Thiên Quan Tứ Phúc

Chương 22: Rút Ngàn Dặm Đất Lạc Giữa Bão Cát 2


Đọc truyện Thiên Quan Tứ Phúc FULL – Chương 22: Rút Ngàn Dặm Đất Lạc Giữa Bão Cát 2


Quả nhiên, bóng người màu đỏ dưới đất thoắt cái đã gần y hơn nhiều, chẳng mấy chốc đã bay đến nơi y đưa tay là chạm được.
Tam Lang thế mà cũng bị cuốn vào gió lốc!
Tạ Liên la to với Tam Lang: “Đừng sợ!” Vừa há miệng lại ăn một mớ cát, nhưng chuyện đến nước này, ăn một hồi rồi cũng quen.

Mặc dù y la lên bảo Tam Lang đừng sợ, nhưng trên thực tế, y cảm thấy Tam Lang căn bản sẽ không sợ.

Quả nhiên, sau khi thiếu niên nọ bị cuốn lên không trung, Nhược Da nhanh chóng rút về, kéo gần khoảng cách giữa hai người.

Tạ Liên nhìn thấy rõ ràng, trên mặt đối phương không hề có nửa phần hoảng loạn, nếu đưa cho hắn quyển sách, chắc hắn có thể bình thản đọc ngay giữa cát bụi ấy chứ, Tạ Liên thậm chí có chút hoài nghi phải chăng hắn cố tình bị cuốn lên.

Nhược Da quấn vài vòng quanh hông hai người, siết bọn họ chung một chỗ, Tạ Liên nói: “Làm lại! Lần này đừng túm người nữa!”
Thế là Nhược Da bay ra lần hai.

Lần này, nó túm…!Nam Phong và Phù Dao!
Tạ Liên mệt cả thể xác lẫn tinh thần, nói với Nhược Da: “Ta bảo mi đừng túm người, “người” này không phải là người theo nghĩa hẹp…!Thôi được rồi.” Y cất cao giọng gọi với xuống dưới: “Nam Phong Phù Dao! Ráng chống! Phải ráng chống nha!”
Nam Phong và Phù Dao dưới đất dĩ nhiên phải ráng chống, hai người mạnh ai nấy đứng vững tại chỗ, nhưng trận bão cát này thật sự quá điên cuồng và dữ dội, không lâu sau, chẳng ngoài ý muốn chút nào, lại có hai bóng đen bị gió lốc cuốn vào.
Lần này, bốn người cùng bay vèo vèo xoay tròn trên không trung.

Giữa đất trời vàng tối, cơn lốc kia trông hệt như cột cát chọc trời cong vẹo, một dải lụa trắng kéo theo bốn bóng người xoay vòng liên tục trong cột cát, càng xoay càng nhanh, càng lên càng cao.

Tạ Liên vừa ăn cát vừa nói: “Sao các ngươi cũng lên luôn vậy!”
Thứ nhìn thấy ngoại trừ cát vẫn là cát, thứ nghe được ngoại trừ gió vẫn là gió, bốn người không thể không dùng âm lượng lớn nhất hét qua hét lại.

Phù Dao vừa ăn cát vừa phun vừa nói: “Vậy phải hỏi dải lụa trắng ngu ngốc của huynh ấy!”
Tạ Liên nắm “dải lụa trắng ngu ngốc”, nói bằng giọng bất đắc dĩ: “Nhược Da ơi Nhược Da, bây giờ bốn người bọn ta trông cậy vào mi hết đó, lần này mi làm ơn đừng túm nhầm nữa, đi đi!”
Mang tâm trạng bi tráng, Tạ Liên lần nữa buông tay.

Nam Phong quát: “Đừng trông chờ vào cái thứ đó! Nghĩ cách khác đi!” Bấy giờ, Tạ Liên cảm giác được dải lụa trên tay bỗng siết lại, tinh thần phấn chấn lên ngay, nói: “Chờ chút, cho nó một cơ hội nữa đi! Lại túm được rồi này!”
Phù Dao cũng quát: “Đừng có quấn người qua đường nữa đấy! Tha cho người ta đi!”
Khỏi cần phải nói, trong lòng Tạ Liên cũng vô cùng lo lắng điều này.

Y kéo kéo Nhược Da, đầu kia không hề nhúc nhích, lúc này mới thấy nhẹ nhõm, nói: “Không phải đâu! Đầu kia nặng lắm, vững lắm!” Sau đó nói tiếp: “Rút!”
Chống lại cơn gió lốc cuồng loạn kia, Nhược Da cấp tốc rút ngắn, bốn bóng người nhanh chóng rời xa cột gió.

Giữa cát vàng đầy trời, Tạ Liên từ từ nhìn thấy một đường viền màu đen hình nửa vòng tròn bên dưới.

Đường viền này cực lớn, ước chừng lớn bằng một ngôi miếu nhỏ.

Thứ mà đầu khác của Nhược Da quấn lấy, chính là thứ này đây.

Mà chờ khi bọn họ tới gần mặt đất, cuối cùng cũng thấy rõ được, đó là một khối đá núi khổng lồ.
Giữa cơn bão cát mạnh đến mức vậy, khối đá ráp ấy hệt như một tòa pháo đài vững chãi mà tĩnh lặng, quả thật là nơi tránh gió cực tốt.
Khi nãy trên đường tới đây, rõ ràng bọn họ không nhìn thấy khối đá núi to như thế, thật sự không biết trận gió lốc quái gở này đã đưa họ đi xa cỡ nào.

Vừa đáp xuống đất, bốn người lập tức đi vòng ra mặt cản gió của khối đá.

Vừa đi vòng qua, Tạ Liên thoáng cái hứng lên, nói: “Đây quả là quan trời ban phúc.”
Thì ra sau mặt cản gió của khối đá núi có một hang động.

Hang động này rộng chừng hai cánh cửa, chiều cao thấp hơn một cánh cửa tí xíu, nhưng người trưởng thành khẽ khom lưng cúi đầu cũng vào được.

Cửa động không ngay ngắn mà xiêu xiêu vẹo vẹo, song cũng không giống hình thành tự nhiên, có lẽ là do sức người đào khoét lung tung.

