Tiệm Đồ Cổ Á Xá

Chương 33: Côn Ngô Đao


Đọc truyện Tiệm Đồ Cổ Á Xá – Chương 33: Côn Ngô Đao

1

Thời Gia Tĩnh triều Minh.

Lục Tử Cương đứng trong xe tù, lặng lẽ nhìn về phía trước. Nơi đây là kinh thành chàng đã ở vài năm, chàng biết chỉ cần xe tù đi về lầu Tứ Bài Tây, là tính mạng chàng được định đoạt.

Chợ Tây là khu chợ phồn hoa nhất kinh thành, trước đây chàng cũng hay qua lại nơi này, chỉ không ngờ, lần cuối cùng tới đây lại là một tù nhân.

Cách đây không lâu, chàng vẫn còn là một người thợ ngự dụng rất được hoàng thượng yêu quý, chưa từng nghĩ rằng chỉ vì tự khắc tên mình lên đầu con rồng trên bức phù điêu ngọc mà phải chịu họa sát thân. Người đời nói chàng cậy tài ngạo mạn, không coi hoàng thượng ra gì, nhưng chàng không thấy mình làm sai điều gì cả.

Người ta nói, bạn với vua như bạn với hổ, quả là không sai… Tiếc là, cái tiệm đồ cổ tên là “Á Xá” ấy, chàng chắc là không thể quay lại được nữa.

Có lẽ vì dạo này phạm nhân bị xử trảm khá nhiều, nên dọc đường đi người ta nhìn thấy xe tù vẫn rất bình thản, chẳng thèm nhìn lâu thêm một chút, họ ngó một cái rồi quay luôn đi. Chỉ có vài đứa bé bảy, tám tuổi, cười đùa chạy theo xe tù, miệng lanh lảnh hát một bài đồng dao: “Bình Tắc môn, giương cây cung, đi qua chính là Triều Thiên Cung. Triều Thiên Cung, viết chữ lớn, đi qua chính là chùa Tháp Trắng…”.

Lục Tử Cương nhìn mấy hình bóng nhỏ bé, bỗng nhớ lại cái ngày chàng gặp nàng, nàng cũng chỉ lớn từng ấy.

Trong đời mình, chàng điêu khắc vô số ngọc đẹp, nào là hộp trà Mai Hoa làm bằng trà tinh, hộp Sơn Thủy Nhân Vật làm bằng thanh ngọc, ấm hoa văn Anh Hí làm bằng thanh ngọc… Chàng rất tự tin rằng tay nghề của mình trên đời này không ai theo kịp. Nhưng không ai biết rằng, những thứ đồ chơi tinh xảo của thế gian đó, đều không phải tác phẩm yêu thích nhất của chàng.

Chàng khó khăn lắm mới mở được lòng bàn tay ra, lòng bàn tay đầy những vết chai sạn, một chiếc khóa Trường Mệnh bằng ngọc lấp lánh nằm tĩnh lặng ở đó.

Ngọc đẹp loại thượng hạng, chất ngọc trắng ngần, màu như trăng rằm trong đêm thu, lại như làn da ngọc ngà của nàng trong ký ức. Chàng quyến luyến không rời tay, chà nhẹ lên chiếc khóa Trường Mệnh, như đang được chạm vào gương mặt của nàng.

Lục Tử Cương phát hiện ra ánh mắt tham lam của đám lính, nhưng cũng chẳng để ý, chỉ cúi đầu lặng lẽ nhìn những hoa văn trên khóa.

“Trường mệnh bách tuế… quả đúng chỉ là một giấc mơ đẹp mà thôi…” Lục Tử Cương lẩm nhẩm một mình. Năm xưa chàng thành tâm khắc bốn chữ đó lên miếng ngọc, cầu cho nàng được trường mệnh bách tuế.

Ký ức hiện ra trước mắt rất rõ ràng, tiếng nói nụ cười của nàng như ngày đó, chuyện như mới xảy ra hôm qua. Đám lính đi bên cạnh thôi không nhìn, nghĩ bụng không cần phải vội vàng. Đợi qua giờ ngọ ba khắc, chiếc khóa Trường Mệnh đó cũng chẳng còn thuộc về người này nữa rồi.

Đám trẻ con đùa nghịch bị người lớn gọi về, nhưng tiếng hát đồng dao vẫn lanh lảnh vọng lại: “… Miếu đế vương, tưới hồ lô, cạnh bên chính là Tứ Bài lâu. Tứ Bài Đông, Tứ Bài Tây, dưới lầu Tứ Bài bán áo đây…”

Lục Tử Cương lại nắm chặt chiếc khóa Trường Mệnh trong tay.

Đây là vật chàng trân trọng nhất trên đời, cũng là thứ cuối cùng chàng còn nắm được trong tay.

Mái ngói cao cao của lầu Tứ Bài đã hiện ra trước mắt…

2

20 năm trước.

Lục Tử Cương đứng ở phố Quan Tiền, nơi phồn hoa nhất thành Tô Châu, hít một hơi sâu, siết chặt lại túi hành lý trên người, đi trên con đường lát đá mọc đầy rêu xanh.

Năm nay cậu mười tuổi, lần đầu tiên tới một khu phố chợ nhộn nhịp thế này. Nhìn dòng người qua lại xung quanh, Lục Tử Cương cúi đầu nhìn lại mình ăn mặc rách rưới, để cái bóng của mình nép sát vào lề đường, đi một cách tự ti. Khi đi qua một hàng cơm, mùi thức ăn thơm nức bay tớỉ, cậu không cầm lòng được phải dừng bước, bụng đói sôi lên òng ọc.

“Thằng ăn mày ở đâu ra thế này? Đi mau đi! Đừng chắn đường của ông”.

Lục Tử Cương bí bách chạy vào một ngõ nhỏ hẹp bên đường, nhìn xung quanh không có ai, bèn lấy lương khô ra. Đầu tiên cậu hít thật sâu mùi thức ăn bay trong không khí, rồi mới cắn chiếc bánh đã rắn đanh trên tay.

Cậu còn nhỏ tuổi, nhưng cũng đã thấy hết nhân tình thế thái. Năm năm trước, sau khi cha mẹ đều chết đuối do thuyền gặp nạn trên Thái Hồ, cậu trở thành mồ côi. Họ hàng chẳng ai muốn nuôi một thằng bé còn chưa đủ lớn, sau cùng cậu được ông chú nhận nuôi, kết quả là sau vài năm thì bị bà thím đuổi ra ngoài.

Cậu vốn có một gia đình hạnh phúc, cha mẹ rất chiều chuộng, nhưng hạnh phúc ngày xưa cũng như ánh dương mùa xuân, rực rỡ đấy mà với tay ra chẳng thể chạm vào nổi. Một chút ấm áp còn sót lại, cũng chẳng thấy đâu nữa.

Lục Tử Cương bần thần rút tay lại, lại nắm chặt lấy chiếc bánh lanh ngắt, cúi đầu giấu đi ánh mắt thất thần.

Cậu đã vô số lần tưởng tượng, nếu ngày đó cha mẹ cậu không lên thuyền, hoặc lên chuyến đò sau, thì bây giờ cậu đã không phải lang thang trên đường phố Tô Châu. Nhưng vận mệnh, đâu có dễ mà đoán định được.

Cậu biết chú cậu rất khó khăn, gia đình đã rất nghèo rồi, còn có ba đứa con, khi cậu còn nhỏ thì còn có thể chia cho cậu miếng ăn, nhưng mấy đứa con trong nhà ngày càng lớn lên, thì thực sự không nuôi nổi nữa. Mặc dù ông chú làm thợ ngọc, qua tay ông đều là những viên ngọc đẹp lung linh, nhưng địa vị ông rất thấp, tiền gia công ngọc lại qua mấy tầng bóc lột tiền công đến được tay thì đã chẳng còn bao nhiêu.

Lục Tử Cương cẩn thận nhai miếng bánh vô vị trong mồm, cẩn thận nhai thật nát mới nuốt vào bụng. Cậu còn bé quá, công việc đồng áng chưa làm được, nên mấy năm nay đều theo ông chú học nghề làm ngọc. Ông chú nói lần này để cậu vào thành Tô Châu là muốn giới thiệu cậu tới hàng đồ cổ học việc. Nhưng lời đó có khi chẳng lấy gì làm thật, ông chú cũng không tự mình dẫn cậu đi, chỉ đưa cho cậu địa chỉ và tên cửa tiệm, đến tên gã chủ tiệm cũng không nói.

Có lẽ, cậu đã bị bỏ rơi.

Lục Tử Cương nhìn nửa cái bánh còn lại trong tay, dù bụng vẫn đói meo, nhưng cậu vẫn định giữ nửa cái bánh này lại. Không chừng có thể làm được bữa tối.

Nhưng ước mơ nhỏ nhoi đó của cậu cũng không thành hiện thực, từ trong ngõ sâu, một đứa bé nhảy ra, đâm sầm vào sau lưng Lục Tử Cương, nửa chiếc bánh bay ra, lăn ra rất xa mới dừng lại.

Lục Tử Cương mặc kệ kẻ gây họa, chạy thẳng ra ngoài, nhặt lại nửa chiếc bánh, cẩn thận phủi đất cát bám trên đó đi.

“Này! Bẩn thế, không ăn được đâu!”. Đằng sau có tiếng trẻ con lanh lảnh, Lục Tử Cương coi như không.

“Tôi đền cậu một bữa cơm nhé!”. Giọng nói ngô nghê tiếp tục vang lên, đứa bé kia ngồi xuống trước mặt cậu. Lục Tử Cương đầu tiên nhìn thấy một đôi giày đầu hổ, rồi từ từ ngẩng mặt lên.

Một cô bé đáng yêu đang nhìn cậu và cười tít, ánh nắng chiếu lên cô bé, hình thành một vòng hào quang vàng, đẹp đến mức người ta không thể nhìn thẳng.

Đây là khung cảnh mà cậu sẽ gìn giữ cả đời.

Cậu ngây người nhìn cô bé áo hồng đeo vòng ngọc, nhìn đôi bím tóc lắc qua lắc lại trên đầu cô bé, rất muốn với tay ra giật, nhưng đột nhiên nhớ ra tay mình dính toàn đất cát, nên lại tự ti thu tay lại.

