Thiên Tỏa

Chương 19


Đọc truyện Thiên Tỏa – Chương 19

Lão
Ngũ bắt đầu kể về lịch sử môn phái:


Trong Đạo môn trừ mối quan hệ giữa sư phụ và đồ đệ là không thể thay
đổi được ra, tất cả những người khác đều phải phân định ngôi thứ
theo tay nghề cao cấp. Người có kĩ thuật xuất chúng được gọi là Bả
Thế, còn những vị trí cao thủ trong phái thì được tôn xưng là Bả
Thế Gia. Bả Thế đại để được phân thành ba bậc, trong mỗi bậc lại
phân thành ba cấp, mỗi cấp lại phân ra hai loại thủ thuật. Nói tóm
lại, Bả Thế được phân thành tam phẩm cửu giới thập bát thuật.

Tôi
nghe mà thấy vô cùng hào hứng, chỉ tính riêng thứ bậc thôi mà đã
phân thành nhiều như thế, chả khác gì cấp bậc quan lại trong triều
vậy. Tôi bỗng nhớ ông nội cũng đã từng kể, mở khóa là một trong mười
tám thuật của Đạo môn, vậy mười bảy thuật còn lại là gì?

Lão
Ngũ say sưa giảng giải:


Hai đứa bay không biết đấy chứ, người trong phái Đạo môn kị nhất là
nhắc đến chữ “ăn trộm”, nó chẳng đẳng cấp gì cả, chỉ có bọn lưu
manh trộm gà, trộm chó ngoài đường thì mới gọi là ăn trộm, ăn cắp
thôi. Còn bọn ta lại dựa vào vật lấy được để phân thành ba cấp độ,
đó là Thủ, Thiết, Đạo. Cấp độ đầu tiên là Thủ hình, là những vật
mang hình dạng cố định có thể nhìn bằng mắt, sờ bằng tay. Cấp độ
thứ hai là Thiết lưu, là những vật không có hình dạng cố định. Loại
này khó hơn nhiều, ví dụ những vật khó nắm bắt như nước, lửa, gió
hay những vật dạng bột; mặc dù ta vẫn có thể nhìn thấy nhưng lại
không thể chạm vào hay lưu chuyển nó. Cấp độ thứ ba là Đạo ý, là
những thứ vô hình vô dạng. Cấp độ này vốn rất khó, thậm chí người
ta cũng không thể biết mình vừa bị mất thứ gì. Còn về cửu giới và
thập bát thuật thì ta không nói nữa, toàn những thứ rắc rối, nói
các ngươi cũng không hiểu được đâu.

Tôi
vội vàng cắt ngang lời lão:


Thuật mở khóa chính là một trong mười tám thuật của Đạo môn, cái
này thì cháu biết.

Lão
Ngũ quay sang mỉm cười với tôi, rồi gật đầu nói tiếp:


Riêng thuật mở khóa từ lâu đã tự tách ra lập nên một phái riêng. Cứ
từ từ, để ta kể tiếp đã. Dựa vào thuộc tính của vật bị đánh cắp
mà phân thành Thủ thực, Thiết hư và Đạo không. Phải rồi, hay đứa bay
đã từng nghe đến câu “Diệu thủ không không” chưa, thực ra câu đó mang
hàm ý về cảnh giới Đạo không rất rõ, tức là dùng thủ đoạn vô cùng
thần diệu để giành lấy những vật huyễn hoặc. Theo như ta được biết,
từ xưa cho đến nay chỉ có duy nhất một người luyện được tới cấp Đạo
không, đó chính là Bả Thế Gia đại thúc Lão Cửu. Nhưng, như ta đã nói
về giới hạn vô hình của cấp Đạo không, thực hư thế nào cũng không ai
nhìn thấy, nên cũng chẳng ai có thể nói rõ được, và tài nghệ của
Bả Thế Gia đại thúc Lão Cửu cao siêu tới mức nào không ai biết rõ
cả.

Nghe
Lão Ngũ giới thiệu về các cấp độ của Đạo môn, tôi biết thêm được
rất nhiều kiến thức, thế nhưng chúng lại quá phức tạp khiến tôi cảm
thấy riêng sự phân cấp thôi cũng đã không hề đơn giản như trong phái
Kiện môn chúng tôi.