Tạ Liên đi vào, phát hiện khối đá núi này gần như bị đào rỗng ruột, không gian trong động có vẻ không nhỏ, nhưng bên trong khá tối, y cũng không thăm dò mọi ngóc ngách trong động, trước tiên chỉ ngồi ở nơi ánh sáng chiếu đến, phủi cát vàng trên Nhược Da, quấn lại vào cổ tay.
Nam Phong và Phù Dao đều đang nôn cát, miệng mũi tai mắt đều có cát bay vào, nếp uốn quần áo thì khỏi nói, cởi ra giũ một cái, toàn là cát đá nhỏ vụn.

Trong số bốn người, thoạt nhìn bình yên vô sự nhất vẫn là Tam Lang.

Sau khi khom lưng đi vào, hắn chỉ phủi chút cát bụi trên áo đỏ cho có lệ rồi thôi.

Ngoại trừ tóc đen hơi rối, buộc tóc bị lệch, điệu bộ thoải mái của hắn không hề bị ảnh hưởng gì, vốn dĩ tóc đen của hắn đã bị Tạ Liên buộc lệch, giờ lệch thêm chút nữa cũng không sao.
Nam Phong lau mặt mấy cái, há miệng là mắng một tiếng.

Tạ Liên trút hết cát trong mũ, nói: “Ầy, thật sự không ngờ các ngươi cũng bị thổi lên trời.

Sao các ngươi không dùng Thiên cân trụy?”
*Thiên cân trụy (Trĩu ngàn cân): một công phu của Thiếu Lâm giúp trụ tấn vững vàng.
Lúc này Nam Phong mới ngừng mắng, nói: “Dùng rồi! Vô dụng.”
Phù Dao vừa tức tối giũ áo ngoài, vừa hung tợn nói: “Huynh cho rằng đây là đâu, đây là chốn hoang mạc ở cực Tây Bắc, không phải địa bàn của tướng quân nhà ta.”
Nam Phong nói: “Phía Bắc là địa bàn của Bùi gia nhị tướng (hai vị tướng nhà họ Bùi), phía Tây là địa bàn của Quyền Nhất Chân.

Mấy trăm dặm quanh đây, căn bản không tìm được gian Nam Dương miếu nào.”
Phải biết nhân gian còn có một câu tục ngữ — Con rồng mạnh cỡ nào cũng khó mà trấn áp con rắn đang ở trong địa bàn của nó.

Vì thế thân là thần quan phó tướng của Võ Thần vùng Đông Nam và Võ Thần vùng Tây Nam, hai người họ làm phép ở nơi không thuộc địa bàn của mình, pháp lực phát huy khó tránh bị hạn chế.

Nhìn dáng vẻ hết sức uất nghẹn và bực bội của Nam Phong và Phù Dao, xem ra đây hẳn là lần đầu tiên hai người họ bị một trận gió to thổi lên trời xoay vòng vòng không xuống được, Tạ Liên nói: “Cực thân các ngươi rồi.”
Có lẽ Nam Phong cảm thấy nơi này xuất hiện một khối đá núi như vậy rất đáng nghi, song Tạ Liên cũng không lấy làm lạ, nói: “Đá núi bị đào hang thế này không phải ít.

Để trốn bão cát khi ra ngoài chăn thả không kịp về nhà hoặc tạm thời qua đêm, thỉnh thoảng người dân Bán Nguyệt quốc năm xưa sẽ đào một hang động trên đá núi.

Có hang động không phải đào mà là cho nổ.”
Nam Phong nghi ngờ nói: “Trong hoang mạc làm sao chăn thả được.”

Tạ Liên nở nụ cười, nói: “Hai trăm năm trước, nơi này không phải là hoang mạc hết, cũng có một vùng ốc đảo mà.”
Lúc này, Tam Lang nói: “Ca ca.”
Tạ Liên quay đầu hỏi: “Sao vậy?”
Tam Lang chỉ chỉ, nói: “Trên tảng đá mà huynh ngồi, hình như có viết chữ.”
“Cái gì?” Đầu tiên Tạ Liên cúi đầu, sau đó đứng dậy, bấy giờ mới phát hiện chỗ mình ngồi đích thực là một phiến đá.

Y lau sạch bụi bặm, trên phiến đá nọ đúng là có chữ, chẳng qua khắc hơi nông, nét chữ cũng không rõ ràng lắm.

Một nửa phiến đá bị chôn trong cát, nét chữ kéo dài lên trên, ẩn núp trong bóng đêm.
Đã có chữ, tức là phải đọc.

Tạ Liên nói: “Pháp lực của ta không còn bao nhiêu, các ngươi ai nâng cái chưởng tâm diệm (ngọn lửa trong lòng bàn tay) rọi sáng giúp ta đi, cảm ơn nhiều.”
Nam Phong bèn búng tay một cái, lòng bàn tay thoáng chốc dấy lên một ngọn lửa.

Tạ Liên tình cờ nhìn sang Tam Lang, đối phương không hề tỏ ra kinh ngạc, suy cho cùng ngay cả rút ngàn dặm đất cũng thấy rồi, y có cảm giác bất luận sau này đôi bên thể hiện cái gì với nhau cũng chẳng ai lấy làm kinh ngạc nữa.

Nam Phong dời bàn tay qua chỗ Tạ Liên chỉ, ngọn lửa chiếu sáng chữ viết khắc trên phiến đá.

Chữ viết nọ trông kỳ lạ vô cùng, nguệch ngoạc như trẻ nhỏ tiện tay viết vẽ linh tinh vậy, Nam Phong nhỏi: “Cái này viết gì thế?”
Tam Lang nói: “Tất nhiên là chữ viết của nước Bán Nguyệt.”
Tạ Liên nói: “E rằng Nam Phong muốn hỏi là viết cái gì đó.

Để ta xem thử.”
Y dọn sạch cát đá trên phiến đá, mãi đến hàng chữ nằm trên cùng, mấy ký tự này lớn hơn hẳn, hình như là đầu đề, mà mấy ký hiệu này cũng xuất hiện nhiều lần trên phiến đá.

Phù Dao cũng nâng một ngọn lửa trong lòng bàn tay, hỏi: “Huynh biết đọc chữ Bán Nguyệt?”
Tạ Liên nói: “Thật không dám giấu diếm, ta từng lượm đồng nát ở nước Bán Nguyệt.”
“……”
Cảm nhận được một trận im lặng, Tạ Liên ngẩng đầu hỏi: “Gì vậy?”
“Không gì cả.” Phù Dao hầm hừ: “Chỉ tò mò là huynh còn từng lượm đồng nát ở bao nhiêu nơi nữa.”
Tạ Liên cười cười, cúi đầu tiếp tục xem.