Một bàn tay nhỏ mũm mĩm tóm được bàn tay đang rụt lại của cậu, bàn tay bé đến nỗỉ chi nắm được mấy ngón tay cậu, giọng nói thánh thót như chuông ngọc cất lên: “Đi thôi! Tôi đền cậu bữa cơm!”.

Lục Tử Cương mơ mơ màng màng đứng dậy, rồi len lén nắm lấy bàn tay nhỏ bé ấy. Mềm lắm, như thể cầm mạnh một chút là sẽ vỡ ra. Cậu nới tay một chút, nhưng không nỡ buông.

Cô bé kia chỉ khoảng tầm bảy tám tuổi, chưa cao đến vai của cậu, từ mắt cậu nhìn vừa vặn nhìn thấy đỉnh đầu cô bé, hai bím tóc tung tăng nhảy nhót theo bước chân cô bé, lắc nhiều đến nỗi cậu cũng thấy chóng mặt.

Lục Tử Cương bị cô bé kéo vào sân sau một quán ăn theo đường cổng sau, còn loáng thoáng nghe được tiếng nói chuyện ồn ào ở phía trước. Trong sân có một chú chó vện lỡ cỡ, thấy hai đứa bé vào không sủa mà vẫy đuôi chạy lại, quấn quít dưới chân hai đứa.

“Cậu đợi nhé, tôi vào làm ít đồ ăn cho cậu”. Cô bé bỏ tay cậu ra, nhảy chân sáo tới cái bếp ở bên, đây chắc là căn bếp sau của quán ăn này, bên trên vẫn còn để mấy đĩa thức ăn thừa.

Lục Tử Cương nuốt nước bọt, đi lên kéo cô bé lại, nói lắp bắp: “Không cần… không phiền cậu đâu, thức ăn thừa là được rồi…”.

Cô bé ngẩng đầu, đôi mắt đen láy như loại ngọc đen thượng hạng hấp háy cười: “Không được không được, tôi phải làm cho cậu!”

Cô bé giật nửa chiếc bánh đã dính đầy đất trên tay cậu, ném cho chú chó, sau đó quay đi rửa tay. Chú chó vện ngửi ngửi, lấy chân gạt chiếc bánh, ra vẻ chê bai, quay lại chỗ nằm cũ.

Lục Tử Cương không cách nào khác, đành chỉ biết đi theo sau cô bé. Cậu thấy cô bé sau khi rửa tay bê ra một cái ghế băng cao bằng nửa thân người, rồi cô bé vốn chẳng cao hơn bệ bếp là mấy run run trèo lên chiếc ghế, khua khua cái xẻng nấu ăn, nhìn rất chống chếnh, Lục Tử Cương đứng sau lưng, cậu cứ cảm thấy sao nguy hiểm thế, lỡ trượt chân ngã xuống…

Không đợi cậu nghĩ xong, đã nghe thấy cô bé kêu lên một tiếng “ái dà”, nhìn thấy cô bé đúng là sắp ngã đến nơi, Lục Tử Cương không nghĩ ngợi nhiều, đỡ luôn sau lưng cô bé.

“Sợ quá, cảm ơn cậu nhé!”. Cô bé chưa hoàn hồn, vỗ vỗ vào ngực, quay lại nhìn cậu cười ngọt ngào. Lục Tử Cương vội lắc đầu, nghĩ lại lúc nãy đỡ vào cơ thể của cô bé, mặt cậu đỏ bừng.


Cô bé cho cơm nguội vào nồi, đập hai quả trứng gà, bắt đầu rang cơm, động tác thuần thục. Lò lửa nóng khiến cho làn da trắng trẻo của cô bé hơi đỏ ửng lên, trên trán đọng rất nhiều mồ hôi, cô bé quệt mồ hôi rồi lại chăm chú rang cơm.

Vẻ mặt rất tập trung của cô bé khiến Lục Tử Cương ngây người nhìn.

Thực ra cô bé chỉ làm một đĩa cơm rang trứng rất đơn giản, nhưng cách đĩa cơm đầy đặn thơm nức, Lục Tử Cương nhìn thấy nụ cười tươi sáng, một cảm giác ấm áp khó tả dâng lên trong lòng.

“Mau ăn đi! Ăn đi! Xem xem có ngon không! Cha tôi toàn bảo tôi làm không ngon! Sau này tôi muốn làm đầu bếp! Cha tôi cứ nói tôi không có năng khiếu!”. Cô bé vội vã nhét cái thìa vào tay cậu, rồi ngồi đợi kết quả ăn thử.

Lục Tử Cương xúc một thìa đưa vào miệng. Hạt cơm còn hơi cứng, hơi mặn, thậm chí trứng gà còn chưa chín lắm, nhưng mà…

“Ngon lắm…” Cậu nói rất thật.

Cô bé lập tức cười tươi như hoa, nụ cười như ánh nắng giữa trời.

Lục Tử Cương hơi nheo mắt, hơi không quen lắm với sự nhiệt tình này.

“Này, cậu tên là gì?”. Cô bé chống tay lên mặt, hào hứng nhìn Lục Tử Cương xúc ăn từng thìa, trên mặt lộ rõ vẻ đắc ý. Cha cô suốt ngày nói cô nấu ăn không ngon, nói là đến con Vện cũng không ăn, đúng là chó cũng chê. Nói vớ vẩn! Nhìn cậu này ăn sung sướng vậy cơ mà.

Lục Tử Cương nuốt xong miếng cơm trong mồm, nói rành rọt: “Lục Tử Cương”.

“Lô Tử Cương? Cái tên này sao nghe kỳ thế?”. Gương mặt non nớt của cô bé hơi nhăn lại như chiếc bao vải, trông rất đáng yêu.

Lục Tử Cương cười, rồi cúi xuống tiếp tục ăn. Cậu cũng chẳng hỏi tên cô bé, tuy cậu chưa lớn, nhưng cũng biết tên con gái người ta là không được tùy tiện nói với người khác. Mặc dù cô bé ngồi trước mặt cậu thực ra cũng chưa trở thành cô gái.

Cô bé có vẻ rất thích Lục Tử Cương, mặc kệ Lục Tử Cương đang ăn, luôn miệng hỏi cậu đến từ đâu, định đi đâu. Nếu là người lạ hỏi, e là Lục Tử Cương sẽ chống đối trong lòng, nhưng với cô bé này, Lục Tử Cương kể hết chuyện của mình.

“Thật đáng thương…”. Cô bé không giỏi giấu tình cảm của mình, trong lòng nghĩ gì là lập tức hiện lên nét mặt.

Lục Tử Cương đã nhận ra rằng cô bé sinh trưởng trong một gia đình hạnh phúc, dù phục sức không phải loại sang trọng, nhưng tề chỉnh gọn gàng, chứng tỏ được cha mẹ yêu thương. Cậu không muốn vì câu chuyện của mình mà cô bé buồn hoặc thương hại, liền cười nói: “Thực ra chú tôi cũng muốn tốt cho tôi, sau này tôi làm một thợ ngọc, nhưng nhà bình thường lấy đâu ra ngọc thô để tôi tập? Mà cũng không có sản phẩm để tôi tập làm theo, nên chú tôi giới thiệu tôi đến tiệm đồ cổ để học nghề”.

Những lời đó là lời ông chú nói với cậu tối qua, lúc ấy cậu chỉ hiểu lơ mơ, cho rằng chú mình tìm cơ tống mình ra ngoài, bây giờ bình tâm nghĩ lại, kể cũng có lý.

Cô bé chớp chớp đôi mắt đen láy, cố sức nghĩ một lúc lâu, hỏi: “Thợ cá là làm gì? Đánh cá à? Sau này nếu cậu đánh được cá, thì đến tìm tôi, tôi nhất định sẽ nấu cá thật ngon!”.

(“Trác ngọc” là mài ngọc, cô bé nghe thành “tróc ngư” nghĩa là bắt cá. Trong tiếng Hán Bắc Kinh cận hiện đại, “ngọc” phát âm hơi giống “ngư”)

Lục Tử Cương cười và giải thích: “Là thợ làm ngọc, tức là từ ngọc thô mài ra thành đồ trang sức…”. Cậu ngập ngừng, giải thích thế nào là thợ ngọc với đứa bé bảy, tám tuổi là rất khó, trên người cậu lại không có viên ngọc nào làm ví dụ, những viên cậu mài ngày xưa đều bị bà thím thu hết rồi.

“Ngọc, à, trên người tôi có một viên!”. Cô bé cuối cùng cũng nghe ra là “ngọc” chứ không phải là “cá”, vui vẻ lấy ra một sợi dây đỏ đeo trên cổ, trên dây buộc một viên bạch ngọc nguyên đá to bằng khoảng chiếc cằm của trẻ sơ sinh.

Lục Tử Cương vừa nhìn thấy màu trắng ngọc thuần như màu mỡ dê, liền sững người. Tuy chú cậu nghèo, nhưng điêu khắc ngọc Tô Châu vốn đã nổi tiếng đương thời, những thứ ngọc thô gia công cho người khác cũng thường có loại tuyệt phẩm. Cậu từng may mắn nhìn thấy vài viên, trong đó còn có cả cống phẩm đưa vào hoàng cung, đều không thể có chất lượng bằng viên trước mặt được.

Hơn nữa đây lại là viên đá nguyên chưa hề được mài giũa chút nào, nếu được chế tác tinh xảo nữa thì… Lục Tử Cương lập tức khép tay cô bé lại, che viên ngọc đi, dặn dò rất nghiêm túc: “Tiểu muội muội, đừng đưa viên ngọc này ra trước mắt người khác”. Tuy cậu còn ít tuổi, nhưng cũng hiểu mang đồ quý trên người là thế nào.

Cô bé chu môi, thực ra việc này cha cô cũng đã nói rồi, nhưng nhất thời đắc ý nên quên mất! “Thế sau này cậu phải trở thành thợ ngọc, điêu khắc một món đồ ngọc thật đẹp cho tôi đấy!”.

“Được”. Lục Tử Cương cười nhận lời, không quên dặn dò: “Thế thì… trước khi tôi trở thành thợ ngọc, tiểu muội không được đem viên ngọc này cho ai khắc đấy, cũng đừng tùy tiện đem cho thợ ngọc khác xem”. Nói gì thì nói, đây cũng là ngọc quý hiếm có, thợ ngọc nào tinh tường một chút là biết ngay giá trị của nó, nếu nhỡ có kẻ động lòng tham, thì cô bé sẽ…

“Được!”. Cô bé ra vẻ hiểu, gật gật đầu: “Đúng rồi, viên ngọc này là ông chủ tiệm đồ cổ bên cạnh nhà tặng tôi đấy!”. Đã là đồ tiện tay thì tặng cho cô bé, chắc cũng chẳng quý giá gì! Cô bé nghĩ bụng, không hiểu ra làm sao.

