Bạn đang đọc Tịch Mịch Không Đình Xuân Dục Vãn – Chương 15: Tình Nồng Ý Đậm* (I)
Lúc hoàng hôn trời đổ tuyết lớn, tuyết như bông, rơi ào ào cả đêm. Tỉnh giấc vào sáng ngày hôm sau, nhìn ra ngoài cửa sổ bằng giấy trắng mỏng manh, nhà nhà đều được phủ tuyết. Trông từ xa chỉ thấy một mảng trắng xoá.
Hôm nay lại không có ca trực, thế nhưng Dung Nhược vẫn dậy sớm như cũ. A hoàn hầu hạ hắn súc miệng nước muối, thay y phục. Đại a hoàn Hà Bảo cầm chiếc áo choàng xanh dương đến bên nói: “Lão thái thái sai người tới bảo thiếu gia tới ăn sáng.” Nàng vừa nói vừa khẽ phất chiếc áo lên, choàng qua vai Dung Nhược.
Dung Nhược hơi cau mày, ánh mắt hướng ra ngoài, khung cảnh như được rắc muối, trong không trung còn có vô vàn sợi bông bay bay một cách yên tĩnh.
Hắn ăn sáng xong rồi trở về từ Thượng Phòng lại đi thẳng đến thư phòng. Ở cuối hành lang gặp Cố Trinh Quán tiên sinh đang đứng đó ngắm tuyết, Dung Nhược nói: “Tuyết rơi đẹp thế này mà có vài vị bằng hữu (bạn bè) cùng nhâm nhi ly rượu thì mới hay.”
Cố Trinh Quán cười đáp: “Ta cũng nghĩ như thế.”
Dung Nhược liền sai người chuẩn bị tiệc rượu, rồi mời chư vị bằng hữu tới ngắm tuyết. Nghiêm Thằng Tôn, Từ Kiền Học, Khương Thần Anh đều đậu khoa thi Bác học hồng nho* mùa xuân năm nay, nhậm chức Sử quan hàn lâm.
* Bác học hồng nho: chỉ những học giả học vấn uyên bác.
Lâu nay mấy người có quan hệ thân thiết với nhau, lúc này cùng hân hoan đi đến nơi hẹn. Mấy người bọn họ đã lâu ngày không gặp, không ngừng nâng cốc cười nói vui vẻ. Rượu quá tam tuần, Từ Kiền Học mới nói: “Tiệc rượu hôm nay chúng ta cùng thi làm thơ đi, người thua bị phạt uống rượu.”
Mọi người ai cũng vỗ tay khen hay. Ngay lập tức liền tung xúc xắc, người đầu tiên bị nó chỉ tới lại chính là Cố Trinh Quán. Dung Nhược cười nói: “Là Lương Phần* đầu tiên.”
* Cố Trinh Quán tự Hoa Phong, hiệu Lương Phần
Dung Nhược tự mình cầm ấm rượu, đổ đầy ắp chén của Cố Trinh Quán, hắn nói tiếp: “Mời Lương Phần huynh uống hết chén này rồi buông lời vàng ý ngọc, đệ xin lắng nghe.”
Cố Trinh Quán uống hết chén rượu, ngồi trầm ngâm không nói gì. Trong phòng, ngồi trên thảm trải đã rất ấm rồi, lại còn có cái lò sưởi bên cạnh, cái lò được dát vàng cực kì hoa lệ. Chỉ nghe thấy tiếng lách tách nhỏ nhỏ vang lên từ than đốt bên trong. Gã sai vặt nhẹ nhàng rón rén tiến lên thêm thức ăn, liếc mắt sang nhìn thấy cái đệm gấm thêu hoa sen, thật đúng là phú quý an nhàn vô cùng. Dung Nhược đã sai người mang một tờ giấy trắng và chuẩn bị bút mực từ lâu. Khoé môi Cố Trinh Quán hơi run, bỗng nhiên đứng dậy đi đến trước án khua bút một hồi.
Mọi người thấy sắc mặt hắn khác thường, vội chạy tới vây quanh xem hắn viết nên bài khởi xướng. Dung Nhược cầm tờ giấy, bất giác đọc to lên, là một đoạn “Kim lũ khúc”:
“Quý Tử bình an phủ?
Tiện quy lai, bình sinh vạn sự, na kham hồi thủ?