Lát sau, y thình lình nói hai chữ:
“Tướng quân.”
Nam Phong và Phù Dao đồng loạt lên tiếng: “Cái gì?”
Tạ Liên ngẩng đầu, nói: “Ý ta là, mấy chữ viết trên cùng phiến đá này là “Tướng quân”.” Ngừng một lát, y nói tiếp: “Có điều đằng sau “Tướng quân” còn một ký tự nữa, nhưng rốt cuộc ký tự này có nghĩa gì, ta không dám chắc lắm.”
Nam Phong có vẻ thở phào nhẹ nhõm, nói: “Vậy huynh nhìn tiếp đi.”
Tạ Liên gật đầu, Nam Phong nâng ngọn lửa, khẽ nhích tay về phía trước một chút.

Tay Nam Phong vừa nhích, Tạ Liên bỗng phát hiện có chỗ nào không ổn.

Ven mép đường nhìn, hình như xuất hiện thêm thứ gì đó.
Hai tay đè trên phiến đá khắc đầy chữ, Tạ Liên chậm rãi ngẩng đầu lên.
Chỉ thấy phía trên phiến đá, ánh lửa le lói rọi sáng một mặt người bắp thịt cứng đờ trong bóng tối.

Gương mặt này, hai tròng mắt ngó xuống, đang nhìn y chòng chọc.
“Á á á á á á á á á á á á á!!!!!”
Hét toáng lên không phải bọn họ, mà là mặt người bắp thịt cứng đờ kia.
Nam Phong nâng chưởng tâm diệm ở lòng bàn tay còn lại, ngọn lửa trên hai tay thình lình bốc lên cao, cuối cùng rọi sáng toàn bộ hang động.
Khi nãy thứ mà ngọn lửa chiếu sáng, chính là một người vẫn luôn núp trong bóng đêm, lúc này người nọ hoảng sợ lùi sang một bên, rúc đến rìa chỗ sâu trong hang động, bên rìa đó thế mà đã có bảy tám người co rụt ôm thành một khối, run lẩy ba lẩy bẩy.
Nam Phong quát: “Các ngươi là ai?!”
Tiếng quát này khiến cho cả hang động vang ông ông, Tạ Liên vốn đã bị tiếng thét chói tai vừa rồi chấn đến độ hai lỗ tai đau âm ỉ, bây giờ đành phải bất đắc dĩ bịt tai lại.

Bão cát quá lớn, tạp âm đầy tai, bọn họ nói chuyện nhỏ một chút là hết nghe rõ đôi bên nói gì, mà sau khi vào hang động, trước tiên bọn họ bắt đầu thảo luận về quốc sư Bán Nguyệt, sau lại tập trung tinh thần đọc hiểu phiến đá này, từ đầu chí cuối thế mà không hề phát hiện trong động còn những người khác lặng lẽ ẩn núp.

Bảy tám người kia run bần bật, hồi lâu sau, một ông lão chừng năm mươi tuổi lên tiếng: “Chúng ta là đội buôn qua đường, thương nhân bình thường thôi, ta họ Trịnh.

Bão cát lớn quá, đi không được nên tránh gió ở đây.”
Ông lão là người bình tĩnh nhất trong cả nhóm, coi bộ hẳn là người đứng đầu.

Nam Phong hỏi tiếp: “Đã là thương nhân qua đường bình thường, cớ gì lại thậm thà thậm thụt trốn ở đây?”
Ông lão họ Trịnh vừa định mở miệng, một thiếu niên mười bảy mười tám tuổi bên cạnh ông ta gắt giọng: “Lẽ ra chúng ta cũng không thậm thà thậm thụt, tại các ngươi bất chợt xông vào, ai biết các ngươi tốt hay xấu? Sau đó loáng thoáng nghe các ngươi nói cái gì mà quốc sư Bán Nguyệt, cái gì mà Quỷ giới, tay còn vô cớ nổi lửa, chúng ta tưởng các ngươi là đám binh sĩ Bán Nguyệt đi ra tuần tra bắt người ăn thịt, làm sao dám lên tiếng?”
Dường như sợ thiếu niên kia nói năng đụng chạm chọc giận đối phương, ông lão nói: “Thiên Sinh, đừng nói lung tung.”
Thiếu niên kia mày rậm mắt to, ngày thường mạnh mẽ hồn hậu, bị trưởng bối nói vậy thì tức khắc im miệng.

Cuối cùng lỗ tai cũng hết đau, Tạ Liên lỗ tai thả tay xuống, hoà nhã nói: “Hiểu lầm thôi mà, hiểu lầm thôi mà.

Mọi người đừng căng thẳng, thả lỏng chút nào.”
Ngừng một chút, y mới nói tiếp: “Tất nhiên chúng ta không phải binh sĩ Bán Nguyệt gì hết.

Tại hạ là quán chủ của một gian đạo quán, mấy vị này đều là…!người trong quán của ta, toàn học thuật kỳ môn độn giáp.

Các ngươi là thương nhân bình thường, chúng ta cũng chỉ là đạo nhân bình thường, không có ác ý gì hết, đều là người tìm chỗ tránh gió như nhau cả, lại đúng lúc vào cùng một hang động mà thôi.”
Giọng điệu y ôn hòa, nói khoan thai như vậy cũng phần nào trấn an được cảm xúc của mọi người.

Sau nhiều lần giải thích và đảm bảo, bấy giờ sắc mặt cả đám thương nhân mới dịu xuống.
Ai ngờ, Tam Lang bỗng nhiên cười nói: “Đâu nào, ta thấy mấy vị thương nhân này đâu có bình thường, khiêm tốn rồi.”
Mọi người không hiểu mô tê gì, đưa mắt nhìn hắn.

Tam Lang nói: “Cửa ải Bán Nguyệt chẳng phải “Mỗi lần qua cửa ải, mất tích hơn phân nửa” sao.

Thừa biết có lời đồn này mà còn dám băng qua đây, can đảm quá còn gì.


Làm sao bình thường cho được?”
Nghe vậy, Trịnh lão bá nói: “Anh bạn trẻ, điều này thì chưa chắc.

Thật ra cũng có một vài đội buôn băng qua đây bình an vô sự đấy.”
Tam Lang nói: “Ồ?”
Trịnh lão bá nói: “Chỉ cần tìm đúng người dẫn đường, đừng vào nhầm lãnh địa trước đây của nước Bán Nguyệt là được.