Tôi
suy nghĩ một lúc, rồi hỏi lại lão:


Lão Ngũ, vậy cấp Đạo không trong Đạo môn có giống với cấp Thiên giới
của Kiện môn không ạ? Cấp Thiên giới dùng linh hồn để lấy những thứ
mình muốn, cũng như cấp Đạo không lấy những thứ vô hình vô dạng. Giờ
nghe lão giảng giải, cháu càng khẳng định chúng chắc chắn có một
mối liên quan nào đó.

Lão
Ngũ gật gù, nói:


Ừ, mặc dù mỗi phái đều có những nét đặc thù riêng, thế nhưng dù
sao cũng cùng chung cội nguồn, nên có lẽ sẽ mang nhiều nét tương
đồng, ta nghĩ rằng Đạo không và Thiên giới thực sự có một vài điểm
chung… Đúng rồi, đã có lần ta hỏi ông nội mi đã đạt tới cấp Thiên
giới hay chưa, thế nhưng lão già đó chỉ cười trừ rồi lảng sang
chuyện khác, trước sau nhất định không chịu hé răng thế nhưng nhìn
phong thái tự tin của lão, ta đoán trình độ của lão không kém Thiên
giới là bao xa…

Giọng
nói của Lão Ngũ cứ sang sảng bên tai, lão thản nhiên nhắc đến ông
nội khiến lòng tôi như chùng xuống, xuống địa cung đã lâu rồi mà vẫn
chưa tìm ra dấu vết nào của ông, không biết bây giờ ông đang ở đâu, ông
có còn sống trên cõi đời này nữa hay không?

Chị
Giai Tuệ rất nhạy cảm, nhìn sắc mặt tôi thay đổi, chị bóp chặt một
bên vai tôi như muốn an ủi, rồi lên tiếng chuyển chủ đề khác.


Lão Ngũ, nghe lão giảng giải về tam cửu giới thập bát thuật, cháu
đoán lão đang ở cấp bậc thứ hai của Thiết lưu, hay nói dễ hiểu hơn
là đứng hàng thứ năm trong cửu giới, đúng không ạ?

Lão
Ngũ đưa tay lên vuốt chòm râu lưa thưa dưới cằm, thở dài một tiếng
rồi nói:


Điều đó không sai. Thế nhưng mà, mẹ kiếp, quan tài sắp đóng tới cổ
rồi, mới đạt tới cấp năm, xem ra thiên phận của ta chỉ tới vậy mà
thôi.

Chị
Giai Tuệ cười trừ, đang định mở miệng khuyên nhủ lão vài câu, thì
Lão Ngũ đã lập tức nói tiếp:


Thế nhưng cả cái nước Trung Quốc này, Lão Ngũ ta vẫn là số một, ta
không hề nói khoác đâu, ít nhất thì ta chưa từng nghe thấy có kẻ nào
dám vỗ ngực tự xưng là Lão Lục. Mẹ kiếp, nếu có thật thì cũng hay
đấy!

Thấy
vẻ đắc thắng của Lão Ngũ, tôi cười thầm trong bụng, hóa ra ông già
này cũng hiếu thắng như trẻ con.

Chị
Giai Tuệ liền nói hùa theo:


Lão Ngũ, cháu có đọc một cuốn sách, trong đó có viết rằng muốn tu
luyện đạo thuật, người ta sẽ buộc lên hình nộm rất nhiều quả chuông,
sau đó dựa vào tiếng chuông có phát ra hay không để nhận biết trình
độ của người đó, không biết chuyện này có thật không ạ?

Lão
Ngũ lắc đầu quầy quậy, cao giọng phản đối:


Toàn trò mèo! Buộc chuông vào người, lại còn sáu mươi tư, bốn mươi
tám quả chuông, toàn tin đồn vớ vẩn. Mẹ kiếp! Cứ cho là có đi chăng
nữa thì cũng là trò lòe thiên hạ của bọn trộm cắp, lưu manh tép riu
thôi. Những cao thủ thực sự trong Đạo môn phải biết sử dụng thuần
thục các loại bảo bối, có được bao nhiêu bảo bối thì phải mang theo
trên người bấy nhiêu.