Hành lộ du du thùy úy tạ?
Mẫu lão gia bần tử ấu.
Kí bất khởi, tòng tiền bôi tửu.
Si mị bác nhân ứng kiến quán, tổng thâu tha, phúc vũ phiên vân!
Băng dữ tuyết, chu toàn cửu.
Lệ ngân mạc tích ngưu y thấu.
Sổ thiên nhai, y nhiên cốt nhục, kỉ gia năng cú?
Bỉ tự hồng nhan đa mệnh bạc, canh bất như kim hoàn hữu.
Chích tuyệt tắc, khổ hàn nan thụ.
Nhập tái bao tư thừa nhất nặc, phán ô đầu, mã giác chung tương cứu.
Trí thử trát, quân hoài tụ.”
(Bài thơ thể hiện sự quan tâm thân thiết và sự đồng tình an ủi của tác giả dành cho vị bằng hữu bị giáng chức điều đi xa. Đoạn đầu là những câu thăm hỏi ân cần. “Quý Tử* bình an phủ”: không phải là câu hàn huyên bình thường mà thể hiện sự quan tâm sâu sắc. “Băng dữ tuyết”: ám chỉ sự trằn trọc trăn trở của tác giả và Ngô Triệu Khiên** dưới sự thống trị tàn khốc của triều Thanh.
Đoạn sau là an ủi bằng hữu và thể hiện rằng tác giả sẽ dốc lòng cứu giúp. “Trí thử trát, quân hoài tụ”: an ủi bạn qua câu này, nên bớt buồn lo. Cả bài là tình cảm bạn bè chân thành.)
Dung Nhược cảm nhận được ý bi thương trong bài thơ, không khỏi hỏi rõ tình hình. Cố Trinh Quán kia chỉ đợi Dung Nhược hỏi, hắn đáp: “Bằng hữu của ta – Ngô Hán Tra***, tài năng văn thơ kiệt xuất. Năm đó, thôn Mai truyền rằng: ba người Ngô Hán Tra, Trần Kì Niên, Bành Tổ Tấn được gọi là “Tam phượng hoàng Giang Tả” (đại danh nằm ở hướng đông Trường Giang). Vì liên quan tới vụ án ở khoa thi Nam Vi mà lưu đày tới Ninh Cổ Tháp. Nơi đó là phương bắc vô cùng lạnh, chắc bây giờ Hán Tra đang phải đục băng mà tìm đồ ăn. Thế mà Lương Phần lúc này uống rượu ăn thịt, ở trong gian phòng ấm áp, cùng ngắm tuyết với chư vị bằng hữu. Nhớ đến Hán Tra thật xấu hổ không nói nên lời.”
*,**,***: chỉ Ngô Triệu Khiên, tự Hán Tra, hiệu Quý Tử
Lồng ngực Dung Nhược phập phồng, hắn cất cao giọng nói: “Hà lương sinh biệt chi thi, sơn dương tử hữu chi truyện, đắc thử nhi tam” ①. Trong ba ngàn sáu trăm ngày*, đệ sẽ nhận là việc của mình, chỉ cần huynh căn dặn một lời.”
* Sau này chỉ mất năm năm đã cứu được.
① Sơn dương tử hữu: theo “Tấn Thư – Hướng Tú truyện” ghi lại: Hương Tú ở tỉnh Sơn Dương cũ, nghe người hàng xóm thổi sáo, âm thanh bi thương đầy oán khí, khiến hắn nhớ lại những người bằng hữu đã qua đời, viết bài “Tư Cựu Phú” (Nhớ tình xưa)
Hà Lương sinh biệt: Thời Hán, Tô Vũ được cử đi sứ Hung Nô. Đây là câu chuyện chia cách với Lý Lăng. Theo “Hán Thư” ghi lại: “Chiêu đế lên ngôi, trong mấy năm, Hung Nô và Hán quan hệ hoà bình. Tô Vũ phải đi sứ sang Hung Nô, Lý Lăng mở tiệc rượu chúc mừng, có viết: “Dị vực chi nhân, nhất biệt trường tuyệt.” (Người đã đi nơi đất khách, chia ly khó có thể gặp lại)
Đắc thử nhi tam: thêm chuyện của Cố Trinh Quán và Ngô Triệu Khiên này nữa là ba câu chuyện cảm động về tình bằng hữu.