Cho nên lần này qua cửa ải, chúng ta đã đặc biệt tìm một người địa phương dẫn đường.”
Thiếu niên Thiên Sinh kia nói: “Đúng thế! Còn phải xem người dẫn đường nữa.

Dọc đường này may nhờ có A Chiêu ca, huynh ấy dẫn chúng ta tránh được rất nhiều cát lún, khi nãy vừa thấy gió bắt đầu thổi, huynh ấy đã vội vàng dẫn chúng ta tìm chỗ trốn, nếu không bây giờ biết đâu chúng ta đã bị cát chôn sống rồi.”
Tạ Liên nhìn thoáng qua, vị A Chiêu dẫn đường cho đội buôn vô cùng trẻ tuổi, ước chừng mới hai mươi, trời sinh mặt mày tuấn tú chất phác, được mọi người khen cũng không có biểu hiện gì, chỉ cúi đầu nói: “Có gì đâu, chức trách cả thôi.

Hy vọng qua trận gió này, lạc đà và hàng hóa của mọi người cũng không có việc gì.”
“Nhất định không có việc gì!”
Thái độ của nhóm thương nhân hết sức lạc quan, Tạ Liên lại cảm thấy, sự tình không đơn giản như bọn họ đã tưởng.
Nếu không vào nhầm di địa của nước Bán Nguyệt thì sẽ không gặp chuyện, vậy lẽ nào những đội buôn “mất tích hơn phân nửa” ngày xưa toàn là tự mình không tin chuyện tà môn ngoại đạo khăng khăng đi tìm chết? Một đội hai đội khăng khăng tìm chết thì thôi đi, nhưng có tiền lệ thê thảm vậy rồi, vì đâu mà sau đó người ta cứ liên tục mạo hiểm?
Suy nghĩ một lát, y nói nhỏ với Nam Phong và Phù Dao: “Chuyện xảy ra đột xuất, chờ trận bão cát này qua đi, trước tiên chúng ta đảm bảo cho những người này an toàn rời khỏi đây, sau đó đến cố địa của nước Bán Nguyệt tìm hiểu nguyên nhân.”
Nam Phong và Phù Dao tất nhiên sẽ không phản đối, Tạ Liên bèn tiếp tục cúi đầu nhìn chữ trên phiến đá.

Vừa rồi y chỉ nhận ra hai ký tự “Tướng quân”, nhưng đó là vì từ này cũng xem như được sử dụng nhiều, còn y đến nước Bán Nguyệt đã là chuyện của hai trăm năm trước, cho dù lúc đó học sành sõi, qua hai trăm năm cũng quên sạch rồi, bây giờ đột nhiên phải nhớ lại, đúng là cần chút thời gian và kiên nhẫn.

Lúc này, Tam Lang bên cạnh nói: “Mộ tướng quân.”
*Chữ “mộ” nằm sau chữ “tướng quân”, nguyên văn là Tướng quân mộ, mà tui để Mộ tướng quân nha.
Tam Lang vừa nói, Tạ Liên chợt nhớ ra.

Ký tự cuối cùng này, chẳng phải mang ý “trủng, mộ, huyệt” sao?
*Trủng = mồ mả đắp cao.

Chữ “mộ” trong mộ tướng quân bên trên là “trủng” đó.
Y quay đầu lại hỏi: “Tam Lang, đệ cũng hiểu ngôn ngữ Bán Nguyệt sao?”
Tam Lang cười nói: “Không nhiều lắm.

Hứng thú nên học thôi, chỉ biết vài chữ.”
Tạ Liên đã quen với việc đối phương nói như vậy.

Chữ “mộ” này đâu phải từ thường dùng, nếu thật sự chỉ “biết vài chữ”, làm sao lại vừa khéo biết được chữ này chứ? Hắn mà nói “không nhiều lắm”, vậy ý nghĩa sẽ tương tự “cứ hỏi thoải mái”, Tạ Liên mỉm cười: “Tốt lắm.

Nói không chừng mấy chữ mà đệ biết vừa khéo là mấy chữ ta không nhận ra.

Đệ qua đây, chúng ta cùng xem.”
Ta Liên nhẹ nhàng ngoắc tay, Tam Lang đi qua ngay.

Nam Phong và Phù Dao đứng bên cạnh nâng lửa, chiếu sáng cho hai người họ.

Tạ Liên chậm rãi lướt nhẹ ngón tay qua hàng chữ trên bia đá, cùng Tam Lang thấp giọng thảo luận, khẽ cất giọng đọc, đọc một hồi, ánh mắt càng lúc càng khác thường, cuối cùng dần dần lắng xuống.

Thiếu niên tên Thiên Sinh trong đội buôn dù sgì cũng còn trẻ, người trẻ tuổi bản tính tò mò, khi nãy hai bên tùy ý tán gẫu vài câu, cậu ta xem như đã thân quen, hỏi: “Mấy ca ca ơi, rốt cuộc trên phiến đá này viết gì thế?”
Tạ Liên phục hồi tinh thần lại, trả lời: “Phiến đá này là một tấm bia, trên tấm bia viết về cuộc đời của một vị tướng quân.”
Thiên Sinh nói: “Tướng quân của nước Bán Nguyệt hả?”
Tam Lang nói: “Không, là một vị tướng quân của Trung Nguyên.”
Nam Phong ngờ vực hỏi: “Tướng quân của Trung Nguyên? Thế tại sao người dân Bán Nguyệt quốc lại lập mộ cho hắn? Chẳng phải hai nước xảy ra chiến sự lớn nhỏ liên tục sao?”
Tam Lang nói: “Vị tướng quân này rất kỳ lạ.

Tuy rằng toàn văn trên phiến đá xưng đều hắn là tướng quân, nhưng thật ra hắn chỉ là hiệu úy.

Với lại ban đầu hắn thống lĩnh một trăm người, sau đó hắn thống lĩnh bảy mươi người, sau đó nữa, hắn thống lĩnh năm mươi người.”
*Hiệu úy: chức quan xếp dưới Tướng quân, có quân đội do tự mình thống lĩnh.
“……”
“Nói tóm lại, bị giáng chức một mạch.”
Loại trải nghiệm giáng chức rồi lại giáng chức, giáng đến mức không thể giáng được nữa, phải nói là quá đỗi quen thuộc.

Cảm giác được có hai tầm mắt đang dừng trên người mình, Tạ Liên làm bộ không để ý, tiếp tục đọc chữ trên phiến đá.

