Đọc truyện Tiệm Đồ Cổ Á Xá – Chương 56: Thanh Trấn Khuê
1
Phù Tô nhìn đăm đăm vào cuốn sách tre trên tay, nhưng tâm trí lại không đặt vào đó.
Hắn một lần nữa ngước lên trông ra phía ngoài cửa điện không chút động tĩnh, cố gắng trấn áp những cảm xúc thăng trầm của bản thân.
Hôm nay, chính là ngày cậu thiếu niên đó đến tấn kiến hắn.
Tuy phụ vương không nói gì, nhưng Phù Tô hiểu rõ, đây là nhân tài mà phụ vương đã chọn lựa kỹ lưỡng, chuẩn bị để dành riêng cho hắn.
Chỉ có điều đã phong cho cậu thiếu niên đó chức Thượng khanh, nhưng chẳng nói chẳng rằng đuổi cậu ta tới đây làm hầu đọc cho hắn, kiểu giày vò lúc nâng lên cao khi hạ xuống thấp như này, khó đảm bảo rằng cậu ta sẽ không oán trách gì.
Phù Tô cúi đầu, vò vò cuộn sách tre trong tay, nhẹ cong môi cười.
Đúng vậy, đây lại là một phép thử của phụ vương, nếu hắn có thể thu phục được cậu thiếu niên này, như vậy hắn sẽ có thêm một cánh tay đắc lực. Nếu không thể thu phục, phụ vương ắt sẽ cho rằng hắn không có năng lực thừa kế ngôi vị. Nếu làm vua, vậy chắc chắn phải có khả năng kiểm soát thần tử, nếu không sao lại được gọi là “vua” cơ chứ?
Phải biết rằng, hoàng đệ luôn chú ý đến hắn.
“Công tử, Cam thượng khanh đến”. Tiếng thông báo trầm ấm của nội thị Cố Tồn truyền vào từ phía ngoài cửa điện.
Trước khi nghe thấy Cố Tồn bẩm báo, Phù Tô không hề nghe thấy tiếng sột soạt của tay áo, chứng tỏ Cố Tồn đã đứng ở ngoài khá lâu, cố tình thông báo chậm trễ.
Hay lắm, không hổ danh là nội thị theo hầu hắn từ nhỏ, hoàn toàn lĩnh hội được tâm ý của hắn. Phù Tô khép hờ mắt, giấu đi nụ cười nơi đáy mắt. Hắn buộc lại cuốn sách tre, kéo tay áo với tay lấy một cây bút lông do Mông tướng quân tặng, chấm một ít mực, nâng cổ tay, viết lên trên thẻ tre.
Không cứng ngắc, rin rít như khi dùng thanh tre chấm dầu đen viết chữ, viết chữ bằng cây bút làm từ lông thỏ này trơn tru như nước chảy, Phù Tô đã dự cảm thấy rằng loại bút lông này sẽ dấy lên làn sóng cải cách mạnh mẽ như thế nào trong lịch sử thư pháp. Bút thể mà hắn hiện dùng, nét chữ đã không còn thô đều một lượt như Triện thể, mà biến hóa uyển chuyển dựa theo thế di chuyển của ngòi bút.
Phù Tô cảm thấy trong lòng thư thái, viết liền vài câu trong thiên “Đại Tông Bá” trích sách “Chu lễ”, chậm rãi nói: “Tuyên”.
“Rõ”. Cố Tốn đứng ngoài cửa điện nghe thấy liền đi.
Không lâu sau, Phù Tô nghe thấy tiếng ngọc bội va vào nhau leng keng vọng vào từ ngoài điện.
Trong thiên “Kinh giải” sách “Lễ ký” có nói: Bước đi ắt có tiếng ngọc bội, lên xe ắt có âm lục lạc. Người quân tử có thân phận phải đeo ngọc bội, nghe tiếng ngọc leng keng ngoài điện vang vọng từ xa đến gần, có thể nghe ra người đang đi không thong thả cũng chẳng vội vã, hiển nhiên không vì phải đợi chờ quá lâu mà có vẻ đang không có bất kỳ chút thiếu kiên nhẫn nào.
Phù Tô ngừng bút, nhưng không vội bỏ xuống, cho dù kẻ đó đã bước vào trong điện, hành lễ vái chào với hắn, hắn cũng không mảy may phản ứng.
Âm thanh trong điện cũng lắng lại theo kẻ mới đến, trở nên tĩnh lặng, ngọc bội không còn vang lên tiếng leng keng, Phù Tô chỉ nghe thấy tiếng thở đều đều của đối phương, hắn điềm tĩnh viết tiếp cuốn sách tre.
Hay lắm, hắn thích nhất là người thông minh.
Mãi đến khi thẻ tre cuối cùng được viết đầy chữ, Phù Tô mới dừng bút, hài lòng ngắm nhìn nét chữ của chính mình, lúc này hắn mới từ từ ngẩng đầu lên.
Hình ảnh cậu thiếu niên đang đứng thẳng trong điện kia phản chiếu lên con mắt của hắn. Nói cậu ta là thiếu niên, kỳ thực vẫn chưa tới tầm ấy, chiều cao chỉ nhỉnh hơn đứa trẻ còn để tóc trái đào một chút, trông ra chỉ tầm tám, chín tuổi. Một thiếu niên còn chưa đến tuổi làm lễ buộc tóc lại khoác trên mình bộ quan phục sang trọng của bậc thượng khanh, khác nào đứa con nít lén mặc trộm quần áo của người lớn, thế nhưng cái mặt non choẹt búng ra sữa kia lại chứa đựng sự điềm tĩnh và kiêu ngạo, thật khiến người khác phải phì cười.
Phù Tô đưa tay vuốt vuốt lông mày, mượn động tác này để che đi nụ cười. Cậu thiếu niên này quả thực có thể kiêu ngạo, mới mười hai tuổi đã một mình đi sứ sang nước Triệu, giúp cho nước Tần không tốn một binh một tốt nào cũng có được đất Hà Gian. Năng lực này, cho dù có tự đề cao bản thân, hắn cũng không dám đảm bảo có thể thực hiện được.
“Ngồi đi”. Phù Tô giơ tay chỉ chỉ vào chiếc án kỷ bên cạnh, cậu thiếu niên hơi cúi người, ngồi xuống không chút phản đối.
“Cam thượng khanh, nhà ngươi có điều gì bất mãn với ta chăng?” Phù Tô nhếch mép nhìn cậu thiếu niên, không hề khách khí hỏi thẳng. Tổ phụ của cậu thiếu niên là Cam Mậu, từng giữ chức Tả thừa tướng nước Tần, nhưng vì bị kẻ khác bài xích mà chạy khỏi Tần, sau chết ở Ngụy. Hắn rất muốn biết, cậu thiếu niên này cổ tình cảm như thế nào đối với nước Tần.
Hắn muốn làm rõ xem cậu thiếu niên này có thể thuần phục được hay không, nếu chỉ là con sói hoang không thể thuần phục, hắn sẽ không phí thời gian dạy dỗ.
“Thần không có gì bất mãn”. Cậu thiếu niên cúi gằm đầu, vô cùng nghiêm túc, điềm tĩnh đáp lại.
“Vậy từ mai trở đi, hàng ngày vào giờ Mão, nhập cung hầu đọc, ngươi có ý kiến gì không?” Phù Tô nói chậm lại, thực ra hắn không hơn cậu thiếu niên này mấy tuổi, sau khi học lớp vỡ lòng, người có ảnh hưởng lớn nhất tới hắn tất nhiên chính là phụ vương, nên dù ở phương diện nào, hắn cũng vô tình hoặc cố ý mô phỏng theo người. Ví dụ như cách nói chậm rãi này, cũng là học từ phụ vương của hắn. Mặc dù giọng nói chưa đủ già dặn, nhưng lại có khí thế áp chế không thể diễn tả đối với người khác.