Cố Trinh Quán cực kì vui mừng đáp: “Một lời của công tử nặng ngàn vàng, Lương Phần hoàn toàn tin tưởng. Đại ân này không thể cảm tạ bằng lời.”
Dung Nhược không đáp lời, hắn trầm ngâm, đặt tờ giấy xuống án rồi viết viết. Khương Thần Anh đứng cạnh hắn, đọc to từng câu lên ọi người cùng nghe. Đó là một đoạn đối với “Kim lũ khúc”. Đên khi Khương Thần Anh đọc câu “Tuyệt tắc sinh hoàn Ngô Quý Tử, toán nhãn tiền, thử ngoại giai nhàn sự”②, mọi người đều cảm thấy xúc động. Dung Nhược viết tiếp câu cuối cùng: “Tri ngã giả, Lương Phần nhĩ”③, Cố Trinh Quán đã rơi lệ từ lâu, hắn nhìn chằm chằm vào Dung Nhược, cảm động mà nói: “Lương Phần có được người bằng hữu như công tử, kiếp này cũng không cầu gì hơn.”
②,③: ý bảo việc quan trọng nhất trước mắt chính là cứu người
Từ ngày đó về sau, Dung Nhược cố gắng hết sức tìm kiếm cơ hội để giải thoát cho Ngô Triệu Khiên kia, chỉ hận là không có. Trong lòng hắn không vui, mỗi ngày đều ở trong phòng lặng lẽ đối diện với quyển sách. Vì mấy ngày gần đây trời đều đổ tuyết lớn, Hà Bảo dẫn theo một đoàn a hoàn đi hốt tuyết, đổ đầy cái hũ rồi sai tên sai vặt chôn xuống gốc cây mai. Đúng lúc này thì ngoài cổng có thiệp đưa tới, Hà Bảo liền vội chạy ra nhận, đem vào phòng bẩm với Dung Nhược: “Thiếu gia, phủ Dụ thân vương sai người đưa thiệp tới.”
Dung Nhược cầm lấy đọc qua, thì ra là mời hắn đến Vương phủ ngắm tuyết uống rượu. Hắn vốn không muốn đi, tâm tư hắn đang đặt tại chuyện cứu viện Ngô Triệu Khiên, bỗng chợt loé lên một suy nghĩ, hắn biết vị Dụ thân vương cao quý kia có tiếng nói trước mặt Hoàng đế, vậy sao không nghĩ cách thông qua Phúc Toàn.
Do gần đây Dung Nhược với Phúc Toàn qua lại dần thưa, mấy lần thiệp mời yến tiệc hắn đều từ chối không đi thế nên Hà Bảo cứ ngỡ lần này cũng vậy. Không ngờ Dung Nhược lại sai bảo: “Đem áo choàng tới đây, bảo bọn họ chuẩn bị ngựa.” Nàng vội hầu hạ hắn mặc áo, tiễn tới tận cổng.Phủ Dụ thân vương được xây từ năm Khang Hy thứ sáu. Phủ của thân vương, đương nhiên nguy nga lộng lẫy, hoa lệ đẹp đẽ. Dụ thân vương Phúc Toàn mở yến tiệc ở vườn hoa sau phủ. Một dãy hòn giả sơn quanh co, ẩn hiện thấp thoáng sau nó là hành lang với mái vòm cong cong. Phía xa xa của dãy giả sơn là một cái hồ, dưới hồ có đậu thuyền nhỏ. Hồ nước cũng kết băng thành một tấm kính mỏng trong suốt trên bề mặt từ lâu. Bao quanh gian phòng trên thuyền là hơn mười cây mai. Chưa đến mùa, hoa mai chưa nở bông, nhưng chỉ cần qua khoảng tháng nữa là hương mai sẽ ngào ngạt khắp nơi. Đi vào trong gian phòng, thảm đã được trải sẵn từ lâu, cả phòng được bao phủ bởi không khí ấm áp.
Đang ngồi đều là các vị hiển quý (chức tước cao) trong triều, Dung Nhược tiến tới, tiếng nhao nhao hàn huyên chào hỏi trên thuyền càng náo nhiệt.
