Đọc truyện Tiệm Đồ Cổ Á Xá – Chương 37: Cờ Lục Bác
1
Hồ Hợi đứng trong một cái sảnh rộng, bài trí rất cổ kính nhưng không có nhiều đồ, khiến ai nhìn thoáng vào sẽ thấy rất rộng. Còn trên bức tường trước mặt Hồ Hợi thì treo đầy các loại đao cổ đã tuốt khỏi vỏ, có cái thì lấm tấm gỉ sét, có cái thì vẫn sáng bóng sắc nhọn, khí lạnh ghê người.
Hồ Hợi nhìn số đao cổ một cách hài lòng, hồi nhỏ thực ra hắn không hề thích đao, luôn cảm thấy lưỡi đao dính máu tươi rất đáng sợ, sát khí quá nặng. Không hiểu từ bao giờ tự hắn lại đi thích sưu tầm đao cổ?
“Gươm đao tuy sắc, nhưng không phải là hung khí, còn phải xem nó trong tay ai. Ngươi có thể dùng nó để giết người, cũng có thể dùng nó để bảo vệ người thân yêu của mình”.
Phải, sau khi hoàng huynh nói với hắn câu đó, hắn liền thích sưu tập đao. Nhưng dù sưu tập từng đó đao cổ, hắn vẫn không thể bảo vệ nổi người hắn muốn bảo vệ. Thậm chí… thậm chí hoàng huynh còn chết thảm dưới gươm đao sắc bén…
Con chim đỏ đậu trên vai Hồ Hợi, vừa dùng chiếc mỏ nhọn rỉa lông, vừa khinh khỉnh nhìn đám đồng loại lạnh ngắt treo đầy tường. Nó mới là thanh đao chủ nhân yêu thích nhất, đám kia còn kém xa!
Hồ Hợi nhìn số đao treo đầy nhà, nhớ lại thanh đao mà hắn muốn có được nhất, vốn đã biết thanh đao giũa ngọc Ngô đao đang ở Á Xá, nhưng không ngờ kẻ đó lại đem Ngô đao quý giá tặng cho người khác.
Chẳng lẽ đối phương vẫn luôn bày trò che mắt? Nếu không vì sao chén Cửu Long đã hút linh hồn người kia mà hoàng huynh vẫn không tỉnh lại? Chẳng lẽ bác sĩ không phải là hoàng huynh hắn đầu thai? Mà phải là người khác?
Tính tuổi ra, thì đúng là hợp lý mà…
“Hồ thiếu gia, hội cờ lần này vẫn theo lệ cũ chứ?”. Một giọng nói già cỗi vang lên bên ngoài sảnh đường, lời nói còn kèm theo tiếng ho xé gan xé phổi.
Hồ Hợi ra khỏi hồi ức, nhìn bức tường treo đầy đao, nheo đôi mắt đỏ rực, nói lạnh lùng: “Vẫn làm như cũ, ta nhớ ông cũng đến lúc cần hội cờ rồi”.
“Đa tạ Hồ thiếu gia thương xót”. Giọng nói già cỗi tỏ ra xúc động, tiếng ho càng dữ, vội vàng cáo tội định bỏ đi.
Hồ Hợi nhăn mày, nói thêm một câu: “Phải rồi, lần hội cờ này nhớ mời thêm một người”.
“Hồ thiếu gia cứ dặn dò”. Giọng nói già cỗi hơi có chút ngạc nhiên, bao năm nay, đây là lần đầu tiên thiếu gia muốn mời một người đến hội.
“Người đó tên là…”. Hồ Hợi nhếch đôi môi nhợt nhạt, cười mỉm: “Lục Tử Cương”.
2
Lục Tử Cương xuống xe ngựa, đi đường dài đã mệt mỏi, từ Bắc Kinh bay đến Tây An, lại ngồi thêm mấy tiếng đồng hồ trên xe hơi, cuối cùng đến đường cũng chẳng có mà đi, đành phải thuê một chiếc xe ngựa mới đi tiếp được. Lòng vòng hơn ba tiếng đồng hồ trong rừng mới tới nơi.
Nguyên nhân là một ông chú họ trong nhà nhắn qua mẹ anh gọi anh tới. Thực ra là một ông chú họ xa bắn đại bác không tới, nghe mẹ anh nói, hồi nhỏ còn đã gặp rồi. Nhưng Lục Tử Cương lục lọi hết trí nhớ cũng không thể nhớ nổi ông chú họ trông thế nào.
Có điều dù sao cũng là họ hàng, người ta đã mở miệng, anh không tiện từ chối. Muốn anh đường xa tới, ắt là coi trọng thân phận anh, muốn anh xem thứ đồ cổ gì đó. Lục Tử Cương tuy mệt muốn chết, nhưng vẫn cố lấy lại tinh thần. Anh thò tay vào áo, lấy một con dao nhỏ màu đen tuyền cầm trong tay. Kể ra cũng lạ, vốn đã rất mệt, nhưng chỉ cần cầm con dao, là anh đã thấy khỏe lên nhiều.
Lúc này đã xế chiều, mặt trời ngoài khu rừng đã dần dần giấu đi ánh sáng, khu rừng vào đêm càng thêm hoang lương, Lục Tử Cương thấy xe ngựa đã dừng lại, lúc này mới cất Ngô đao và ngẩng đầu nhìn lên.
Thấp thoáng trong khu rừng, một căn nhà cổ kính đã hiện ra trước mặt, đèn lồng treo trước cổng tỏa ra ánh sáng đỏ mờ ảo, rọi xuống đôi sư tử đá đứng trầm lặng trước cửa nhà. Thoáng chốc Lục Tử Cương gần như có cảm giác quay về quá khứ. Nhưng nhìn ra tiếp thì Lục Tử Cương phát hiện thấy có một gã đàn ông mặc complet thắt cà vạt đứng trước cửa, đây chỉ là biệt thự phỏng cổ của một nhà giàu thôi.
Lục Tử Cương xuống xe ngựa, gã đó bèn qua giúp anh lấy hành lý, và trả tiền. Lục Tử Cương lấy điện thoại định gọi cho ông chú họ, thì mới nhận ra ở đây hoàn toàn ngoài vùng phủ sóng.
Không phải là sóng di động phủ khắp toàn cầu à?
Lục Tử Cương cũng không để ý lắm, lại cất điện thoại vào túi, đi theo người đó vào trong nhà. Vào đến trong sân, Lục Tử Cương mới kinh ngạc, bởi vì đình đài lầu các anh nhìn thấy đều là kiến trúc gỗ mô phỏng thời Tần Hán.
Thông thường, người ta làm kiến trúc giả cổ vẫn hay phỏng theo thời Minh Thanh, kiểu nhà theo lối Tần Hán này rất ít thấy. Nhưng tòa nhà này dùng các kết cấu như đài lương, xuyên đẩu, thậm chí là tỉnh can, chắc chắn không nhầm được, là phong cách kiến trúc thời Tần Hán. Hơn nữa còn có gạch ngói Tần Hán rất rõ ràng, nếu không phải vì trời đã tối, có khi còn nhìn được cả những hoa văn đặc sắc trên ngói.
(Đài lương là kết cấu trồng cột trước, đặt xà gỗ ngang lên trên, rồi lại đặt tiếp lớp xà gỗ nữa lên trên, vài lớp xà ngang chồng lên nhau. Xuyên đẩu là trồng cột cao dần và đặt xà chéo nối các đầu cột lại với nhau, lại dùng các thanh ngang để cố định. Còn tỉnh can là lấy gỗ nguyên cây gia công thô sơ ghép thành khung, rồi ghép gỗ tiếp thành tường, thành mái… Tương đối giống loại nhà gỗ ở Bắc Mỹ)
Nhà này quả là chịu khó chi tiêu, Lục Tử Cương thầm thán phục, nhìn những cây cổ thụ sừng sững trong sân, có thể thấy khu nhà này có niên đại khá lâu. Nhưng Lục Tử Cương không cho rằng khu nhà này làm từ thời Tần Hán, công trình kiến trúc trải qua hai ngàn năm mưa gió chiến tranh mà vẫn còn đứng vững, ở Trung Quốc chắc chỉ có Trường Thành. Hơn nữa Trường Thành cũng do các triều đại sau này không ngừng tu bổ gia cố, nếu không thì e là đã thành cát sỏi mất một nửa rồi.
Lục Tử Cương nhìn quanh một lát, cảm thấy hình như bố cục của khu nhà có gì lạ lạ, nhưng anh chưa kịp quan sát cẩn thận, thì đã được dẫn vào sảnh đường của tòa nhà chính. Trong này đèn đuốc sáng trưng, đã có mười mấy vị khách, đang ngồi uống trà nói chuyện quanh chiếc bàn Bát Tiên, đúng lúc nói chuyện sôi nổi, Lục Tử Cương đẩy cửa bước vào, liền ngẩng hết đầu lên nhìn anh. Đột nhiên thấy quá nhiều gương mặt xa lạ, Lục Tử Cương hơi ngẩn người ra.
“Tiểu Cương! Cháu đến rồi! Mọi người đều đang đợi cháu đấy!”. Một người đàn ông trung niên khoảng hơn năm mươi tuổi đứng dậy, nói giọng Thiểm Tây đặc sệt.
Dù Lục Tử Cương lớn lên ở Bắc Kinh, nhưng quê ngoại ở Thiểm Tây, nên dù không quen người trung niên kia, anh cũng đoán chắc đó là ông chú họ nhà mình, bèn chào hỏi ngay. Ông chú cũng không khách sáo, kéo anh ngồi vào ghế trống bên cạnh ông ta như thể thân quen lắm, rồi cũng chẳng quan tâm xem anh có nhớ hết nổi không, bắt đầu giới thiệu từng vị khách theo chiều kim đồng hồ. Lục Tử Cương chào từng người một, người khiến anh ấn tượng nhất là một ông già và một thanh niên. Ông già là chủ nhân của khu nhà này, mọi người đều gọi ông ta là cụ Dư, tuổi tác xem ra cũng đã bảy tám mươi, sức khỏe không tốt, thỉnh thoảng lại ho sù sụ từng cơn. Còn gã thanh niên ngồi bên trái ông ta, tóc trắng mắt đỏ, nhưng rất tuấn tú, là người đẹp hiếm thấy. Vì màu tóc và màu mắt khác người, tuy biết chắc chắn do bệnh bạch tạng, nhưng rất ít đàn ông để tóc dài như thế, nên Lục Tử Cương bất chợt nhìn hắn ta lâu hơn một chút.