“Xin tuân theo ý chỉ của công tử”. Cậu thiếu niên theo lệ nhận lệnh, nhưng không chút miễn cưỡng, thậm chí sau khi trả lời xong, cậu đứng dậy bước nhanh tới bên cạnh Phù Tô, cung kính nói rằng, “Thần có thể hầu đọc cho công tử luôn từ hôm nay, chữ của công tử thật đẹp”. Câu nói thấm đẫm sự cung kính ấy của cậu ta mới tự nhiên làm sao, ngay sau đó cậu ta ngồi cạnh Phù Tô như thể đã rất thân thuộc, cầm cuốn sách tre lên, đọc cẩn thận, tỉ mỉ.
Hành động này của cậu thiếu niên khiến cho Phù Tô cứng họng, hắn vốn định thị uy vớỉ cậu ta, nhưng rõ ràng cậu ta ra dáng hơn hắn.
“Sách công tử vừa chép là trích từ thiên “Đại Tông Bá” sách “Chu lễ””. Cậu thiếu này quả nhiên học rộng nhớ lâu, chỉ xem mấy câu, đã đoán ra được nguồn dẫn, bỗng cậu ta chuyển chủ đề: “Có phải công tử đang cảm thán điều gì?”
Phù Tô ngẩng đầu, phát hiện cậu thiếu niên đang nhìn vào chiếc tủ sách sau lưng hắn. Phù Tô không cần quay đầu lại, cũng biết cậu thiếu niên này đang để ý đến thứ gì.
Nằm tĩnh lặng trong hộp gấm đặt trên tấm lụa đen tôn quý kia, chính là miếng ngọc Thanh Trấn Khuê.
“Dùng ngọc khuê xanh lễ phương đông”. Cậu thiếu niên từ tốn đọc những chữ ghi trên sách tre bằng chất giọng trẻ con trong trẻo, “Chế ngọc thành lục thụy, dùng để an định quốc gia. Vua cầm Trấn Khuê. Trấn, tức là yên ổn, nhờ vậy tứ phương an định”.
(Lục thụy chỉ sáu đồ tế lễ bằng ngọc, gồm bích, tông,khuê, hổ, chương, hoàng; đại diện cho tứ phương và trời đất. Trong đó khuê đạidiện cho phương đông)
Ngọc Trấn Khuê, phần đầu khắc theo hình dáng bốn ngọn núi lớn, ngọc cao hai tấc. Thiên tử khi đăng cơ tay cầm Trấn Khuê, dùng nó để an đinh tứ phương. Ngọc Trấn Khuê màu xanh, có thể coi là lễ khí đại diện cho thiên tử. Ánh mắt của cậu thiếu niên một lần nữa không thể kiềm chế mà chuyển từ cuốn sách tre sang miếng ngọc Thanh Trấn Khuê, cậu ta dường như có thể nhận ra chữ Triện khắc trên miếng ngọc Thanh Trấn Khuê, đây chính là miếng ngọc Trấn Khuê thiên tử đời đời lưu truyền từ thời nhà Chu.
(Mục “Thiên ti nhạc”, thiên “Xuân quan”, sách “Chu lễ” viết: “Phàm nhật nguyệt thực, tứ trấn ngũ nhạc băng”. Trinh Huyền chú rằng: “Tứ trấn, là bốn ngọn núi lớn, tức núi cối Kê của Dương Châu, Nghi Sơn của Thanh Châu, Y Vô Lư của u Châu, Hoắc Sơn của Đới Châu”.
Một tấc tương đương 20 centimet)
Sao một vật quan trọng như vậy, lại nằm ở chỗ công tử Phù Tô? Chả lẽ Tần vương có được nó, sau đó ban thưởng cho công tử chăng?
Cậu thiếu niên nghĩ tới đó, đôi mắt trong veo hơi nheo lại. Nói như vậy, Tần Vương đã có ý xác định người kế tục mình là ai?
Phù Tô không ngoái đầu lại, cũng không trông xem biểu cảm của cậu thiếu niên kia như nào. Miếng ngọc Thanh Trấn Khuê đó là hắn cố tình đặt ở đây, là để cho cậu thiếu niên thấy trong tương lai hắn sẽ danh chính ngôn thuận lên ngôi.
Tuy phụ vương đã ban Thanh Trấn Khuê cho hắn, nhưng xét cho cùng vẫn chỉ là một trong những phép thử của đế vương, ví dụ khiến cho các vị hoàng đệ của hắn ganh tức đến nổ đom đóm mắt, rồi tìm mọi cách chơi xấu hắn, nhưng điều này cũng không ngăn được hắn lợi dụng thứ đồ tế này, cáo mượn oai hùm một phen.
Phù Tô lại lấy ra một quyển sách tre trống, chậm rãi mở ra trên bàn, lại cầm cây bút lông thỏ lên, miệng hỏi: “Khuê là gì? Nghiệt là gì?”
(Cây nêu ngày xưa dùng đo bóng mặt trời để tính thời gian)
“Khuê giả, song thổ dã. Nghiệt giả, tự mộc dã. Dĩ thổ khuê thuỷ nghiệt chi pháp trắc thổ thâm, trắc nhật ảnh, chính tứ thời, dĩ cầu địa trung. Trần khuê trí nghiệt, chiêm tình quỹ địa, thử nãi lập quốc chi căn bản dã”. Cậu thiếu niên sau khi ngẩn người ra một hồi, liền trả lời rành rọt. Khuê và Nghiệt xa xưa là hai đồ vật rất đỗi bình thường, nhưng hai thứ đồ vật này là hai dụng cụ cần thiết để đo lường đất đai, thời gian trước khi xây dựng thành trì. Lâu dần, chúng được nâng cấp thành đồ vật mang ý nghĩa tượng trưng cao quý, thậm chí còn có cách nói “ngọc khuê kim nghiệt”.
(Chữ Khuê do hai bộ Thổ tạo thành, chữ Nghiệt do chữ Tự ghép với bộ Mộc tạo thành. Lấy phép thổ khuê thủy nguyệt để đo đất sâu, đo bóng nắng, làm rõ bốn mùa, tính toán vị trí. Bày khuê đặt nghiệt, xem sao đo đất đó là gốc rễ của việc lập quốc vậy)
Phù Tô bắt đầu đặt bút viết, không hề mảy may nghi hoặc cậu ta một dạ hai lòng, chỉ nghe theo cậu ta và hỏi tiếp: “Vậy khuê nghiệt là gì?”
Cậu thiếu niên lần này không trả lời ngay, bởi ý nghĩa của một từ không chỉ nằm ở vỏ ngoài mặt chữ, tỉ như “độ lượng”, tỉ như “quyền hành”, lại tỉ như “thằng mặc”, vân vân. Cậu ta nhìn Phù Tô đang viết một cách nho nhã, lặng đi một khắc mới chậm rãi nói tiếp: “Pháp độ, quy tắc”.
(Độ lượng vừa mang nghĩa đo lường độ dài ngắn, vừa mang nghĩa là bao dung. Quyền hành: quyền là quả cân, hành là cán cân, quyền hành còn có nghĩa phái sinh là quyền lực. Thằng mặc: thằng là dây thừng, m là mực, người xưa dùng dây thừng để đo chiều dài rồi dùng mực để đá dấu; nghĩa bóng là mực thước)
Phù Tô không chớp mắt lấy một cái, hỏi dồn: “Vậy pháp độ là gì? Quy tắc là gì? Là lời của vua cha? Là lời của kẻ trí? Hay là lời của thánh nhân?”
Cậu thiếu niên nghe vậy liền hốt hoảng, cậu vốn không ngờ sẽ bị hỏi vặn như vậy. Dẫu cho cậu có thể thao thao bất tuyệt cả nửa canh giờ về vấn đề này, nhưng cậu biết, điều công tử muốn, không phải những lời dông dài này.