Phúc Toàn lại giơ tay vỗ nhẹ một tiếng, vài tiểu a hoàn áo xanh đứng bên cửa sổ, vô cùng nhanh nhẹn chạy tới, đồng loạt kéo mành cửa ra. Bốn mặt của gian phòng trên thuyền đều được che bởi mành lớn, mọi người khẽ rùng mình. Thế nhưng chẳng ngờ là không có cơn gió lạnh nào thổi hắt vào mặt cả, nhìn chăm chú lên, hoá ra phía sau mấy cái mành lớn là lớp thuỷ tinh trong suốt của phương tây, thoạt nhìn như không có gì ở đó. Cảnh tuyết khắp nơi ngập tràn trước mắt, thân ở trong phòng vẫn thấy ấm áp như tiết xuân.
Thuỷ tinh trong suốt phương tây kia, một thước (1/3m) vuông vắn cũng có giá trên trời rồi, nhiều thuỷ tinh như thế mà tấm nào tấm nấy cũng cao cả trượng, mọi người chưa ai từng thấy cả. Bình thường thì quan lại, người giàu có cũng dùng kính thuỷ tinh làm cửa sổ, nhưng đường kính cũng chẳng quá một thước.
Tấm thuỷ tinh to như vậy, chỉ sợ rằng chỉ có hậu duệ quý tộc thiên hoàng mới xa xỉ đến thế. Giữa yến tiệc, có người không nhịn được mà hô một tiếng: “Vương gia, tình này cảnh này mới gọi là ngắm tuyết chứ.”
Phúc Toàn cười đáp: “Dưới cửa kính thuỷ tinh uống rượu ngắm tuyết đúng là thú vui của cuộc đời.” Vừa quay mặt sang liền thấy Dung Nhược: “Hôm kia gặp Vạn Tuế Gia, Hoàng thượng còn nhắc muốn đi Nam Uyển ngắm tuyết. Chỉ tiếc mấy ngày gần đây bận rộn với việc triều chính, phải chờ tình hình Tứ Xuyên ổn định, đại giá mới có thể rời kinh được.”
Dung Nhược là ngự tiền thị vệ, nghe Phúc Toàn nói vậy, hắn đáp: “Như vậy thì lễ nghi hộ tống cũng nên chuẩn bị sớm mới được.”
Phúc Toàn không khỏi cười cười: “Hoàng thượng mới cất nhắc nhạc phụ tương lai của ngươi – Pha Nhĩ Bồn lên làm Nội đại thần rồi, việc hộ tống lần này sẽ là nhiệm vụ đầu tiên của ông ấy từ sau khi nhậm chức.”
Chén rượu trong tay Dung Nhược khẽ run, vài giọt rượu văng ra. Phúc Toàn lại cực kì đắc ý với việc này, hắn bảo: “Vạn Tuế Gia vẫn nhớ chuyện của ngươi, đã hỏi ta mấy lần rồi. Ngày tết nhất đưa lễ hồi môn… vẫn là để đến năm mới hãy đưa, qua mấy tháng nữa là có hỷ sự rồi.”
Chư vị trong gian phòng đồng thanh nói: “Cung hỷ Nạp Lan đại nhân.” Chén rượu tới tấp nâng lên kính. Trong lòng Dung Nhược đau đớn vô cùng, chỉ đành gắng gượng nở một nụ cười. Một chén rượu nuốt xuống, cơn ho bỗng tới, vị cay nồng như xé cổ họng, hắn không nhịn được mà ho liên hồi. Chợt nghe có người nói: “Dưới cảnh sắc thế này cũng nên làm một vài bài thơ mới hay.” Mọi người nhao nhao, ai cũng tán thành, Dung Nhược nghe bọn họ ngâm nga, có lời hay ý đẹp nhớ người xưa, cũng có người tự đọc bài thơ mình mới viết. Một mình hắn ngồi đây uống chén rượu. A hoàn đứng một bên bận rộn thêm rượu vào chén hắn, hết chén này tới chén khác, bất giác đã thấy hơi say say, tai mặt ửng hồng.
Mọi người ồn ã đua nhau bình luận lời thơ. Về lĩnh vực này Phúc Toàn không am hiểu cho lắm, hắn quay sang thấy Dung Nhược liền nói: “Các vị đừng ồn ào nữa, Dung Nhược còn chưa lên tiếng đâu, để xem hắn có câu thơ nào hay không.”
Dung Nhược đã gần say, hắn lấy đôi đũa gõ gõ vào cái chén, ngâm inh ỏi:
“Mật sái chinh an vô sổ.
Minh mê viễn thụ.