Lục Tử Cương vốn tưởng rằng viên ngọc quý như vậy phải là đồ gia truyền tổ tiên để lại, không ngờ lại là người ngoài đem cho. Lục Tử Cương hỏi trong vô thức: “Tiệm đồ cổ? Tên là gì?”.

Cô bé nghiêng đầu nghĩ ngợi, rồi cười đáp: “Tên nghe kỳ quặc lắm! Gọi là Á Xá”.

Á Xá? Lục Tử Cương vội giở tờ giấy ông chú đưa cho mình ra, quả là như vậy!

Lục Tử Cương không ngờ “duyên phận” lại là thứ kỳ diệu đến thế. Cứ tưởng chỉ là một bữa cơm của người vừa gặp mặt, ai ngờ đâu tiệm đồ cổ mà cậu định vào lại ngay sát vách quán ăn nhà cô bé.

Có lẽ, đây đúng là số phận.

Nằm ngoài tưởng tượng của cậu, gã chủ tiệm Á Xá xem ra còn rất trẻ. Gã mặc một chiếc áo bào dài được thêu tỉ mỉ, đôi mắt phượng nhỏ và dài, vẻ mặt lạnh lẽo. Gã chủ tiệm lặng lẽ nghe xong ý định của cậu bé, bình thản gật đầu, dẫn cậu tới sân sau thu dọn một căn phòng cho cậu ở.

Thế là Lục Tử Cương ở lại trong tiệm đồ cổ, cậu vốn không phải là người nói nhiều, gã chủ tiệm lại càng trầm tính, tiệm đồ cổ thì cả ngày có khi cũng chẳng có khách nào lui tới, hàng đồ cổ im lìm này quả thực rất xứng với cái tên Á Xá. Lục Tử Cương ban đầu không quen lắm với không khí này, nhưng lâu ngày rồi dần dần cũng an tâm. Hồi đầu có thời gian là cậu còn chạy sang quán ăn bên cạnh, mấy lần suýt thì hỏi tên của cô bé, nhưng mỗi lần sắp hỏi thì không hiểu vì sao lại không hỏi nữa. Không bao lâu sau, cô bé theo gia đình lên kinh thành, lần chia tay này có lẽ sẽ là mãi mãi.

Trong lòng Lục Tử Cương, thời khắc tình cờ gặp cô bé đáng yêu hay cười, chính là thời khắc đẹp đẽ nhất trong cuộc đời của cậu. Nhưng đó cũng chỉ như viên đá ném xuống mặt hồ, dù làm cho sóng gợn lăn tăn, thì hồ nước rồi cũng bình lặng trở lại theo thời gian.

Ông trời cho cậu gặp được cô bé, đã là việc tốt lành nhất xảy ra từ khi cậu sinh ra tới nay rồi, sau cuộc gặp gỡ đẹp nhất lại là biệt ly, số phận thật biết trêu người. Từ hôm đó trở đi, Lục Tử Cương rất ít khi ra ngoài cửa tiệm Á Xá, ngày càng đơn độc và trầm lặng.

Công việc mỗi ngày của Lục Tử Cương ở Á Xá rất đơn giản, chỉ cần dọn dẹp vệ sinh cho tiệm, lau sạch bụi bặm bám trên đồ đạc, thời gian còn lại cậu có thể nghiên cứu những đồ bằng ngọc, thậm chí cứ việc cầm chơi trên tay.

Đồ trong tiệm này tuyệt đối đều là thượng phẩm.

Nhưng dù đồ trong tiệm quý giá thật, cũng không thể so sánh được với viên bạch ngọc nguyên đá đeo trên cổ cô bé kia. Thứ đắt giá thế mà gã chủ tiệm lại tùy tiện đem cho? Lục Tử Cương biết việc tự tiện dò xét người khác là không hay, nhưng ở đây lâu rồi cậu cũng biết trong tiệm đồ cổ này có rất nhiều thứ kỳ quái.

Ví như cây nến khuyết một góc ở chái tây nhà cứ cháy mãi không hết, ví như cây Việt Vương kiếm đựng trong hộp gấp dưới quầy thỉnh thoảng lại phát ra tiếng kêu lọc cọc, ví như con rồng đỏ sống động trên áo của chủ tiệm… Lục Tử Cương nghĩ ngợi mãi, không kìm nén nổi phải nhìn xuống gã chủ tiệm đang đọc sách ở sau quầy. Gã chủ tiệm mặc một chiếc áo cổ thời Hán, nhưng hoàn toàn không có cảm giác không ăn nhập, mà giống như hòa làm một với cả căn tiệm đồ cổ này. Đầu rồng trên tay áo cử động theo động tác lật sách của gã, trông như vật sống.

Gã chủ tiệm gập cuốn sách trong tay lại, đón theo ánh nhìn của Lục Tử Cương, cười bình thản: “Tử Cương, ta nghe nói cậu muốn sau này trở thành một thợ ngọc?”.

Lục Tử Cương lập tức ngồi thẳng người lên, cung kính trả lời một tiếng vâng.

Gã chủ tiệm nheo mắt lại nghĩ ngợi, rồi đứng dậy nói: “Cậu đợi một lát”.

Lục Tử Cương nhìn theo gã chủ tiệm lên gác hai một cách nghi hoặc. Cậu biết thực ra Á Xá rất lớn, số đồ bày ra ở tầng một chỉ là một phần nhỏ. Dù cậu được tự do đi lại, nhưng phạm vi chỉ là tầng một, còn gác hai thì chưa bao giờ cậu lên. Không lâu sau, liền nghe thấy tiếng bước chân, trong tay gã chủ tiệm bưng một chiếc hộp gỗ phủ đầy bụi đi xuống. Lục Tử Cương thấy vậy bèn vò chiếc khăn lau trong chậu nước, nhanh chóng chìa ra.

Gã chủ tiệm quẹt qua vài cái tên hộp gỗ, rồi hướng về phía Lục Tử Cương mở ra, “Đây là Côn Ngô đao, tặng cho cậu đấy”.

Trong hộp gỗ có một con dao nhỏ nằm đó tĩnh lặng, ánh sáng lạnh ngắt tỏa ra khiến cậu gần như phải ngừng thở lập tức. Con dao này toàn thân đen tuyền, chỉ dài khoảng bảy tấc, hình dáng thanh thoát, trên mặt dao bóng loáng trơn nhẵn, lưỡi dao thẳng và sắc lẹm, tinh tế như một món đồ chơi thủ công. Đáng kinh ngạc nhất là, không rõ con dao này được làm từ chất liệu gì, thân dao và cán dao thành một khối liền màu đen tuyền, trên thân dao còn có hình hoa văn lượn sóng kỳ lạ.

“Ở đây ta chỉ có Ngô đao dùng để dũa ngọc, còn Côn đao dùng để tách ngọc thì không rõ đã lưu truyền tới tay ai rồi”. Gã chủ tiệm biết sự nghi hoặc của Lục Tử Cương, bình thản giải thích, đưa Ngô đao lên cho cậu xem.

Lục Tử Cương quả nhiên nhìn thấy một chữ triện phức tạp ở đáy cán dao, cậu không biết nhiều chữ, chỉ biết chữ này chắc là chữ “Ngô”.

“Mục “Thượng Lân Châu”, chương “Hải nội thập châu kí” trong sách “Sơn Hải Kinh” có chép rằng: Thời Chu Mục Vương, Tây Hồ hiến dao cắt ngọc là Côn Ngô đao, cắt ngọc như chém bùn”. Gã chủ tiệm đưa con Ngô đao trong tay cho Lục Tử Cương: “Nếu cậu đã lập chí trở thành thợ ngọc, vậy thì thanh Ngô đao này cậu cầm lấy mà dùng”.

Lục Tử Cương lơ ngơ đỡ lấy Ngô đao, vào tay thấy nặng trịch, lạnh đến thấu xương, không giống lưỡi thép thông thường, mà giống làm bằng đá hơn. Cậu sung sướng chà tay lên thân dao, cảm nhận được thân dao lạnh lẽo đang được cậu truyền thân nhiệt sang, ấm dần lên, bất giác hỏi tiếp: “Không phải làm bằng thép đúng không?”.

Gã chủ tiệm rất vừa lòng với sự thích thú không che giấu của Lục Tử Cương, đối với gã, điều này tốt hơn nhiều so với việc bỏ dao phủ bụi trong một xó. “Đã bao giờ nghe tới câu này chưa? “Đá ở Tha Sơn, có thể cắt ngọc”. Côn Ngô đao, chính là làm từ đá Tha Sơn”.

“Đá Tha Sơn?”. Lục Tử Cương lấy ngón tay sờ vào lưỡi dao. Từ bé cậu đã xem ông chú mài ngọc, dùng từ trong nghề thì, chế tác ngọc không gọi là điêu khắc ngọc, mà gọi là “trị ngọc”, hoặc là dũa ngọc, mài ngọc. Công cụ để dũa ngọc, không phải là dao, mà là lấy cát giải ngọc cho thêm nước, dùng bàn tròn hoặc bánh xe tròn để mài từng chút một. Nếu con dao này đúng là cắt ngọc như cắt bùn, thì quả là thứ binh khí sắc bén.


“Ở đây ta có ít ngọc thô, cậu lấy mà luyện tập”. Gã chủ tiệm lại lôi ra một chiếc hộp, vì động tác của gã mà chiếc hộp vang lên những tiếc động lách cách, nghe là biết đều là ngọc thô nguyên đá loại hảo hạng.

Lục Tử Cương mím chặt môi, tay cầm thanh Ngô đao đã ấm bằng thân nhiệt của cậu, nói khó khăn: “Chủ tiệm, cháu…” Dù đã có nghe chuyện gã chủ tiệm có khi tùy tiện đem vật quý ra tặng, nhưng trong lúc này, Lục Tử Cương lại cảm thấy thật khó chấp nhận. Trong những năm khôn lớn của cậu, cậu học được sự trao đổi ngang giá, trên đời này làm gì có ai vô duyên vô cớ đối xử tốt với người khác?