Bấy giờ, chợt nghe Thiên Sinh hỏi bằng giọng khó hiểu: “Làm quan kiểu gì mà càng làm càng thấp như thế chứ? Chỉ cần không mắc sai lầm gì lớn, cho dù không thăng cũng sẽ không rớt.

Phải thất bại cỡ nào mới ra nông nỗi này?”
“……”
Tạ Liên siết tay phải thành nắm đấm, đặt trước miệng ho nhẹ một tiếng, nghiêm túc nói: “Anh bạn nhỏ à, chuyện làm quan càng làm càng thấp này, cũng thường có đó nha.”
“Hả?”
Tam Lang cười một tiếng: “Đúng thế, thường có.”
Ngừng một lát, Tam Lang tiếp tục nói: “Sở dĩ vị hiệu úy này càng làm càng thấp không phải vì võ lực của hắn không tốt, không xứng với chức vụ, mà là vì quan hệ giữa hai nước căng thẳng, vậy mà trên chiến trường hắn chẳng những không đóng góp được gì, trái lại còn nhiều lần cản trở.”
Nam Phong hỏi: “Cái gì gọi là cản trở?”
Tam Lang nói: “Không những cản trở đối phương sát hại dân chúng bên mình mà còn cản trở bên mình sát hại dân chúng bên đối phương.

Cản trở một lần rớt một cấp.”
Tam Lang thong thả nói, bảy tám thương nhân kia cũng từ từ ngồi sát lại, giống như nghe hắn kể chuyện xưa, nghe cũng tập trung lắm, vừa nghe vừa phát biểu ý kiến.


Thiên Sinh nói: “Ta thấy vị hiệu úy này đâu có làm gì sai? Binh sĩ đánh trận thì thôi, không cho tùy tiện giết hại dân chúng nào có vấn đề gì?”
“Mặc dù thân là binh sĩ của một quốc gia, làm vậy hơi bị tốt bụng không đúng chỗ, không phù hợp cho lắm, nhưng tổng thể cũng đâu có gì sai.”
“Đúng rồi, dù sao cũng là cứu người, đâu phải hại người.”
Nghe vậy, Tạ Liên mỉm cười.
Các thương nhân trước mặt không phải là dân chúng vùng biên giới, cũng không phải là người xưa của hai trăm năm trước.

Bây giờ, nước Bán Nguyệt đã tan thành tro bụi, mọi người nhắc lại tất nhiên có thể hời hợt qua loa, thậm chí còn khen ngợi vài câu.

Cho dù không tán đồng, có lẽ cũng thông hiểu được.

Nhưng vào năm đó, đánh giá mà hành vi này nhận được, tuyệt đối không thể tóm gọn trong một câu nhẹ bẫng như “tốt bụng không đúng chỗ”.
Trong cả đám người, chỉ có A Chiêu hẳn do là người địa phương nên hiểu rõ hơn chút, nói: “Hiện tại là hiện tại, hai trăm năm trước là hai trăm năm trước.

Lúc đó hai nước hận thù sâu đậm cỡ nào, người thời nay hoàn toàn không thể tưởng tượng nổi.

Vị hiệu úy này chỉ bị giáng chức đã là may mắn lắm rồi.”
Phù Dao cười nhạo một tiếng: “Buồn cười hết chỗ nói.”
Gần như có thể đoán được Phù Dao muốn nói gì, Tạ Liên xoa xoa ấn đường.

Quả nhiên, ánh lửa rọi sáng gương mặt u ám của Phù Dao, chỉ nghe Phù Dao nói: “Tại kỳ vị mưu kỳ chức*, nếu đã làm binh sĩ, người này hẳn nên ghi nhớ mọi lúc rằng phải bảo vệ quốc gia của mình, anh dũng giết địch nơi tiền tuyến.

Hai nước giao chiến, sát thương là điều khó tránh khỏi, mềm lòng kiểu đàn bà như thế chỉ tổ làm chiến hữu cùng phe căm ghét hắn, tướng sĩ phe địch cảm thấy hắn nực cười mà thôi, chẳng có người nào cảm ơn hắn đâu.”
*Tại kỳ vị mưu kỳ chức: ý nói người ở chức vụ nào thì nên tập trung làm tốt công việc của mình.
Lời này cũng rất chí lý, vì thế trong hang động im thin thít.

Phù Dao tiếp tục thản nhiên nói: “Cuối cùng người như thế chỉ có một kết cục — Chết.

Nếu không chết trên chiến trường thì cũng chết dưới tay người của mình.”
Im lặng giây lát, Tạ Liên phá vỡ sự im lặng: “Ngươi đoán chính xác lắm.

Cuối cùng hắn đúng là đã chết trên chiến trường.”
Thiên Sinh hoảng sợ hỏi: “Hả! Chết như thế nào?”
Cân nhắc chốc lát, Tạ Liên vẫn mở miệng nói: “Bên trên nói, có một lần hai bên giao chiến, đánh một hồi, dây giày buộc không chặt, giẫm trúng, ngã lộn nhào…”
Bà con trong động cứ ngỡ vị tướng quân này chắc chắn đã chết một cách oanh liệt không gì sánh được, nghe vậy đồng loạt sửng sốt, nhủ thầm kiểu chết gì thế kia? Tiếng cười phụt ra: “Ha ha ha ha ha ha…”
“…!Nên bị đao kiếm loạn lạc của binh lính hai bên đang giết nhau đỏ mắt chém chết.”
“Ha ha ha ha ha ha…”
Tam Lang nhướn một bên lông mày, hỏi: “Buồn cười lắm à?”
Tạ Liên cũng nói: “Khụ.

Đúng rồi đó, thảm lắm nha.

Mọi người nên đồng cảm một chút, đừng cười vậy chứ.