Loạn sơn trọng điệp yểu nan phân, tự ngũ lí, mông mông vụ.
Trù trướng tỏa song thâm xử.
Thấp hoa khinh nhứ.
Đương thì du dương đắc nhân liên, dã đô thị, nùng hương trợ.” *
*: Đây là bài “Lạc Dương xuân – Tuyết” của Nạp Lan Dung Nhược
Là một bài thơ miêu tả cảnh tuyết. Đoàn đầu là những bông tuyết bay toán loạn ở phía xa xa. Gần chỗ ngồi lại là tuyết trắng xoá mờ mịt yên tĩnh. Cây cối cùng núi non trùng điệp nơi xa ngút ngàn, thấp thoáng ẩn hiện dưới trận tuyết.
Đoạn sau: Tuyết bay vào qua song cửa sổ, từng bông từng bông nhỏ li ti như hoa trắng, lại khiến người ta có cảm giác thương yêu. Ngoài hình ảnh nhẹ nhàng yếu mềm của bông tuyết còn có “nùng hương” (hương thơm ngào ngạt) ẩn bên trong. Câu kết này rất hay, trong đó ẩn một ý tưởng mới, dẫn dắt độc giả liên tưởng xa hơn nữa.
Tiếng khen hay vang lên ầm ầm. Giữa lúc hoan hô ca ngợi bỗng nghe có tiếng cười nói bên ngoài: “Dã đô thị, nùng hương trợ’, thật là hay!”
Giọng nói vang dội. Mọi người giật mình, chỉ trong tích tắc mà cả gian phòng yên tĩnh hẳn, yên tĩnh tới mức gió tuyết bên ngoài rít gào cũng nghe rõ mồn một.
Cửa mở ra, tiếng giày loạt xoạt nhưng bước chân lại rất nhẹ nhàng. Mấy tên cận vệ xung quanh thái độ cung kính với người phía trước. Người nọ chỉ mặc một bộ áo gấm có lông cáo bên ngoài, khoác trên vai là chiếc áo choàng từ da cáo đen. Trên cổ áo từ lông chồn tía lộ ra một khuôn mặt tuấn tú, khoé môi vẫn còn vương nét cười.
Tuy Phúc Toàn cũng đã hơi hơi say nhưng lúc này đã bị doạ đến tỉnh cả người, trong lúc hoang mang vẫn không quên hành đại lễ tiếp giá: “Hoàng thượng giá lâm, Phúc Toàn không đón tiếp từ xa. Xin Hoàng thượng trách phạt Phúc Toàn tội bất kính.”
Sắc mặt Hoàng đế có chút thảnh thơi nhàn hạ, tự mình đỡ hắn dậy: “Vì Trẫm thấy tuyết rơi nhiều… Nhớ lại tuyết lớn năm ngoái, phủ Thuận Thiên từng báo có nhà bị tuyết phủ nặng quá mà sập, dẫn tới thương vong. Lúc buổi trưa nhàn rỗi Trẫm liền xuất cung đi xem sao, trên đường đi ngang qua phủ của khanh, tiện đi vào thăm. Là Trẫm không cho bọn họ đến báo. Trời đổ tuyết lớn, các khanh cũng thật biết cách hưởng thụ.”
Phúc Toàn lại thỉnh an tạ ơn rồi mới đứng lên cười đáp: “Lúc nào Hoàng thượng cũng lo lắng cho con dân, nô tài cùng chư vị đã không thể chia sẻ nỗi lo với Hoàng thượng mà lại ngồi đây uống rượu, đúng là vô cùng xấu hổ.”
“Trời tuyết lớn thế này vốn nên trốn một chỗ uống rượu, chỗ này của khanh thật ấm áp.” Hoàng đế vừa nói vừa cởi dải lụa đen thêu viền vàng ở cổ, Lương Cửu Công liền tới giúp Hoàng đế cởi áo choàng rồi giữ lấy. Hoàng đế thấy mọi người đều đang quỳ liền bảo: “Đứng dậy cả đi.”
Mọi người tạ ơn xong đứng dậy, cung kính đứng cúi đầu. Hoàng đế vốn là người thông minh, thấy cảnh cả gian phòng lặng im phăng phắc, hắn cười: “Trẫm vừa tới đã khiến các khanh thấy gò bó rồi. Cảnh tuyết trong hoa viên này thật đẹp. Phúc Toàn, Dung Nhược, hai khanh đến đây cùng Trẫm đi dạo.”