Thấy bên cạnh hồi lâu không có tiếng trả lời, Phù Tô rất hài lòng về phản ứng của cậu thiếu niên, hắn vẫn không ngẩng đầu lên, chỉ nhẹ nhàng dặn dò: “Thượng khanh hôm nay hãy về trước, ngày mai giờ Mão, hãy đến đúng giờ”.
Câu này nói ra nhẹ như mây bay, nhưng lại có uy lực khiến người khác không thể khước từ.
Cậu thiếu niên lúc này mới biết mình đã vượt quá giới hạn, lời công tử vừa nói đã chỉ rõ hôm nay cậu ta nhập cung để thử việc mà thôi, cậu hôm nay vẫn chưa có tư cách ngồi ờ đây. Cậu thấy mồ hôi mình toát ra nhễ nhại trong lớp áo lụa, cung kính khấu đầu cáo biệt.
Khi cậu thiếu niên quay bước đi ra khỏi điện, Phù Tô không hề ngẩng đầu lên. Đợi đến khi cuốn sách tre trên bàn được viết đến thẻ cuối cùng, Phù Tô mới gác bút, thở ra một hơi dài.
Có thể gieo rắc vào lòng đối phương một hạt giống mang tên “nghi hoặc”, hôm nay hắn đã phát huy rất tốt.
Sớm muộn hạt giống này cũng sẽ mọc rễ, nhú mầm, cuối cùng sẽ phát triển thành một cái cây cao lớn chọc trời, sau này không cổ cách nào nhổ đi được.
Phù Tô xoa xoa chiếc cằm nhẵn nhụi, khí chất điềm tĩnh giả tạo trên gương mặt tuấn tú còn non nớt ấy bỗng chốc biến mất hoàn toàn, để lộ ra vẻ dương dương tự đắc.
Không phí công hắn tập luyện biết bao lần….
2
Phù Tô tuy đang xem tin tình báo việc quân, nhưng phân nửa sự chú ý của hắn vẫn đang dồn vào cậu thiếu niên đang chỉnh lý sách tre bên cạnh.
Cậu thiếu niên ngoài mặt cung kính, trong lòng lại kiêu ngạo này, đã trở thành hầu đọc của hắn được một quãng thời gian rồi. Càng tiếp xúc nhiều, Phù Tô càng kinh ngạc trước những kiến thức uyên bác của cậu ta, càng tò mò không biết cậu học được từ ai. Cứ nghĩ đến lời bàn tán xì xào trong cung gần đây, tuy hắn biết có kẻ rắp tâm tung tin đồn nhảm, nhưng trong lòng Phù Tô vẫn không thể thoải mái.
Nói cho cùng, tuổi hắn còn nhỏ, cũng chưa suy nghĩ sâu xa được như thế.
Huống hồ, nếu thực sự muốn biến một người trở thành tâm phúc của mình, thì không cần thiết phải che giấu suy nghĩ của mình trước mặt đối phương.
Chỉ có điều, biết mở lời như nào đây?
Phù Tô giả vờ lật giở cuốn tin báo việc quân, đây là tin cấp báo do ngựa chạy ngày đêm không ngưng nghỉ mang về dâng lên Tần vương Doanh Chính, Tần vương sẽ sai người sao chép lại một bản, bản đầu tiên gửi tới chỗ của hắn. Không phải mong chờ người còn chưa làm lễ buộc tóc như Phù Tô công tử có thể làm được điều gì hơn người, chỉ là muốn âm thầm bồi dưỡng khả năng chấp chính của hắn mà thôi.
Đúng lúc không kiềm nổi mà chuyển hướng mắt nhìn từ cuốn sách tre chép đầy chữ sang cậu thiếu niên đang ngồi bên cạnh mình, Phù Tô đột nhiên phát hiện cậu thiếu niên ấy cũng quay đầu sang, hai ánh mắt gặp nhau. Phù Tô cố gắng không để vì giật mình mà trốn tránh, nhìn lại cậu ta chằm chằm.
Khuôn mặt non nớt của cậu thiếu thiên giữ vẻ trầm tĩnh, cậu chỉ nhẹ nhàng hỏi: “Nếu công tử muốn hỏi về lời đồn đại ở trong cung thì cứ việc hỏi”.
Cơ hội tốt như vậy, Phù Tô đúng là cầu còn chẳng được. Chàng đặt cuốn sách tre trong tay xuống, thấp giọng hỏi: “Ta nghe người ta đồn rằng ngươi từng là môn khách của tên tội đồ Lã Bất Vi, có chuyện này không?”
Cậu thiếu nhiên hơi nhếch môi, chậm rãi hỏi: “Công tử tin là thật? Lúc Lã tướng chết, thần được mấy tuổi? Làm gì có chuyện đến làm môn khách?”
Phù Tô tự biết rằng lời đồn đại này hết sức hoang đường, nhưng không có lửa làm sao có khói, hắn nhân cơ hội hỏi dồn về nghi vấn bấy lâu nay trong lòng mình: “Tổ phụ của khanh từng rời nước Tần, đất phong bị tịch thu, vậy… khanh sống ở đâu?” Phù Tô đắn đo từng câu từng chữ, chỉ sợ có điều mạo phạm.
Nhưng cho dù có cẩn thận đến đâu, cậu thiếu niên nghe vậy, nét mặt bỗng đanh lại. Hai tay đang buông dọc theo thân người nắm chặt lại, cậu cúi gằm mặt xuống, cố che giấu cảm xúc nơi đáy mắt. “Sau khi tổ phụ qua đời, nhà cửa họ Cam bị tịch thu, muôn đời không được phục hồi. Thần may mắn được sư phụ thu nhận dạy dỗ mới có ngày hôm nay”.
“Sư phụ?” Phù Tô nhướn mày, không giấu diếm sự tò mò của mình về người sư phụ trong lờỉ kể của cậu thiếu niên. Có thể dạy dỗ một cậu bé trở thành thượng khanh của nước Tần, bản thân người này còn tài năng kinh người đến nhường nào?
Cậu thiếu niên bặm chặt môi như đang do dự chuyện gì, một lúc sau mới khó nhọc cất tiếng: “Sư phụ của thần… từng là môn khách của Lã tướng… chỉ là người tiêu diêu tự tại, luyện đan bốc thuốc mà thôi”.
Phù Tô sững sờ, giờ hắn mới biết những lời đồn đại đó đúng là cũng có chút căn cứ. Lúc này hắn mới để ý, cậu thiếu niên này luôn miệng gọi Lã Bất Vi là Lã tướng, xem ra tuy không dây dưa trực tiếp, nhưng cậu ta tuyệt đối không phải hạng đạp thấp trèo cao. Nhìn thần sắc cậu thiếu niên không giấu nổi sự căng thẳng, Phù Tô không đành lòng liền cười nói: “Không sao, năm đó dưới trướng của Lã tướng có đến ba nghìn môn khách, đa số đều là góp mặt cho có mà thôi”. Hắn nói dứt lời lại thấy có gì đó không đúng, nói vậy há chẳng phải bảo sư phụ nhà người ta là loại không ra gì?
Quả nhiên sắc mặt của cậu thiếu niên càng thêm nặng nề, Phù Tô cũng không tiện hỏi kỹ hơn về sư phụ của cậu ta. Nhưng biết rằng có một người như vậy cũng được, chỉ cần bẩm báo lên phụ vương, chắc chắn sẽ tra ra. Phù Tô cũng mặt dày coi như những lời trước đó không tồn tại, dù sao phụ vương vô số lần truyền lời răn dạy để hắn hiểu, thân làm bậc bề trên chính là cần có một cái mặt da dày như tường thành.
“Sư phụ ngươi có mình ngươi là đồ đệ thôi à?” Phù Tô thề, hắn chỉ là không chịu nổi bầu không khí ngột ngạt trong điện, thuận miệng hỏi, tuyệt đối không phải muốn nói mấy lời sáo rỗng như vậy.