Đang ở trong mộ của người ta, cho người ta chút mặt mũi đi.”
Thiên Sinh vội nói: “Ta không có ác ý đâu! Nhưng mà, này cũng quá…!hơi bị…!há há…”
Tạ Liên cũng hết cách, bởi vì lúc đọc đến đó, y cũng có phần muốn cười, chỉ đành không nhắc đến nữa, đọc tiếp xuống dưới rồi dịch ra, nói: “Tóm lại, tuy rằng danh tiếng của vị hiệu úy này trong quân đội không được tốt, nhưng có một số người dân Bán Nguyệt và người dân Trung Nguyên ở biên giới từng được hắn săn sóc, bèn gọi hắn là “Tướng quân”, xây dựng một mộ đá đơn sơ ở đây cho hắn, lập một phiến đá tưởng niệm hắn.”
Tam Lang tiếp lời y: “Khi nào rảnh đến đây chăn dê, cắt một ít cỏ tươi cúng hắn.”
Tạ Liên ù ù cạc cạc: “Hả? Tại sao lại cắt cỏ cúng hắn? Người ta có phải dê đâu.”
Tam Lang cười hì hì: “Câu ở mặt sau là đệ nói bừa thôi.”
Tạ Liên nhìn thử, đúng là thế thật, mặt sau phiến đá không có gì hết, y dở khóc dở cười, hỏi: “Sao đệ nghịch ngợm quá vậy?”
Tam Lang le lưỡi một cái, hai người đang cười đùa, đột nhiên có ai hốt hoảng thét lên: “Đây là cái gì!!!”
Tiếng thét này nghe hết sức chói tai, vang ông ông trong hang động, khiến người ta sởn hết gai ốc.

Tạ Liên nhìn sang hướng phát ra tiếng thét, nói: “Chuyện gì thế!”
Người lúc đầu ngồi ở đó hớt hơ hớt hải chạy ra, hoảng loạn cực độ nói: “Rắn!”
Nam Phong và Phù Dao chuyển hướng cánh tay, hai ngọn lửa trong lòng bàn tay chiếu sáng chỗ đất kia từ xa.

Phía trên đất cát, một con rắn dài màu sắc sặc sỡ bỗng dưng cuộn tròn nằm ở đó!
Mọi người hoảng hết cả lên: “Sao lại có rắn được chứ?!”
“Sao…!sao con rắn này xuất hiện không phát ra tiếng động gì hết vậy, không biết nó bò vào đây từ bao giờ luôn!”
Bị ánh lửa chiếu vào, con rắn nâng thân lên, trông có vẻ cực kỳ cảnh giác, chuẩn bị tấn công bất cứ lúc nào.

Nam Phong đang định tung một ngọn lửa qua, lại thấy một người chậm rãi bước tới, tiện tay cầm một cái, bóp chặt bảy tấc của con rắn*, nhấc tay trái đưa nó lên trước mắt, vừa quan sát vừa nói: “Có rắn trong sa mạc không phải là chuyện bình thường sao?”
Gan to như vậy, chẳng kiêng nể gì, tất nhiên là Tam Lang.

Cái gọi là đánh rắn đánh bảy tấc, nếu con rắn này bị bóp nát bảy tấc, dẫu răng độc của nó có hung hãn cỡ nào cũng không lợi hại nổi.

Đuôi rắn kia yếu ớt quấn vài vòng quanh cánh tay trái của Tam Lang, bây giờ ở cự ly gần, Tạ Liên chăm chú nhìn kỹ, dường như da con rắn là dạng nửa trong suốt, có thể thấy rõ màu tím đỏ rực rỡ bên trong, trong màu tím đỏ còn lẫn chi chít sợi mảnh màu đen, khiến người ta liên tưởng đến màu của nội tạng, gây cảm giác cực kỳ khó chịu, còn đuôi rắn thì lại mang màu da, hơn nữa còn chia thành từng đốt, thoạt nhìn cứ như mọc từng lớp vỏ cứng, không giống đuôi rắn, giống đuôi bò cạp hơn.
*Bảy tấc là vị trí của tim rắn, một khi bị tổn thương thì tự nhiên sẽ chết (tuy nhiên cũng tùy chủng loại và kích cỡ của rắn chứ không phải luôn là bảy tấc).
Thấy rõ cái đốt đó, sắc mặt Tạ Liên thay đổi, nói: “Coi chừng đuôi của nó!”
Lời còn chưa dứt, cái đuôi vướng víu của con rắn thình lình buông lỏng cánh tay của Tam Lang, mũi đuôi như biến thành một đầu rắn khác, búng ra phía sau, bất ngờ đâm một cái!
Lực đâm của đuôi rắn cực mạnh, Tam Lang lại thình lình đưa tay phải ra, tiện tay nắm một cái, dễ dàng tóm được cái đuôi của nó.

Tam Lang cầm cái đuôi rắn như đang cầm thứ gì chơi vui lắm, còn đưa cho Tạ Liên xem, cười nói: “Cái đuôi này mọc thú vị thật.”
Chỉ thấy phía cuối chiếc đuôi nhọn của con rắn, thế mà lại mọc một cái gai màu thịt đỏ.

Tạ Liên thở phào nhẹ nhõm, nói: “Không đâm trúng là tốt rồi.

Quả nhiên là rắn đuôi bò cạp.”
Nam Phong và Phù Dao cũng qua đây xem con rắn, hỏi: “Rắn đuôi bò cạp? “
Tạ Liên nói: “Đúng vậy, là một loại độc vật (động vật có độc) đặc biệt của nước Bán Nguyệt, số lượng tương đối ít, ta chưa nhìn thấy bao giờ, nhưng cũng từng nghe nói về nó.

Thân như rắn, đuôi như bò cạp, độc tính còn mạnh hơn cả hai con này cộng lại, bất luận bị răng độc của nó cắn trúng hay bị đuôi độc của nó đâm trúng, đều sẽ…”
Nói đến đây, chỉ thấy Tam Lang cuộn con rắn kia trên tay lật qua lật lại mà hành hạ, lúc thì kéo dài, lúc thì ép ngắn, lúc thì xem như khăn lông mà vắt, thiếu điều thắt nơ bướm nữa thôi.

Tạ Liên im lặng một hồi rồi dịu giọng khuyên nhủ: “Tam Lang, đừng đùa với nó, nguy hiểm lắm.”
Tam Lang lại cười nói: “Không có gì đâu, ca ca đừng lo.

Rắn đuôi bò cạp này là đồ đằng của quốc sư Bán Nguyệt, hiếm khi có cơ hội, dĩ nhiên phải quan sát tỉ mỉ rồi.”
*Đồ đằng: hiểu nôm na là vật thể được xem như biểu tượng của bộ tộc hay dân tộc, ví dụ đồ đằng của Trung Quốc là rồng.
Tạ Liên ngẩn ra, hỏi: “Đồ đằng của quốc sư Bán Nguyệt?”
Tam Lang nói: “Đúng thế.