Phúc Toàn cũng Nạp Lan đều đáp “vâng”. Vì bên ngoài tuyết vẫn đang bay lả tả nên Phúc Toàn đón lấy chiếc áo từ Lương Cửu Công rồi tự mình hầu hạ Hoàng đế mặc lên. Mấy người vây quanh Hoàng đế rời thuyền, đi theo dãy giả sơn quanh co kia. Hoàng đế thấy Phúc Toàn đội chiếc mũ ấm chợt bật cười: “Khanh còn nhớ không, năm đó hai chúng ta thừa lúc Am Đạt buồn ngủ, trốn khỏi thư phòng qua cửa sổ, chạy tới hoa viên nghịch tuyết. Cuối cùng không biết là vì giận nhau chuyện gì mà cãi nhau một trận. Trẫm ngã lăn xuống tuyết, may mà không bị làm sao. Giơ tay giật lấy chiếc mũ ấm mới tinh của khanh rồi ném luôn xuống hồ, lúc ấy khanh tức đến mức hung hăng vung tay đấm Trẫm một cái, khiến mũi Trẫm thâm sì.”
Phúc Toàn cười: “Tất nhiên là vẫn nhớ, cãi nhau ầm ĩ tới mức Hoàng A Mã cũng biết. Hoàng A Mã tức giận vô cùng, phạt chúng ta quỳ trước Tiên Phụng điện gần hai canh giờ, cuối cùng vẫn may là Đổng Ngạc quý phi xin cho……” Nói tới đây mới biết mình lỡ lời, liền im bặt. Sắc mặt có chút miễn cưỡng. Hoàng đế giả vờ như chưa nghe thấy, chuyển sang chuyện khác: “Cây cối trong vườn này của khanh cũng rất đẹp.”
Trước mắt là một cây tùng lớn, che hẳn một vách tường đá xanh. Cây tùng đó được trồng từ khi mới xây vườn, cũng đã được hơn hai mươi năm. Gió thổi qua, tiếng cành lá reo rào rào như tuyết rơi. Tuyết đọng trên từng cành cây rơi lả tả xuống đất. Bỗng nhiên thấy một khối gì đó như một bọc vải nhung, nhảy vọt từ trên cây xuống đất. Hoá ra là một chú sóc con, nó thấy có người liền vội vàng lủi mất. Hoàng đế nháy mắt ra lệnh: “Bắt lấy nó!”
Con sóc kia trốn rất nhanh, nhưng Hoàng đế vi hành xuất cung, cận vệ hộ tống đều là ngự tiền thị vệ giỏi nhất, ai ai cũng nhanh nhẹn. Hơn mười người chạy tản ra xa, vây quanh bốn phía nhằm dồn bắt con sóc.
Con sóc kia lúng túng, kinh hoảng, lập tức chạy về hướng ba người đang đứng. Nạp Lan nhanh mắt, tay tóm được cái đuôi lông nhung của nó. Nó kêu la ư ư một lúc cũng không thoát được bàn tay kia.
Phúc Toàn liền sai người đem chiếc lồng sắt tới. Tổng quản thái giám phủ Dụ thân vương – Quách Hưng Hải rất nhanh nhẹn, chỉ chốc lát đã mang tới một chiếc lồng vàng tinh xảo tới.
“Lồng nhỏ không có sẵn, may mà có cái lồng này, cũng đỡ phí phạm.” Phúc Toàn cười.
Hoàng đế thấy chiếc lồng chim rất khéo léo, bên ngoài còn chạm trổ hoa văn hình ảnh đồng cỏ được dát vàng, hắn nói: “Cái lồng này đúng là hảo hạng. Lồng nhỏ như vậy thì nhốt chim gì?”
Phúc Toàn vừa cười hì hì vừa đáp: “Nô tài có nuôi một con chim màu xanh thẫm. Cái lồng này là để lúc đi kiệu thì nhốt nó vào rồi mang theo. Hôm trước bọn người hầu thay thức ăn cho nó, không cẩn thận làm chim tước bay mất, làm nô tài buồn bã bao nhiêu, chỉ nghĩ thôi hết rồi, số nó là được phóng sinh đi, chỉ còn lại cái lồng không này… Không ngờ hôm nay nó lại hữu dụng với Vạn Tuế Gia, đúng là phúc của nô tài.”