Nét mặt của cậu thiếu niên trở lại bình thường, cung kính đáp: “Trước khi sư phụ của thần đến Tần, từng có thu nhận một đệ tử. Thần từng nghe sư phụ kể vài lần, nhưng chưa từng gặp, vị sư huynh đó chắc đang ở nước Triệu”.
Ánh sáng lóe lên nơi đuôi mắt Phù Tô chiếu vào cuốn sách tre báo tin việc quân, cười nhạt nói: “Triệu quốc, đã thành dĩ vãng rồi”. Nói xong liền đưa cuốn sách tre cho cậu thiếu niên kia.
Mặt cậu ta hơi biến sắc, vội vàng đón lấy cuốn sách, đọc tỉ mỉ
Nhân lúc nước Triệu thiên tai liên miên, nước Tần đem quân tấn công, Võ An Quân Lý Mục dẫn quân nghênh chiến. Lý Mục trấn thủ biên cương nhiều năm, từng nhiều lần đánh thắng quân Tần, Vương Tiễn không trực tiếp chĩa mũi nhọn vào hắn mà dùng kế ly gián để chia rẽ hắn và Triệu vương. Lý Mục công cao hơn chủ, trong lòng Triệu vương vốn cố định kiến, ngay khi trúng kế ly gián, Triệu vương tước quyền cầm binh của Lý Mục. Lý Mục trước sự công kích của đại quân nước Tần, không nhận quân lệnh, từ chối giao lại binh quyền. Hành động này càng khiến Triệu vương bất an, liền hạ lệnh sai người âm thầm đến bắt Lý Mục, cướp lấy hổ phù.
“Triệu vương khác nào tự chặt đi cánh tay của mình! Võ An Quân vì trung thành mà gặp họa”. Phù Tô gõ gõ ngón trỏ xuống mặt bàn, bắt đầu suy nghĩ có nên triệu vị danh tướng cái thế Lý Mục này đến không. Nhưng chuyện này, e rằng phụ hoàng cũng sẽ suy xét tới. Bốn vị danh tướng thời kỳ chiến quốc loạn thế gồm có Khởi, Tiễn, Pha, Mục, tức Bạch Khởi, Vương Tiễn, Liêm Pha, Lý Mục. Tần và Triệu mỗi nước có hai người, nhưng Bạch Khởi đã chết, chỉ còn lại Vương Tiễn và Lý Mục… Thôi vậy, lúc này chắc cũng đã muộn rồi, uy thế của Lý Mục ở nước Triệu còn lớn hơn Triệu vương, Triệu vương không xuống tay thì thôi, một khi ra tay ắt không khác nào sét đánh.
Cho dù có ngu xuẩn như Triệu vương, e rằng cũng hiểu được đạo lý đêm dài lắm mộng.
Phù Tô lại nhìn cậu thiếu niên bên cạnh mình, đúng lúc cậu ta đã đọc xong sách tre, ngẩng đầu lên, hai ánh mắt lại gặp nhau, liền hiểu được suy nghĩ của đối phương với sự việc này không khác nhau là mấy, cả hai đều tiếc thương khi nghĩ đến tương lai của vị danh tướng đó.
Sẽ không có ai nói Vương Tiễn bỉ ổi, kế ly gián từ lâu đã được sử dụng nhiều như cơm bữa, hai người họ lại ở hai chiến tuyến khác nhau, Vương Tiễn chỉ đơn giản là dùng vàng bạc châu báu mua chuộc tên gian thần Quách Khai, tránh cho binh sĩ nước Tần gặp nạn binh đao, đây là công lớn. Hơn nữa, nếu Triệu vương Triệu Thiên cũng tín nhiệm Lý Mục như Tần vương tín nhiệm Vương Tiễn, e rằng đã không xảy ra việc này.
Cậu thiếu niên có chút xuống tâm trạng, cậu vuốt nhẹ đường vân trên cuốn sách tre, hạ thấp giọng than rằng: “Pháp độ là gì? Quy tắc là gì? Là lời của vua cha? Là lời của kẻ trí? Hay là lời của thánh nhân?…”
Phù Tô nghe vậy bỗng sững sờ, hắn không ngờ, câu mà hắn nói trong buổi gặp gỡ đầu tiên, cậu thiếu niên vẫn luôn ghi nhớ trong lòng.
“Quy tắc, phân làm quy tắc thiên đạo và quy tắc nhân đạo. Nước chảy chỗ trũng, mặt trời mặt trăng các vì sao mọc phía đông lặn phía tây, đó chính là quy tắc thiên đạo, không phải thứ con người có thể thay đổi được. Chúng ta không nên đòi hỏi”. Phù Tô quay người lại, cầm hộp ngọc Thanh Trấn Khuê lên, đặt trên bàn. Hắn muốn chạm vào miếng ngọc thanh Trấn Khuê nhưng kiềm chế thu tay lại, nắm chặt bàn tay. Hắn chưa làm vua, vì vậy vẫn chưa có tư cách gì để cầm miếng ngọc Thanh Trấn Khuê này lên.
“Còn việc dụng binh như nào, trưng thu thuế như nào, đúc tiền như nào, đây chính là quy tắc nhân đạo”.
“Nếu như vậy, quy tắc, nên là lời của vua cha”.
Phù Tô hít một hơi thật sâu, cúi đầu nhìn chăm chăm vào miếng ngọc Thanh Trấn Khuê, nói: “Thiên hạ loạn thế đã lâu, nên có người lập ra quy tắc mới”.
Hắn không nói rõ, nhưng ẩn ý trong câu nói, cậu thiếu niên cũng lĩnh hội được.
Nước Hàn đã diệt vong, nước Triệu sớm muộn cũng vậy, nước Tần nhất thống sáu nước, ngày đó sắp đến rồi.
Quy tắc của thế gian này, đương nhiên do người ở vị trí cao nhất đặt ra!
3
Phù Tô ở yên trong điện, đợi tin chiến báo mới nhất của tiền phương. Kinh Kha hành thích Tần vương, tuy không thành công, nhưng khiến Tần vương nổi cơn thịnh nộ, chấn động thiên hạ. Tần vương Doanh Chính phái đại tướng quân Vương Tiễn, huy động quân đội đánh phá nước Yên. Còn ngày đô thành Kế của nước Yên sụp đổ cũng là chuyện sớm muộn mà thôi.
Cho dù đã gần một năm trôi qua, nhưng mỗi khi nhớ lại thời khắc nguy cấp hôm đó ở đại điện cung Hàm Dương, Phù Tô đều cảm thấy sợ hãi.
Khi Kinh Kha mang thủ cấp của Phàn Ư Kỳ cùng với bản đồ của vùng Đốc Kháng nước Yên dâng lên phụ vương, ai ngờ hắn giấu kiếm ở trong bản đồ. Mà theo lệnh của Tần vương, đại thần khi lên triều không được phép mang theo binh khí, tình hình lúc ấy vô cùng hỗn loạn. Tuy rằng trong tay phụ vương có kiếm, còn có rất nhiều thần tử liều mạng xông ra che chắn, nhưng cũng phải đến khi Kinh Kha bị trọng thương do bảy tám nhát kiếm, hắn mới ngã gục xuống đất.
Phù Tô sờ sờ cổ tay phải, hắn lúc ấy cũng xông ra theo phản xạ, nhưng người đứng sau lưng hắn cứ níu cổ tay hắn lại bằng được. Hắn hoàn toàn không thể ngờ rằng, ẩn trong cơ thể gầy gò kia lại chứa đựng một sức mạnh lớn lao như vậy.
Mãi đến khi Kinh Kha bị phanh thây, người đó vẫn không buông tay hắn ra.
Phù Tô cười một cách khổ sở, có lẽ người bỉ ổi nhất là hắn mới phải. Sức lực của một cậu thiếu niên mười mấy tuổi có thể lớn đến đâu? Nếu hắn thực sự muốn thoát ra, thì sao lại không được?
