫn cả hương hoa quế, thơm nồng đến tận môi răng. Tuy ủ rượu là công việc của Lương Uấn Thử, nhưng Ngự Trà Phòng cũng quản cả trà rượu để dâng lên vua và dùng ban thưởng, vò rượu hoa quế nhỏ này cũng là do Hạ Trạch Lan may mắn giữ lại được. Nàng lại không phải là người thích uống rượu, cho nên mới giữ được đến tận bây giờ.

Nhìn biểu cảm tán thưởng một cách không chút giấu giếm và động tác nâng đũa như bay của chàng thợ ngọc trẻ tuổi, trái tim đầu bếp của Hạ Trạch Lan đã vui vẻ thực sự. Bữa cơm tối này của nàng tuy nhìn thì đơn giản, nhưng dầu thơm, tương ngọt, chao, xì dầu, dấm… sử dụng để nấu đều là tự tay nàng khéo léo chế ra, không kém gì đồ ngự dụng của Chưởng Hải Thử trong cung, những món ăn nấu ra cũng ngon hơn bình thường rất nhiều. Ví dụ như đĩa cua hấp kia, hước đó nàng vẫn luôn dùng vải ướt thấm đẫm rượu nếp rồi phủ lên, lại nuôi chúng mấy ngày, để cua xả hết những chất cặn bã trong cơ thể ra, vốn định để mỗi ngày ăn một con, kết quả lại gặp phải gã oan gia này, nên đành xử lý một thể. Trong lồng hấp còn lót lá sen và lá tía tô, trong bụng cua còn nhét ít hạt tiêu để khử tanh, lại thả thêm mấy bông hoa cúc cánh kim màu trắng vào lồng hấp, chỗ cua hấp hoa cúc này ở Hồng Phong lâu có thể bán đến ba lạng bạc trắng.

“Đắt đỏ như thế này, đúng là khiến cô nương phá sản rồi”.

Hạ Trạch Lan sững người một lát, sau đó hận bản thân không thể chui ngay xuống gầm bàn, không ngờ nàng lại vô tình nói ra suy nghĩ của mình. Nàng vội vàng lấp liếm nói: “Lục đại ca, huynh đừng bận tâm, huynh giúp muội chạm khắc miếng ngọc đó, muội không trả nổi tiền công cho huynh, đành làm bữa cơm này để bày tỏ tâm ý”.

Vào đầu thời Minh, sức mua của bạc vẫn còn khá mạnh, đến giữa thời Minh, một lạng bạc trắng đại khái có thể tương đương với hơn sáu trăm nhân dân tệ của thời hiện đại. Ba lạng bạc cũng gần bằng hai nghìn tệ rồi, đúng là đắt đỏ. Có điều thời cổ giao thông không thuận tiện, cua sông của sông Trường Giang vận chuyển đến kinh thành thực sự chẳng dễ dàng gì. Lục Tử Cương vừa sợ đến líu lưỡi vừa cảm thấy hôm nay mình đúng là có phúc ăn uống, anh dùng tay cầm một con cua thả vào đĩa của Hạ Trạch Lan, cười nói: “Đã nói khắc khối ngọc đó cho cô nương là để đền đáp bữa cơm rang của mười năm trước, bữa này là tại hạ đề nghị mời trước, thực sự thật xấu hổ vì đã để cô nương phải bận rộn rồi”.

Hạ Trạch Lan mím mím môi, trong lòng nhen nhóm một nỗi mong chờ, liệu sau đây người ta còn mời nàng đi ăn một bữa không? Có qua có lại như thế này… nhưng nàng lại thấy chàng thợ ngọc trẻ tuổi dùng chiếc khăn bên cạnh lau sạch tay, rồi lấy một chiếc hộp gấm trong người ra một cách nâng niu trân trọng, đặt trước mặt nàng.

“Hạ cô nương, đây là quà tạ lễ bữa cơm này của tại hạ, nhưng hãy đợi tại hạ ra về rồi mới mở ra được không?”. Lục Tử Cương nói cực kỳ nghiêm túc.

Hạ Trạch Lan ngước lên đón ánh mắt thâm trầm của anh, trái tim nhảy nhót uỳnh uỳnh trong lồng ngực, chỉ có thể gật đầu đồng ý.