Chắc là do anh đến muộn, nên mọi người ở đây đều biết thân phận của anh, trong đó một cô gái trẻ khoảng chừng hơn hai mươi tuổi nâng chén trà lên hỏi: “Cháu của chú Lý có cái tên lạ quá nhỉ! Tên là Lục Tử Cương, giống hệt tên của một thánh thủ làm ngọc trong lịch sử. Chỉ không biết là có Côn Ngô đao trong người không thôi?”.
Lục Tử Cương nghe thấy ba chữ “Côn Ngô đao”, dù biết người ta nói đùa, nhưng cũng sờ lên túi đeo hông một cách vô thức, đúng là trên người anh có Ngô đao. Vì vừa giới thiệu nên Lục Tử Cương vẫn nhớ tên cô gái là Hạ Thiển, là phóng viên của một tòa soạn, hôm nay đi cùng chồng là Ngụy Trác Nhiên tới. Cô Hạ Thiển ấy rất xinh đẹp, mái tóc ngắn nhuộm và làm xoăn rất nổi bật, trang điểm tinh tế, ăn mặc thời thượng, rất có phong cách của quý cô văn phòng. Chồng cô – Ngụy Trác Nhiên – ngồi bên cạnh, cũng là người tuổi trẻ tài cao tướng mạo hơn người, nghe nói là lãnh đạo cao cấp của một công ty vốn nước ngoài, hai người ngồi cạnh nhau quả là trai tài gái sắc. Có điều rõ ràng Ngụy Trác Nhiên bị vợ bắt phải đi cùng tới đây, dù trên gương mặt tuấn tú vẫn nở nụ cười, nhưng ánh mắt thì vô cảm lạnh nhạt.
Từ bé Lục Tử Cương đã bị không biết bao nhiêu người trêu chọc vì cái tên này, bây giờ cũng không mấy chú ý, chỉ giải thích vài câu. Đấy là do bố anh say mê khảo cổ học, nghe đâu lúc anh chào đời, ông bố đang say sưa nghiên cứu đồ ngọc có đề tên Tử Cương, bèn đặt luôn tên cho anh là Lục Tử Cương.
Sau câu nói đùa, khoảng cách giữa mọi người được xóa nhòa, Lục Tử Cương cũng phát hiện thấy dù mọi người ở đây có nhiều độ tuổi, nhưng đều là người trong nghề, nếu không người thường sao biết được Lục Tử Cương là ai.
“Phải nói hôm nay chúng ta gặp nhau ở đây cũng là cái duyên! Ngoài anh Lục ra thì còn có cả cậu bạn Hồ Hợi nữa đấy! Ha ha!”. Một anh thanh niên xấp xỉ tuổi Lục Tử Cương cười nói, anh ta tên là Lâm Nghiễn, là sinh viên ngành lịch sử của một đại học lớn, ngồi cạnh anh là anh trai sinh đôi tên Lâm Mặc, hai người một tĩnh một động, Lâm Nghiễn mặc một bộ thể thao Nike, còn Lâm Mặc thì mặc áo sơ mi kẻ và quần bò. Hai người này tướng mạo thanh tú, nhìn là biết thuộc loại hot boy của trường. Lúc đó Lâm Nghiễn nháy nháy mắt tinh nghịch, vừa nói vừa nhìn sang phía gã trẻ tuổi ngồi cạnh cụ Dư.
Lục Tử Cương lúc nghe ông chú giới thiệu, nghe được tên của gã đẹp trai tóc trắng mắt đỏ kia là Hồ Hợi, còn nghĩ chỉ là chữ đồng âm thôi, không ngờ đúng là hai chữ “Hồ Hợi” đó. Thấy hắn không đáp lời, mặt lạnh tanh, Lục Tử Cương cũng không biết trả lời ra sao, chỉ nói mấy câu “trùng hợp thật”, rồi chuyển chủ đề khác.
Bàn này có mười hai người, Lục Tử Cương tới là đủ số, người phục vụ ở sảnh đường bỏ trà nước đi chỗ khác, đưa lên rượu và thức ăn ngon. Lục Tử Cương bôn ba cả ngày đường, đói không chịu nổi, liền không nói năng gì, chuyên tâm ních cho đầy bụng. Khu nhà này rất phi thường, rượu thịt bày ra đều có lai lịch, mỗi món ăn đều đầy đủ hương sắc vị, hàm ý sâu xa. Lục Tử Cương thì không nghiên cứu gì về ẩm thực, vừa ăn vừa nghe Lâm Nghiễn giảng giải truyền kì về món ngó sen hoa quế lưu li, nghe rất thích thú.
Được ba tuần rượu, không khí đã rôm rả, Lục Tử Cương cũng đã lưng lửng bụng, bèn bỏ đũa, nhìn ngó xung quanh. Bố cục của gian nhà chính này rất kỳ lạ, cấu trúc đài lương là trồng cột rồi bắc kèo ngang, trên kèo lại có kèo nữa, nên còn gọi là kiểu “điệp lương” (chồng kèo). Kiểu cấu trúc này thông thường dùng cho những công trình lớn như cung điện hoặc đền miếu, không có gì kỳ lạ. Nhưng gian nhà chính này là một dạng kiến trúc vuông rất ít thấy, mà rộng đến phát sợ, nhưng tứ phía đều bị bình phong vải thêu Tô Châu cao bằng đầu người che hết, nên nhìn qua thì không đến mức quá to lớn. Lúc này trời đã tối hẳn, trong sảnh đường chỉ có bốn cây đèn cung đang cháy sáng giữa các bình phong, càng thêm cảm giác cổ điển, nhưng Lục Tử Cương nhìn mấy tấm bình phong được chiếu sáng hắt bóng xuống đất, mấy chiếc bóng đen đưa qua đưa lại, trong lòng có một cảm giác bất an khó tả.
Trong lúc ăn uống, ông chú họ cũng tiện thể nói cho Lục Tử Cương biết mục đích lần này gọi anh đến. Cụ Dư chủ khu nhà này là người rất có thanh danh ở trong giới, ngày xưa khi bảo tàng quốc gia xây dựng đã từng hiến tặng rất nhiều đồ cổ. Lúc đó Lục Tử Cương mới thấy sự liên kết giữa cụ Dư trong ấn tượng của mình với ông già như ngọn nến trước gió ở trước mặt. Trong giới khảo cổ, buổi họp mặt của cụ Dư rất có tiếng, cụ Dư thích cứ cách một khoảng thời gian lại mời vài người tới gặp mặt, lấy ra vài món đồ cổ để mọi người cùng bình phẩm. Lục Tử Cương chỉ biết ông chú họ vài năm trước bỗng làm ăn phát tài, không hiểu sao lại quen cụ Dư, nên có cơ hội này không dễ dàng gì. Có lẽ ông chú anh cũng biết bản thân học thức chưa đủ, cũng may mà buổi họp mặt của cụ Dư có thể đem người nhà theo, nên mới nhớ ra thằng cháu họ xa đang làm ở bảo tàng quốc gia. ít nhất thì cũng có cái mà góp vui chứ?
Lục Tử Cương nghe xong thấy cũng khá giống với phán đoán của anh trước đây, nên yên tâm phần nào. Thực ra anh rất thích nơi này, trừ khoản giao thông không thuận tiện ra, thì khu nhà này đúng là một cõi đào nguyên cách xa thế tục, từ lúc anh vào đến bây giờ, không thấy món đồ nào là có hơi hướng hiện đại, tất cả đều rất cổ điển, như rời xa hoàn toàn rừng bê tông cốt thép của thành phố, khiến một người sùng bái văn hóa cổ điển như anh phải trầm trồ mãi không thôi.
Bữa cơm kết thúc rất nhanh, những người phục vụ lặng lẽ tới dọn bàn ăn, lại bưng lên ấm trà Bích Loa Xuân loại thượng hạng đã pha xong. Mọi người đã say men, quen mặt, không còn cảm giác xa lạ lúc đầu nữa, một vị trung niên hơn bốn mươi tuổi sốt ruột giục giã: “Cụ Dư, hôm nay định đem bảo bối gì cho chúng tôi được mở rộng tầm mắt đây?”.
Người trung niên này tên là Nghiêm Ngạo, thân hình khô đét, màu da tôi tối, trán khắc sâu những nếp nhăn, sống mũi đeo chiếc kính viền vàng, trên người mặc một bộ complet rộng thùng thình, trên tay đeo chuỗi vòng hổ phách hạt to cỡ quả trứng chim bồ câu, nghe nói ông ta là người phụ trách một hàng bán đấu giá, có quan hệ rất tốt với cụ Dư, nên câu từ không quá câu nệ.
Cụ Dư thỉnh thoảng vẫn ho lên mấy tiếng khe khẽ, khiến người khác không khỏi lo lắng liệu cụ còn chống đỡ nổi không, lúc này cô gái ngồi bên tay phải cụ mới cười nói: “Anh Nghiêm không cần nóng ruột, hôm nay chỉ ra mắt một món đồ cổ thôi, nhưng chắc chắn không làm mọi người thất vọng”.
Cô gái này cũng chỉ khoảng hơn hai mươi tuổi, khác với cô Hạ Thiển trang điểm kỹ càng, cô này tên là An Nặc, lại như hoa sen trên mặt nước, có vẻ đẹp tự nhiên, mái tóc đen dài và thẳng bỏ xõa sau lưng, trên gương mặt sáng như bạch ngọc luôn có một nụ cười nhẹ nhàng, gây cảm giác rất dễ chịu.
Ban nãy Lục Tử Cương đã nghe ông chú giới thiệu, biết An Nặc là trợ lý của cụ Dư, trên bàn ăn chăm sóc hầu hạ cụ Dư rất tỉ mẩn, nói năng rất có duyên, biết cách điều khiển không khí trong tiệc. Lại thêm dung mạo xinh đẹp, tính khí nhẹ nhàng, đàn ông ở đây dành khoảng nửa thời gian là để ngó sang phía cô.
Nghiêm Ngạo nghe xong lại càng tò mò, tuy thời gian ông ta quen biết cụ Dư không lâu, nhưng nghe đâu mỗi lần họp mặt là cụ Dư đem ít nhất ba món đồ cổ ra cho mọi người bình phẩm. Hôm nay chỉ có một món, tức là món đó có giá trị ngang với ba món đồ cổ.
Lục Tử Cương nhìn một vòng, nhận thấy không chỉ có Nghiêm Ngạo tò mò, mà tất cả mọi người đều ít nhiều đang hồi hộp chờ đợi, tất nhiên trừ gã tóc trắng tên là Hồ Hợi và Ngụy Trác Nhiên bị lôi vào đây. Hồ Hợi thì chắc hẳn đã biết thừa là đồ gì, còn anh kia chắc là không thèm quan tâm.