Vậy rốt cuộc thì họ tu luyện thế nào ạ? – Tôi càng ngày càng thấy
hào hứng với phái Đạo môn, không nén được tò mò đành phải căn vặn
Lão Ngũ.

Lão
Ngũ cười khoái chí.


Cái này thì không thể tiết lộ được, các cụ vẫn thường nói, không
thể tiết lộ thiên cơ cho người ngoại đạo, ha ha… Nhưng ta sẽ cho hai
đứa bay tận mắt chứng kiến thế nào là Thủ hình và Thiết lưu.

Tôi
và chị Giai Tuệ gật đầu đánh rụp rồi mở to mắt để xem Lão Ngũ trổ
chút tài nghệ.

Lão
ngó sang hai bên, rồi nhấc chai nước lọc đã uống quá nửa lên, nói:


Ở đây chẳng có gì khác, lấy tạm cái này làm ví dụ vậy.

Nói
rồi lão bóp méo chai nước, kẹp nó vào hõm giữa ngón cái và ngón
trỏ, ấn chặt vài cái, rồi quay sang cười khoái chí:


Bắt lấy! – Cổ tay lão hơi nghiêng một góc bốn mươi lăm độ, ném chai
nước cho chị Giai Tuệ.

Tôi
vội nhìn theo thì thấy chị Giai Tuệ đã cần chai nước trong tay, thế
nhưng lớp nylon in nhãn hiệu cuốn quanh vỏ chai đã biến mất.

Từ
lúc bắt đầu, tôi không rời mắt khỏi Lão Ngũ, nhưng không tài nào
biết lão đã bóc lớp nylon đó như thế nào, và giấu nó ở đâu.

Lão
Ngũ cười hứng khởi và nói:


Đã nhìn thấy chưa, đây mới chỉ là cấp độ đầu tiên trong Đạo môn thôi
đấy. – Nói rồi lão lấy lại chai nước trong tay chị Giai Tuệ, vặn
chặt nắp chai, rồi dốc ngược chai nước xuống xóc vài lần.

Lão
Ngũ bỗng ngửa cổ lên, hai mắt nhìn thẳng lên đỉnh đầu, miệng lẩm
bẩm câu gì đó. Nước trong chai bị lắc kêu sòng sọc, âm thanh đó bỗng
nhiên nhỏ dần rồi hoàn toàn biến mất. Chai nước trống không, trong khi
nắp chai vẫn đóng chặt.


Nhỏ Giai Tuệ, đây chính là cấp độ thứ hai, Thiết lưu đấy. – Lão Ngũ
nói với giọng dương dương tự đắc.

Chứng
kiến Lão Ngũ trổ tài, tôi thật khó có thể tưởng tượng được rằng,
phái Đạo môn lại có những thủ thuật thần kì đến như vậy.

Chị
Giai Tuệ bỗng lên tiếng hỏi lão:


Lão Ngũ, lần trước khi cháu và Lan Lan vào tù gặp lão, lão đã dùng
chiêu này để xé chiếc cốc giấy đúng không ạ?

Lão
Ngũ gật đầu, trả lời:


Ừ, khi đó ta muốn thử khả năng quan sát của Lan Lan, nên mới làm vậy.
– Nghỉ một lúc, lão lại hỏi tôi. – Nhóc con, ông nội mi chắc vẫn chưa
truyền cho mi thuật Đạo môn đúng không?

Tôi
lập tức lắc đầu, thành thật nói:



Chưa ạ, ông nội cháu mới chỉ nói qua thôi, còn đâu chủ yếu vẫn là
dạy cháu kỹ thuật mở khóa thôi.