Cứ nói cười như thế, khoảng cách giữa hai người tan chảy như băng tuyết, nhanh chóng phá vỡ luật lệ không nói chuyện khi ăn uống, vừa ăn uống vừa nói chuyện rôm rả. Hạ Trạch Lan rời khỏi Tô Châu đã nhiều năm, tự nhiên cũng mong biết thêm những chuyện về Tô Châu. Cồn Lục Tử Cương tuy không phải là hàng chính hiệu, nhưng do ký ức về kiếp trước của anh còn rõ mồn một trong lòng, nên trả lời những câu hỏi của Hạ Trạch Lan mà không có chút sơ hở nào, và vì trên thực tế anh cũng là người học rộng đa tài, nói năng đều xuất chúng hơn người bình thường, nên lại càng giống người đọc sách mà Hạ Trạch Lan ngưỡng mộ, càng khiến anh trở nên đẹp hơn trong mắt nàng.

Đợi đến khi sắc trời đã tối hoàn toàn, Hạ Trạch Lan châm thêm một ngọn đèn dầu trên chiếc bàn vuông, quán ăn ồn ào tiếng người bên ngoài tường bao của tiểu viện lại càng lại nổi bật sự tĩnh mịch vắng vẻ bên trong tiểu viện, Lục Tử Cương bỗng nhớ đến một vấn đề cấp bách.

Lúc trước anh đã từng lén nhìn tốc độ di chuyển của kim la bàn, tính toán đợi đến lúc kim chỉ quay về đường chữ thập Thiên Đạo chí ít cũng phải đợi đến lúc trời sáng, thế thì buổi tối hôm nay anh ngủ ở đâu?

Trên người không có lấy một quan tiền, không đến ở khách điếm được, lại chẳng có mặt mũi nào mà mượn tiền của Hạ Trạch Lan. Sau khi ăn một bữa toàn sơn hào hải vị cao cấp xong, anh càng không muốn ngủ trên hè phố. Lục Tử Cương suy nghĩ một hồi lâu, cuối cùng quyết định không cần thể diện một lần, uống rượu giả say.

Hạ Trạch Lan khóc dở mếu dở nhìn Lục Tử Cương liên tiếp không ngừng uống rượu hoa quế, cuối cùng sức người không thắng nổi sức rượu đã nằm nhoài ra bàn rồi ngủ mất. Nàng sao lại quên mất không dặn anh ta là rượu hoa quế này rất nặng chứ? Nàng đành thu dọn sạch sẽ một bàn ngổn ngang, sau đó miệng gọi Lục đại ca, Hạ Trạch Lan thử đưa tay lay lay đối phương, nhưng không hề có động tĩnh.

Ánh mắt rơi xuống chiếc hộp gấm còn sót lại trên mặt bàn, Hạ Trạch Lan cắn môi chần chừ một lát, sau cùng vẫn không kìm nổi đưa tay ra cầm lấy. Vào khoảnh khắc mở chiếc hộp gấm đó ra, Hạ Trạch Lan thở hắt ra một hơi lạnh. Cho dù ánh đèn vàng vọt, nàng cũng có thể nhìn ra đôi vòng đó được chạm khắc tinh xảo khéo léo như thế nào, hơn nữa một cặp vòng ngọc chạm rỗng đặt cạnh nhau, còn có ý nghĩa là nguyện làm cây liền cành. Cho dù là một kẻ ngốc, cũng có thể hiểu được tình ý mà đối phương khéo léo gửi gắm trong đó.

Không nén nổi cầm một chiếc vòng ngọc đeo thử vào tay, Hạ Trạch Lan nhìn rõ dấu lạc khoản Tử Cương bên trong vòng, hai má đỏ lựng lên một cách không tự chủ nổi, lẩm nhẩm tự nói: “Tử Cương… Lục Tử Cương…”.

4

Lục Tử Cương bị những âm thanh hỗn tạp đánh thức, anh mơ hồ giây lát, mới phát hiện mình vốn định giả vờ say, kết quả lại là thật sự nằm nhoài ra bàn rồi ngủ trong tiểu viện. Khi anh đứng dậy, chiếc chăn dày khoác trên vai trượt xuống, gió thu đêm khuya lập tức khiến đầu óc đang còn hỗn độn của anh tỉnh táo trở lại.