Có vẻ gã chủ tiệm đã nhìn rõ sự lo sợ trong lòng Lục Tử Cương, bèn cười nhẹ mà rằng: “Đừng cho rằng ta đem cho không cậu tập, ta muốn cậu trở thành thợ ngọc giỏi nhất trên thế gian, sau đó làm giúp ta một viên ngọc thạch”.

Lục Tử Cương chần chừ đôi chút, rồi gật đầu kiên quyết: “Vâng, cháu sẽ cố gắng!”. Gã chủ tiệm cất nụ cười đi, dặn dò nghiêm túc: “Dùng thanh Ngô đao này cho tốt, khi dùng thì phải cẩn thận, không được để Ngô đao dính máu, càng không được phép dùng Ngô đao để sát sinh”.

Lục Tử Cương lại gật đầu kiên quyết lần nữa.

Những ngày sau đó, Lục Tử Cương vùi đầu nghiên cứu kỹ thuật làm ngọc. Việc chẳng nhẹ nhàng gì, người ta vẫn nói, hoàng kim có giá, mỹ ngọc vô giá, mỗi một miếng ngọc thạch đều có đường vân độc đáo riêng, chỉ cần bất cẩn một chút khắc sai một đao, là coi như bỏ đi cả miếng ngọc.

Lục Tử Cương không phải là chưa từng thất bại, mỗi khi cậu thoải chí, lại nhớ tới hồi cô bé lần đầu làm cơm rang cho cậu ăn.

Dù chỉ là một việc rất nhỏ, nhưng cậu không thể nào quên.

Gã chủ tiệm nói, làm cho gã một miếng ngọc, trên cổ cô bé cũng đeo một miếng ngọc tuyệt thế, đợi đến khi kỹ thuật của cậu luyện tập đến mức khiến gã chủ tiệm hài lòng, liệu có phải… nếu gặp lại cô bé, cậu cũng có thể làm cho cô một miếng ngọc?

Nếu số phận cho họ được gặp nhau lần nữa, cậu nhất định… nhất định…

Cậu nắm chặt thanh Ngô đao trong tay, lại chuyên tâm vào việc tập luyện.

Đêm khuya, gã chủ tiệm xách đèn đi ra sân sau, nhìn thấy phòng của Lục Tử Cương vẫn sáng đèn. Gã nhìn vào trong, ánh đèn trong phòng tù mù, còn Lục Tử Cương hoàn toàn không hay biết, vẫn dồn hết tâm trí vùi đầu trước bàn, đang tỉ mỉ từng đường dao khắc con mắt của một bức tượng người, trong phòng bừa bộn những viên ngọc thô, và cả những tác phẩm chưa từng được hoàn thành.

Nào là bình ngọc, chén ngọc, đồ chơi bằng ngọc, dù chỉ là bán thành phẩm, nhưng cũng đủ khiến người ta cảm thấy tinh xảo vô cùng. Con ngựa cậu khắc như chuẩn bị phi lên; con cá cậu khắc sống động như thể sắp nhảy xuống nước để bơi; hoa cậu khắc chỉ cần tới gần cũng như đã thấy hương thơm mê hoặc…

Gã chủ tiệm bước vào phòng của Lục Tử Cương, đổ thêm dầu đèn cho cậu, căn phòng lại sáng trở lại, Lục Tử Cương vẫn không hay biết gì, dường như toàn bộ linh hồn đều ở cả trong miếng ngọc trên tay.

Gã chủ tiệm nhìn gương mặt bức tượng có chút quen mắt, lặng lẽ khép cửa đi ra.

Gã quả là không nhìn nhầm người… Cậu bé tên là Lục Tử Cương này, rồi sẽ có ngày, làm cho gã một tác phẩm tốt nhất.

3

Mười năm sau, hoàng thành trong kinh đô.

Hạ Trạch Lan vuốt lại mái tóc, đi theo Lý công công ra cửa sau Ngự Dụng Giám. Là một người của Thượng Thiện Giám, nàng vẫn thường qua lại phòng đồ ngọt ở Ngự Dụng Giám, nhưng hôm nay nàng tới đây không chỉ vì có thế.

Ngự Dụng Giám ở ngoài Tây Hoa Môn, là một nha môn nội phủ rộng nhất trong số mười hai giám, tám cục, bốn ti của nhà Minh. Ngự Dụng Giám và Thượng Thiện Giám của nàng là nơi thu nhập nhiều nhất, quy mô lớn nhất. Trong Thượng Thiện Giám, chữ “Thượng” nghĩa là tôn quý, chữ “Thiện” là ăn uống, Thượng Thiện Giám là cơ quan chuyên trách ngự thiện, chuyện ăn uống của cung đình, làm cống phẩm cho điện Phụng Tiên và chuyện ăn uống của các nha môn nội phủ lớn trong hoàng thành. Hạ Trạch Lan không phải nhân vật lớn gì trong Thượng Thiện Giám, chỉ là một đầu bếp vào đây nhờ mấy món gia truyền.

Còn Ngự Dụng Giám, thì là nha môn nội phủ chuyên chế tác đồ dùng chuyên dụng của hoàng đế. Tuy nói là chỉ phục vụ mình hoàng đế, nhưng các vật phẩm trong hoàng cung, lớn thì tới long sàng, nhỏ thì giấy bút mực nghiên, có thứ nào không phải đồ chuyên dùng của hoàng đế? Ấn chương ngọc tỉ cũng phải Ngự Dụng Giám chế tác, đến hộp đựng ngọc tỉ cũng phải làm đủ bộ, và không được giống nhau. Vậy nên Ngự Dụng Giám chiếm nhiều đất nhất, phía Đông bên ngoài là Kho Ngoài và Kho Lớn, phía Tây là Hoa Phòng, phía nam là Kho Băng, ở giữa bên trong thì là công sảnh, bốn phía lần lượt là bốn phường lớn: Phật Tác, Đăng Tác, Niễn Ngọc Tác, Mộc Tất Tác. Còn lại thì phân bố các phường nhỏ, nhiều đến mức khó tin.

Mỗi lần Hạ Trạch Lan tới Ngự Dụng Giám đều phải đi rất lâu. Lý công công cùng đi với nàng cười lấy lòng: “Hạ cô nương, lần này cô nương giúp ta việc lớn thế này, thật là vô cùng cảm kích!”.

Hạ Trạch Lan cười ngọt ngào: “Lý công công nặng lời rồi, nhận tiền làm việc, chúng ta trao đổi thôi mà”. Mặc dù Thượng Thiện Giám cũng phụ trách chuyện ăn uống của nha môn nội phủ, nhưng không phải hàng ngày Thượng Thiện Giám bưng cơm tới, mà phải trực tiếp sai người tới, vì nha môn nội phủ đều có nhà bếp, luân phiên làm việc. Nhưng mấy người làm việc luân phiên đó thực đơn hàng ngày đều không có gì thay đổi, nếu muốn ăn ngon thì đi ra quán rượu bên ngoài, hoặc tự liên hệ riêng với Thượng Thiện Giám để mời riêng đầu bếp.

Lý công công lại càng cười tươi hơn, ông ta thích kiểu làm việc rõ ràng của Hạ Trạch Lan, tránh việc sau này kì kèo rắc rối.

“Nhưng Lý công công này, sao lần này lại nhớ tới tôi thế?”. Hạ Trạch Lan nghi hoặc, nàng không phải là nhân vật có tiếng gì ở Thượng Thiện Giám, cùng lắm là làm thuê cho qua ngày mà thôi.

Lý công công thở dài nói: “Chẳng phải vừa mời một thợ ngọc ở Tô Châu về sao? Ti chúng ta đang muốn tiếp đãi anh ta, nên muốn mời đầu bếp nào biết làm món ăn quê nhà cho anh ta. Hạ cô nương cũng không cần làm nhiều, cùng lắm là ba bốn người ăn, làm sáu món một canh là đủ rồi, nguyên liệu ta đã cho người chuẩn bị đầy đủ rồi”.

Hạ Trạch Lan ừ một tiếng, sáu món một canh, nghe thì nhẹ nhàng, nhưng riêng việc quyết định làm món gì đã phải nghĩ chán chê rồi, may mà là cơm tối, nàng có thể ứng phó được. Món quê nhà thì vẫn làm suốt, chắc không vấn đề gì. Nàng thấy bộ dạng lo lắng của Lý công công, bật cười: “May mà công công mời được tôi đấy, nếu mời người khác sợ đúng là không làm đủ cho được đâu”.

Lý công công lúc đó mới an tâm, và cũng không cảm thấy Hạ Trạch Lan nói khoác. Người toàn tài trong Thượng Thiện Phòng là rất ít, riêng Biện Thiện Cục cũng đã phân ra tới mười mấy bộ phận như làm canh, làm món mặn, làm món chay, làm điểm tâm, món trộn khô,… lại thêm cả các bộ phận làm rượu, ngâm dấm, làm tương,… rất nhiều nội quan và đầu bếp chỉ làm duy nhất một món. Còn Hạ cô nương mà ông ta mời đến bây giờ, nghe đâu trước khi vào hoàng thành là người thừa kế của một nhà hàng ăn, làm một mâm cơm Tô Châu chắc không vấn đề gì.

Yên tâm hơn rồi, Lý công công cũng bắt đầu nói nhiều hơn, hai người vừa đi vừa nói kể cũng thấy nhanh hơn đôi chút, lúc này chính vào thời gian các thợ thủ công vào hoàng thành làm ca sáng, người trong Ngự Dụng Giám bắt đầu đông dần, rõ ràng quan hệ của Lý công công không tồi chút nào, chức quan cũng không thấp, đi một đoạn lại thấy có thợ hoặc thái giám chào ông ta.

Trong số con gái hoàng thành, Hạ Trạch Lan không còn ít tuổi, nếu không phải vì cha mẹ lần lượt mắc bệnh qua đời thì nàng cũng lấy chồng lâu rồi. Nhưng nàng cũng lấy cớ không có cha mẹ đứng ra làm chủ, sống một mình rất thoải mái.

Hai người càng đi về phía Niễn Ngọc Tác, thợ gặp dọc đường càng kiêu ngạo, có khi Lý công công lên tiếng chào trước, người ta cũng mặc kệ, đa phần thời gian đám thợ coi hai người như không khí.