Lão
Ngũ liền nói:


Nhìn cái mặt ngơ ngác của mi là ta biết ngay lão Sở vẫn chưa dạy
những thủ thuật này. Mi biết không, ông nội mi cũng được coi là cao
thủ trong phái Đạo môn đấy, hồi xưa chính lão cũng đã dạy cho ta
những chiêu thức đầu tiên. Theo như đánh giá của ta, lão Sở ít nhất
cũng đạt tới bậc ba của cấp một, tính ra thì cũng có thể gọi là
Lão Tam. Lão có rất nhiều khả năng khác, sao không dạy cho mi nhỉ, sợ
cái mẹ gì chứ. Nhưng thôi, đợi đến khi chúng ta thoát ra khỏi đây,
Lão Ngũ ta sẽ đích thân dạy cho mi, hơn nữa mi cũng đã đạt tới cấp
độ Địa Kiện rồi thì học chúng cũng không khó khăn lắm đâu. Chà chà,
nhóc con, mi cũng được tạo hóa ưu đãi lắm đấy, nếu mi học thành công
cả phái Kiện môn lẫn phái Đạo môn thì trên thế giới này có loại
khóa nào hay cánh cửa nào có thể cản được mi nữa chứ?

Nói
xong câu này, lão nhìn thẳng vào mắt tôi, khuôn mặt lộ rõ vẻ thách
thức, liếm liếm hai môi, dương dương tự đắc như muốn tôi quỳ xuống,
dập đầu nhận lão làm sư phụ ngay vậy.

Tôi
chun chun mũi, trề môi nói với vẻ không được vui cho lắm:


Lão Ngũ, theo như lão nói thì sẽ chẳng có loại cửa hay loại khóa
nào có thể cản đường cháu ư, làm gì tới mức thế, liệu lão có tâng
bốc cháu quá không vậy?

Chị
Giai Tuệ cũng hào hứng không kém, nhưng thấy tôi nói vậy, chị đành
lên tiếng giảng hòa:


Lão Ngũ, tài nghệ của lão đã khiến bọn cháu được mở mang tầm mắt,
việc nhận Lan Lan làm đệ tử hay không thì đợi khi ra khỏi đây hẵng
nói tiếp đi. Đúng rồi, vậy Bả Thế Gia đại thúc Lão Cửu khi phát
hiện ra loại đất chuyển này thì chuyện gì đã xảy ra, lão vẫn chưa
kể xong mà.

Lão
Ngũ ngửa mặt lên cười ha hả rồi nói:


Được rồi, ta kể tiếp. Sau khi chứng kiến nhiều vị Bả Thế Gia ra đi
mà không trở về, đại thúc Lão Cửu không tin chuyện đó là thật, nên
đã đẫn theo năm đệ tử cùng mình rời thành, tiến thẳng tới Bắc Đại
Hoang[3]. Ba năm cứ thế trôi qua mà chẳng thấy có động tĩnh gì, không
biết họ còn sống hay đã chết. Sau khi Lão Cửu mất tích, tất cả các
huynh đệ từ Bắc tới Nam đều đứng ngồi không yên, họ họp nhau lại,
quyết định kể cả phải xới từng tấc đất, phá tan long mạch của bọn
Mãn Thanh thì cũng phải tìm cho ra Lão Cửu.

[3]
Vùng đất phía Bắc tỉnh Hắc Long Giang – Trung Quốc.

Chị
Giai Tuệ ồ lên đầy ngạc nhiên, rồi hỏi tiếp:


Lão Ngũ, có phải Lão Cửu là người rất được trọng vọng trong Đạo
môn không?

Lão
nghe chị hỏi vậy liền nhếch mép cười khinh bỉ, nói:


Mi nghĩ rằng cái lũ đấy thực lòng lo cho sự an nguy của người khác
hay sao, chúng làm vậy cũng chỉ vì tín vật của Đạo môn mà Lão Cửu
đang nắm giữ thôi.

Nghe
đến hai chữ “tín vật”, tôi bỗng chột dạ, sờ lên cặp tỳ hưu đang đeo
trên cổ, thắc mắc:


Lão Ngũ, tín vật của Đạo môn cũng là cặp tỳ hưu ngọc hay sao?