Con sóc trong tay Nạp Lan vẫn đang kêu gào giãy dụa một cách liều mạng. Nó cào vào lòng bàn tay Nạp Lan khiến vài giọt máu chảy ra từ vết xước. Nạp Lan sợ nó giãy dụa thoát được liền rút cái đai lưng ra, quấn quanh mấy cái móng vuốt của con sóc rồi buộc thắt nút lại.
Con sóc không giãy được nữa, Nạp Lan bỏ nó vào trong lồng, Dùng cái khoá mạ vàng tinh xảo kia khoá lại. Phúc Toàn cầm lấy, tự mình đưa cho Lương Cửu Công. Trời có tuyết, âm u u ám, ngày đông lại ngắn, chỉ trong một lát sắc trời đã hơi tối. Vì Hoàng đế vi hành nên Phúc Toàn cứ thấp thỏm mãi không yên.
Hoàng đế hiểu tâm trạng hắn nên nói: “Trẫm hồi cung, đỡ cho khanh phải lo lắng trong lòng.”
“Trước mắt chỉ sợ lại có tuyết rơi lớn hơn, đường đi trơn trượt, một lúc nữa trời sẽ tối đen mất, Hoàng thượng vẫn nên hồi cung sớm một chút, cũng tránh cho Thái hoàng thái hậu, Thái hậu – hai vị lão nhân gia lo lắng. Hoàng thượng bảo trọng long thể, cũng là đã vì bề tôi như nô tài rồi.” Phúc Toàn cung kính nói.
Hoàng thượng cười: “Đuổi Trẫm đi thì là đuổi Trẫm đi, Trẫm đưa khanh cái bậc thang, khanh lại nói rõ hết cả ra.”
“Hoàng thượng thương cảm nô tài, đương nhiên nô tài phải thuận theo cái thang mà trèo lên.”
Vì đang vi hành nên tránh không quá rêu rao, Phúc Toàn vẫn tự mình tiễn Hoàng đế đi ra cổng chính, cùng Nạp Lan giúp Hoàng đế lên ngựa. Tuyết bay trên trời dày đặc, đại đội thị vệ vây quanh ngự giá, tiếng chuông leng keng, càng đi càng xa nhìn không rõ nữa. Chỉ nhìn thấy những bông tuyết kia, vẫn liên tiếp rơi từ trên xuống.
Hoàng đế về Tử Cấm Thành thì trời đã gần tối đen. Lúc hắn xuất cung cũng không ồn ào, hồi cung lại trong im lặng. Cung Càn Thanh vừa lên đèn, Hoạ Châu bỗng thấy hắn tiến vào, trên chiếc áo choàng đen phủ đầy tuyết trắng. Phía sau có Lương Cửu Công đi theo, cũng bị tuyết phủ lên cả người. Hoạ Châu giật mình, vội chạy tới giúp Hoàng đế cởi mũ, cởi áo choàng giao cho tên tiểu thái giám giữ lấy, mang ra ngoài phủi tuyết.
Trong noãn các vốn dĩ rất ấm áp. Lông mi, mặt mũi Hoàng đế còn vương mấy bông tuyết, trước cái ấm này, tuyết tan, khuôn mặt cứ trơn bóng. Thay y phục xong lại cầm khăn nóng tới lau mặt, xong xuôi mới truyền cơm tối và điểm tâm lên.
Lâm Lang dâng sữa nóng vào thì thấy Hoàng đế đang ăn tối liền lui xuống theo quy củ. Đợi Hoàng đế ăn xong, nàng mới đổi trà nóng dâng tới. Vì thời tiết giá lạnh, Hoàng đế đội tuyết đi một vòng quanh chín thành, chắc chắn cũng đã uống vài chén rượu. Tràng kỉ trong noãn các cực kì ấm áp, Hoàng đế chỉ mặc một y phục thường ngày mỏng manh.
Vì uống rượu nên trên mặt hắn hơi nóng. Cầm chén trà nóng hổi lên, không vội uống mà đem chén trà đặt xuống bàn. Hắn chợt nhớ ra một chuyện, cười nhẹ mà nói: “Có thứ này cho nàng.” Nhìn sang Lương Cửu Công, Lương Cửu Công hiểu ngay, vội đi lấy.