Nghe đâu quốc sư Bán Nguyệt kia, chính vì có thể điều khiển loại rắn đuôi bò cạp này, người dân Bán Nguyệt mới cho rằng ả pháp lực vô biên, bái ả làm quốc sư.”
Vừa nghe hai chữ “điều khiển”, Tạ Liên lập tức cảm thấy không ổn, nghĩ thầm hễ nói đến “điều khiển”, xưa giờ toàn là một nhóm lớn một mảng lớn, y vội nói: “Bây giờ mọi người mau ra ngoài trước, chỉ sợ rắn đuôi bò cạp này không phải chỉ có một con…”
Tạ Liên còn chưa nói hết một câu, chợt nghe một tiếng hét thảm: “Á!!!”

Vài người nhao nhao hoảng hốt kêu lên: “Rắn!” “Nhiều rắn quá!” “Chỗ này cũng có!”
Trong bóng tối, bảy tám con rắn đuôi bò cạp màu tím đỏ im hơi lặng tiếng bò ra.

Chúng nó xuất hiện quá đột ngột, hoàn toàn không biết bò ra từ chỗ nào trong động, chúng nó cũng chẳng công kích mà chỉ lẳng lặng nhìn chằm chằm đám người kia, như thể đang thẩm định đây là thứ gì.

Rắn này cả bò lẫn tấn công đều im lìm, thậm chí tiếng thè lưỡi “xì xì” của rắn độc thông thường cũng không có, quả thật hết sức nguy hiểm.

Nam Phong và Phù Dao tung hai ngọn lửa qua, một đốm lửa lớn nổ tung trong trong hang động, Tạ Liên nói: “Ra ngoài!”
Mọi người nào dám nán lại trong hang động, ai cũng vắt giò lên cổ chạy ra ngoài.

Cũng may sắc trời ngả về chiều, cơn gió lốc kia đã đi xa từ lâu, bão cát bên ngoài cũng nhỏ hơn nhiều, đám người vội rút về phía gò đất trống.

Chạy một hồi, Tạ Liên đang suy nghĩ đúng là nói cái gì tới cái đó, Trịnh lão bá mà Thiên Sinh đang dìu bỗng dưng ngã xuống.

Tạ Liên xông lên trước, hỏi: “Chuyện gì vậy?”
Trịnh lão bá mặt mày đau đớn, run rẩy giơ tay lên.

Tạ Liên nắm tay ông lão nhìn một cái, lòng tức thì chùng xuống, chỉ thấy hổ khẩu của ông lão hiện màu tím đỏ, sưng phù lên cao, có thể miễn cưỡng trông thấy một lỗ nhỏ bé xíu trên chỗ sưng, vết thương nhỏ như thế, e rằng bị đâm trúng cũng không phát hiện ngay được, y lập tức nói: “Mọi người mau kiểm tra trên người mình có vết thương nào không, nhỡ có thì mau dùng sợi dây buộc lại!”
Dứt lời lật cổ tay ông lão lại để xem kinh mạch, chỉ thấy một màu tím đỏ mà mắt thường có thể nhìn thấy đang bò lên trên men theo kinh mạch của ông lão.

Tạ Liên nghĩ thầm rắn độc này lợi hại thật, đang định tháo Nhược Da xuống thì thấy A Chiêu xé vải bố buộc giữa cánh tay ông lão kia, buộc chặt cứng ngắc, ngăn cản máu độc chảy ngược về tim.

Động tác của A Chiêu nhanh như cắt, Tạ Liên âm thầm khen ngợi, vừa ngẩng đầu lên, không cần y nhiều lời, Nam Phong đã lấy ra một lọ thuốc, đổ ra một viên thuốc.

Tạ Liên cho ông lão uống vào, Thiên Sinh hoảng đến độ kêu to: “Bá bá, bá bá không sao chứ?! A Chiêu ca, bá bá sẽ không chết đâu phải không?!”
A Chiêu lắc đầu, nói: “Bị rắn đuôi bò cạp cắn trúng, trong vòng hai canh giờ, nhất định sẽ chết.”
Thiên Sinh ngớ ra, hỏi: “Vậy…!vậy làm sao bây giờ?”
Trịnh lão bá là thủ lĩnh đội buôn, các thương nhân cũng sốt ruột hỏi: “Vị tiểu huynh đệ này cho ông ấy uống thuốc rồi cơ mà?”
Nam Phong nói: “Cái mà ta cho ông ấy uống không phải thuốc giải, chỉ tạm thời kéo dài tính mạng thôi.

Tối đa có thể giúp ông ấy kéo hai canh giờ thành mười hai canh giờ.”
Các thương nhân loạn hết cả lên: “Chỉ có mười hai canh giờ?” “Nói vậy chẳng phải chỉ có thể chờ chết như thế sao?” “Độc này không cứu được sao?”
Lúc này, Tam Lang từ từ đi tới, nói: “Cứu được.”
Mọi người đua nhau nhìn về phía hắn.

Thiên Sinh mừng rỡ, quay đầu nói: “Chiêu ca, nếu cứu được sao huynh không nói sớm, dọa ta sợ muốn chết!”
A Chiêu không nói lời nào, lẳng lặng lắc đầu một cái.

Tam Lang lên tiếng: “Dĩ nhiên hắn không tiện nói rồi.

Nếu người trúng độc có thể cứu được, nhưng có lẽ người khác sẽ không cứu, vậy thì phải nói thế nào đây?”
Tạ Liên hỏi: “Tam Lang, vậy phải nói thế nào?”
Tam Lang nói: “Ca ca, huynh biết lai lịch của rắn đuôi bò cạp này chứ?”
Thì ra tương truyền vào mấy trăm năm trước, nước Bán Nguyệt có một vị quốc vương vào núi sâu săn thú, tình cờ bắt được hai độc vật hóa thành yêu tinh, một con rắn độc tinh và một con bò cạp tinh.
Hai độc vật này tu luyện trong núi sâu, không màng thế sự, chưa bao giờ hại người, nhưng quốc vương Bán Nguyệt dùng lý do chúng nó là độc vật, sớm muộn cũng sẽ hại người, muốn giết chết chúng nó.

Hai yêu tinh khổ sở van xin quốc vương tha cho mình một con đường sống, song quốc vương trời sinh tàn bạo hoang dâm, gã ép buộc hai yêu tinh giao phối ngay trước mặt mình và đám đại thần, để bọn gã rượu chè tìm lạc thú trong buổi tiệc.