Lý công công cười nhăn nhó: “Hạ cô nương đừng phật ý, thợ ngọc tính cách như vậy đấy, nếu có chỗ nào đắc tội, ta xin lỗi cô nương trước”.

Hạ Trạch Lan ngạc nhiên nhíu mày: “Sao? Oai đến thế cơ à?”.

Nàng cũng biết người có tay nghề thường tính tự tôn rất cao, nhưng đây là trong hoàng thành, nơi tập trung của toàn những nhân tài hàng đầu thế gian, rất khó nói kỹ thuật của ai cao hơn. Hơn nữa, nàng luôn cảm thấy thợ ngọc không phải là người có tính cách như vậy, mà ôn hòa hơn… thành thực hơn…

Lý công công thở dài giải thích: “Hạ cô nương không biết đó thôi, Thượng Thiện Giám phân công rất tỉ mỉ, rất ít khi một món ăn mà có hai người làm phải không?”.

Hạ Trạch Lan gật đầu, món ăn nhiều vô số kể, nhiều khi là một người làm vài món ăn. Lý công công tiếp tục: “Thượng Thiện Giám các vị làm đồ ăn là phải tuân thủ thực đơn rất nghiêm ngặt, thêm một phụ liệu gì cũng phải nghiên cứu rất kỹ, vì sợ long thể gặp ảnh hưởng không hay nào, vì vậy nên thực ra ai làm không quan trọng, chỉ cần có công thức, thay người khác làm cũng được. Nhưng Ngự Dụng Giám thì không phải vậy, những thứ như giường, tủ, bàn ăn, đèn… đặt trong các cung, tuy rằng đều có quy cách, nhưng đại khái là vẫn để cho thợ tự do phát huy, mà chế tác ngọc thì càng như vậy. Chưa nói đến nguyên liệu, cô cứ nghĩ xem chế tác ngọc để trên bàn chơi, với cả làm bàn ghế để ngồi để nằm liệu có giống nhau được không?”.

Hạ Trạch Lan nghe xong là hiểu, nếu là cô, cô cũng không để ý mấy đến chuyện bàn ghế có gì đặc sắc hay không, nhưng một món đồ ngọc tinh xảo thì lại khác hẳn, ngọc thô vốn đã không có hai miếng nào giống hệt nhau, cộng thêm công khắc thì càng khó, đồ do thợ ngọc có tay nghề khéo léo làm ra thì đều là độc nhất vô nhị trong thiên hạ. Đồ ăn có thể ăn tiếp lần sau, rồi cũng sẽ có ngày chán ngấy, còn đồ ngọc thì càng chơi lâu lại càng có thần vận, còn có thể lưu truyền thiên cổ.

Sau khi Hạ Trạch Lan nghĩ thông suốt, thì lại nảy sinh một chút ngưỡng mộ, cảm thấy những thợ ngọc này cao ngạo cũng có lý, bất giác sờ lên viên ngọc thô nguyên đá đeo trên ngực. Trong trí nhớ hình như có người từng nói sẽ trở thành thợ ngọc, nhưng năm tháng xa xôi quá rồi, hồi ức chỉ còn là những hình ảnh vụn vặt, không nhớ chuyện gì cụ thể.

Trở về hiện thực, Hạ Trạch Lan nhận ra Lý công công đang ca cẩm, nàng cũng thuận theo Lý công công mà nói: “Lý công công thật vất vả”.

Lý công công càng thấy quý mến Hạ Trạch Lan hơn, thở dài: “Thực ra đám thợ trong Niễn Ngọc Tác vẫn còn tốt chán, chẳng qua là nóng tính một chút thôi, lần này ti chính vừa mời tới một tay thợ ngọc cực nổi tiếng ở Tô Châu, mỗi một món đồ ngọc anh ta làm đều có dáng vẻ đặc biệt, ta chơi với giới thợ ngọc bao nhiêu năm nay, mà lần đầu tiên gặp được một kẻ ngạo mạn đến thế. Vậy nên là Hạ cô nương, hôm nay phải phiền cô vất vả, đừng để người ta bới ra lỗi gì đấy!”.

(Người đứng đầu một ti trong bộ máy chính quyền thời Minh)

Hạ Trạch Lan bề ngoài thì gật đầu, bên trong thì bĩu môi, bữa cơm quan trọng thế mà chỉ mời một đầu bếp là cô, chắc Lý công công sợ mời nhiều người quá thì các thợ ngọc khác thắc mắc. Nhưng đích thân ti chính của Niễn Ngọc Tác đứng ra đón tiếp, thì hôm nay xem ra không làm cẩn thận không được. Hơn nữa mời riêng đầu bếp đến làm cơm thiết đãi thì đây là lần đầu, chắc chắn tay thợ ngọc này không phải loại tầm thường.

Hai người rẽ vào một ngã rẽ, đi vào một căn nhà nhỏ có riêng một căn bếp. Hạ Trạch Lan đẩy cửa bếp nhìn, mọi thứ nguyên liệu cần thiết đều còn tươi nguyên, sạch sẽ, bày sẵn ra đó, không cần nàng phải rửa nữa, quả là chuẩn bị rất chu toàn. Lý công công còn có việc bận, chỉ dặn dò một hồi rồi vội vã đi ra.

Hạ Trạch Lan làm công việc mất thời gian nhất trước là bắc nồi canh gà hầm lên bếp, đây là món canh nổi tiếng của Tô Châu, cách làm đầu tiên là cần hầm xương gà từ một canh giờ trở lên, bước hai làm canh đỏ, bước ba làm canh trắng. Nàng nhẩm tính thời gian, làm xong là vừa kịp tiệc tối.

Sau khi nêm gia vị và cho canh vào hũ sành để hầm, Hạ Trạch Lan bắt đầu chọn lựa trong đống nguyên liệu, chọn ra nguyên liệu cần thiết, bữa tối này thực ra không khó chuẩn bị, nhưng khó ở chỗ căn bếp này không giống như Thượng Thiện Giám chỗ nào cũng có lò bếp, ở đây chỉ có hai cái bếp, nếu muốn vài món ăn đem lên cùng một lúc, thì phải suy nghĩ tính toán cho kỹ.

Hạ Trạch Lan tháo chiếc túi vải đeo bên hông, lộ ra một con dao bếp đen tuyền, lưỡi dao phát ánh sáng lạnh toát, trên thân dao có đường vân gợn sóng, dưới ánh sáng chiếu vào như thể đang cử động. Sắc mặt Hạ Trạch Lan dịu xuống, đây là con dao bếp gia truyền của nhà họ Hạ, được cha truyền lại, tổng cộng đã được mười lăm đời. Mỗi khi làm bếp cầm con dao lên, nàng lại nhớ tới cha mẹ.

Khẽ thở dài một tiếng, Hạ Trạch Lan đưa tay cầm cán dao nhưng khi đầu ngón tay vừa chạm vào cán dao, thì thân dao bỗng nhiên khẽ động đậy, phát ra tiếng kêu lách cách khô giòn, Hạ Trạch Lan giật mình, lập tức lùi lại, ngỡ ngàng nhìn con dao vẫn đang động đậy trên bàn rau.


Gì thế này? Đây có phải là tiếng dao kêu trong truyền thuyết không? Đúng lúc đó, một bóng người xông thẳng vào phòng bếp, cũng kinh ngạc nhìn con dao bếp.

Đã nghe rất nhiều truyền thuyết về chuyện đao kêu để bảo vệ chủ của mấy tay kể chuyện dạo, phản ứng đầu tiên của Hạ Trạch Lan chính là tên lạ mặt kia đến Ngự Dụng Giám để ăn trộm, lập tức bước lên một bước cầm lấy con dao, chém thẳng về phía gã khách không mời…

Lục Tử Cương lần đầu tới kinh thành.

Thực ra chàng đã nhận nhiệm vụ của Ngự Dụng Giám từ lâu rồi, thường ngày Ngự Dụng Giám đến Tô Châu tìm mua ngọc thô, đợi chế tác xong rồi mới tiến cống vào kinh thành. Mấy năm nay danh tiếng làm ngọc của chàng ngày càng lớn, Ngự Dụng Giám giục chàng vào kinh thành nhận việc từ lâu.

Lục Tử Cương không muốn đến kinh thành, dù Ngự Dụng Giám có quyền lực vô song, nhưng ở Tô Châu chàng vẫn có thể hoàn thành việc Ngự Dụng Giám giao cho, việc vận chuyển đồ ngọc cũng rất tiện lợi – ngọc quý tuy ở kinh sư, thợ giỏi đều về Tô quận, câu nói lưu truyền trong nghề không phải câu nói sáo rỗng. Điều khiến chàng thay đổi chủ ý là, gã chủ tiệm Á Xá bỗng nhiên quyết định đưa cửa tiệm về kinh thành.

Mười năm nay, chàng vẫn sống trong Á Xá, Á Xá cần chuyển tiệm, tất nhiên chàng phải giúp, nên cũng nhận lời luôn với Ngự Dụng Giám. Đợi khi tiệm Á Xá xong xuôi, chàng mới tới công sảnh nhận lệnh bài ra vào hoàng thành, buổi tối ti chính của Niễn Ngọc Tác còn có việc gặp chàng, nhưng xem ra vẫn còn sớm nên chàng không ra khỏi hoàng thành nữa.

Phường Niễn Ngọc Tác lại chia làm hai phái là Nam Ngọc và Bắc Ngọc. Bắc Ngọc lấy thợ ngọc phương Bắc làm chủ, gia công đơn giản tạo hình phóng khoáng, còn Nam Ngọc thì lấy thợ ngọc Tô Châu làm đầu, thường làm những đồ ngọc nhỏ xinh vô cùng tinh xảo. Thợ ngọc phái Nam Ngọc trong Ngự Dụng Giám có rất nhiều người là bạn bè với Lục Tử Cương hồi còn ở Tô Châu, chàng muốn tiện đường qua thăm họ.

Chàng cảm ơn tiểu thái giám dẫn đường, nhưng không ngờ phường Niễn Ngọc Tác lại lớn đến thế, tất cả biển hiệu của các phường chế tác đều đánh số bằng thiên can địa chi, nhưng thứ tự thì lại lộn xộn để đề phòng người ngoài nắm được bố trí khu vực này trong thời gian ngắn. Lục Tử Cương cảm thấy như lạc vào mê cung lớn, thợ ngọc lúc này đa phần đều đang làm việc, chàng muốn hỏi cũng không hỏi nổi.