Sắc trời tăm tối, chẳng có nổi một ánh sao le lói, chỉ có một ngọn đèn dầu đang chiếu sáng trên mặt bàn không ngừng nhảy nhót bất an trong cơn gió thu. Lục Tử Cương nghe thấy tiếng vó ngựa phi nhanh bên ngoài đường phố, không kìm được thấp thỏm trong lòng. Ước chừng giờ đã quá nửa đêm rồi, cung biến Nhâm Dần có lẽ đã kết thúc, những cung nữ ám sát hoàng đế Gia Tĩnh đó chắc chắn đã bị bắt cả, lẽ nào còn liên lụy đến người vô tội?

Lục Tử Cương bỗng nhớ ra, kiếp trước của anh tuy không biết tên thực sự của Hạ Trạch Lan, nhưng gã chủ tiệm từng nói với anh, trên tờ danh sách dán ở cổng hoàng thành đó, có tên của thiếu nữ.

Sắc mặt trắng bệch nhớ lại cảnh tượng của kiếp trước, cho dù trang giấy đó không thường xuyên xuất hiện trong hồi ức, nhưng Lục Tử Cương vẫn tìm ra nó trong sâu thẳm ký ức.

Quả thực là có một cái tên mang họ Hạ.

Khi đó, Hạ Trạch Lan chạm vào chiếc vòng ngọc tinh xảo trong hộp gấm, cũng chưa ngủ ngay. Nàng biết mình giữ chàng thợ ngọc trẻ tuổi đó ở lại qua đêm, chắc chắn sẽ bị những người nhìn thấy phỉ nhổ.


Nhưng thế thì đã sao? Chàng tặng cho nàng đôi vòng ngọc này, nàng cũng thích chàng, giữ lễ hay không, chỉ là chuyện giữa hai người, có liên quan gì đến người khác.

Chỉ là nàng thực sự không thể không biết đến liêm sỉ mà dìu chàng vào trong nhà nghỉ ngơi, chỉ có thể đắp cho chàng một chiếc chăn thật dày, rồi ngồi trong bóng tối suy nghĩ kỹ càng. Lúc đó nghe thấy động tĩnh trong sân, nàng bèn khoác áo bước ra ngoài, cúi đầu thẹn thùng muốn giải thích mình không đánh thức chàng dậy.

Nhưng trước khi nàng mở miệng, người đó đã xông đến trước mặt nàng, ấn chặt hai vai nàng, khẩn thiết hỏi: “Hạ cô nương, có phải cô nương tên là Hạ Trạch Lan không?”.

Hạ Trạch Lan cho rằng Lục Tử Cương biết được khuê danh của nàng từ chỗ chủ tiệm Á Xá, nhất thời lại càng thẹn thùng, trong lòng bối rối, chỉ có thể gật đầu loạn xị. Không ngờ, ngay sau đó tay nàng liền bị đối phương tóm, kéo đi ra ngoài tiểu viện. Hạ Trạch Lan kinh hoảng âm thầm kêu gào trong lòng, bấy giờ nàng cũng phát giác ra có nhiều thứ rất lạ, buổi tối kinh thành vẫn luôn yên tĩnh như chết chóc, chỉ những khi xảy ra chuyện lớn mới có thể vó ngựa vang liên hồi, mà khi họ vừa ra khỏi cổng của hậu viện, liền nghe thấy có người hô vang “Cẩm y vệ làm việc, người không phận sự tránh ra!”, giọng nói từ quán ăn phía trước truyền tới.

Khi Hạ Trạch Lan nghe thấy giọng nói đó, toàn thân lạnh toát. Cẩm y vệ trong dân gian có nghĩa là địa ngục, hơn nữa nàng nhìn thấy thái độ như sắp gặp đại địch của Lục Tử Cương, liền biết đám cẩm y vệ đó tới vì nàng. Môi run run nàng hỏi mà không dám tin: “Xảy ra chuyện gì vậy?”.

Lục Tử Cương vừa chật vật phân biệt đường đi trong bóng tối, vừa khẽ chửi. Cung biến Nhâm Dần là do mấy cung nữ không chịu nổi sự chuyên quyền của hoàng đế Gia Tĩnh, bèn phản kháng, kết quả là không giết chết được hoàng đế Gia Tĩnh, mà còn gặp rắc rối lớn. Hiện tại sự việc cung biến đã xảy ra, chắc chắn hoàng đế Gia Tĩnh đang nổi cơn lôi đình, đương nhiên sẽ điều tra triệt để toàn bộ cung nhân ở cung Đoan phi, Hạ Trạch Lan vốn phải trực ban thì lại không có ở đó, có người khác thay thế, đã bị hoàng đế Gia Tĩnh đang là con chim sợ cong, nghi thần nghi quỷ hạ lệnh bắt giữ.