Cụ Dư thì thầm dặn dò An Nặc mấy câu, cô liền đứng dậy, đi vòng qua bình phong vào sảnh nhỏ bên cạnh. Mọi người không phải chờ lâu, cô quay lại, tay cầm một chiếc hộp gỗ vuông hơi bẹt, cẩn thận để lên trên bàn, mở ra.
Một mùi gỗ mục xộc lên mũi, Lục Tử Cương hơi nhăn mày, anh không ngửi thấy mùi của chất chống mục, chẳng lẽ cụ Dư lại không giữ gìn cổ vật hay sao? Anh nhìn lại vào hộp, bất ngờ đến trợn tròn mắt.
“Cờ Lục Bác!”. Người kêu lên kinh ngạc trước cả Lục Tử Cương, là học giả Ngô Ngữ khoảng ngoài ba mươi tuổi, nghe nói anh đang viết một bộ sách về cổ vật, đang sưu tầm tư liệu khắp nơi. Lúc này anh ta xúc động đến mức phải đứng dậy, cơ thể mập mạp run rẩy, vẻ mặt như rất muốn chạm vào nhưng lại không dám tự ý.
“Cờ Lục Bác?”. Hạ Thiển đã lấy máy ảnh kỹ thuật số ra, dưới sự cho phép của An Nặc, chụp liên tục chiếc hộp gỗ trên bàn. Đèn flash lóe lên chói mắt, nhưng không ai nỡ nhắm mắt, cho dù là Ngụy Trác Nhiên vốn không hứng thú gì, cũng bắt đầu tỏ ra tò mò.
Trong hộp gỗ chỉ có ba món đồ, một bàn cờ gỗ hình vuông, mười hai quân cờ hình chữ nhật bằng ngọc và sáu chiếc đũa tre. ở chính giữa bàn cờ khắc chìm một khu vực hình vuông, dùng sơn đỏ vẽ bốn chấm tròn, hai đầu mỗi bên khắc ba khu vực nữa, ngoài ra còn có vài đường gấp khúc. Quân cờ cũng khác nhau, trong đó năm quân làm bằng ngọc Hòa Điền, năm quân làm bằng ngọc đen Hòa Điền, còn hai quân cờ ngọc màu xanh cánh chả thì to hơn mười quân kia một chút. Sáu chiếc dũa được làm từ thanh tre chẻ đôi, có mặt cắt hình vòng cung.
“Quân cờ này, trông rất giống quân mạt chược…”. Hạ Thiển vừa chụp ảnh, vừa nói nhỏ.
Nhìn bộ cờ Lục Bác có vẻ là đồ thật ở trước mặt, dưới ánh flash chớp tắt, Lục Tử Cương cũng thấy kích động. Ông chú đứng bên cạnh thì không biết là thứ gì, lấy đầu gối đập đập vào chân Lục Tử Cương, ý muốn anh nói cho vài câu.
Lục Tử Cương định thần, lúc này điều anh muốn làm nhất là cầm bộ cờ lên tay để giám định, xem xem là niên đại nào, còn về câu hỏi của ông chú, trong lúc anh đang sắp xếp ngôn từ để trả lời thì đã có người nói trước.
Những người trẻ tuổi ở đây không có mấy người biết cờ Lục Bác là gì, nên một bác trung niên khoảng năm mươi tuổi đứng cạnh ông chú hắng giọng rồi giải thích: “Cờ Lục Bác là một loại cờ thời cổ đại, tương đối phổ biến vào thời Xuân Thu Chiến Quốc và thời Tần Hán, đã có vài ngàn năm lịch sử. Theo nghiên cứu của các học giả, cờ Lục Bác này thực tế là ông tổ của tất cả các loại cờ chiến trận trên thế giới, như cờ tướng, cờ vua, cờ tướng Nhật Bản…, đều được phát triển từ cờ Lục Bác”.
Người đàn ông trung niên rất nho nhã này tên là Trần Diểu, nghe nói là chủ một thư viện cá nhân, sưu tập được rất nhiều sách độc bản quý hiếm, thường xuyên được các trường đại học lớn mời tới nói chuyện, giọng nói lên bổng xuống trầm, nghe rất hay.
“Bàn cờ Lục Bác này có gì hay?”. Lâm Nghiễn có đôi chút không tín, anh ta học lịch sử, tuy nghiên cứu phương diện nhân văn, nhưng Lâm Nghiễn tự cho là kiến thức trong đầu mình nhiều hơn người khác vài chục lần, có chút nghi ngờ về lời của Trần Diểu: “Thầy Trần, nếu cờ Lục Bác quả là như lời thầy nói, thì vì sao em chưa nghe thấy bao giờ?”.
Ngô Ngữ từ nãy vẫn xúc động đứng chống tay vào bàn, hừ một tiếng, nhếch mép ngạo nghễ nói: “Thằng nhóc này học hành không tới nơi thôi, cờ Lục Bác mà còn chưa nghe tới bao giờ, vậy thì chắc đã nghe tới từ “bác dịch” (chơi cờ) rồi chứ? Chữ “dịch” trong từ “bác dịch” là để chỉ chơi cờ vây…”
“À! Còn chữ “bác”, chẳng lẽ là trong cờ Lục Bác?”. Hạ Thiển ngừng chụp ảnh, ngạc nhiên thốt lên, ngắt lời của Ngô Ngữ.
Ngô Ngữ bị ngắt lời, hơi chau mày, dù rất ghét bị người khác nới leo khi đang phát biểu, nhưng người ta là cô gái trẻ đẹp, ông ta cũng không tiện nói, tay chống vào cạnh bàn ngồi xuống.
Thầy Trần cười rất nho nhã, tiếp lời luôn: “Thiên “Dương Hóa” trong sách “Luận Ngữ” có câu, “bão thực chung nhật, vô sở dụng tâm nan hĩ tai! Bất hữu bác dịch giả hồ? Vi chi, do hiền hồ dĩ”. Đại khái là nơi xuất hiện hai chữ “bác dịch” sớm nhất. Chu Hy đời Tống chú thích đoạn này là: “Bác, cục hí; dịch, vi kì dã”. Cô Hạ đoán không sai, hai chữ “bác dịch” ban đầu chỉ cờ Lục Bác và cờ vây”.
(Ăn no cả ngày, không chịu dụng tâm làm gì, thật khó thành! Không phải có trò chơi cờ sao? Chơi cờ còn tốt hơn không làm gì.
Bác, là trò chơi theo ván; dịch, là cờ vây)
“Hơn nữa chỉ nhìn hai chữ “bác dịch”, “bác” đặt trước “dịch”, theo như thói quen của người xưa thì tức là thời đó mức độ phổ biến của cờ Lục Bác còn rộng hơn cờ vây”. Đôi mắt híp của Nghiêm Ngạo gầy guộc phát sáng, như chỉ hận mình không thể chiếu X-quang quét vào bộ cờ Lục Bác.
“Hay thế sao!”. Lâm Nghiễn nghe mà ngẩn người, tuy vẫn không hiểu gì về cờ Bác Dịch, nhưng anh ta biết tầm quan trọng của cờ vây trong lịch sử Trung Quốc. Sau khi biết trong lịch sử, cờ Lục Bác còn “oách” hơn cả cờ vây, ánh mắt khinh khỉnh nhìn vào hộp gỗ của anh ta cũng đã trở nên cuồng nhiệt.
Ngụy Trác Nhiên chồng của Hạ Thiển thì khác với những cái đầu đang bốc hỏa kia, hỏi một câu thẳng vào vấn đề: “Nhưng hiện nay ai cũng biết cờ Lục Bác không bằng được cờ vây nữa, đó là vì nguyên nhân gì?”.
“Cờ Lục Bác được phát minh rất sớm, theo nghiên cứu, muộn nhất cũng không thể muộn hơn thời nhà Thương, sau này thịnh hành ở thời Xuân Thu Chiến Quốc đến thời Tần Hán, là một thứ không thể thiếu trong đời sống hàng ngày so với cờ vây khá sâu xa khó hiểu, thì cờ Lục Bác mang hơi hướng cờ bạc được sử dụng rộng rãi ở mọi tầng lớp. Thời Tần Hán, từ hoàng đế đến nhà buôn, binh lính đều say mê. Người tinh thông cờ Lục Bác thậm chí có thể có chức quan trong triều, được mọi người kính trọng”. Nghiêm Ngạo uống một ngụm trà Bích Loa Xuân đã nguội ngắt, thở dài khẽ một tiếng rồi nói tiếp: “Nhưng sau thời Đông Hán, cờ Lục Bác bắt đầu suy vi, cách chơi đã thất truyền, sử liệu có liên quan còn đến bây giờ đều ghi chép rất vụn vặt, lời lẽ không rõ ràng, ném đũa thế nào, đi cờ thế nào, đều không ai biết nữa. Còn về nguyên nhân cách chơi cờ Lục Bác thất truyền, có lẽ là liên quan đến chuyện người ta cải tiến nó. Sau này xuất hiện cờ tướng, phân công quân cờ rõ ràng hơn, cờ Lục Bác dần dần bị thời đại đào thải”.
Tiếng nói của Nghiêm Ngạo hơi khan khản, trong sảnh đường rộng trống trải nghe có chút thê lương, mọi người như đang theo lời của ông ta đi về thời kỳ cờ Bác Dịch thịnh hành mấy ngàn năm trước, ai cũng trầm ngâm không nói.
“Vậy bộ cờ Lục Bác của cụ Dư này, niên đại có khoảng từ những năm bao nhiêu?”. Ông chú họ sao có thể bỏ qua cơ hội nói lên suy nghĩ của mọi người này được, mà mục đích của ông ta chính là muốn lấy lòng cụ Dư.
Lục Tử Cương sực nhớ ra, biết ý ông chú mình hỏi, liền giới thiệu: “Cờ Lục Bác từ thời Xuân Thu Chiến Quốc tới Tây Hán, hình dáng không có gì khác biệt. Nhưng vào thời Đông Hán từng có một lần cải cách, sau khi cải cách thì cờ Lục Bác được gọi là Tiểu Bác, còn trước khi cải cách thì gọi là Đại Bác. Hai trò này khác nhau chủ yếu ở số lượng đũa. Đại Bác có sáu “trợ”, Tiểu Bác có hai “quỳnh”. Tác dụng của quỳnh và trợ đều giống nhau, dùng để ném. À, hình dạng của quỳnh thì khá giống xúc xắc bây giờ, chỉ có điều không phải là sáu mặt, mà là một hình đa diện”.
“À à! Nói vậy thì bàn cờ Lục Bác này, rất có thể là đồ cổ từ thời Tây Hán về trước?”. Ông chú xem ra rất phấn khích, cứ như bộ cờ Lục Bác trước mặt là của ông ta.