Lão
Ngũ lắc đầu, trả lời:


Không nhiều đến thế đâu, chỉ là một mảnh ngọc bội màu đỏ, thế nhưng
ý nghĩa của nó cũng gần giống như cặp tỳ hưu ngọc của mi vậy, nó
là của tổ tiên truyền lại qua bao đời nay. Có được miếng ngọc bội
này trong tay đồng nghĩa với việc mi sẽ là người đứng đầu môn phái,
và tất cả mọi môn đệ trong phái đều phải tuân theo sự chỉ đạo của
mi. Thời bấy giờ, môn phái phát triển rất mạnh, số lượng môn đệ
không ngừng gia tăng, thậm chí đến các quan phủ cũng phải nể mặt vài
phần, địa vị và cấp bậc trong môn phái khác nhau thì quyền hạn cũng
khác nhau…

Lão
Ngũ quay sang tôi, tặc lưỡi nói tiếp:


Ông nội mi thật quá coi thường mạng sống. – Lão chỉ thẳng vào cổ
tôi. – Hai mảnh ngọc này quan trọng đến thế sao, ngoài cửa hàng có
đến hàng tá. Cái gì mà Nam phái Bắc phái thống nhất làm một chứ?
Mẹ kiếp, giờ thì còn ai quan tâm đến điều đó chứ. Ông nội mi cũng

thật là ngốc ngếch, không biết suy tính kỹ càng gì cả, nếu là ta thì
có hàng trăm cái ta cũng không đi.

Mặc
dù tôi cũng đã nghĩ đến những vấn đề này và cảm thấy vô cùng hối
hận, hối hận vì sao lúc đó không ngăn ông nội, thế nhưng khi nghe
những lời nói thẳng thắn của Lão Ngũ, tôi vẫn không dám thừa nhận
sai lầm của mình, chỉ biết cúi gằm mặt không nói câu nào.

Chị
Giai Tuệ thở dài, vỗ vỗ lên vai tôi nói tiếp:


Lão kể tiếp chuyện về Lão Cửu đi.

Lão
Ngũ từ từ gật đầu, nói:


Đến đầu năm thứ tư, Lão Cửu bỗng dưng quay trở về, thế nhưng có một
điều khiến mọi người cảm thấy rất khó hiểu: Lão Cửu đã cụt mất
hai cánh tay, còn năm tên đệ tử thì không thấy bóng dáng đâu cả. Khi
biết tin, tất cả các huynh đệ từ mười ba tỉnh thành kéo tới tận
nhà Lão Cửu hỏi thăm, mồm thì xoen xoét nịnh bợ, nhưng thực ra chỉ
là muốn biết Lão Cửu cuối cùng đã tìm ra loại bảo bối gì. Nhưng
Lão Cửu là người như thế nào chứ, ông ấy chỉ cần nhìn thoáng qua là
đủ biết chúng thuộc hạng người gì. Mặc cho bọn chúng ra sức gặng
hỏi, Lão Cửu cũng không hé ra nửa lời, lạnh tanh quay đi, khiến đám
huynh đệ sượng mặt ra về. Cho đến tận sau này, cũng không ai biết
được Lão Cửu trong suốt thời gian đó đã gặp những chuyện gì, vì sao
đi liền một mạch ba năm trời và khi trở về lại biến thành một người
tàn phế, còn năm người đệ tử đã mất tích ra sao. Vài năm sau đó,
Lão Cửu qua đời vì bệnh lao phổi, trước khi nhắm mắt, lão đã truyền
lại vị trí của mình cho Lục đệ, tức là người đệ tử thứ sáu.

Ha
ha! Thế nhưng người đi thì trà cũng nguội, một mình Lục đệ không đủ
sức để chống chọi lại với cuộc nội chiến trong môn phái, tất cả
huynh đệ từ Bắc chí Nam lại kéo về, ai ai cũng không phục, đòi Lục
đệ đem mảnh ngọc bội ra để phân chia lại ngôi vị. Có những tên còn
tham lam nói rằng, Lão Cửu sở hữu rất nhiều bảo bối hiếm có, nên
đã bắt Lục đệ giao tất cả những thứ đó. Ban đầu còn nói ý tứ này
nọ, sau đó thì nói toạc móng heo, lộ nguyên hình là một lũ tham lam
và xấu xa, thậm chí thiếu chút nữa còn xảy ra bạo loạn. Thấy rõ
được bộ mặt của những con quỷ tham lam, Lục đệ chỉ cười lạnh lùng
rồi phán một câu: “Họa hổ họa bì nan họa cốt, tri nhân tri diện bất
tri tâm”, rồi quay người vào trong nhà, khi bước ra cầm theo một chiếc
hộp để lên mặt bàn, rồi nói: Lão Cửu trước khi đi chỉ để lại thứ
này, nếu muốn thì hãy cầm đi.