Là hắn trong phút giây đã suy nghĩ quá nhiều.
Nếu phụ vương thực sự bị đâm chết, vậy thì hắn sẽ lên ngôi… Đây là điều cậu thiếu niên nghĩ đến trong khoảnh khắc đó sao? Vậy nên mới không chịu để hắn lao vào chỗ nguy hiểm.
Sau khi sự việc xảy ra cậu thiếu niên còn đặc biệt đến thỉnh tôi trước mặt phụ vương, đổ hết trách nhiệm không xông ra hộ giá lên người mình, tình nguyện chịu phạt.
Hắn không thể giải thích được điều gì, càng không thể nói ra.
Chỉ có thể ngậm miệng làm thinh.
Ngoài cửa điện vọng vào tiếng ngọc bội va vào nhau leng keng quen thuộc, không đợi đối phương lên tiếng, Phù Tô tranh nói trước: “Tất Chi, vào đi”.
“Công tử, Kế Kinh của nước Yên đã bị phá, Yên vương Hỷ và công tử Đan tháo chạy đến Liêu Đông, sau khi trốn ở Diễn Thủy, Yên vương Hỷ chặt đầu công tử Đan dâng lên Tần vương”, vẫn còn chưa bước vào trong điện, giọng nói trong trẻo của cậu thiếu niên đã vọng vào, rõ ràng cậu ta đang nôn nóng không chờ đợi được.
Phù Tô nghe vậy liền cau mày, tuy hắn hận thái tử Đan thấu xương, nhưng hai người bọn họ ai cũng vì chủ nấy mà thôi, cho nên cũng không cảm thấy hành vi, việc làm của đối phương có gì sai. Giết người quan trọng nhất trong vòng vây của kẻ địch để giải nguy là biện pháp thô bạo nhưng đơn giản nhất trong chính trường. Nếu để thái tử Đan thành công, thì dù hiện nay hắn lên ngôi vua, nước Tần cũng sẽ chỉ như một nắm cát rời rạc.
Dẫu sao hắn vẫn còn quá trẻ, mà nước Tần độc bá thiên hạ đã trở thành cái gai trong mắt của nhiều người, nếu phụ vương tiến về phía Tây thật, vậy thì cho dù là mấy nước đã bị tiêu diệt, cũng sẽ lập tức dựng cờ nổi dậy.
Một nhân tài có tầm nhìn độc đáo như vậy, lại chết dưới tay chính phụ vương Yên vương Hỷ của mình, thật khiến người ta phải sụt sùi tiếc thương. Phù Tô nhớ lại nhiều năm về trước, hắn cũng tiếp xúc vài lần với thái tử Đan khi y đang làm con tin ở nước Tần, vậy mà giờ đây vật còn, người mất, không khỏi ngậm ngùi.
Ai cũng sẽ đến lúc phải chết, nhưng nhân gian phồn hoa như này, ai mà không lưu luyến cơ chứ?
Phù Tô nghĩ đến việc phụ vương mấy năm gần đây bắt đầu triệu mời đạo sĩ khắp nơi, hắn không khỏi thở dài. Hắn cũng đâu ngờ, sư phụ người hầu đọc của mình cũng là một đạo sĩ, tuy người đó chỉ nán lại trong cung một năm rồi đi ngao du khắp nơi, nhưng có lẽ người tiến cung mà hắn không để ý năm đó, lại dẫn đến tình cảnh mất kiểm soát như hiện nay cũng như sau này.
Tuy chỉ là một thoáng thẫn thờ, nhưng trong đầu Phù Tô đã diễn ra cả trăm dòng suy nghĩ, cả nghìn cảm xúc hỗn độn, dù vậy biểu cảm trên khuôn mặt tuấn tú của hắn không có chút thay đổi.
Hắn đã quen với việc che giấu suy nghĩ của mình trước mặt người khác, dần trở thành một bản năng, cho dù người đối diện với hắn là người thân cận như người hầu đọc.
Còn cậu thiếu niên trước mặt cũng dần thay đổi theo năm tháng. Cậu không còn lúc nào cũng lầm lầm sắc mặt, cố chấp giữ lấy sự cao ngạo của bản thân, mà ngũ quan đã trở nên hiền hòa hơn, nụ cười cũng thân thiện hơn, bất luận ai lần đầu gặp mặt, cũng sẽ cảm thấy đây là một chàng trai tuấn tú, đem lại cho người khác cảm giác dễ gần đến khó tả. Chỉ có Phù Tô mới biết, cậu thiếu niên kia giống hắn, cũng đã học được cách đeo lên cho mình một chiếc mặt nạ, chọn giấu từng chút từng chút tâm tư vào tận đáy lòng.
Phù Tô đón lấy cuốn sách tre cậu thiếu niên đưa cho mình, cẩn thận xem qua một lượt, khi ngẩng đầu lên hắn phát hiện cậu thiếu niên đang nhìn chăm chăm vào chiếc hộp đựng miếng ngọc Thanh Trấn Khuê trên án kỷ, cau mày hỏi: “Tất Chi, có gì không ổn à?”
Miếng ngọc Thanh Trấn Khuê này, kể từ lần trước hắn đặt chiếc hộp lên trên án kỷ, thì không đặt lại chỗ cũ nữa. Bây giờ hắn vẫn lén chạm vào miếng ngọc Thanh Trấn Khê lạnh như băng mỗi khi không có ai ở cạnh.
Cậu thiếu niên cắn môi, do dự giây lát, cuối cùng vẫn mở miệng nói: “Luật pháp nước Tần, quần thần khi lên hầu điện, không được mang theo binh khí dù chỉ một tấc. Các vị lang trung mang theo binh khí, đều phải để lại trước dưới điện, không có chiếu chỉ không được lên. Quy tắc do chính Tần vương đề ra, lại suýt hại chết chính người. Quy tắc này, biết phải đặt ra thế nào đây?”
Phù Tô đặt cuốn sách tre xuống, trầm tư hồi lâu trong làn khói nhẹ vấn vít tỏa ra từ lò xông hương.
Nghi vấn này tồn tại trong lòng cậu thiếu niên đã lâu, vì đã được mở lời, nên cậu liền thao thao nói tiếp: “Theo như lời quân báo, các vương quân đại thần của nước Yên, ngoài thái tử Đan ra, tất cả đều giữ được tính mạng. Lúc diệt bốn nước Hàn, Triệu, Ngụy, Sở, Tần vương cũng không hề loạn sát, đây là hành động nhân nghĩa của Tần vương. Sáu nước giờ chỉ còn lại nước Tề yếu ớt, ngày nhất thống thiên hạ sắp tới, nhưng thần e rằng giới quý tộc sáu nước không cam tâm chịu hàng, sau này ắt gây họa”. Cậu ngập ngừng, sau đó từng chữ thốt ra nặng trịch: “Ngai vàng tưới thẫm máu tươi, Tần vương nên để những người đổ biết rằng, một là thuần phục, hai là chết!”
Trong mắt Phù Tô xẹt qua một ý nghĩ, hắn cũng từng thầm nghĩ đến vấn đề này. Nhưng phụ vương không hề đại khai sát giới, việc này đến Thuần Vu Việt xuất thân là đại Nho sĩ cũng phải tán đồng. Nội dung trọng tâm của tư tưởng Nho gia chính là tư tưởng “nhân nghĩa lễ” do Khổng Tử đề ra, Phù Tô cũng rất tán đồng ba chữ này. Hắn thường xuyên tranh luận cùng cậu thiếu niên, tiện gặp một chủ đề nghị luận như hôm nay, Phù Tô suy nghĩ hồi lâu, khóe miệng hơi hé nụ cười, rất hài lòng vì cậu thiếu niên đã bắt đầu học được cách nghi ngờ.