Không có nhiều khả năng. Lục Tử Cương cất câu đó trong bụng, “Tây Hán về trước” nói ra thì đơn giản, nhưng món đồ mấy ngàn năm tuổi sao có thể bảo tồn một cách đơn giản vậy được? Đặc biệt đây lại là đồ gỗ, có lẽ là cờ Lục Bác đời sau làm phỏng theo, nhưng nhìn thì chắc cũng được vài trăm năm lịch sử rồi. Lúc này, Lục Tử Cương không dám nói nhiều, dù ở đây đại đa số là người trẻ tuổi, nhưng rất nhiều người trong nghề, không phải chỉ có mình anh hiểu giá trị món đồ.
Hạ Thiển không có hứng thú gì với niên đại của cờ Lục Bác, cô ta xem lại hình chụp trong máy ảnh, đột nhiên phát hiện ra điều gì, kinh ngạc thốt lên: “Này! Hình vẽ trên bàn cờ này trông quen quá!”.
Nghe thấy cô nói, mọi người đều đổ dồn ánh mắt lên trên bàn cờ, trừ Lục Tử Cương đến muộn không hiểu chuyện gì, người khác đều lần lượt tỏ ra kinh ngạc.
An Nặc đưa tay vuốt mấy sợi tóc trước ngực ra sau vai nhẹ nhàng cười, nói: “Không sai, bàn cờ này rất giống với bản thiết kế khu nhà. Hoặc là, chủ nhân ngôi nhà này năm xưa, vì say sưa với cờ Lục Bác, nên đã phỏng theo bàn cờ Lục Bác, tạo nên khu nhà này”.
Mọi người đều hít một hơi sâu, vì đã nghe ra hàm ý lời nói của An Nặc. Say sưa với cờ Lục Bác? Tức là có thể từ khoảng thời Xuân Thu tới Đông Hán, nói vậy thì khu nhà này tồn tại ít nhất hai ngàn năm rồi?
Lục Tử Cương lúc này mới hiểu tại sao khi mới bước vào đây anh lại thấy bố cục rất kỳ quái, gian sảnh đường hình vuông mà họ đang ngồi bây giờ, chắc là khu vực hình chữ nhật được vẽ ở chính giữa bàn cờ Lục Bác. Còn những đường gấp khúc xung quanh và khu vực ở hai đầu, chắc cũng đều có hành lang và lầu các tương ứng.
Vì An Nặc nói vậy, nên mọi người đều không ngồi yên nổi nữa, trước đây họ chỉ nghi là kiến trúc ở đây được làm phỏng theo phong cách thời Tần Hán, nhưng bây giờ nghĩ kỹ lại, chỗ này heo hút xa xôi, biết đâu đúng là tránh được chuyện binh lửa, cộng thêm việc các đời chủ nhân chăm chút tu sửa thường xuyên nữa… Dù không phải thế, dù kiến trúc gỗ không phải là chất liệu từ hai ngàn năm. trước thật, thì đồ đạc trong nhà cũng có thể bảo tồn hoàn hảo…
Lục Tử Cương lập tức nhìn xuống bàn, ghế, bình phong, thậm chí chén trà trước mặt, rồi thất vọng quay lại, chí ít là trong tầm nhìn của anh, chỉ có mỗi chiếc bàn cờ Lục Bác trước mặt là đồ cổ.
An Nặc mỉm cười, nói: “Tối nay vừa hay chúng ta có mười hai người, cờ Lục Bác vừa hay có mười hai quân, mà khu nhà này lại là một bàn cờ Lục Bác, chi bằng chúng ta trải nghiệm thú cờ Lục Bác một chút!”.
“Trải nghiệm thế nào?”. Lâm Nghiễn đang hăng hái, đang mong có trò vui: “Có phải là cưỡi lên quân cờ như trong Harry Potter không?”.
“Không đến mức đó, tôi không biết phép thuật đâu”. An Nặc bật cười, bên má lộ ra đôi lúm đồng tiền đáng yêu: “Chỉ là có hai người chơi cờ, những người khác thì đi trong khu nhà theo chỉ huy, coi như tản bộ sau khi ăn”.
Nghe cô nói, đa số đều đồng ý, có người thì ngồi trong phòng bí bách quá muốn bỏ ra ngoài nhưng sợ thất lễ, nhiều người thì muốn nhân cơ hội này đi xem quanh khu nhà, tìm thêm chứng cứ cho khu nhà cổ kính này.
“Cờ Lục Bác mỗi bên đều có sáu quân, một quân “Hiêu”, năm quân “Tán”, nên gọi là Lục Bác. Quân Hiêu là quân vua, do cụ Dư và một người khác đảm nhận. Còn ta dùng sáu thanh tre này làm đũa ném, có bao nhiêu mặt cong hướng lên trên thì được đi từng ấy bước. Quy tắc đơn giản, không biết có vị nào hứng thú chơi một ván với cụ Dư không?”. An Nặc đứng dậy, lấy bàn cờ Lục Bác trong hộp gỗ ra. Động tác vừa cẩn thận vừa thanh thoát, trông rất đẹp mắt.
Chưa có ai lên tiếng, người trẻ tuổi thì không muốn chơi cờ với người già, còn người đứng tuổi thì thích đi loanh quanh thăm khu nhà hơn. Ông chú thấy không ai hưởng ứng, liền nhận chơi. Ông ta chỉ mong có cơ hội nói chuyện với cụ Dư cơ hội tốt thế này đâu thể bỏ lỡ.
An Nặc vỗ vỗ tay, liền có người đem lên mười hai chiếc bộ đàm, cô phát cho mọi người: “Ở đây tín hiệu di động không tốt, lát nữa dùng bộ đàm để liên lạc. Trên tường ở đây có rất nhiều đao cổ do cụ Dư sưu tầm, mọi người lát nữa lấy một thanh cầm trong tay, nếu đao bị người khác lấy mất thì tức là đã bị ăn. Tất nhiên là cần mọi người phối hợp làm theo chỉ lệnh phát bộ đàm rồi!”.
Cũng không có gì cần dặn dò đặc biệt, mọi người rút thăm chia nhóm, bên phía cụ Dư có gã tóc trắng Hồ Hợi, An Nặc, Hạ Thiển, Lâm Mặc và Ngô Ngữ. Sáu người còn lại thì ở bên Lục Tử Cương và ông chú họ. Cặp vợ chồng và cặp sinh đôi vừa khéo lại bị tách nhau ra, kể cũng thú vị. Mỗi người được phát một quân cờ và một chiếc bút lông đã chấm mực đỏ.
Lục Tử Cương có nhớ lời đồn dùng mực đỏ viết tên là không lành, nhưng bây giờ ai cũng làm vậy cả, nên cũng tạm cất sự bất an đi, viết tên mình một cách ngay ngắn lên quân cờ trắng.
Khi trả cờ và đi chọn đao, Lục Tử Cương nhận ra trên tường trong sảnh đường này treo đầy đao cổ các triều đại, mà đều có một đặc điểm, đó là không có vỏ. Lưỡi đao hoặc sắc bén, hoặc đã gỉ sét, dưới ánh nến lờ mờ phát ra ánh sáng lạnh rợn người. Có vẻ cụ Dư thích nhất là sưu tập đao. Lục Tử Cương chọn đại lấy một thanh đao lá liễu rất phổ biến thời Minh Thanh, rồi đi ra ngoài.
3
Lục Tử Cương ra khỏi gian sảnh đường ngột ngạt, cơn gió đêm thổi lên mặt, khiến anh tỉnh cả rượu, sau khi nắm được phương hướng, liền đi theo chỉ thị qua bộ đàm của ông chú, đi về phía Đông Bắc của khu nhà.
Thời tiết tối nay không tốt, mây đen dày đặc che mất ánh trăng, bầu trời tối sẫm. Dưới ánh đèn gió treo dọc hành lang, bóng cây loang lổ, khiến khu nhà trở nên có chút âm u đáng sợ. Lục Tử Cương không tin chuyện ma quỷ, đối với anh, trên thế giới này, người còn đáng sợ hơn ma quỷ.
ở đây rừng núi u tịch, không có tiếng còi xe ầm ĩ và ánh đèn điện, chỉ có hơi thở của tự nhiên, khiến tâm trạng của anh cũng trầm lắng xuống. Lục Tử Cương đi qua hành lang, tới ngồi ở một cái lương đình. Đây chính là nơi anh được chi tới, hẳn là vị trí rất đẹp để ngắm vườn hoa sau nhà, chỉ tiếc trời tối u ám, ngoài một cây đèn gió đặt trong lương đình, hắt sáng lên bàn đá ghế đá trong đình, thì bên ngoài tối om không nhìn thấy gì cả.
(Một cái đình nhỏ để hóng mát)
Lục Tử Cương ngồi trên ghế đá, cảm thấy thanh đao lá liễu trên tay rất khó chịu, bèn đặt luôn nó xuống bàn đá. Có lẽ thanh đao này đã giết rất nhiều sinh mạng, huyết khí trong đó quá nặng nề, Lục Tử Cương vừa bỏ khỏi tay đã thấy nhẹ nhàng hơn nhiều, nghĩ đến những lần cầm Ngô đao cho tỉnh táo, bèn lôi Ngô đao từ trong túi ra.
Con dao lạnh ngắt trong tay khiến anh phấn chấn tinh thần, có lẽ dao giũa ngọc và đao giết người có sự khác biệt trời sinh, tự thân thanh Ngô đao đã có một luồng khí mát. Lục Tử Cương nhớ lại đầu đuôi chuyện có được Ngô đao từ Á Xá, bỗng cảm thấy chuyện đó thật là dở khóc dở cười. Chỉ vì tên của anh trùng với thánh thủ làm ngọc trong lịch sử, mà gã chủ tiệm tặng anh thanh Ngô đao để đổi lấy nửa tấm Vô Tự Bi. Đối với anh thì thanh Ngô đao này rõ là giá trị hơn nửa tấm Vô Tự Bi nhiều.
Lục Tử Cương đưa tay chà lên dao theo thói quen, đầu ngón tay lướt qua từng đoạn hoa văn trên thân dao, rồi lại cất vào trong túi, ngẩng đầu lên nhìn ra ngoài lương đình, mỉm cười nói: “Đến lấy đao phải không? Đao ở trên bàn, cứ lấy đi”. Theo quy tắc của cờ Lục Bác, quân cờ không di chuyển sẽ bị quân di chuyển ăn, nên Lục Tử Cương đoán là mình đã bị loại. Ông chú làm thế nào không biết, chưa gì đã mất một quân rồi, dù là đã chủ tâm thua cụ Dư, thì cũng không thể lộ liễu quá thế chứ?