Mà sau khi buổi tiệc chấm dứt, quốc vương vẫn giết chết hai độc vật kia.
Chỉ có hoàng hậu không đành lòng, nhưng lại không dám chống đối quốc vương, người bèn ngắt một nhúm lá cỏ thơm ném qua, phủ lên thi thể của hai độc vật này.
Rắn độc và bò cạp hóa thành tà vật, oán hận sâu nặng, nguyền rủa con cháu mà chúng nó sinh ra sau giao phối sẽ vĩnh viễn ở lại nơi đây, sát hại người dân nước Bán Nguyệt.

Bởi vậy, rắn đuôi bò cạp chỉ qua lại ở khu vực nước Bán Nguyệt, mà một khi bị chúng nó cắn trúng hoặc đâm trúng, chất độc phát tán rất mạnh, tử trạng thê thảm (tử trạng = trạng thái khi chết).

Nhưng nhờ chiếc lá nhân từ của hoàng hậu, lá cỏ thơm mà ban đầu hoàng hậu ném qua phủ lên thi thể của chúng nó có thể giải được loại độc này.
Kể xong, Tam Lang nói: “Cỏ thơm này gọi là cỏ Thiện Nguyệt, chỉ sinh trưởng trong biên giới nước Bán Nguyệt.”
Nghe vậy, các thương nhân nhao nhao nói: “Loại…!loại truyền thuyết thần thoại này, có thể tin thật sao?”
“Vị tiểu huynh đệ này, mạng người quan trọng, ngươi đừng nói đùa với bọn ta!”
Tam Lang chỉ cười không nói, kể cho Tạ Liên nghe xong cũng không nhiều lời nữa.

Thiên Sinh lại tìm A Chiêu để chứng thực: “Chiêu ca, ca ca áo đỏ này nói thật sao?”
Trầm ngâm một lát, A Chiêu nói: “Truyền thuyết thần thoại, thật giả chưa biết.

Nhưng mà trong biên giới nước Bán Nguyệt, đúng là có mọc cỏ Thiện Nguyệt, mà cỏ Thiện Nguyệt, đúng là có thể giải độc của rắn đuôi bò cạp.”
Tạ Liên chậm rãi nói: “Nói cách khác, người bị rắn đuôi bò cạp cắn trúng chỉ có một con đường sống.

Mà con đường sống đó, phải đến cố địa của nước Bán Nguyệt mới lấy được sao?”
Thảo nào có rất nhiều đội buôn và lữ khách đi ngang qua đây, thừa biết “Mỗi lần qua cửa ải, mất tích hơn phân nửa” mà cũng ráng xông vào cố địa của nước Bán Nguyệt.
Không phải vì bọn họ làm trò quyết phải đi vào chỗ chết, mà vì bọn họ có lý do bất đắc dĩ phải đi vào.

Nếu vùng này có nhiều rắn đuôi bò cạp thường lui tới, đội buôn qua đường khó tránh bị cắn trúng.

Mà sau khi bị cắn trúng, nhất định phải đến cố địa của nước Bán Nguyệt để lấy thuốc giải.
Rắn đuôi bò cạp là đồ đằng của yêu đạo Bán Nguyệt, lại có thể bị ả điều khiển, vậy thì sự xuất hiện của rắn đuôi bò cạp tuyệt đối không phải là trùng hợp.

Chỉ dựa vào vài người bọn họ, e rằng không thể bảo vệ nhiều người như thế.

Cũng không biết có xuất hiện thêm nhiều rắn đuôi bò cạp nữa không, để phòng ngừa những người này lại gặp chuyện không may, Tạ Liên cũng giơ hai ngón tay, đặt trên huyệt thái dương, vận chuyển Thông Linh trận, muốn xem thử có thể nào mặt dày mượn thêm vài tiểu thần quan không.

Ai ngờ vận chuyển không được, bặt vô âm tín.
Y thả tay xuống, không khỏi cảm thấy kỳ lại, nghĩ thầm: “Pháp lực của mình chắc không dùng hết nhanh vậy chứ? Sáng sớm đã tính rồi, rõ ràng còn thừa một chút mà.” Y bèn quay sang Nam Phong và Phù Dao: “Các ngươi ai vào Thông Linh trận thử xem? Bên ta không vào được.”
Một lát sau, sắc mặt hai người kia cũng sa sầm, Nam Phong nói: “Ta cũng không vào được.”
Cũng không thể nào là vì bão cát lớn quá nên không vào được.

Ở vài nơi tà khí ngất trời, pháp lực của một số thần quan sẽ bị ảnh hưởng, tạm thời suy yếu hoặc bị ngăn trở.

E rằng bây giờ, bọn họ đang gặp phải tình huống như thế.
Đi qua đi lại tại chỗ một hồi, Tạ Liên ngẩng đầu nói: “Có thể là vì, nơi này quá gần nước Bán Nguyệt…” Đúng vào lúc này, khóe mắt y bỗng liếc thấy một màu đỏ chói mắt lạ thường.
Nam Phong và Phù Dao đứng bên cạnh thử vào Thông Linh trận, những thương nhân khác đang bận kiểm tra trên người mình có vết thương nhỏ nào không, chỉ có thiếu niên Thiên Sinh mãi sốt sắng lo ôm Trịnh lão bá, hoàn toàn không phát hiện có một con rắn đuôi bò cạp màu tím đỏ đang lặng lẽ bò lên sống lưng của mình.
Nhưng nó cuộn tròn trên đầu vai của Thiên Sinh, răng nanh lại không nhắm vào cần cổ của thiếu niên này, mà lại nhắm vào cánh tay của Tam Lang hờ hững đứng bên cạnh.
Thân rắn ưỡn ra sau, lao đến!
Một khắc trước khi răng nanh sắp cắn trúng Tam Lang, Tạ Liên duỗi một tay ra, cực kỳ chuẩn xác bóp lấy bảy tấc của nó.
Với lực tay của Tạ Liên, lẽ ra cái bóp này có thể bóp nát bảy tấc của con rắn, bóp cho gan não của nó bắn tung tóe, nhưng y không biết máu thịt của con rắn có mang độc tố không nên không dám làm bậy, tiếp theo đó, y bóp lấy đuôi rắn của nó.

Nào ngờ thân rắn trơn trợt hết sức khó cầm, Tạ Liên vừa mới nắm, chỉ thấy một thứ tròn mềm lạnh ngắt trượt khỏi kẽ tay, giây tiếp theo, mu bàn tay lập tức truyền đến cảm giác đau nhói như bị kim đâm..


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.