Nghi ngờ tất cả những quy tắc tồn tại trên thế gian này, vậy mới có thể tự lập ra quy luật của riêng mình, đây là một tín hiệu của sự trưởng thành.
Trong tim mỗi người, đều có một miếng ngọc Thanh Trấn Khuê của riêng mình.
Chỉ là có một vài người sẽ sao chép y nguyên hình trạng của người khác, có một vài người lại thích tự mình mài giũa.
Nội thị Cố Tồn bước vào trong điện, bưng lên hai bát canh hạt sen vẫn còn bốc hơi nóng, nhẹ nhàng đặt lên án kỷ, rồi lui bước ra ngoài không một tiếng động.
Phù Tô nhìn bát canh hạt sen còn bốc hơi nóng, cầm thìa khuấy đều, ngắm nhìn những hạt sen trắng nõn nà chìm nổi trong chiếc bát sơn mài, Phù Tô cười cười hỏi: “Tất Chi, ngươi có biết trận chiến Trường Bình của Bạch Khởi không?”
Cậu thiếu niên sững người, sau đó gật đầu và ngồi xuống bên cạnh Phù Tô. Hai người họ trước giờ vốn không câu nệ tôn ti, nên cậu thiếu niên cũng rất tự nhiên bê bát canh hạt sen còn lại lên, mặc kệ canh còn nóng, đích thân thử một ngụm, sau đó mới đặt chiếc bát đã thử qua xuống trước mặt Phù Tô.
Đây không phải ỷ đặc sủng lộng quyền, mà là đang thử độc cho Phù Tô.
Dù cậu thiếu niên đã thực hiện hành động này vô số lần, nhưng trong lòng Phù Tô không khỏi tự giễu. Hầu đọc gì chứ, hóa ra chỉ là người thử độc?
(Trong tiếng trung, hai từ “thị độc” (hầu đọc) và “thí độc” (thử độc) có âm đọc giống nhau)
Việc làm này, đương nhiên đã được các nội thị khác làm trước khi dâng lên. Nhưng cậu thiếu niên luôn thấy không an tâm, mỗi lần Phù Tô khuyên giải đều mặc kệ, toàn cãi rằng cậu theo sư phụ học đủ loại kỹ nghệ từ nhỏ, đã tiếp xúc với nhiều loại thảo dược, độc dược.
Phù Tô càng nghĩ càng thấy bồn chồn bất an, cho đến khi cậu thiếu niên đã uống hết hơn nửa bát canh hạt sen còn lại, hắn mới lấy lại tinh thần, quay lại chủ đề lúc trước: “Bạch Khởi đứng đầu trong bốn vị danh tướng thời loạn chiến quốc, chính là nhờ trận chiến Trường Bình. Trong chiến dịch ấy, Bạch Khởi đại phá quân Triệu, giết hơn bốn mươi vạn quân Triệu, chấn động thiên hạ. Tuy trận đại chiến ấy làm tăng thêm uy vũ của đại Tần ta, nhưng chẳng có ích lợi gì cho sự nghiệp nhất thống thiên hạ”.
Bạch Khởi một đời cầm quân trăm trận trăm thắng, đã tiêu diệt hơn một trăm vạn quân của sáu nước, tấn công khoảng chín mươi tòa thành trì của sáu nước, chưa từng bại trận, được nước Tần và cả các nước khác phong làm chiến thần. Thậm chí có thể nói rằng, Bạch Khởi không khác nào một vị thần của nước Tần, so với Tần vương mà nói chỉ có hơn chứ không có kém, Phù Tô dám nghi ngờ chiến lược mà Bạch Khởi đề ra, nếu việc này bị truyền ra ngoài, chắc chắn sẽ dấy lên một cơn sóng lớn.
Nhìn cậu thiếu niên cầm bát canh mà mặt trầm tư, Phù Tô cũng không nói hết ý. Bởi hắn biết, cậu thiếu niên sẽ lĩnh hội được tâm ý của hắn.
Quả nhiên không lâu sau, cậu thiếu niên buồn bã than rằng: “Hóa ra là vậy”.
Phù Tô gật đầu hài lòng. Bạch Khởi giết hơn bốn mươi vạn quân, cố nhiên sẽ khiến nước Triệu sau thời hưng thịnh rơi vào cảnh suy yếu, cùng quẫn, nhưng cũng sẽ khiến các nước khác có lòng cáo khóc thương thỏ, mượn cớ cùng căm thù kẻ địch chung. Hơn bốn mươi vạn binh sĩ đầu hàng ấy nếu biết trước kết cục vẫn phải chết, thì liệu còn ai cam tâm vứt giáo đầu hàng? Dù có chết, cũng phải lôi theo kẻ chịu chết chung.
Vì vậy trong một quãng thời gian rất dài, mỗi khi nước Tần đi chinh phạt các nước khác, đều gặp phải sự chống trả vô cùng quật cường.
“Chẳng trách…”. Cậu thiếu niên lẩm bẩm, và cũng hiểu ra tại sao mỗi lần Tần vương Chính diệt được một nước lại không giết sạch các vương công đại thần, chính là nghĩ cho đại nghiệp thống nhất thiên hạ.
“Việc làm ấy của phụ vương, tuy trong tương lai gần sẽ để lại hiểm họa, nhưng nếu nước Tần ta tiếp tục lớn mạnh, thì giới quý tộc còn sót lại của sáu nước không đáng lo ngại”. Phù Tô ôn tồn, lời nói toát lên vẻ điềm nhiên vô cùng.
Trong mắt cậu thiếu niên vẫn thoáng có chút lo lắng, nhưng cậu ta không nói gì nữa, mà im lặng uống từng ngụm từng ngụm đến cạn bát canh hạt sen, xong mới ngẩng đầu lên, quay sang Phù Tô cười nói: “Canh này không độc, có thể dùng”.
Phù Tô lúc này mới bưng bát lên, uống một ngụm canh đã nguội, tuy ngoài mặt không bận tâm đến, nhưng thực ra trong lòng rất không thoải mái.
Tên tiểu tử này, hắn không phải cố tình không cho ta dùng canh nóng đấy chứ, cố ý chơỉ xấu ta à?
4
Phù Tô đứng giữa sân bắn, trước tiên hắn đeo chiếc nhẫn làm bằng xương mà người hầu đọc đưa cho vào ngón tay cái, tiếp đó đón lấy chiếc cung làm bằng gỗ tử sam và một mũi tên lông chim cắt, hai chân đứng rộng bằng vai, nghiêng người quay vai trái căn vị trí bia, mắt hơi nheo lại, thần khí bình tĩnh.
Nâng tay, lắp tên, kéo cung, bắn tên, từng động tác đều vô cùng điêu luyện tự nhiên, tao nhã đẹp mắt như đang biểu diễn, từng cái giơ tay co chân đều toát lên khí chất phi phàm.
“Soạt”. Mũi tên hướng trúng hồng tâm, xuyên thủng bia, Phù Tô không cần ra xác nhận cũng biết lực bắn đủ để đầu mũi tên xuyên qua bia lộ ra sau một đoạn.
“Bạch thỉ”. Cậu thiếu niên đang đứng sau lưng Phù Tô liền dâng lên một ống mũi tên.
Phù Tô chụm ba mũi tên lại với nhau, ba mũi tên nối tiếp nhau lao đi vun vút, mũi nào cũng bắn trúng, mũi tên sau bắn xuyên qua mũi trước, trông xa không khác nào một mũi tên.
“Tam liên”. Trong tiếng hô của cậu thiếu niên pha chút tán thưởng, đồng thời liếc nhìn cậu bé đang đứng khép nép sợ sệt cạnh sân bắn, ánh mắt lạnh lùng mang tính chất cảnh cáo.
Phù Tô lại lấy một mũi tên khác, lắp tên lên dây cung, chăm chú ngắm bắn hồi lâu rồi mới từ từ thả tay phóng tên.