Một bóng người cao cao đi chầm chậm từ trong bóng tối ra, mái tóc trắng dài xõa sau vai, dưới ánh đèn gió phản chiếu ánh sáng bạc, giống như cả người đang tỏa ra một vòng sáng màu bạc vậy. Mái tóc dài màu trắng bạc đung đưa như dòng nước theo những bước chân của hắn. Lục Tử Cương lúc này mới chú ý, gã đó mặc bộ đồ màu trắng, trên người khoác thêm chiếc áo khoác liền mũ màu đen, viền thêu hình mây màu đỏ ánh vàng, loại vải và hoa văn này, hình như anh đã gặp, nhưng nhất thời không nhớ ra mình nhìn thấy ở đâu.
Lục Tử Cương nhìn thấy hắn đi vào trong lương đình, hai tay không có gì, đến một thanh đao cũng không có, hơi sững người một chút rồi hỏi: “Anh bị giết rồi à?”.
Câu nói nghe hơi kỳ quái, nhưng quy tắc của ván cờ Lục Bác là người bị tước mất đao tức là đã chết, Lục Tử Cương cũng không thấy câu đó của mình có gì thất lễ. Nhưng rõ ràng anh nhìn thấy Hồ Hợi dừng lại, đứng sững trước bàn đá.
“Ha ha, chỉ là trò chơi thôi mà, cậu chủ Hồ không cần phải bận lòng”. Vì Hồ Hợi đứng trước mặt anh, gương mặt ở trong bóng tối nơi đèn gió không chiếu tới, Lục Tử Cương không nhìn rõ vẻ mặt của hắn, nên mới thử khuyên nhủ. Trên bàn ăn anh đã nghe thấy An Nặc gọi hắn là cậu chủ Hồ, nên cũng gọi theo như thế luôn. Lục Tử Cương lúc này cũng đã hiểu cái khó của bạn bè xung quanh anh, chơi với một người trùng tên với nhân vật nổi tiếng là làm khó nhau, anh không thể nào gọi gã thanh niên tóc trắng mắt đỏ kia bằng tên của Tần Nhi Thế được.
“Trò chơi à?”. Hồ Hợi khẽ cười, tâm trạng ẩn sau tiếng cười thực quá phức tạp, Lục Tử Cương không nghe ra có nghĩa gì.
Hồ Hợi ngồi xuống một chiếc ghế đá khác, đèn gió chiếu lên mặt hắn, càng thấy mặt hắn nhợt nhạt kinh khủng, một vẻ đẹp ma quái. Hắn nhếch đôi môi gần như không có chút sắc đỏ lên, cười nhạt hỏi: “Anh có biết lai lịch căn nhà này không?”.
“Không biết”. Lục Tử Cương không biết tại sao cậu chủ Hồ lại tỏ ra đặc biệt với anh, ban nãy trên bàn ăn rõ ràng rất lạnh lùng, cách biệt với mọi người, nhưng anh thực sự tò mò muốn biết câu chuyện về khu nhà, hơn nữa cậu chủ Hồ là thân thích của cụ Dư, chắc chắn phải biết chút gì đó.
Hồ Hợi đưa tay búng lên thanh đao lá liễu trên bàn, dao phát ra tiếng kêu leng keng. Hắn cúi đôi mắt phượng nhìn xuống, hàng mi màu bạc dài che giấu hết tâm trạng ẩn trong đôi mắt đỏ, lạnh lùng cất tiếng nói: “Từ rất rất lâu trước kia, có hai anh em, họ rất thích chơi cờ Lục Bác. Người em trai thường hay thua người anh, tuy thua liên tiếp, nhưng vẫn rất cố gắng chơi”.
Lục Tử Cương nhìn đầu ngón tay nhợt nhạt gần như trong suốt của Hồ Hợi, có chút hoang mang. Anh có thể tưởng tượng ra hai người trẻ tuổi đang chơi cờ, người luôn thua cuộc tỏ ra không phục, cứ kỳ kèo người kia phải chơi tiếp.
Hồ Hợi hơi lim dim mắt, dưới ánh sáng mờ ảo, gương mặt trắng bệch của hắn mang một vẻ đẹp ốm yếu, trên môi có một chút cay đắng, nói khẽ: “Hai anh em đều chơi cờ Lục Bác rất say sưa. Vì vậy, một người bạn của người anh khi đề nghị xây một khu biệt viện theo hình bàn cờ Lục Bác, hai anh em đều đồng ý. Cuối cùng, khu nhà được sư phụ của bạn người anh thiết kế, nhưng nó trải qua rất nhiều sóng gió, đến khi khu nhà được xây xong, người anh đã qua đời”.
Lục Tử Cương không nói gì, vì anh không biết phải nói gì cả. Anh vốn là người kém mồm mép, bây giờ nghe cậu chủ Hồ kể chuyện người khác, nhưng mỗi lời đều rất chân tình, nghe như là đang kể chính cuộc đời của hắn.
“Người em trai xây xong khu nhà này, nhưng đã không còn ai chơi cờ với anh ta nữa…”.
Lục Tử Cương thấy cậu chủ Hồ bỗng buồn man mác, ngồi im lặng một lúc lâu, anh đành khẽ hắng giọng nói: “Thì ra khu nhà này được xây nên như thế, đúng là đáng cảm thán…” Lời nói tuy có chút không thật lòng, nhưng đã là đồ cổ, cái nào là không có câu chuyện của nó đâu, so sánh như vậy thì lịch sử khu nhà này có phần tầm thường, không có chút gì gọi là thăng trầm sóng gió.
Hồ Hợi từ từ mở mắt, lộ ra con ngươi đỏ ma mị, cả con người như bỗng chốc thay đổi, trên môi hiện ra một nụ cười thâm hiểm: “Người em lưu luyến mãi trong khu nhà này, người hầu bèn thuận theo sở thích của anh ta, kiến nghị hãy dùng khu nhà này để chơi cờ Lục Bác người thật. Còn về quy tắc, thì giống như hôm nay chúng ta chơi, chỉ có điều một lần khi chơi cờ với chú của ta, mấy người hầu sinh sự cãi nhau, người bị tước đao không cam tâm, lần đó không cẩn thận gây ra án mạng”.
Một cơn gió lạnh thổi thốc vào lương đình theo lời nói của hắn, hơi lạnh thấu xương xộc vào, khiến Lục Tử Cương run rẩy.
“Bàn cờ Lục Bác này vì có người chết nên đã dính máu, từ đó không thể ngăn lại được nữa, chẳng bao lâu sau đã chết mất bảy người. Cuối cùng ván cờ đó người em thua ông chú, sau đó người em bỗng phát hiện ra, ông chú mình vốn đã gần tuổi ngũ tuần, bỗng nhiên trẻ ra gần chục tuổi”.
“Cái gì?!”. Lục Tử Cương kinh hãi thất thanh, sao có chuyện đó được?
“Có lẽ người xây khu nhà này cố tình thiết kế sắp phong thủy của khu nhà này tự tạo thành trận pháp có lẽ bàn cờ Lục Bác đó đã bị dùng phép thuật gì đó rồi, dù là gì thì chỉ cần thắng trong ván cờ, đối phương chết bao nhiêu người, kẻ thắng sẽ được trẻ lại từng đó tuổi”. Đôi mắt đỏ của Hồ Hợi phát ra ánh sáng khiến người đối diện run sợ, hắn nói từ tốn: “Thế tức là, đây là một ván cờ Lục Bác đánh bằng mạng người”.
Lục Tử Cương cứng lưỡi, anh không tin lấy nửa chữ cậu chủ Hồ nói, nhưng cảm giác sợ hãi tột độ trong lòng anh thì từ đâu ra?
Trong lúc hoang mang, một tiếng thét ghê rợn xé toạc bầu trời đen thẫm, xé nát sự yên tĩnh giả tạo của màn đêm. Hồ Hợi nhìn thẳng vào đôi mắt hoảng loạn của Lục Tử Cương, hơi lim dim đôi mắt đỏ của hắn: “Ván cờ đã bắt đầu rồi…”.
Tiếng thét đột ngột tắt, như một chiếc đài cũ bị người ta đột ngột bấm nút tạm dừng.
Bóng tối trở lại sự im lặng chết chóc, còn Lục Tử Cương thì không thể ngồi yên nữa. Anh đứng dậy lao ra khỏi lương đình, chạy về phía phát ra tiếng thét, anh vừa chạy vừa lấy điện thoại ra, tuy không có sóng, nhưng màn hình điện thoại sáng được trong đêm, chiếu sáng đường dưới chân anh.
Lục Tử Cương nhìn thấy phía không xa có một cây cầu, nhưng không thấy có bóng người nào.
Sau đó anh đột ngột đứng lại. Vì anh nhìn thấy một dòng máu đỏ thẫm, đang chậm rãi chảy xuống ở mặt dốc cây cầu, như một con rắn bò xuống.
Một luồng hơi lạnh bốc lên từ gót chân tới sống lưng, Lục Tử Cương cảm thấy máu trong người như bỗng chốc bị rút hết. Dưới chân anh, có một chiếc kính gọng vàng, mặt kính bị ai đó giẫm vỡ, gọng kính méo mó nằm dưới đất, dưới ánh sáng chiếu từ màn hình điện thoại, lấp lánh ánh vàng nhức mắt.
“Đây là kính của Nghiêm Ngạo”. Tiếng của Hồ Hợi vọng từ phía sau Lục Tử Cương.
Lục Tử Cương nhìn cổ tay mình đã bị cậu chủ Hồ nắm lấy, kéo chiếc điện thoại trên tay anh chiếu lên trên cầu.
Dù đã có sự chuẩn bị tinh thần, nhưng khi nhìn thấy thảm cảnh phía trước, tay Lục Tử Cương run rẩy, chiếc điện thoại rơi đánh cạch xuống đất, xung quanh lại tối sầm trở lại. Dù chỉ trong khoảnh khắc, nhưng Lục Tử Cương nhìn rất rõ. Anh chưa bao giờ căm hận thị lực 15/10 của mình như thế.
Nghiêm Ngạo đã chết.
Không có ai sống nổi sau khi đầu lìa khỏi cổ cả. Nên Lục Tử Cương thấy hoàn toàn không cần phải lên để xác nhận nữa, thị lực anh tốt đến mức thậm chí có thể nhìn vết cắt trên cổ để đoán chắc là chết do binh khí sắc bén chém. Nhưng quanh đây không hề có dấu hiệu của đao, cho thấy hung thủ đã lấy cả đao trên tay Nghiêm Ngạo.
Đầu óc Lục Tử Cương quay cuồng, chẳng lẽ Hồ Hợi ban nãy không lừa anh? Tất cả đều là thật?