Mọi
người đều tưởng rằng bên trong chiếc hộp đó chính là tín vật môn
phái, liền lao tới giành giật, không ngờ sau khi mở ra, bên trong đó
lại là một loại đất đen mịn, không ngừng chuyển động. Nhìn thấy vưu
vật trước mặt, đám người kia lập tức lao tới như một lũ điên, cào
xé tranh giành, mặc cho chỗ đất bị rơi ra quá nửa. Trong lúc giằng
xé, bỗng có tiếng quát: Ngọc bội của Đạo môn đâu? Tất cả cùng quay
đầu lại nhưng chẳng thấy tăm hơi của Lục đệ đâu, có lẽ là ông ta đã
bỏ đi cùng với miếng ngọc bội.

Mặc
dù không tìm thấy miếng ngọc bội đâu nhưng loại đất đen này thật sự
rất kỳ quái. Nó công dụng giống y hệt như loại cát bay, thế nên mọi
người đều đoán rằng đây chính là thứ Lão Cửu mang về, từ đó loại
Đất chuyển này mới thực sự có tiếng tăm. Nhưng vì lượng đất thì ít
mà người muốn nó thì nhiều, nên những người không có được nó liền
nảy lòng tham, cướp đoạt lẫn nhau, và quên mất quy tắc trong phái Đạo
môn, phải hiểu rõ ngọn ngành trước khi ra tay. Cũng vì chuyện đó mà
rất nhiều huynh đệ phải mất mạng, trưởng môn phái Đạo môn đã bỏ đi,
tam phẩm cửu giới thập bát thuật cũng dần dần bị mai một…

Nói
đến đây, Lão Ngũ bỗng thở dài một tiếng, mặt đầy vẻ thê lương:


Đất chuyển à đất chuyển, mày chính là nấm mồ chôn Đạo môn đấy, bao
công xây dựng vun đắp giờ đã đổ xuống sông xuống bể.

Tôi
càng nghe càng cảm thấy xót xa, rồi nghĩ đến phái Kiện môn cũng bị
phân chia cũng chỉ vì nhân cách của con người bị tha hóa, xem ra những
làng nghề cổ truyền của Trung Quốc cũng đều vì lí do này mà mai
một dần.

Chị
Giai Tuệ thấy tôi cho vẻ trầm ngâm liền quay sang gợi chuyện cho Lão
Ngũ:


Lão Ngũ, vậy loại đất chuyển được tìm thấy ở vùng đất đen, từ
thời nhà Thanh, điều này thì không có gì để bàn cãi nữa. Nhưng loại
cát bay do Lưu Bác Ôn phát hiện ra ở vùng Thạch Sơn từ thời nhà Minh
đã bị khai thác hết, vậy tại sao ở dưới địa cung này vẫn còn nhiều
thế?

Lão
Ngũ lắc lắc đầu, nói tiếp:


Mi hỏi ta, ta biết hỏi ai? Thế nhưng những tên đầu trọc tết tóc đuôi
sam này vốn chỉ quen sống trên núi, vậy mà có thể trị vì đất nước
trong hơn hai trăm năm, điều này ta không thể không nể phục. Cũng như
nhà Nguyên, người Nội Mông vốn là dân du mục chuyên chăn ngựa chăn bò,
vậy mà biết đánh bại bọn Tây mũi lõ, mở rộng giang sơn. Xem ra người
dân tộc thiểu số cũng thật lợi hại. Chỉ tiếc là trong dòng dõi dân
tộc Hồi của ta thì chưa có ai đủ may mắn để lên làm hoàng đế cả.

Tôi
tò mò hỏi:


Lão Ngũ, lão là người dân tộc Hồi sao?

Lão
Ngũ phì cười, đáp lại câu hỏi ngô nghê của tôi:


Lẽ nào mi không nhận ra ta không ăn thịt lợn? Họ Hắc của ta khởi
nguồn từ một vị đại quan người tộc Hồi trong triều đình Mãn Thanh.
Xem ra, tổ tiên ta cũng là những người tài giỏi ra phết, vậy mà đến
đời ta lại biến thành kẻ trộm… Ha ha, hay đấy, hay đấy!