Mũi tên này bắn hướng lên trên cao, đầu và đuôi mũi tên không bay theo cùng một đường, tốc độ không hề nhanh, bay đều đều ổn định về phía trước, cuối cùng cũng xuyên trúng vào hồng tâm.
“Diệm chú”. Ngữ khí của cậu thiếu niên không giấu nổi sự thán phục, hai cách bắn cung trước đó cậu ta cũng làm được, nhưng tiễn pháp “diệm chú” này là khó nhất. Do tốc độ của mũi “bạch thỉ” và “tam liên” trước đó rất nhanh, nên không bị ảnh hưởng bởi hướng gió. Còn khi bắn mũi “diệm chú”, người bắn phải xác định được góc bắn, có sự phán đoán hướng gió chính xác, cậu thiếu niên tự thấy bản thân vẫn chưa thể thực hiện được một cách hoàn mỹ như vậy.
“Tương xích”. Phù Tô bình thản nói, đuôi mắt liếc nhìn qua cậu bé vừa đứng lại gần mình hơn một chút, nhưng hắn nhanh chóng thu ánh mắt lại chứ không nán lại nhìn.
Tương xích, ý nói quân thần cùng bắn, nhưng thần tử không được đứng ngang hàng với vua mà phải lùi lại một thước. Cậu thiếu niên đứng phía sau cách Phù Tô một thước, lắp tên giương cung, mô phỏng lại hoàn toàn động tác của Phù Tô. Dây cung bật một phịch dứt khoát, mũi tên rời cung lao về phía trước, bắn trúng tâm bia một cách gọn ghẽ.
“Hay lắm”. Phù Tô mỉm cười khen ngợi.
Cậu thiếu niên cung kính thu cung đứng thẳng, tiếp tục dâng lên cho Phù Tô bốn mũi tên.
Xạ (bắn cung) trong lục nghệ của người quân tử gồm ngũ xạ, lần lượt là: bạch thỉ, tam liên, diệm chú, tương xích và tỉnh nghi. Tỉnh nghi chính là bắn một lúc bốn mũi tên, Phù Tô thu cung đứng thẳng, cậu thiếu niên nhìn vị trí của bốn mũi tên trên bia, trên dưới trái phải vừa khéo xếp thành chữ “tỉnh”.
“Kỹ thuật bắn cung của công tử quá tuyệt diệu, Tất Chi xin bái phục”. Cậu thiếu niên nói xong liền vẫy vẫy tay, thị vệ một bên đang chực đến chỗ cái bia để lấy mười mũi tên ghim ở trên tâm bia. Nhưng trước khi tên thị về kịp chạy ra, cậu bé luôn đứng quan sát đã chạy ra phía đó trước, cố gắng kiễng chân lên nhổ từng mũi tên xuống, sau đó lon ton chạy lại.
Phù Tô thấy vậy mỉm cười, cầm một ống đựng tên, đưa cho cậu thiếu niên và bảo: “Quân tử không tranh gì, nếu buộc phải tranh thì chỉ có thi bắn cung. Vái nhau mà ra bắn, xong thì mời rượu, đó là việc tranh đua của quân tử vậy. Tất Chi, đến lượt ngươi đó”.
Cậu thiếu niên bĩu môi, cũng không thèm nhắc công tử nhà mình nói những lời cậu ta cũng biết, đã thế còn cố ý nói lớn tiếng, nghĩ cũng biết là muốn nói cho ai nghe thấy.
Cậu thiếu niên cầm cây cung làm bằng gỗ hoàng dương lên, đổi vị trí với Phù Tô, vừa định giương cung bắn thì Phù Tô bên cạnh lại đưa tay ra chủ động giúp cậu chỉnh tư thế, tiện thể hướng dẫn cậu phải dùng lực như thế nào, căng dây ở đâu, làm thế nào mới có thể bắn ra một mũi tên vừa có lực vừa chuẩn xác.
Cậu thiếu niên hơi chau mày, cho dù kỹ thuật bắn cung của cậu không bằng công tử, nhưng cũng không phải người mới học, đâu đến mức như này?
Nghĩ lại dạo gần đây mỗi khi lên lớp, Phù Tô đều đọc sách rất to, chắc chắn là có liên quan đến cậu bé suốt ngày đứng nghe lén ngoài cửa rồi.
Nhưng tiểu công tử Hồ Hợi bị Tần vương hạ lệnh không cho phép đọc sách, luyện chữ, tập võ, đây là điều trong cung này ai ai cũng biết, đại công tử làm vậy tuy không phải là làm trái ý chỉ của Tần vương, nhưng nếu bị người khác bắt thóp, chắc chắn chẳng hay ho gì.
“Công tử… người phạm quy rồi…”, nhân lúc Phù Tô ghé sát lại để hướng dẫn tư thế, cậu thiếu niên khẽ giọng khuyên nhủ.
“Quy tắc? Quy tắc là do ai nói ra?” Phù Tô cong môi cười, giọng điệu đầy châm biếm. Hắn đã hết cái tuổi sùng bái vua cha, bắt đầu nghi ngờ từng mệnh lệnh của phụ vương, tuy không thể công khai phản kháng, nhưng vẫn có thể làm những việc ngoài mặt thì tuân thủ, bên trong thì âm thầm trái lại. Bởi phía dưới có quá nhiều tai mắt, Phù Tô cũng không giải thích gì nhiều, chỉ khẽ nói: “Nó là em trai ta”.
Cậu thiếu nên không nói gì thêm, khuôn mặt cứng đơ đơ mặc cho Phù Tô biến cậu ta thành giáo cụ trực quan.
Cậu bé đang ôm đống mũi tên đứng gần đó rón rén lại gần thêm chút nữa.
Phù Tô ngồi trong doanh trướng, vừa dùng khăn vải lau chùi thanh kiếm đồng Ngọc Thủ đã theo hắn bao năm nay, vừa chốc chốc liếc nhìn chàng thanh niên đang cúi đầu trầm tư bên cạnh hắn.
“Tất Chi, ngươi về Hàm Dương đi, ta ở đây đã có Mông tướng quân chăm sóc rồi, không sao đâu”. Phù Tô chăm chú nhìn những hoa văn quả trám chìm trên thân kiếm.
Thời gian như dòng nước chảy, cậu thiếu niên năm nào nay đã là thanh niên, phụ vương của hắn đã lên chức phụ hoàng, còn từ công tử thành đại công tử, nhưng lúc ở cùng Tất Chi, hắn không xưng là “cô” mà hạ xuống xưng “ta”. Phù Tô vuốt vuốt thanh kiếm, nhoẻn miệng cười, hắn biết người hầu đọc của hắn đang suy nghĩ điều gì.
Hôm nay có thư nhà từ Hàm Dương gửi tới, báo Cam thị Tuyên Dương vương bệnh nặng, triệu con trai về chăm sóc. Tất Chi lại không an tâm để chàng lại một mình ở Thượng Quận, cho nên mới tiến thoái lưỡng nan.
Phù Tô thấy chàng thanh niên cứ ủ dột mãi không chịu lên tiếng, liền than một câu rằng: “Chuyện này phải trách ta, nếu ta thuận theo phụ hoàng, thì đã không bị đày tới đây, hại ngươi phải đi cùng chịu khổ”.
“Đại công tử hãy chặt đầu Tất Chi đi”. Trên khuôn mặt tuấn tú của cậu thanh niên thoáng nở một nụ cười khổ sở. Trong một bữa tiệc rượu sau khi Thủy Hoàng đế về cung Hàm Dương, Thuần Vu Việt cho rằng chế độ quận huyện của Thủy Hoàng đế đề ra không thỏa đáng, kiến nghị tuân theo chế độ phân phong trong Chu lễ. Lời đề nghị này bị Lý Tư bác bỏ và khiến Thủy Hoàng đế không vừa lòng, trực tiếp dẫn đến việc Thuần Vu Việt bị bãi chức. Thân làm đệ tử, Phù Tô vì việc này mà dâng tấu, kịch liệt phản đối, liền bị Thủy Hoàng đế phái đến Thượng Quận làm giám quân cho đại quân của tướng Mông Điềm.