“Không tin hả? Được, chúng ta cứ xem tiếp là biết”. Giọng nói lạnh lẽo của Hồ Hợi vang bên tai Lục Tử Cương, anh chỉ thấy mình bị gã điểm vào đâu đó trên người, cả người như bị ném vào hố băng, cứng đờ không động cựa nổi, để mặc cho hắn lôi vào trong rừng cây ở bên cạnh.
Tiếng gió rít thổi qua người, Lục Tử Cương bị Hồ Hợi lôi qua cả khu nhà với một tốc độ kỳ quái, đến một lương đình khác ở góc tây nam.
Lương đình này giống hệt cái đình ban nãy, có lẽ khu nhà làm theo thiết kế đối xứng. Lúc đó một nam thanh niên ngồi dưới ánh đèn gió trong lương đình đang mân mê chiếc đao đuôi bò trên tay. Không rõ là Lâm Mặc hay Lâm Nghiễn, hai anh em họ rất giống nhau, Lục Tử Cương không phân biệt được. Nhưng nhìn dáng vẻ rất hứng thú với hoa văn trên cán đao đuôi bò của người này, thì chắc là sinh viên ngành sử Lâm Nghiễn. Nghe nói anh trai Lâm Mặc học chuyên ngành máy tính, chắc không say sưa như thế.
“Thực ra cờ Lục Bác không đơn giản chỉ có một quân Hiêu và năm quân Tán, chế độ quân đội thời Xuân Thu Chiến Quốc là cứ năm người thì thành một ngũ, đặt thêm một chức ngũ trưởng, tổng cộng một đội sáu người. Còn cờ Lục Bác thực ra bao gồm hai quân cờ “Tắc”, còn lại lần lượt có “Độc”, “Trĩ”, “Lô”, “Hiếu”. Ban nãy quân Tắc của bên các ngươi vừa bị giết, bây giờ chắc là sẽ đến quân “Độc” này rồi”. Hồ Hợi bình thản giải thích cho Lục Tử Cương, như đang giải thích một ván cờ bình thường.
Lưng Lục Tử Cương toát mồ hôi lạnh, Nghiêm Ngạo và Lâm Nghiễn đều là quân bên ông chú, Nghiêm Ngạo đã bị giết, vậy thì theo cách nói của cậu chủ Hồ này, người tiếp theo bị giết sẽ là Lâm Nghiễn? Lúc này anh không còn thời gian suy nghĩ xem cờ Lục Bác lấy mạng người như thế nào nữa, đã có một người chết, anh không thể để tình hình tiếp tục xấu đi. Lục Tử Cương mở miệng, định cảnh báo người ngồi trong lương đình, nhưng anh phát hiện ra mình không thể nói được gì.
“Ván cờ đã bắt đầu, không ai có thể ngăn lại được”. Hồ Hợi có vẻ như biết Lục Tử Cương muốn nói gì, lạnh lùng nói: “Đã đến đây rồi, sao không xem vở kịch hay này?”.
Lục Tử Cương nhìn theo ánh mắt của hắn, phát hiện ra có bóng người đang đi từng bước tới lương đình, trong tay người đó đang cầm một thanh đao đầu tròn, lưỡi đao dài mảnh phản chiếu ánh sáng của đèn gió, khí lạnh ghê người.
Lâm Nghiễn chỉ ngẩng đầu nhìn, rồi lại cúi xuống, ánh mắt không nỡ rời thanh đao đuôi bò trong tay, cười nói vui sướng: “Anh à, thanh đao đuôi bò này là hàng thật đấy! Phải rồi, anh cho em xem thanh trong tay anh đi! Không phải em bảo anh chọn thanh đao đầu tròn đời Hán sao? Em vẫn muốn được sờ vào thanh đao đầu tròn trong truyền thuyết này mà! Đồ mà ông cụ Dư này sưu tập không thể coi thường được!”.
Lúc này Lục Tử Cương đã nhìn rõ gương mặt của người giống hệt Lâm Nghiễn ngồi đằng kia, chỉ có điều vẻ mặt rất cổ quái, như đang phải nhẫn nhịn gì đó, lại giống như đang muốn chống lại thứ gì đó.
Giọng nói như âm hồn của Hồ Hợi lúc đó lại cất lên: “Còn nhớ hai anh em đó không? Sau này người em phát hiện ra, chỉ cần viết tên người lên trên quân cờ Lục Bác, thì người đó sẽ biến thành quân cờ trong bàn cờ, nghe theo sự chỉ huy của quân Hiêu. Còn thanh đao trong tay nếu oán khí càng nặng, thì càng dễ điều khiển người cầm đao. Trước giờ vẫn là đao làm công cụ giết người, còn bây giờ thì đao nhập vào người, điều khiển thần trí của người để đi giết người khác. Chẳng phải là một chuyện rất thú vị hay sao?”.
Lục Tử Cương nghe mà run rẩy, anh nhớ lại cảm giác ban nãy cầm thanh đao lá liễu, cảm thấy vô cùng may mắn khi mình lập tức bỏ thanh đao xuống. Bây giờ nhìn tình hình của hai anh em họ Lâm kia, rõ ràng một người thì bị đao đuôi bò hấp dẫn, người kia thì bị đao đầu tròn điều khiển.
“Mấy thanh đao đó đều đã đói khát cả trăm cả ngàn năm nay, rất cần được uống tiếp máu người…”. Sau giọng nói ma quái của Hồ Hợi, Lục Tử Cương nhìn thấy Lâm Mặc đứng sau Lâm Nghiễn từ từ giơ thanh đao đầu tròn trong tay lên, còn Lâm Nghiễn thì không hay biết gì, vẫn cúi đầu nhìn thanh đao đuôi bò. Ánh sáng phản chiếu từ lưỡi đao khiến Lục Tử Cương nhức mắt.
“Ha ha, chỉ cần hai quân cờ gặp nhau, thì ắt phải có một quân bị ăn, huynh đệ tương tàn, quả là một trò chơi hiếm thấy…”. Hồ Hợi thì thầm nói, như sợi dây thần kinh nào đó của hắn được chạm đúng, khiến hắn quên cả xung quanh.
Bao nhiêu ấn tượng tốt của Lục Tử Cương với cậu chủ Hồ đã mất sạch, rõ ràng lần họp mặt này là một ván cờ do cụ Dư bày ra, còn Hồ Hợi là thân thích của cụ Dư, hắn có thể không biết việc gì đang xảy ra được không? Đã biết rõ thảm án sắp xảy ra, mà vẫn rũ tay đứng nhìn, có vẻ như thế là hơi quá đáng.
Nhưng Lục Tử Cương lòng như lửa đốt mà không thể cử động nổi, thậm chí không thể ú ớ nổi tiếng nào, bó tay đứng nhìn thanh đao đầu tròn gỉ sét loang lổ đang run rẩy trên không. Rồi chém vụt xuống.
Lưỡi đao vẽ một đường cong trên không, sau đó là tiếng động nặng nề của lưỡi đao đâm vào da thịt.
“Anh!”. Lâm Nghiễn vứt bỏ thanh đao đuôi bò trong tay, kinh hãi đỡ lấy Lâm Mặc đang ngã xuống, nhìn thanh đao đầu tròn cắm trên bụng anh ta, không hiểu vì sao anh trai mình lại tự sát.
“Hừ, nhạt nhẽo”. Hồ Hợi trề môi bình luận, kéo Lục Tử Cương trốn vào trong khóm cây, rồi rời khỏi sân.
Từ xa vẫn nghe được loáng thoáng tiếng kêu xé ruột gan của Lâm Nghiễn, cuối cùng là im lặng.
Cả khu nhà như một ngôi mộ lớn, im ắng chết chóc.
Lục Tử Cương tận mắt nhìn thấy thảm kịch, mà mình không thể ngăn chặn được, tức dựng tóc gáy, ánh mắt nhìn Hồ Hợi như rực lửa.
Hồ Hợi vẫn rất bình tĩnh, kéo Lục Tử Cương lướt qua khu nhà, đến dưới cái đình ở sau một ngọn giả sơn.
Lục Tử Cương vừa đứng lại, thì nghe thấy tiếng cãi nhau của một đôi nam nữ, đã có sẵn bóng đen của thảm kịch vừa rồi, anh lập tức nhìn về phía hành lang. Anh nhìn thấy hai người cãi nhau chính là vợ chồng Ngụy Trác Nhiên và Hạ Thiển, tuy một người cầm đao cửu hoàn, một người cầm con dao găm mỏng, nhưng đều chỉ cầm hờ, mà hai người đó cãi nhau thì đúng kiểu vợ chồng cãi nhau.
Tuy bên ngoài nhìn vào hai người này có vẻ vợ chồng hòa thuận, nhưng nhà nào chẳng có nỗi riêng. Hai người đều rất xuất sắc, yêu nhau từ cái nhìn đầu tiên hồi học đại học, là một đôi thần tiên được mọi người ngưỡng mộ. Nhưng cuộc sống hôn nhân luôn phức tạp, công việc cũng có nỗi lo riêng, va chạm ngày càng nhiều, hay cãi nhau vì những chuyện vặt, sau đó không ai chịu nhường ai. Cứ như thế thì dù tình cảm kiên định đến đâu, cũng sẽ rạn nứt. Tối nay, họ quên phéng cả nguyên nhân cãi nhau ban đầu là gì, rất nhiều chuyện lặt vặt được lôi cả ra, cãi nhau một trận to.
Ngụy Trác Nhiên vốn là người ít nói, không cãi được với mồm mép của Hạ Thiển, nhưng khi bị nói nặng quá, trong lúc phẫn nộ cãi lại mấy câu. Còn Hạ Thiển thì không biết nể nang, cứ thế lặp đi lặp lại, họ đều hiểu sẽ không có kết cục gì tốt đẹp, nhưng vì đều còn trẻ tuổi nên không ai chịu nhún nhường.
Lục Tử Cương trong chỗ khuất nghe hai người cãi vã, không khỏi nghi hoặc, nghĩ bụng chắc cậu chủ Hồ kéo anh đến đây không phải để nghe đôi vợ chồng cãi cọ chứ? Hơn nữa hung thủ giết Nghiêm Ngạo còn chưa biết là ai, đôi vợ chồng này rõ ràng có một người bỏ vị trí, tự ý đi gặp nhau.
Nếu không nhìn thấy hai thảm kịch vừa rồi, Lục Tử Cương cũng không để ý tới bàn cờ Lục Bác, nhưng cả khu nhà này đã trở thành một bàn cờ Lục Bác thật sự, anh đương nhiên phải lo đến sự an toàn của những người khác. Còn về ông chú họ, hiện tại đang là một quân cờ Hiêu, tạm thời sẽ không gặp nguy hiểm gì, nhưng phải làm gì để phá thế cờ này đây?