Không phải là Lục Tử Cương không nghĩ đến chuyện gõ cửa hỏi thăm, nhưng cùng là thợ ngọc nên chàng hiểu, khi làm ngọc cần nhất là phải liền mạch, nếu như trong lúc điêu khắc mà bị người khác làm phiền, có thể sẽ làm hỏng cả tư duy nghệ thuật của người ta, nên Lục Tử Cương chấp nhận tiếp tục đi lạc.

Đang như con nhặng mất đầu bay lung tung, bỗng Lục Tử Cương ngửi thấy mùi thơm. Vì hồi bé bữa no bữa đói nên Lục Tử Cương rất nhạy cảm với mùi thức ăn, đi theo đúng đường của mùi thơm đến một cái sân nhỏ nằm riêng một góc.

Chàng vừa bước vào cửa bỗng nhiên cảm thấy thanh Ngô đao luôn đeo trên người động đậy, thậm chí phát ra tiếng lách cách. Lục Tử Cương khựng lại trong chốc lát, rồi hai mắt sáng lên, không kìm nén nổi niềm vui sướng đang dâng lên trong lòng.

Chàng chỉ có một thanh Ngô đao, không lúc nào không nghĩ tới thanh Côn đao còn lại kia. Ngô đao tinh xảo chỉ dùng để giũa ngọc, làm những đồ ngọc nhỏ, còn những đồ lớn một chút thì không làm được, nên chàng lúc nào cũng nghĩ tới thanh Côn đao, bám riết gã chủ tiệm để hỏi rất lâu, mới biết khi Côn đao và Ngô đao ở gần nhau, có thể là vì đã chia cách trăm ngàn năm nay, sẽ phát ra tiếng kêu.

Hồi nhỏ chàng coi như đó là chuyện đùa, nhưng sau khi ở Á Xá lâu ngày, chàng cũng gặp vô số chuyện kỳ dị. Chàng cố gắng tìm kiếm, tìm thấy một số manh mối trong sách cổ. Truyền thuyết kể rằng thời Xuân Thu Chiến Quốc, Sở vương lệnh cho Mạc Da đúc song kiếm, Mạc Da giữ Hùng kiếm, còn Thư kiếm dâng cho Sở vương, để lại Hùng kiếm kêu than trong hộp. Chuyện này có vài cuốn sách ghi chép, dù có hơi khác nhau nhưng nhìn chung vẫn là một câu chuyện. Nên Lục Tử Cương hy vọng rất nhiều, một ngày nào đó Côn Ngô sẽ hội ngộ.

Chỉ là chàng không ngờ thời khắc đó lại đến nhanh như thế. Nhưng nghĩ lại thì sự phấn khích giảm đi vài phần, đây là nơi nào chứ? Đây là phường Niễn Ngọc Tác trong Ngự Dụng Giám ở hoàng thành, gần như thợ ngọc hàng đầu trong thiên hạ đều ở đây, có lẽ cũng có một thợ ngọc giống chàng, có được Côn đao dùng để tách ngọc.

Nhưng sắc mặt ảm đạm của Lục Tử Cương lập tức lại tươi tỉnh lại, Côn đao có người dùng không phải việc gì xấu, bao nhiêu năm ở Á Xá, điều mà chàng không chịu nổi nhất chính là những thứ đồ cổ có linh tính phải nằm im lìm trong tủ. Đồ người ta làm ra là để dùng, nếu không thì còn giá trị gì?

Những ý nghĩ đó vụt qua trong đầu của Lục Tử Cương nhanh như ánh chớp, sau phút chốc thất thần, chàng liền rảo bước về phía trước, chàng rất muốn gặp người thợ ngọc có thanh Côn đao, cùng trao đổi kinh nghiệm. Sân nhà này không lớn, chẳng giấu nổi ai, chàng càng bước về phía trước, thanh Ngô đao trong lòng càng kêu lớn.

Lục Tử Cương chán nản hẳn. Bởi vì nếu bước tiếp thì là phòng bếp mất rồi!

Bếp thì bếp, có khi tay thợ ngọc đó đang đi ăn, nhưng mà cầm theo con dao tách ngọc thì đi ăn gì… Lục Tử Cương tuy nghi hoặc, nhưng vẫn rảo bước tiến vào nhà bếp, đầu tiên là nhìn thấy một cô gái đứng trong bếp, ánh mắt quét một lượt, rồi chàng trố mắt ngạc nhiên. Nếu chàng không nhìn nhầm, thì con dao màu đen tuyền đặt trên bàn rau giống hệt Ngô đao kia, chắc chắn là Côn đao! Nhưng sao trông giống dao thái rau vậy…

Bất ngờ khiến Lục Tử Cương đứng khựng lại tại chỗ, tới tận lúc cô gái cầm Côn đao chém về phía chàng, chàng vẫn đang đờ người ra…

4

Đừng nghĩ rằng những cô gái biết nấu ăn đều hiền lành, thực ra những cô nào vung dao chém cá mặt không biến sắc, thì trong vô thức đều càng hung hãn… Những cô đó không phải cùng một đẳng cấp với mấy cô khuê nữ thêu hoa khâu áo! Những điều đó là điều mà Lục Tử Cương nhận ra trong nháy mắt.

Lục Tử Cương cả đời này chưa từng bị ai cầm dao đuổi giết, mặc dù rất bất ngờ nhưng dù sao đối phương cũng chỉ là một cô gái, chàng hơi né người là tránh được, chỉ nghe bên tai tiếng gió đao vù vù lướt qua, chàng sợ hãi vội vã nói: “Hiểu lầm hiểu lầm rồi, xin đừng ra tay!”.

Hạ Trạch Lan dừng tay, không phải vì câu nói của đối phương, mà vì khẩu âm của chàng. Trong lúc nguy cấp đối phương nói bằng một giọng quê quen thuộc, lập tức khiến Hạ Trạch Lan định thần trở lại, bắt đầu nhìn ngó đối phương một lượt.

Chàng trai trẻ khoảng chừng hơn hai mươi tuổi, mặt mũi thanh tú, mặc một chiếc áo màu lam nhã nhặn, khí độ phi phàm, nhìn là thấy không phải kẻ xấu. Mặc dù Hạ Trạch Lan cảm thấy việc chưa hỏi đầu cua tai nheo gì đã cầm đao chém người ta là hơi xấu hổ, nhưng vẫn nghiêm giọng cau mày nói: “Đây không phải nơi tùy tiện ra vào”.

Lục Tử Cương cũng biết mình hơi lỗ mãng, chàng cũng không tốn lời giải thích, chỉ lôi thanh Ngô đao đang ôm trong lòng ra.

Hạ Trạch Lan bỗng thấy con dao trong tay mình càng kêu tợn, bất giác bỏ con dao xuống bàn rau. Tất nhiên là nàng nhìn ra hai con dao cùng một hình dạng, ngạc nhiên hỏi: “Cha ta không nói với ta là vẫn còn một con dao gọt hoa quả nữa đấy!”.

Dao gọt hoa quả? Lục Tử Cương cảm thấy hoa mắt chóng mặt, một lúc lâu sau mới tìm lại được giọng nói của mình, từ từ kể lại lai lịch Côn Ngô đao, nhưng cô gái có vẻ không hứng thú lắm, quay người cầm Côn đao đi thái rau.

Dù động tác thái rau rất thuần thục thích mắt, nhưng với Lục Tử Cương thì vô cùng ngứa mắt, đó là Côn đao được lưu truyền từ đời thượng cổ! Chàng không nhịn được phải nói: “Dao này dùng để tách ngọc, không phải dùng để thái rau đâu!”.

Hạ Trạch Lan dù quay lưng lại, cũng cảm nhận được ánh mắt sắc lẹm với chàng, quay người lại cười khẽ nói: “Nhìn ta cũng vô ích thôi, con dao này là tổ tiên truyền lại, ta chẳng cần biết anh nói thế là ý gì, dù sao trong mắt ta, nó cũng là con dao thái rau”.

Lục Tử Cương cứng họng, trong lòng biết người ta nói có lý, trong mắt cô nàng, thanh Ngô đao trong tay chàng chỉ là dao gọt hoa quả! Nhưng dù biết đạo lý là thế, Lục Tử Cương nhất thời cũng không định thần lại kịp, trong bụng chỉ nghĩ sao cô nương này ngang ngạnh đến thế, nói một cách vô thức: “Côn Ngô đao là để giũa ngọc mà…”

Hạ Trạch Lan nghe đến đó thì ngưng lại: “Anh không phải là thợ ngọc mà ti chính mời tối nay đấy chứ? Có phải là người mà trên tác phẩm nhất định phải đề tên không?”.

Lục Tử Cương nghe giọng điệu cô nàng có vẻ khiêu khích, liền nặng giọng phản bác: “Đề tên thì có gì sai? Đồ ngọc cũng như tranh chữ, cũng là tác phẩm nghệ thuật. Vì sao tranh chữ thì được đề lạc khoản, mà lạc khoản tên người nổi tiếng còn có giá cao, còn đồ ngọc thì không được? Ta phải làm người đầu tiên trong thiên hạ đấy!”.

Những lời ngông cuồng đó, Lục Tử Cương lần đầu nói ra, trước giờ người khác có hỏi, chàng cũng đều bịt tai trước những lý do đường đường chính chính của họ, nhưng hôm nay đứng trước cô gái không quen biết, Lục Tử Cương đột nhiên cảm thấy không thể bỏ qua.

Đó chính là điều chàng ngộ ra trong những năm qua, ở trong Á Xá sưu tầm rất nhiều đồ ngọc nổi tiếng ngàn năm, chàng học khắc theo năm này qua năm khác, mà hoàn toàn không biết những đồ tinh xảo này do ai làm ra. Chàng không muốn tác phẩm của mình có kết cục như vậy, chàng muốn tên tuổi mình cùng với những món đồ ngọc đó trở thành dấu ấn lịch sử.

Vì lời của Lục Tử Cương mà Hạ Trạch Lan ngừng lại không thái rau nữa. Những lời ngông cuồng như vậy, mà cũng không đến nỗi trái tai, hơn nữa lại khiến nàng cảm thấy khâm phục. Tất nhiên nàng biết tại sao tranh chữ thì được đề lạc khoản còn ngọc khí thì không. Bởi vì tác giả của tranh chữ đa phần đều xuất thân thư sinh tú tài, địa vị cao thậm chí là vương hầu quan tướng. Nhưng thợ ngọc dù nổi tiếng đến mấy, thì vẫn chỉ là thợ. Việc làm của người này thực ra là muốn nâng cao địa vị của thợ, đúng là rất dũng cảm.