Tôi
sực nhớ lại, lúc ăn cơm ở trụ sở cảnh sát, quả thật tôi chỉ thấy
Lão Ngũ gắp rau và thịt dê vào bát, lúc đó tôi không để ý lắm vì
nghĩ rằng đấy là do khẩu vị của từng người khác nhau. Thế nhưng tôi
lại cảm giác Lão Ngũ ghét ra mặt người Mãn, không khéo đây mới là
lí do chính. Quay sang nhìn chị Giai Tuệ, trong lòng nghĩ ngợi lung
tung, tổ tiên của chị Giai Tuệ cướp đi giang sơn của tổ tiên Lão Ngũ,
giờ hai người đó lại cùng một người dân tộc Hán là tôi vào địa cung

tìm ông nội, điều này mới thực sự là kỳ quặc.

Cứ
mải nghe Lão Ngũ kể chuyện hơn một tiếng đồng hồ, bụng dạ cũng qua
cơn đói khát nên chúng tôi quyết định tiếp tục dò tìm phía trong
hầm.

Lão
Ngũ đứng dậy, vặn vẹo tay chân cho đỡ mỏi, rồi sang sảng tuyên bố:


Đã là trộm thì không được về tay không, chúng ta vừa lấy được ba hạt
cát bay, đó là loại bảo bối hiếm có, nên chia ra mỗi người giữ một
hạt. – Nói rồi, lão từ từ hé lòng bàn tay ra để lộ ba hạt cát
trắng đang nhảy múa rất vui mắt, lão tóm lấy một hạt đưa cho chị
Giai Tuệ. – Cố tìm chỗ mà giữ lấy, đừng để nó tuột mất. Còn lại
hai hạt, ta và Lan Lan mỗi người giữ một hạt. Đây, Lan Lan, hạt này
là của mi. – Tôi vội giữ chặt hạt cát trong tay, chỉ sợ nó đi mất.

Lấy
được bảo bối, Lão Ngũ hí hửng lên hẳn, lão xoa xoa cằm, lẩm bẩm
một mình:


Nếu như thoát được khỏi đây, thì chuyến đi lần này coi như bõ công,
vừa mở mang đầu óc lại còn có bảo bối mang về. Đem về Bắc Kinh
bán, chắc cũng kiếm được căn hộ vạn tệ.

Thấy
Lão Ngũ đang mơ màng chìm trong giấc mơ làm giàu, tôi không khỏi phì
cười, nghĩ thầm trong bụng, chắc Lão Ngũ ở trong tù lâu quá rồi, nên
nhận thức cũng lạc hậu đi nhiều, giờ đây “căn hộ vạn tệ” đã trở nên
xa xôi lắm rồi. Với nhịp sống chóng mặt như hiện nay, ngay ở thành
phố Trường Xuân thôi, căn hộ ổn ổn cũng phải mất vài chục vạn tệ,
còn ở Bắc Kinh, một vạn tệ chắc chỉ mua được khoảng đất đặt vừa
bàn chân.

Chị
Giai Tuệ nhét hạt cát vào trong vỏ đạn, rồi dùng miếng dán urgo dán
kín, sau đó cẩn thận nhét vào ngăn bí mật trong balô. Lão Ngũ thì
đưa bàn tay đang nắm chặt hạt cát vào bên trong áo, rồi vỗ bụng bình
bịch, tôi đoán chắc lão đã cất giữ hạt cát đó rất cẩn thận rồi.

Tôi
không có khả năng giấu đồ như Lão Ngũ, trông lão làm cứ nhẹ nhàng
như không. Lão đem theo bên mình không ít đồ linh tinh, nên việc cất giữ
hạt cát này chắc không phải là quá khó.

Tôi
thì loay hay không biết có nên nhét hạt cát vào lõi một chiếc kim
nào đó hay không? Thấy vẻ mặt tôi ngẩn ngơ, Lão Ngũ liền bảo chị
Giai Tuệ đưa cho lão một miếng urgo rồi nói với tôi:


Nhóc con, đưa tay cho ta!