Ánh mắt Phù Tô dồn vào miếng ngọc Thanh Trấn Khuê đang nằm im lìm trên án kỷ, như có linh cảm, hắn thở dài than rằng: “Pháp độ là gì? Quy tắc là gì? Là lời của vua cha? Là lời của kẻ trí? Hay là lời của thánh nhân?”
Cậu thanh niên vẫn giữ vẻ rầu rĩ, cặp lông mày thanh tú nhíu lại gần nhau.
Phù Tô hắng giọng, lạnh lùng cười nói: “Quy tắc, vốn là để một vài người tuân theo, để một số người khác phá bỏ. Nhưng nếu người không có khả năng phá vỡ quy tắc lại đi khiêu chiến với quy tắc, ắt sẽ rơi vào cảnh thịt nát xương tan”.
“Đại công tử….”, chàng thanh niên lo lắng cắt lời, trong tiếng gọi chứa đầy nỗi bất an.
Phù Tô huơ huơ tay, nén cảm xúc lại, bình thản nói: “Tất Chi chuyến này về Hàm Dương, cũng tiện thể giúp ta điều tra động tĩnh ở Hàm Dương. Ta bị chôn chân ở Thượng Quận, không có tai mắt, đúng là bất lợi trăm bề”.
Trên mặt chàng thanh niên ánh lên vô vàn cảm xúc, cuối cùng biến thành thở dài, cậu cúi đầu cung kính thành khẩn vái lạy. “Điện hạ, xin hãy bảo trọng…”.
Phù Tô gật đầu, biết rằng chàng thanh niên kia chỉ khi nào cực kỳ trịnh trọng, mới gọi hắn là “điện hạ”.
Nhìn chàng thanh niên lùi bước ra khỏi doanh trướng, trông theo mãi đến khi bóng dáng y đã khuất khỏi tầm mắt, Phù Tô bất chợt thảng thốt.
Người bạn hầu đọc chính tay phụ hoàng tặng cho hắn này, đã theo sát bên hắn như hình như bóng, nửa bước không rời biết bao năm.
Thời gian quen biết y, đã dài hơn quãng thời gian không quen y rồi.
Phù Tô khẽ mỉm cười, lau kiếm xong hắn đút kiếm vào bao, với tay lấy miếng ngọc Thanh Trấn Khuê.
Cong cong ngón trỏ, gõ gõ lên bề mặt lạnh như băng của miếng ngọc, lắng nghe những thanh âm trong trẻo của ngọc phát ra, Phù Tô tự lẩm bẩm: “”Anh bạn già hỡi, giờ ta chỉ còn lại mình ngươi thôi…”
5
Phù Tô mở mắt, ngửi mùi hương nguyệt kỳ thanh tịnh nhẹ nhàng, nhìn lên trần nhà trắng muốt, trong lòng cảm thấy mông lung.
Hắn lúc này mới tỉnh ngộ, lần biệt ly trong doanh trướng, hóa ra lại là lần cuối cùng hắn được gặp Tất Chi.
Quy tắc… đúng là rất khó phá vỡ hay sao? Hắn thất bại, Hồ Hợi cũng thất bại…
“Hoàng huynh, huynh tỉnh rồi?” Hồ Hợi vẫn luôn túc trực ở đầu giường, thấy hắn mở mắt, lập tức nhoài người ra hỏi han.
“Ừ”. Phù Tô đáp lại cụt lủn, nhắm mắt, rồi mới dần dần tỉnh táo trở lại.
Hồ Hợi dập tắt lửa trong chiếc lò Bác Sơn đang đốt hương nguyệt kỳ bên cạnh, sau đó mở cửa sổ, tắt điều hòa để không khí tươi mới ở bên ngoài tràn vào phòng, thấy trong mắt hoàng huynh mình nổi lên những vằn đỏ, hắn không khỏi lo lắng. Nguyệt kỳ hương có thành phần chính là nguyệt lân hương chuyên dùng cho vua chúa thời Đường, thêm vào một phần tam nại, hoắc hương, cảo bản là sẽ chế thành một loại hương liệu kỳ dị có thể điều khiển giấc mơ. Chỉ có điều khi dùng, sẽ lại một vài tác dụng phụ, rất dễ gây ra suy nhược tinh thần.
Phù Tô hít một hơi mát lạnh, tinh thần khá lên một chút. Hắn gần đây không ngừng dùng nguyệt kỳ hương trong giấc mơ chính là để tác động đến giấc mơ về Tất Chi, muốn gã nhớ lại những sự việc trong quá khứ. Giấc mộng vừa nãy, có lẽ Tất Chi cũng cùng hắn trải nghiệm lại từ đầu?
Chỉ là… Phù Tô thở dài rồi nhắm mắt, dù có dùng nguyệt kỳ hương, phần đời mà hắn có thể nhớ lại được quá ngắn ngủi.
Đúng vậy, hắn còn có gì để oán hận nữa đây? Cuộc đời của Tất Chi đã kéo dài hơn hai ngàn năm, còn phần thời gian của hắn, đối với Tất Chi mà nói chỉ là mười mấy năm ít ỏi mà thôi.
“Hoàng huynh?” Môi Hồ Hợi khẽ run run, hắn lo lắng gọi.
Phù Tô khua khua tay, ý bảo bản thân không sao cả, một lúc sau mới chầm chậm mở miệng: “Đem miếng ngọc Thanh Trấn Khuê cho cậu ta đi”.
Hồ Hợi nghe vậy kinh hãi, tuy hoàng huynh không nói rõ “cậu ta” là ai, nhưng hắn sao có thể nhận nhầm được?
Dù trong lòng có vô số nghi vấn, nhưng Hồ Hợi vẫn gật đầu nói: “Vâng, thưa hoàng huynh”.
Bác sĩ dựng đôi tai thỏ của mình lên, nhìn miếng ngọc Thanh Trấn Khuê trong chiếc hộp vừa được chuyển phát nhanh đến đầy nghi ngờ, gã chủ tiệm vừa nói cho cậu biết món đồ này quý giá đến nhường nào. Nhớ lại chuyện mang chiếc Miễn Tử Bài về từ buổi đấu giá lần trước, bác sĩ thắc mắc hỏi: “Này chủ tiệm, sao tôi thấy, cái tên Phù Tô đó hình như đang giúp anh trấn yểm Càn khôn đại trận thì phải? Vô duyên vô cớ để anh mang Miễn Tử Bài về, giờ còn gửi món đồ cổ đế vương thứ mười một đến đây nữa!”
Gã chủ tiệm vuốt nhẹ bề mặt trơn láng lạnh như băng của miếng ngọc Thanh Trấn Khuê, trong giấc mộng mấy ngày nay gã liên tục mơ về ký ức thời xa xưa ấy, khiến gã không khỏi nhớ về miếng ngọc Thanh Trấn Khuê này, nhất thời không nghe rõ lời của bác sĩ.
Cho đến khi bác sĩ hỏi lại một lần nữa, chủ tiệm mới khẽ than thở: “Bởi người ấy biết tôi rất khó hạ quyết tâm chôn món đồ cổ thứ mười hai của đế vương này xuống đất, nên mới quyết đưa đủ số đồ cổ còn lại cho tôi”.
“Món đồ cổ đế vương thứ mười hai? Anh tìm thấy rồi sao? Là gì?” bác sĩ hấp tấp hỏi dồn.
Gã chủ tiệm nhìn xuống, tay khẽ chạm vào chiếc áo Xích Long trên người gã.
Bác sĩ lúc đầu còn không hiểu gì, nhưng sau giây lát chợt hiểu ra, tròn mắt kinh ngạc.