Từ xưa dân có bốn hạng, sĩ nông công thương. Người đọc sách đứng đầu, sau đó là nông dân, thợ thủ công lại đứng dưới, thương nhân là thấp nhất. Đẳng cấp nghiêm ngặt, không thể vượt qua. Hạ Trạch Lan từ nhỏ đã là con gái nhà buôn, nhà có nhiều tiền, nhưng không được mặc lụa là gấm vóc, chỉ được mặc vải xấu áo gai, nên mặc dù cảm thấy cách làm của Lục Tư Cương không ổn, nhưng vẫn không thể không khâm phục. Nghĩ đến đó, nàng cũng bớt cau có, sắc mặt ôn hòa trở lại.

Lục Tử Cương cũng bình tâm lại, lúc này mới nhận ra cô gái này dung mạo xinh đẹp, không son không phấn, đôi má trắng thấp thoáng sắc hồng khỏe khoắn, vẫn để tóc xõa vì là con gái chưa lấy chồng, nhìn hơi quen quen, chàng nhìn lại lần nữa, bỗng nhiên sững sờ.

Hạ Trạch Lan phát hiện ra chàng đang nhìn vào ngực mình, cảm thấy bực tức, nhưng không ngờ đối phương tiến lên thêm một bước, xúc động nói: “Cô nương, có thể cho tôi xem miếng ngọc cô đeo được không?”.

Hạ Trạch Lan mới nhận ra vì động tác ban nãy của mình mà miếng ngọc nguyên đá nàng đeo từ nhỏ lộ ra ngoài áo nàng vẫn ngờ ngợ hỏi lại: “Anh đúng là người thợ ngọc đó?”

Lục Tử Cương hít thở sâu mấy cái, gật đầu hơi gượng gạo nói: “Phải, tại hạ… Lục Tử Cương”.

Chàng chắc chắn không nhìn nhầm, miếng ngọc thô này chính là của cô bé đó, chàng không thể ngờ xa cách bao nhiêu năm lại có thể gặp lại nàng. Lục Tử Cương nhìn dung nhan nàng không chớp mắt, chậm rãi cố chập vào làm một với hình ảnh cô bé mười năm trước.

Trong mười năm ấy, chàng vô số lần tưởng tượng xem cô bé năm xưa bây giờ ra sao.

Cô có hoàn thành được mơ ước của mình, trở thành một đầu bếp không? Cô có còn nụ cười rực rỡ như ánh dương hay không? Liệu có phải… đã lấy chồng…

Lục Tử Cương biết một chút mơ mộng trong lòng đó không được thực tế lắm, chưa nói đến chuyện trong biển người mênh mông tìm một cô gái chưa biết tên họ là gì khó khăn đến đâu, nhẩm tính tuổi thì năm nay nàng cũng đã mười tám, tuổi này thì đã lấy chồng từ lâu rồi, nhưng bây giờ phép màu rõ ràng đang xuất hiện ngay trước mặt chàng.

Lục Tử Cương nắm chặt thanh Ngô đao trong tay, rồi lại nhìn thanh Côn đao trong tay nàng, cứ ngỡ ông trời cho họ gặp lại nhau. Nhưng rồi lại cảm thấy trong lòng hơi bất an…

“Lục Tử Cương?”. Hạ Trạch Lan nghiêng đầu nhắc lại, cảm thấy cái tên này nghe quen quen, nhưng nhất thời không nhớ ra. Trước đó Lý công công cũng nói người thợ ngọc này vang danh khắp thiên hạ, bèn nghĩ chắc là danh tiếng người này lớn quá, nàng đã nghe đâu đó rồi cũng nên.

Lục Tử Cương chớp chớp mắt nhìn nàng, chờ đợi một sự vui mừng của trùng phùng sau nhiều năm xa cách trên gương mặt nàng.

Hạ Trạch Lan thấy chàng hơi căng thẳng, liền đùa: “Miếng ngọc này cho huynh xem cũng được, nhưng làm luôn cho ta thành một món đồ ngọc được không?”.

Lục Tử Cương thất vọng, xem chừng cô bé không nhớ ra chàng, cũng khó trách, năm đó cô bé chẳng qua mới bảy, tám tuổi, hai người gặp nhau chẳng bao lâu thì chia cách, nàng không nhớ chàng cũng là chuyện dễ hiểu. Nhưng nghe nàng chủ động yêu cầu mình khắc ngọc, nghĩ việc mong ước lâu nay của mình không ngờ lại được thực hiện dễ dàng như thế, chàng lại không kìm nén được niềm vui sướng.

Nàng không nhớ ra chàng cũng không sao, bây giờ họ đã gặp nhau, nàng cũng chưa lấy ai, mình thì đã là thợ ngọc có chút danh tiếng, sau này họ còn rất nhiều, rất nhiều, rất nhiều thời gian… Những tình cảm nàng từng quên, cũng có thể bắt đầu từ hôm nay, xây dựng lại từng chút một.

Phải, bắt đầu từ… việc làm cho nàng một miếng ngọc bội đẹp nhất.

Thực ra Hạ Trạch Lan đúng là chỉ nói đùa, câu đó là tiện mồm nói, nhưng không ngờ đối phương ngây ra một lúc rồi cũng đầu, trông có vẻ rất nghiêm túc. Viên ngọc thô này nàng đã đeo hơn mười năm chưa từng tháo ra, dù cũng từng muốn tìm thợ ngọc làm cho thành hình, nhưng mãi vẫn chưa có cơ hội, hơn nữa không hiểu vì sao mỗi lần nàng có ý định đó thì trong lòng lại xuất hiện một tiếng nói nhẹ nhàng ngăn nàng lại.

“Ta không có tiền trả huynh đâu…”. Hạ Trạch Lan hơi chột dạ, thực ra nàng cũng có một ít bạc, nhưng người này còn khiến ti chính phải đứng ra tiếp đón, thì cái giá trên trời ấy đâu có chuyện một đầu bếp nhỏ nhoi như nàng trả nổi?

“Đó là tiền cơm ta nợ cô”. Lục Tử Cương hơi nhếch khóe miệng cười, tất nhiên chàng đang nói đến bữa cơm rang trứng nàng làm cho khi hai người gặp nhau lần đầu.

Hạ Trạch Lan lại cho rằng chàng đang nói đến bữa tiệc chiêu đãi, hơi nhíu mày rồi cũng không nhiều lời thêm, thoải mái lấy miếng ngọc thạch trên cổ xuống đưa cho chàng: “Kiểu cách thì ta không có yêu cầu gì, tùy anh làm”.

Lục Tử Cương cầm miếng ngọc thạch vẫn còn hơi ấm trong tay, cảm thấy ấm áp trong lòng, chàng cười: “Cô nương sau này có thể qua chợ Tây tìm tôi, tôi ở một tiệm đồ cổ tên là Á Xá”. Nói xong cứ thế quay người đi.

Á Xá? Hạ Trạch Lan nghe đến cái tên quen thuộc hơn, trong lòng lại càng nghi hoặc. Nàng đứng ngây người một lúc vẫn chưa định thần lại, cái tên nghe ở đâu rồi nhỉ?


Đang lúc thẫn thờ, Hạ Trạch Lan nhìn thấy Lý công công đi vào, tỏ vẻ rất xin lỗi: “Hạ cô nương, vừa rồi Lục sư phụ nói tối nay có việc, hủy bỏ bữa tiệc chiêu đãi. Hôm nay phiền hà cho cô quá, tiền công ta vẫn đưa cô như đã nói”.

Đúng là oai phong, đến thể diện của ti chính cũng không thèm để ý. Chẳng lẽ vì muốn làm miếng ngọc của cô nên mới vội vã ra đi?

Hạ Trạch Lan len lén lè lưỡi một cái, rồi cười nói: “Công công phải bận lòng rồi, thế tôi đi trước đây”. Các cung uyển trong hoàng cung đều có nhà bếp, người của Thượng Thiện Giám luân phiên nhau đến các bếp để giúp việc, nàng phải đổi ca cho người khác, bây giờ về kịp có khi không cần phiền tới người ta nữa, cứ theo lịch cũ mà tới chỗ Đoan Phi nương nương làm.

Còn cái Á Xá… Thôi, đợi nàng hết ca làm rồi đi…

Hạ Trạch Lan rửa sạch con Côn đao trong tay, lại cất vào bao.

Lục Tử Cương chà tay lên miếng ngọc thô bóng loáng trong tay, nhìn đi nhìn lại hình dạng của miếng ngọc, phác thảo trong đầu các kiểu hình dáng.

Khắc cái gì được đây? Tượng Phật? Ngọc như ý? Tay Phật? Nhưng Lục Tử Cương nghĩ một lát lại mất tập trung, gương mặt như hoa như ngọc choán hết tâm trí chàng, làm sao tập trung tinh thần được.

Thực ra ước mơ của chàng không lớn, từ nhỏ đã mồ côi cha mẹ, chỉ muốn có một gia đình đầy đủ, nhưng bao nhiêu năm qua, bất luận chàng đã ăn những thứ sơn hào hải vị gì, đều không thể bằng được đĩa cơm rang mười năm trước.

Nàng… còn chưa chồng… nghĩ tới mái tóc kiểu chưa xuất giá của nàng, Lục Tử Cương lại thấy vui vui trong lòng.

Phải rồi, chàng còn chưa biết tên nàng. Khó lắm mới gặp lại nhau, trong lúc xúc động, chàng lại quên béng cả việc hỏi tên.

“Tử Cương, miếng ngọc thô này là từ đâu ra đấy?”. Giọng nói hơi ngạc nhiên của gã chủ tiệm vang lên, Lục Tử Cương lúc đó mới phát hiện ra mình ngồi trầm ngâm trước miếng ngọc cả nửa ngày trời rồi, bên ngoài trời đã bắt đầu tối.

Vừa đứng dậy thắp đèn dầu, Lục Tử Cương vừa vui sướng kể lại cuộc gặp gỡ hôm nay, nhưng khi chàng kể xong, thì nhận ra nét mặt của gã chủ tiệm cũng chẳng có gì là ngạc nhiên, mà có vẻ hơi nặng nề. Lục Tử Cương không hiểu sao cảm thấy hơi bất an, trong ánh đèn leo lắt, dung mạo gã chủ tiệm vẫn trẻ như hồi mới thu nạp chàng mười năm trước.