Đúng lúc Lục Tử Cương đang sốt ruột nghĩ cách thoát khỏi tình cảnh không thể cử động không thể cất lời này, thì bộ đàm bên hông Hạ Thiển bỗng cất tiếng.
Tiếng ho của cụ Dư phát ra rất rõ: “Chia cánh cùng tiến, cùng áp sát vào. Quân “Lô” tiến năm bước, ăn quân “Trĩ” của đối thủ”.
Lục Tử Cương nghe không hiểu thuật ngữ của cụ Dư, nhưng nhìn rất rõ Hạ Thiển nắm chặt dao găm, vẻ mặt cũng trở nên kỳ quái. Lục Tử Cương vừa thấy đã biết chuyện chẳng lành, thần sắc trên mặt Hạ Thiển bây giờ, giống hệt Lâm Mặc ban nãy!
“Người đã viết tên lên quân cờ, thì không thể chống lại lệnh của quân Hiêu được!”. Hồ Hợi đứng một bên rất tận tình giải thích.
Lục Tử Cương lạnh gáy, nhớ lại ban nãy Lâm Mặc thà đâm mình chứ không làm em trai bị tổn thương, bèn tin ngay lời Hồ Hợi. Sự thực thì, từ lúc Hồ Hợi xuất hiện trước mặt anh, lời nói nào nghe cũng hoang đường hết sức, nhưng không có câu nào nói dối cả.
Chẳng lẽ, anh cứ bó tay đứng nhìn từng thảm kịch diễn ra nhìn từng mạng sống mất đi trước mặt anh?
Lục Tử Cương vắt óc suy nghĩ, bắt đầu nhớ lại từng câu nói của Hồ Hợi. Chỉ cần viết tên lên quân cờ hả? Xem ra cậu chủ Hồ không hề viết tên thật của mình. Nhưng viết rồi cũng không sao, vì cụ Dư kia là họ hàng với hắn mà! Nhưng đã là quan hệ họ hàng, vì sao trong lời nói không có sự kính trọng nào, mà lại có chút kỳ dị?
Đợi đã, chẳng phải anh cũng viết tên lên quân cờ rồi sao? Vì sao lại không có cảm giác bị người khác điều khiển? Hay là ông chú vẫn chưa đụng đến quân cờ này?
Lục Tử Cương bên này lòng như lửa đốt, còn bên kia Hạ Thiển lại không ra tay với chồng như lời cụ Dư.
Trong tay Hạ Thiển là thanh đao phá phong hình dáng giống con dao găm, vì cô không quen những thanh đao khác vừa to vừa nặng, nên chọn một thanh đao cổ nhỏ nhắn nhất. Từ lúc nghe xong lời cụ Dư qua bộ đàm, cô bỗng thấy ý muốn giết Ngụy Trác Nhiên dâng lên như nước vỡ bờ, chảy tràn trong tim cô. Thái độ của mẹ chồng sau ngày cưới, rồi uất ức vì vừa lo công việc vừa lo việc nhà, không muốn bỏ sự nghiệp đang lên như diều gặp gió để sinh con, chồng thì không chịu hiểu mình… Mọi việc đều như bị phóng đại lên mấy lần, bỗng chốc ngập trong đầu cô, khiến cánh tay cầm đao của cô không ngừng run rẩy.
Nhưng cho dù là thế, thì làm sao cô có thể ra tay với chồng được? Hạ Thiển cắn môi, cố tình làm đau mình để giữ đầu óc tỉnh táo. Lúc này cô đã cảm thấy có điều gì bất ổn.
Còn Ngụy Trác Nhiên thì lại giơ cánh tay lên, cầm ngang thanh đao cửu hoàn trước mặt, những vòng sắt trên sống đao kêu lách cách, phát ra tiếng kêu đáng sợ trong đêm yên tĩnh.
“Anh… anh định làm gì?”. Hạ Thiển vẫn chưa hoàn hồn, nhìn Ngụy Trác Nhiên như đang biến thành người khác.
“Hai người chúng ta chỉ có một người được sống, tối nay kết thúc đi thôi”. Vẻ mặt của Ngụy Trác Nhiên cũng cổ quái dị thường, giọng nói cứng đờ.
Lục Tử Cương khiếp sợ, cụ Dư là người chơi cờ, lão ta chỉ ra lệnh cho Hạ Thiển, vì sao Ngụy Trác Nhiên ở bên kia cũng bị điều khiển? Nếu một bên không ra tay, thì bên kia sẽ tự động đánh trước sao?
Chẳng lẽ mấy thanh đao kia mới là đồ truyền tín hiệu, những quân cờ bọn họ giống như con rối dây trong tay quân Hiêu, vậy thì thanh đao trong tay họ mới là sợi dây nối giữa quân Hiêu và các quân Tán. Nhưng thanh đao lá liễu anh lấy trong sảnh đã được bỏ lại ở lương đình rồi mà… đao… Ngô đao! Nếu không có thanh Ngô đao trong tay, thì có khi anh không thoát khỏi được thanh đao lá liễu kia! Hơn nữa ban nãy trong tay anh em họ Lâm chẳng phải cũng đều cầm đao sao?
Lục Tử Cương vẫn toát mồ hôi lạnh sau lưng. Lúc này anh muốn kêu hai vợ chồng vứt thanh đao trong tay đi, nhưng cũng như ban nãy, chỉ há được mồm ra, mà không ú ớ nổi tiếng nào.
Ngụy Trác Nhiên đã giơ đao cửu hoàn lên, không cần niệm tình vợ chồng gì, một đao chém xuống.
Tiếng thét của Hạ Thiển vang lên giữa sân nhà trống trải, nghe càng nhức tai. Vì Hạ Thiển né theo phản xạ, nên đao đó của Ngụy Trác Nhiên chém hụt, nhưng anh ta không vì thế mà ngừng lại, xoay cán đao chém về phía trước. Hạ Thiển luống cuống dùng đao phá phong chặn đòn, tiếng kim loại va vào nhau chát chúa giữa sân vắng, nghe rợn tới tâm can.
“Vợ chồng như hạc cùng cây. Đại nạn vừa tới, bay ngay một mình”. Hồ Hợi thì có vẻ rất cao hứng, cười nói: “Vở kịch này quả là không tồi, nghe chúng cãi nhau thật là mệt, thế này mới thoải mái chứ”.
Lục Tử Cương đã căm hận Hồ Hợi thấu xương, sao kẻ này có thể coi thường mạng người đến vậy? Anh phải nghĩ cách gì đó, nếu cứ thế này, thì mọi người trong khu nhà sẽ đều biến thành thức ăn nuôi tuổi thọ lão Dư.
Lục Tử Cương nhớ tới thanh Ngô đao đã cứu anh, bèn cố hết sức để động đậy ngón tay cứng đờ, mất rất nhiều sức lực mới móc được vào trong túi quần. Dù cách một lớp vải, nhưng trong khoảnh khắc ngón tay chạm vào Ngô đao, hình như khí lạnh đang phong bế kinh mạch của anh đã giảm đi đôi phần, Lục Tử Cương biết mình dự liệu đúng, chờ lúc cổ tay đã linh hoạt, bèn vội nắm ngay lấy chuôi Ngô đao.
May mà cậu chủ Hồ ở bên cạnh đang dồn hết chú ý về phía hành lang, đêm thì đã khuya, nhất thời không chú ý tới động tác của anh.
Thanh Ngô đao có một luồng khí ấm truyền vào người anh, Lục Tử Cương chỉ muốn mình lập tức hoạt động được bình thường, nhưng sự việc chẳng bao giờ như mong muốn. Một phút sau, cánh tay của anh mới bắt đầu cử động được.
Cũng may đôi vợ chồng đằng kia còn chưa rõ sống chết, chỉ thấy ánh đao vung lên đáng sợ, tiếng kêu thét cứu mạng của Hạ Thiển vẫn vang lên liên hồi, dù có sợ hãi nhưng nghe ra vẫn rất dồi dào sức lực, không nhìn cũng biết thực ra cô chưa hề bị vết xây xát nào. Lục Tử Cương chỉ mong họ kéo dài thời gian một chút, nhưng Hạ Thiển đang kinh sợ thì không nghĩ thế.
Cô tự biết tiếng kêu thét của mình vang xa ba dặm rồi, mà vẫn không thấy ai đến cứu, tức là hoàn toàn không mong chờ gì được người khác. Cô vấp chân, ngã xuống đất, nhìn thấy Ngụy Trác Nhiên xách đao đi lừng lững về phía mình, sống mũi liền cay cay, mắt nhòe đi. “Trác Nhiên, anh định nhẫn tâm giết em thật sao?”.
Ngụy Trác Nhiên không hề phí lời, câu trả lời cho cô là thanh đao đang giơ lên.
Hạ Thiển lúc này đã hoàn toàn vô vọng, nhưng là vô vọng chuyện của chồng, chứ riêng cô thì không muốn trong lúc còn xuân thì phơi phới đã phải bỏ mạng. Vì thế trước khi đao của Ngụy Trác Nhiên bổ xuống, cô đã nhanh nhẹn bật dậy, tránh được lưỡi dao sắc lẹm, lao thẳng vào lòng chồng cô. Cùng đó là thanh đao phá phong trong tay.
Dòng máu tươi ấm nóng chảy lên đôi tay cô, cuối cùĩg nước mắt của Hạ Thiển cũng đã nhỏ xuống.
“Đừng khóc, trôi hết phấn rồi”. Ngụy Trác Nhiên cảm khái một câu, tay trái đặt lên má Hạ Thiển, lau những giọt lệ lấp lánh giúp cô: “Cái ngày… anh lấy em, anh đã hứa… sẽ không để em khóc…”.
“Sao anh vẫn làm!”. Hạ Thiển tức giận ngẩng đầu lên, muốn chất vấn chồng vì sao định giết cô. Nhưng khi nhìn vào đôi mắt chân tình của Ngụy Trác Nhiên, cô giật mình hiểu ra.
Nếu anh muốn giết cô thật, một cô gái yếu đuối như cô, lại cầm một con dao găm ngắn cũn, sao có thể sống nổi dưới đao của anh?
Lúc đó cô mới nhớ lại, từng đao chồng mình chém xuống, tuy nhìn thì rất hung hãn, nhưng tất cả đều chém sượt qua người cô, không chạm đến một sợi tóc của cô.
“Thế là… em sẽ không… quên anh nữa chứ…” Trong nụ cười của Ngụy Trác Nghiên có một chút hài lòng, đúng là anh ta cố ý. Dù đôi bên yêu nhau, nhưng tình cảm vợ chồng khác với tình ruột thịt, luôn luôn có thử thách lẫn nhau. Sự do dự của Hạ Thiển khiến anh quyết định hy sinh bản thân, nhưng nhất quyết phải vạch một vết thương trong lòng cô.