Làm sao bây giờ? Thủ vệ ở kinh thành dày đặc, cẩm y vệ thì nhan nhản khắp nơi, cho dù Lục Tử Cương có dẫn được Hạ Trạch Lan chạy đến Á Xá tìm chủ tiệm, sau đó e rằng cũng không có cách gì bảo vệ nàng được. Mà chủ tiệm có lẽ đã quen với việc Phù Tô mỗi kiếp đều phải chết vì các loại tai nạn bất ngờ, giống như lúc Hạ Trạch Lan còn nhỏ trao cho nàng miếng ngọc là khoanh tay không quản nữa, hiện tại chắc chắn cũng không nhìn ngó thêm gì.

Dường như nghe thấy tiếng bước chân phía sau lưng, cẩm y vệ chỉ cần xông vào gian tiểu viện đó, là sẽ biết họ vừa mới chạy đi không được bao lâu, tấm chăn anh khoác trước đó vẫn còn hơi ấm. Lục Tử Cương hoang mang nhìn thế giới hơn năm trăm năm trước, một cảm giác bất lực từ tim anh tràn ra, khiến việc hít thở anh cũng thấy nặng nề.

“Lục đại ca… huynh chạy trước đi…”. Hạ Trạch Lan thở hổn hển nhỏ giọng nói. Nàng băng tuyết thông minh, biết chắc chắn trong cung xảy ra chuyện, người cẩm y vệ tìm chắc chắn là nàng, chứ không phải Lục Tử Cương vừa mới vào kinh thành. Hạ Trạch Lan cảm thấy người trước mặt dừng bước chân, không khỏi cảm thấy thê lương.

Cũng phải thôi, kiếp này bọn họ vốn dĩ là có duyên mà không có phận.

Hạ Trạch Lan nghĩ một chút, rồi đưa chiếc hộp gấm vẫn ôm trong lòng ra. May mà tối nay nàng vẫn luôn ôm nó không rời tay cho nên mới có thể đem đi cùng. “Lục đại ca, đôi vòng này… vẫn là nên trả lại huynh…” Trong giọng nói của nàng mang theo sự luyến tiếc cực độ, nàng vô cùng thích đôi vòng chạm khắc tinh xảo này, càng thích hơn nữa tình ý hàm chứa của đôi vòng ngọc này.

“Hà dĩ chí khiết khoát, nhiễu oản song khiêu thoát”.

Nhưng phút này giây này, nàng không thể không cứng rắn, chỉ có thể thầm than tạo hóa trêu ngươi.

Cảm thấy chiếc hộp gấm đã được người ta cầm lấy, Hạ Trạch Lan cúi đầu, không muốn bị đối phương nhìn thấy vẻ mặt sắp khóc của mình, nhưng phút sau đó nàng lại phát hiện hai bàn tay của mình bị người ấy nắm chặt lấy.

Lục Tử Cương lấy đôi vòng ngọc đó từ trong hộp gấm ra, động tác nhanh nhẹn, đeo lên hai cổ tay của nàng, trên cổ tay nhỏ nhắn trắng nõn nà đeo lên đôi vòng ngọc chạm rỗng cây dải đồng, càng làm nổi bật đôi bàn tay không được coi là mềm mại non tơ đó, nâng niu như châu báu.

“Hà dĩ chí khiết khoát, nhiễu oản song khiêu thoát…”

Nhìn đôi mắt kinh ngạc sửng sốt của Hạ Trạch Lan đang nhìn mình, Lục Tử Cương giơ tay lau những giọt nước mắt tràn ra ngoài khóe mi của nàng, thấp giọng hỏi: “Có đồng ý đi cùng huynh không? Rời khỏi nơi này?”

Anh không muốn lịch sử lặp lại lần nữa, anh phải đánh cược một lần.

Hạ Trạch Lan không biết Lục Tử Cương nói vậy có nghĩa gì, nhưng lại vô thức gật đầu. Rõ ràng đã biết tiếng vó ngựa của cấm y vệ đang lao đến sầm sập như sấm giật, nhưng trái tim nàng lại bình tĩnh trở lại, cho dù kết quả như thế nào, đôi vòng ngọc Song Khiêu Thoát này đã san phẳng nỗi không cam tâm trong lòng nàng.