Tay
trái tôi đang cầm chai nước lọc, nên theo phản xạ liền đưa tay phải ra
cho lão.

Lão
vỗ tay tôi đánh bốp.


Tay kia!

Tôi
không biết lão đang định làm gì, nhưng vẫn ngoan ngoãn tuân lệnh.
Miệng lỗ sẹo trong lòng bàn tay tôi giờ đã khô lại, không còn chảy
máu nữa, nhưng vì muốn giữ lại nó, tôi đã nhét một ống kim loại
rỗng vào giữa.
Tay
trái Lão Ngũ giữ lấy bàn tay tôi, ngón cái sờ nhẹ miệng vết thương,
rồi đột ngột ấn mạnh xuống, không biết lão làm như thế nào mà ống
kim loại bắn ra, rơi đánh keng xuống mặt sàn đá. Lão Ngũ lùa hạt
cát vào lỗ sẹo của tôi, rồi nhanh chóng dán miếng urgo lên, giọng
lạnh lùng:


Với nghề của chúng ta, đôi lúc bảo bối phải được cất vào da thịt
thế này mới an toàn.

Tôi
gật đầu, cảm nhận hạt cát nhỏ xíu đang liên tục chuyển động bên
trong lỗ sẹo của tôi, nó chà xát lớp thịt xung quanh khiến tôi thấy
hơi tê tê, đoạn xương nối bị nó va vào cũng phát ra tiếng lục cục,
nhưng tôi lại không thấy đau đớn chút nào. Một lúc sau, hạt cát dần
quen với môi trường mới nên nằm lặng yên một góc.

Chúng
tôi sau khi đã ăn uống đầy đủ, liền thu dọn đồ đạc, theo chùm sáng
của chiếc gương Dạ Minh tiến về phía trước hầm, cẩn trọng lần dò
từng bước trong bóng tối.


Với
loại bảo bối đất bay cát chuyển này, ngoài đặc tính di chuyển tự do như trong
trạng thái vô trọng lượng ra, chúng còn có tính hàn, nên từ khi xuất hiện chúng
đã nhanh chóng hạ nhiệt cho căn hầm đang hừng hực như lò than, khiến chúng tôi
cảm thấy dễ chịu hơn rất nhiều. Nhưng từ khi hắc ưng thoát ra và bay thẳng lên
không trung, thì lớp đất cát đã cũng lập tức rút xuống lòng đất qua đường khe
giữa những phiến đã lát sàn; không khí mát lạnh cũng theo đó mà mất dần đi, khiến
nhiệt độ trong căn hầm lại từ từ tăng lên như cũ. Chúng tôi chỉ mới đi được một
đoạn mà toàn thân đã ướt đẫm mồ hôi.

Nhiệt
độ căn hầm mỗi lúc một thêm ngột ngạt đến tức thở. Chốc chốc tôi lại lôi chai
nước khoáng trong balô ra uống ừng ực, rồi vẩy vài giọt nước lên mặt, lên tay
cho đỡ nóng, nhưng chỉ trong nháy mắt, lớp nước đó lại bốc hơi khiến cơ thể nóng
rát và khó chịu đến cực độ. Chị Giai Tuệ đi phía sau liên tục nhắc nhở tôi nên
tiết kiệm nước vì chỗ nước còn lại cũng không nhiều.

Nghe
chị Giai Tuệ nói vậy, Lão Ngũ đang đi phía trước bỗng nhiên dừng lại, quay sang
hỏi chúng tôi:


Hai nhóc, có đứa nào nhớ chúng ta đã xuống đây bao lâu rồi không?

Tôi
và Lão Ngũ là những người sống dựa vào đôi tay nên chúng tôi ghét nhất là phải
đeo những thứ gây ảnh hưởng tới các thao tác khi mở khóa trên tay, cho nên từ
trước đến nay đồng hồ, nhẫn, vòng tay hay những thứ đại loại như thế đều không
bao giờ xuất hiện trên tay chúng tôi.

Tôi
nhẩm tính một lúc rồi nói:


Chắc mới chỉ khoảng hai ngày thôi.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.