Hạ Thiển nước mắt giàn giụa, giọng run run: “Anh… anh nhẫn tâm thế… đừng… đừng bỏ em lại…”
“Keng!”. Thanh đao cửu hoàn nặng trịch cuối cùng cũng rơi xuống đất, Ngụy Trác Nhiên nhìn vợ lần cuối như không cam tâm, rồi từ từ nhắm mắt.
“A…”. Hạ Thiển ôm Ngụy Trác Nhiên, đau đớn không muốn sống.
“Ngươi… vừa ý… rồi chứ?”. Lục Tử Cương bật ra được mấy tiếng từ cổ họng một cách khó khăn, anh vừa mới nói được, mà giọng nói không lớn nổi, như thì thầm bên tai: “Ngươi… rốt cuộc muốn xác nhận điều gì đây?”.
Hồ Hợi nhìn trân trân vào cô gái đang khóc như đứt từng khúc ruột phía hành lang, chưa định thần lại.
Lục Tử Cương nhìn bộ dạng của hắn, không nghĩ được nhiều. Trong tay anh cầm Ngô đao, quả thực rất muốn đâm một nhát vào cái gã quả tim bằng đá này. Nhưng Ngô đao không được dính máu, điều này khi tặng đao gã chủ tiệm Á Xá đã dặn dò kỹ. Hơn nữa anh không phải cảnh sát cũng không phải quan tòa, không có quyền định đoạt sinh mệnh người khác.
Vì thế Lục Tử Cương chỉ biết nghiến chặt răng, quay người vịn vào hòn giả sơn đi về phía sảnh đường nhà chính. Cũng không hiểu sao Hồ Hợi không đi theo, Lục Tử Cương thì không có tâm trạng đâu để nghĩ tiếp, anh biết nếu ván cờ đã bắt đầu, thì quan trọng nhất chính là quân Hiêu. Chỉ cần khống chế được quân Hiêu, thì sẽ khống chế được cả bàn cờ.
Trong sảnh đường nhà lớn lặng ngắt, không có lấy một người phục vụ nào. Lục Tử Cương nhìn vào thấy ngay trong sảnh đường trống trải, cây đèn cung bị bình phong quây kín vẫn cháy bập bùng. Lục Tử Cương nín thở đi tới, thì kinh hãi nhận ra trong bình phong không hề có người, trên chiếc bàn tròn to lớn, chỉ có một bàn cờ Lục Bác.
Quân cờ không có ai điều khiển, đang tự di chuyển trong bàn cờ, ngoài bàn cờ bỏ bốn quân, tên người trên đó đã biến mất, có lẽ thế nghĩa là họ đã bị giết. Còn quân cờ Hiêu viết tên lão Dư thì đỏ rực như máu, trông rợn người.
Tuy Lục Tử Cương là một người kiên định bảo vệ chủ nghĩa duy vật, nhưng sau trải nghiệm xuyên thời gian kỳ dị với Vô Tự Bi, anh cũng bắt đầu tin rằng trên thế gian có những sự việc không thể giải thích nổi. Nhưng bây giờ anh phải làm sao?
Khi Lục Tử Cương còn đang phân vân, thì anh thấy quân cờ trên bàn lần lượt bị ăn, những cái tên trên đó lần lượt biến mất, cuối cùng chỉ còn lại lão Dư, ông chú họ, Hồ Hợi, An Nặc và tên của chính anh. An Nặc là sát thủ đắc lực của bên lão Dư, rất nhiều người đều chết dưới tay ả, đến người bên mình cũng không ngoại lệ.
Lục Tử Cương lúc này đã đoán ra, cờ Lục Bác đã hoàn toàn không có quy tắc nữa, mà chỉ đơn thuần là đoạt mạng mà thôi. Anh thấy quân cờ An Nặc đang áp sát vào vị trí của ông chú họ, liền không dám do dự nữa, cầm Ngô đao chém thẳng xuống con cờ Hiêu màu đỏ kỳ dị.
Ngô đao vốn là một bảo đao cắt ngọc như bùn, nhát đao đó như cắt đậu phụ, chém quân cờ đứt ngang làm hai.
Lục Tử Cương nhìn lại bên kia của bàn cờ, nhận ra mình vẫn chậm một bước, quân Hiêu của ông chú đã bị An Nặc ăn, tên viết bằng mực đỏ đang nhạt dần…
4
“Cương… Cương? Thằng nhóc này, sao lại say xỉn thế hả?”.
Bên tai vọng tiếng ông chú to như đánh kẻng, Lục Tử Cương nhăn mày, mở mắt ra, thấy mình đang ngủ gục trên bàn. Xung quanh là những người vừa uống rượu, lúc này đang nhìn nhau ngơ ngác. Nghiêm Ngạo đeo kính gọng vàng đang sờ lên đầu, như để xác nhận điều gì. Phản ứng của những người khác cũng giống như ông ta, đều sờ lên ngực hoặc lên cổ. Còn Lâm Nghiễn thì nhảy bật dậy đấm anh trai một quả, rồi nhảy tới ôm chặt ông anh. Hạ Thiển thì nhìn Ngụy Trác Nhiên đang mỉm cười bên cạnh, mắt đỏ hoe.
Lục Tử Cương nhìn một vòng, phát hiện ra gã Hồ Hợi tóc trắng và người đẹp An Nặc đã biến mất. Còn lão Dư thì đang gục trên bàn, không động đậy gì, liền đứng dậy gọi lão.
Những người khác cũng đã thấy điều gì không ổn, lúc đó mới phát hiện ra lão Dư đã qua đời, trông có vẻ như nhồi máu cơ tim mà chết.
Trần Diểu rất bình tĩnh đứng dậy đi ra ngoài sảnh đường tìm cách liên lạc với người phục vụ bên ngoài, Ngô Ngữ thì kêu phải tìm cô An Nặc tới, ông chú hoang mang không biết làm sao, vì ông không hề nhớ chuyện gì ban nãy, có lẽ xóa ký ức là ưu đãi đặc biệt dành cho quân Hiêu. Trong sảnh đường đã trở nên hỗn loạn, còn Lục Tử Cương thì trầm ngâm nhìn bàn cờ Lục Bác trên bàn.
Họ đều vẫn ở chỗ ngồi cũ, vậy thì rất có thể là khi viết tên lên quân cờ Lục Bác, linh hồn của họ đều bị hút vào bàn cờ. Trên bàn cờ hiện tại, một quân Hiêu đã bị chặt làm đôi, trên ba quân còn lại, vẫn viết tên Hồ Hợi, An Nặc và tên của anh. Có lẽ vì anh dùng ngoại lực phá quân Hiêu đi rồi, bàn cờ Lục Bác này mới không thực sự lấy mạng của mọi người, nếu không khi tàn cuộc, chỉ sợ còn duy nhất một mình lão Dư tỉnh lại, họ thì đều chết bất đắc kỳ tử vì “bệnh”.
Vì không ai chịu động vào bàn cờ Lục Bác, Lục Tử Cương đành với tay ra thu lại bộ cờ trên bàn, đặt trở lại vào hộp gỗ. Có lẽ vì chỉ có mỗi anh không bị bàn cờ Lục Bác khống chế, cũng không trải qua cảm giác bị giết, nên không sợ hãi lắm.
Gian sảnh đường rộng lớn trở nên u tối, những người khác không dám ở lại, lần lượt đi về, ông chú họ cũng kêu chán đòi về. Sau khi sắp xếp ổn thỏa cho thi thể lão Dư, người cuối cùng ra đi là Nghiêm Ngạo ghé đầu vào, nói nhỏ với Lục Tử Cương: “Đem đốt thứ này đi”. Lời nói của ông ta hơi run rõ ràng là đang sợ hãi.
Lục Tử Cương lại lắc đầu, nếu ban nãy không phải vì tình hình cấp bách, thì anh không thể chém vỡ quân Hiêu được. Bảo vệ đồ cổ còn không kịp, sao anh lại đi phá hoại được? Nhớ lại những cảnh tượng trong ván cờ ban nãy, Lục Tử Cương cảm thán nói: “Gươm đao dù sắc nhọn đến mấy, cũng không phải là hung khí. Anh vừa có thể dùng để giết người, vừa có thể dùng để bảo vệ những người thân yêu… Bộ cờ Lục Bác tuy rất hung hiểm, nhưng dù sao cũng là cổ vật. Nếu nó được tách khỏi khu nhà này, thì chắc sẽ không tác quái nữa. Tôi quen chủ một tiệm đồ cổ, anh ta chuyên đi sưu tầm những thứ kỳ quái, bàn cờ này tạm để chỗ anh ta đã”.
Nghiêm Ngạo vẫn muốn khuyên, nhưng lại sợ lỡ mình dính vào thì xúi quẩy, nên chỉ thở dài, rồi vội vã bỏ đi.
Lục Tử Cương cảm thấy hình như không chỉ có Nghiêm Ngạo bỏ đi, nhưng anh nhìn tứ phía thì không phát hiện được gì nữa. Lắc đầu cười nghĩ mình sợ hãi quá mức, lại tiếp tục đặt bộ cờ Lục Bác xuống cẩn thận.
Khi thu quân cờ, Lục Tử Cương nhìn mấy cái tên viết bằng mực đỏ trên ba quân cờ, cảm thấy rất nhức mắt, bèn lấy tay áo nhặt một quân lên lau. Tên của An Nặc lau rất dễ, nhưng còn tên Hồ Hợi và tên anh, thì không tài nào lau nổi.
Không lau được chắc cũng không sao chứ? Lục Tử Cương nhăn mày, rồi mới cảm thấy lạnh gáy khi đứng trong sảnh đường treo toàn đao cổ, vội vã thu dọn hết bàn cờ vào hộp gỗ rồi rời đi.
Trong góc tối của khu nhà, Hồ Hợi nhìn An Nặc đã không còn hơi thở, thu lại thanh đao Minh Hồng trên tay, vẩy vết máu trên đao đi.
“Ngươi có Ngô đao, ta cũng có Minh Hồng Đao. Ai bảo ván cờ này đã xong?”. Hàng mi màu bạc của Hồ Hợi hơi run, lộ ra đôi mắt đỏ như đoạt hồn, trong mắt là một sự tàn nhẫn không che đậy.
Minh hồng đao nhanh chóng biến thành con chim màu đỏ đáng yêu, nhảy lên vai trái của Hồ Hợi, lại cúi xuống rỉa lông như thường lệ. Hồ Hợi đưa tay vuốt lưng con chim, ánh mắt sắc dần dần dịu lại, nhớ lại câu nói ban nãy nghe lén được trong sảnh đường, lại càng hoài nghi.
“Hoàng huynh… có phải huynh không?”