Nàng im lặng nhìn chàng thợ ngọc trẻ tuổi móc ra một chiếc la bàn từ trong lòng, kéo tay nàng ấn lên la bàn, sau đó la bàn phát ra một luồng ánh sáng trắng chói mắt.

5

Tam Thanh và Minh Hồng đang đánh nhau ầm ĩ trong cửa tiệm Á Xá, Minh Hồng không muốn giam mình ở trong căn phòng tối tăm chật chội nữa, bèn mở khóa từ trong Á Xá bay ra ngoài, còn Tam Thanh thì nổi giận đùng đùng. Từ khi Minh Hồng đến đây, nó cảm thấy mình được trời trao cho sứ mệnh lớn lao và gian khổ là cai quản thằng nhãi Minh Hồng này, lúc này thấy Minh Hồng sắp trốn đi, đương nhiên đuổi theo không tha.

Hai con chim lại túm lấy nhau thành một mớ, may mà chúng đều có linh tính và trí tuệ, biết là đồ cổ trong Á Xá có giá trị liên thành lại không dễ chọc giận, cho nên cực kỳ kiềm chế, không làm vỡ hỏng vật gì.

“Binh!”. Một âm thanh lớn đột ngột vang lên, khiến hai con chim đều sợ thót người, vội vàng tách nhau ra, lại thấy Lục Tử Cương đột nhiên xuất hiện trong Á Xá một đầu gối khuỵu xuống đất, chính là tiếng một nắm đấm của anh đấm xuống mặt đất.

Tam Thanh đậu xuống vai Lục Tử Cương, cái đầu nhỏ cọ cọ vào mặt anh như an ủi.

Lục Tử Cương ngồi phịch xuống sàn đất lạnh lẽo, vuốt ve lông vũ mềm mại của Tam Thanh, xoa dịu cảm xúc đau buồn trong tim, rất lâu sau vẫn không có cách nào bình tĩnh trở lại.

La bàn căn bản không có cách nào dẫn Hạ Trạch Lan cùng quay về hiện đại.

Anh không thể tưởng tượng nàng trơ mắt nhìn anh biến mất như thế nào, cơ thể anh biến thành nửa trong suốt, tuy nàng kinh ngạc, nhưng vẫn vui mừng nhìn anh, vì anh có thể trốn thoát mà vui mừng. Còn anh lại không có cách nào cả, cho dù anh có tóm tay nàng như thế nào, cuối cùng cũng chỉ sượt qua cổ tay nàng, đừng nói là hơi ấm bàn tay đó, đến chiếc vòng lạnh giá đó cũng chẳng thể chạm tới được.

Lục Tử Cương cứ thế lặng lẽ ngồi ngây ngốc rất lâu, cho đến khi sắc trời sáng tỏ, ông cụ ở hàng báo sát vách mở đài phát thanh, phát thanh viên giọng chuẩn sang sảng đọc tin tức buổi sớm.

“Ngày hôm qua ở thị trấn Yến Giao Bắc Kinh phát hiện một ngôi mộ cổ triều Minh, khai quật được một số đồ quý, trong đó có một cặp vòng ngọc chạm rỗng hình dải đồng, bên trong có thể thấy lạc khoản Tử Cương rất rõ nét, được các chuyên gia bước đầu nhận định là cặp vòng ngọc hiếm thấy do nghệ nhân chạm ngọc nổi tiếng thời Gia Tĩnh Lục Tử Cương chế tác…”

Lục Tử Cương kinh sợ tỉnh táo trở lại trong cơn mơ màng, vội vã loạng chà loạng choạng đứng dậy, móc điện thoại di động từ trong tủ quầy ra, tìm kiếm thấy một bài báo trên mạng. Khi anh nhìn thấy bức ảnh chụp đôi vòng đó, không khỏi lảo đảo ngồi xuống ghế dựa. Ngoài bị ngả màu do bị chôn trong đất ra, thì từ kiểu dáng đường hoa văn to nhỏ, không có gì khác biệt với đôi vòng ngọc Song Khiêu Thoát mà anh đã đem tặng ngày hôm qua.

Lục Tử Cương ôm đầu khẽ cười một tiếng, không bận tâm đến Tam Thanh đang quan tâm nhảy tới nhảy lui bên cạnh.

Anh không thay đổi lịch sử sao?

Không, ở một mức độ nào đó, vẫn là đã thay đổi.

Chỉ là… đây không phải là sự thay đổi mà anh muốn có…


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.