“Phải”. Lục Tử Cương bỗng nhớ ra một chuyện, mặt biến sắc: “Thanh Côn đao đó nhất quyết không được dính máu, vậy thì…”. Chàng vẫn nhớ lời dặn dò của gã chủ tiệm khi giao Ngô đao cho mình, không được dính máu, không được sát sinh, thảo nào chàng luôn cảm thấy có gì bất an.

Côn đao đã dính máu thì sẽ là hung khí, sẽ làm hại chính người giữ nó… Gã chủ tiệm nheo mắt, nhìn Lục Tử Cương đang không che giấu nổi sự lo lắng, lời định nói ra lại rút lại. Viên ngọc thô này đã rời người, chỉ e đến lúc đưa về cũng không kịp nữa.

Cuối cùng, gã chủ tiệm chỉ bình thản nói: “Miếng ngọc thô này, chi bằng… làm một cái khóa Trường Mệnh”.

Lục Tử Cương chăm chú nhìn lại, thấy miếng ngọc hình tròn dẹt, rất thích hợp để làm một chiếc khóa Trường Mệnh nho nhỏ, liền gật đầu.

“Nhớ là lần này đừng có khắc tên cậu lên đó đấy, đồ của con gái nhà người ta, khắc tên cậu lên thì còn ra thể thống gì?”. Gã chủ tiệm dặn dò câu cuối cùng, phất tay áo đi ra ngoài.

Chàng đương nhiên phải đề tên, sao có thể không đề tên được? Nghĩ đến chiếc khóa Trường Mệnh khắc tên chàng được nàng mang theo trên người, Lục Tử Cương nắm chặt lấy miếng ngọc trên tay, môi chàng nở nụ cười.

Lần sau gặp lại, nhất định phải hỏi tên nàng… Mặc dù tên con gái chỉ có cha mẹ và phu quân được biết.

Nhưng lần này, lần này chàng sẽ hỏi. Nhưng, sau đó… sao lại trở thành thế này?

Lục Tử Cương nhìn mái ngói cao cao của lầu Tứ Bài, thảng thốt. Chàng quên ăn quên ngủ, làm ra chiếc khóa Trường Mệnh trong thời gian ngắn nhất, đợi nàng tới Á Xá, vậy mà chỉ nhận được tin báo tử của nàng.

Mấy người đó nói, đêm đó, các cung nữ trong cung Đoan Phi mưu đồ tạo phản, hành thích hoàng thượng. Mấy người đó nói, hoàng thượng may mắn không chết, tối đó tất cả các cung nữ hầu hạ trong cung Càn Thanh, bất kể có trách nhiệm hay không, đều bị cẩm y vệ bắt, tra tấn bắt khai cuối cùng không có ai sống sót. Mấy người đó nói, đó là một cuộc chính biến đã lên kế hoạch từ trước…

Số phận thay đổi quá nhanh, giống như đại đao cắt ngọc bổ xuống, một viên ngọc đẹp vỡ nát trong thoáng chốc.

Chàng còn chưa kịp hết niềm vui trùng phùng, thì lập tức phải ly biệt lần thứ hai. Lần này, là tử biệt…

Chàng không biết chân tướng ra sao, chàng chỉ biết, trên danh sách hành hình dán ở cổng hoàng thành, mọi cái tên đều vô cùng lạ lẫm. Nhưng gã chủ tiệm nói với chàng là, trong đó có nàng.

Chàng nắm chặt chiếc khóa Trường Mệnh đã làm xong, nhìn chằm chằm tờ giấy vàng đó ba ngày ba đêm, vẫn không thể nghĩ tới sự liên hệ nào giữa nàng và những cái tên xa lạ kia.

Nhung nhớ mười năm, đổi lại kết cục như vậy sao? Chàng không tin. Nhưng chàng đã đợi ở Á Xá thêm mười năm, cầm chiếc khóa Trường Mệnh đã khắc xong từ lâu, mà nàng không xuất hiện. Không lần nào nữa.

Mười năm sinh tử có đôi đường, gạt nhớ thương, vẫn tơ vương…

(Trích bài từ “Giang Thành Tử” của Tô Thức, là một bài từ khóc vợ cũ)

Kể cũng kỳ lạ, chàng và nàng chẳng qua gặp gỡ trong chốc lát, nàng thậm chí đã quên từ lâu, chỉ có chàng vẫn khổ sở ôm lấy chút hồi ức, không thể dứt bỏ, có lẽ… đó là số phận.

Chàng lại nhìn lòng bàn tay mình, chiếc khóa Trường Mệnh chàng dùng tâm huyết và tương tư cả đời để khắc, cuối cùng không thể trả về cho chủ. Chàng cứ ngỡ đã bắt lấy được hạnh phúc rồi, nhưng chớp mắt đã nhận ra trong tay mình chẳng có gì.

Đã rất nhiều lần chàng nghĩ, nếu hôm đó chàng không lạc đường, không đem theo Ngô đao bên mình, không gặp nàng, cũng không đi về sớm,.liệu số phận của nàng và chàng có khác đi không? Nếu hai mươi năm trước họ không quen biết nhau, chàng không lẩn vào cái ngõ nhỏ để ăn, nàng không đâm phải chàng, nàng không mời chàng ăn cơm rang trứng, thì có ngày hôm nay không?

Liệu hai người có gặp nhau mà không quen biết nhau, giống như hai người xa lạ đi ngang qua nhau. Nàng vẫn cứ làm đầu bếp, chàng vẫn cứ làm thợ ngọc. Nhưng số phận không có lựa chọn.

Không rõ tung tích cây Côn đao, có lẽ đang được coi là hung khí bị thu giữ, có thể bị coi là rác rưởi nên đã vứt đi rồi.

Ngô đao đã được giao lại cho gã chủ tiệm trước lúc chàng vào tù, chàng không xứng làm chủ nhân của Ngô đao.

Đêm trước khi hành hình, gã chủ tiệm Á Xá như xuất quỷ nhập thần xuất hiện trong nhà tử lao được canh phòng nghiêm ngặt, hỏi chàng có muốn cùng gã rời khỏi kinh thành không. Chàng lắc đầu, từ chối đề nghị của chủ tiệm. Từ mười năm trước, từ cái ngày chàng và nàng gặp gỡ rồi lại ly biệt, chàng đã không khác gì người chết rồi.

Chàng nói với chủ tiệm, xin lỗi, tôi nói là làm cho ông một món đồ ngọc, mà xem ra tôi lại thất hứa rồi. Gã chủ tiệm nhìn chằm chằm vào chàng, bình thản nói, lời cậu nói, cậu đã thực hiện từ lâu rồi.

Chàng nhìn bóng gã chủ tiệm lẫn vào màn đêm, không thấy đâu nữa.

Chàng lại nghĩ, chàng và nàng, cũng như Côn Ngô đao, thất tán, trùng phùng, rồi lại mãi mãi xa rời.

Nhìn pháp trường đã hiện ra đằng xa, Lục Tử Cương cười. Một hoàng đế chỉ vì đề lạc khoản trên ấm trà mà có thể hạ lệnh giết thợ ngọc, thảo nào mười năm trước có cung nữ không chịu nổi đến nỗi phải hành thích ông ta.

Lục Tử Cương bị đao phủ lôi ra khỏi xe tù, ấn chàng quỳ xuống đất. Chàng cúi đầu nhìn bóng mình đổ trên mặt đất, rồi chàng hoang mang. Chàng không sợ chết, mà sợ kiếp sau sẽ không nhận ra nàng. Nhưng gã chủ tiệm đã nhận lời, sẽ tìm thấy những kiếp sau của nàng, và đưa khóa Trường Mệnh cho nàng. Nói rằng nếu kiếp sau chàng còn nhớ, thì có thể dùng khóa Trường Mệnh để nhận ra nàng.

Chàng không cam tâm kết thúc như thế.

Tay nắm chặt khóa Trường Mệnh, Lục Tử Cương chầm chậm nhắm mắt lại.

Đao đưa lên, đao hạ xuống. Từ sống đến chết, chỉ là một khoảnh khắc đơn giản vậy thôi.

Tên lính lôi chiếc khóa Trường Mệnh bóng loáng ra khỏi vũng máu, lấy tay áo lau vết máu dính bên trên, rồi nhét vào áo.

Dân chúng đến xem dần dần bỏ đi, một gã trai trẻ tuổi mặc áo thêu rồng đỏ tiến tới, bình thản nói: “Ta nghĩ, tốt nhất là ngươi nên đưa cái khóa Trường Mệnh cho ta…”.

5

400 năm sau, địa cung Tần lăng.

Sau trận động đất, địa cung tăm tối trở lại.

Hồ Hợi một mình đứng lặng trong bóng tối, rất lâu, nhìn chàng thanh niên – công tử Phù Tô – hoàng huynh chuyển thế của mình cùng với gã đối đầu với mình suốt hai ngàn năm nay rời khỏi địa cung.

Hắn mở nắp quan tài của Phù Tô, lặng lẽ nhìn chiếc khóa Trường Mệnh đã vỡ đôi dưới đáy quan tài một lúc lâu, như nghĩ ngợi điều gì, cuối cùng cúi người xuống, cầm chiếc khóa Trường Mệnh lên, nắm chặt trong tay…

Mấy ngày sau, tại sân bay Hàm Dương, Tây An.

Một nam thanh niên mặc đồ đi chơi từ sân bay chạy ra, nhảy lên taxi. “Bác cho đến lăng Tần Thủy Hoàng ở Ly Sơn!”.

“Được! Xa lắm đấy, nghe nói mấy hôm trước vừa bị động đất, cậu đến đó thật à?”. Bác tài tò mò hỏi.

“Vâng, vì lần động đất đó nên phải đến quan trắc. Ôi, phải đi đấy, bài tập cần mà!”. Anh thanh niên nói nửa vờ nửa thật.

“Bài tập?”

“Vâng, cháu học khảo cổ”. Anh thanh niên bỏ chiếc mũ trên đầu xuống, để lộ gương mặt tuấn tú, vé máy bay trên tay vẫn in tên anh ta.

Có ba chữ đơn giản – Lục Tử Cương.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.