Trước mặt Lâm Lang là một chiếc lồng sắt mạ vàng tinh xảo. Trong đó có nhốt một con sóc nhỏ, đôi mắt đen nhánh to tròn, đang trừng mắt nhìn nàng. Nàng bật cười, nhẹ nhàng ôm lấy chiếc lồng. Trên má trái vừa cười đã thấp thoáng thấy má lúm đồng tiền.
Hoàng đế đứng dậy cầm lấy chiếc lồng: “Để Trẫm bắt ra cho nàng nhìn.” Lương Cửu Công thấy cảnh này đã yên lặng lui xuống từ lâu.
Con sóc đã vùng vẫy một lúc, hiện giờ nằm im re run rẩy trong lòng bàn tay Hoàng đế. Lâm Lang thấy nó dễ thương ngoan ngoãn, liền khẽ vuốt lớp lông nhung ở đuôi nó, bất giác nói: “Thật là thú vị.”
Hoàng đế thấy nàng cười xinh đẹp, dưới ánh đèn chỉ cảm thấy rực rỡ như ngọc sáng, đẹp đẽ rạng rỡ. Má lúm đồng tiền lộ ra như nụ hoa mai, hương thơm lan toả. Hoàng đế cười nói: “Cẩn thận nó cắn nàng đấy.” Nói xong liền nhẹ nhàng đặt con sóc vào bàn tay nàng.
Nàng thấy con sóc bị buộc bởi dây lưng, đáng thương vô cùng. Cái dây lưng vốn chỉ thắt hờ, nàng khẽ cởi ra, hai đầu dây lưng đều gắn ngọc, trước mặt còn có hình chữ triện vô cùng quen thuộc.
Trong nháy mắt, nụ cười trên khoé môi nàng cứng lại, cứ như bị đông giữa tuyết lạnh buốt, đến lục phủ ngũ tạng cũng lạnh buốt đến tận xương. Không để ý một chút, con sóc đã nhảy lên một cái rồi trốn mất.
Lúc này nàng mới giật mình hoàng hồn, khẽ kêu “ai” một tiếng, vội vàng bắt lấy. Con sóc kia lại nhảy lên, nháy mắt đã nhảy lên trên tràng kỉ rồi chui thẳng xuống phía dưới cái gối. Hoàng đế nhanh nhẹn, kịp thời nhấc cái gối lên. Con sóc nhỏ xíu, kêu chít chít một tiếng rồi nhanh như tên bắn chạy xuống dưới gầm thảm trên tràng kỉ. Lâm Lang vồ đến, nó thoát được mấy lần, vô cùng nhanh. Đuổi đuổi bắt bắt, nó lại lẻn tới dưới chân bàn trên tràng kỉ, ánh mắt trừng trừng nhìn hai người.
Tây Noãn Các vốn là phòng ngủ của Hoàng đế, Lâm Lang không dám sờ loạn vào đồ dùng của hắn. Hoàng đế vỗ nhẹ lên trên chiếc bàn, quả nhiên con sóc nhảy ra, Lâm Lang nóng lòng, nghiêng người vồ đến. Không ngờ Hoàng đế cùng lúc dang tay bắt con sóc. Nàng không kịp lùi lại, chỉ cảm thấy trời long đất lở, người đã ngã soài lên tràng kỉ. May là lớp thảm trên đó rất dày nên nàng không đau. Khuôn mặt Hoàng đế ở ngay bên cạnh, nghe thấy cả tiếng hô hấp của hắn. Trong hơi thở còn vương mùi rượu thơm. Nàng bối rối, theo bản năng xoay mặt sang một bên.
Cổ trắng mịn hiện lên dưới lớp áo xanh, Hoàng đế không tự chủ được mà hôn xuống. Cả người nàng lạnh run, như nhụy hoa run rẩy trước gió lạnh, thật khiến người ta thương yêu.
Trong đầu nàng trống rỗng, trước môi bỗng nóng bỏng. Bàn tay vẫn nắm chặt dải dây lưng kia. Lòng bàn tay lại đổ một lớp mồ hôi. Phía sau lưng thì lúc nóng lúc lạnh, từng trận từng trận dồn dập, giống như lúc bị ốm nặng vậy. Trong tai cứ ong lên từng hồi.
Gió tuyết bên ngoài vọng qua song cửa sổ, vang lên tiếng rào rào.