Thiên Khiển Chi Tâm

Chương 33: Xưởng ma pháp (thượng).


Bạn đang đọc Thiên Khiển Chi Tâm – Chương 33: Xưởng ma pháp (thượng).

Xưởng được chia làm hai tầng. Trong căn phòng bên ngoài được ngăn thành bốn, năm gian. Trong mỗi một gian đều có một người trẻ tuổi đang lẩm bẩm với một cái bình. Có người thì như đang nghỉ ngơi, thấy A Lịch đi tới, tất cả đều gật đầu chào hỏi.

Ở phía sau được ngăn bởi một tấm sắt dầy, không thể thấy được bên trong có thứ gì. Có điều, trên cửa có viết mấy chữ rất đẹp: Phòng thí nghiệm của ma pháp sư Tát Khắc Duy Nhĩ và trợ lý A Lịch. Không được phép cấm vào, người vi phạm sẽ phải gánh chịu hậu quả.

La Mông liếc mắt nhìn A Lịch mà nghĩ: “Xem ra người này rất được ma pháp sư coi trọng. Hơn nữa, dường nhi vị đại sư Tát Khắc Duy Nhĩ còn có một chút điên rồ của đám nghiên cứu khoa học kiếp trước.

A Lịch dẫn hai người La Mông đi giới thiệu một số phòng. Khi tới cửa, hắn dừng bước, quay đầu nhìn hai người mà nói một cách nghiêm túc:

– Đây là phòng thí nghiệm của giáo sư Tát Khắc Duy Nhĩ. Ta yêu cầu các ngươi không được tò mò mà động tới những vật phẩm bên trong. Trong phòng thí nghiệm của giáo sư mà hiếu kỳ thì hơn một nửa là tự giết bản thân.

La Mông giơ tay, cười nói:

– So với Ôn phòng tự nhiên của Đức Lỗ Y thì nơi nguy hiểm hơn chính là phòng thí nghiệm của ma pháp sư.

Phí Tề Á cũng cười nói:

– Một thương nhân đúng nghĩa luôn hiểu được phải kìm chế sự hiếu kỳ của mình.

A Lịch gật đầu, đẩy cánh cử sắt. Xuất hiện trước mặt mọi người là một cái cầu thang đi xuống phía dưới. Xem ra, ma pháp sư xây phòng thí nghiệm ở dưới đất.

Khi ba người đi xuống, cánh cửa sắt tự động đóng lại. Vốn hành lang tối đen nhưng trên đỉnh đầu lại tỏa ra một chút ánh sáng lờ mờ khiến cho La Mông có thể nhìn thấy phía cuối lại là một tấm cửa sắt, trên có viết: Bạn bè không phải gõ cửa.

Sau khi được A Lịch đẩy cánh cửa sắt ra, cuối cùng ba người cũng bước chân vào phòng thí nghiệm của Tát Khắc Duy Nhĩ.

La Mông quan sát cẩn thận bốn xung quanh thì thấy căn phòng này có diện tích tương đương với căn phòng bên ngoài. Toàn bộ được chi thành bốn khu vực.


Ở góc Tây bắc có đặt một cái bàn, trên có để rất nhiều dụng cụ. La Mông là người được giáo dục hiện đại nên có thể từ hình dạng của chúng mà phát hiện ra công dụng. Có cân tiểu ly để cân thuốc, cốc đong đo.. Có vật dùng để bịt kén. Có vật để đun nóng, cắt xén…

Ở góc Tây Nam có chất một đống dược thảo và khoáng thạch. La Mông có thể nhận ra được trong số dược thảo tới mười loại. Còn khoáng thạch có tác dụng làm thuốc thì có thể nhận ra được mấy loại.

Góc Đông Bắc có một bàn sách, bên trên vất bừa mấy quyển làm bằng da cừu và bình mực với vài cây bút lông chim loại tốt.

Ở góc Đông Nam có đặt hai cái giường. Thoáng nhìn có thể biết được đó là chỗ để ma pháp sư và đệ tử của lão có thể đi nằm ngủ ở đây.

Vào lúc này, ma pháp sư cấp năm Tát Khắc Duy Nhĩ đang ngồi bên cạnh bàn đọc, cau mày xem cái gì đó.

– Lão sư! – A Lịch bước lên cung kính gọi.

Ma pháp sư Tát Khắc Duy Nhĩ là một lão nhân đầu hói, dáng người không cao. Mặt vuông chữ điền, với hai cái lông mi rất dầy, chòm râu dài trắng như tuyết. Lúc lão nhân đọc sách, thi thoảng lại đưa tay vuốt chòm râu của mình.

Tát Khắc Duy Nhĩ cũng không ngẩng đầu lên chỉ hừ mũi:

– Ừ! – Rồi hỏi:

– Chuyện của Nhã Các Bố xong chưa?

A Lịch cười khổ:

– Đó đúng là một đứa vẫn còn trẻ còn. Vừa rồi ở bên ngoài còn định cùng bàn tay lửa.

Tát Khắc Duy Nhĩ ngẩng đầu lên:

– Có chuyện gì thế?


A Lịch liền kể lại mọi chuyện từ đầu đến đuôi đồng thời còn giới thiệu hai người Phí Tề Á và La Mông.

Lão pháp sư nghe xong lắc đầu:

– Đan Địch là bạn già của ta. Nhưng đệ tử của lão đúng là không được. Chuyện này ta sẽ viết thư cho Đan Địch để y xử lý với Nam Tước.

Sau đó, lão nhìn Phí Tề Á:

– Phụ thân Ba Ân Nhĩ của ngươi là người tốt. Có điều vốn của y quá nhỏ nên không làm được những vụ buôn bán như người ta. Ngươi phải cố gắng.

Phí Tề Á cảm kích nói:

– Đại sư! Ta nhất định sẽ cố gắng. Hy vọng một ngày nào đó sẽ có tư cách phục vụ ngài.

Lão pháp sư khoát tay rồi liếc nhìn La Mông mà nói với Phí Tề Á:

– Đây là tên tiểu tử Ba Ân Nhĩ giới thiệu đến cho ta? Thoáng nhìn cũng rất được. Ừm! Ta kiểm tra ngươi mấy vấn đề. Nếu có thể vượt qua thì ở lại chỗ ta làm đi.

La Mông thi lễ với lão pháp sư:

– Xin đại sư ra câu hỏi.

Lão pháp sư gãi gãi đầu:

– Đầu tiên! Nguyên lý cơ bản của luyện kim dược phẩm là gì?


La Mông nhớ lại một chút rồi trả lời:

– Lợi dụng lúc dược phẩm tan chảy để tạm thời cất giữ pháp thuật. Đây là nguyên lý cơ bản của dược phẩm luyện kim.

Tát Khắc Duy Nhĩ gật đầu:

– Vấn đề thứ hai. Ngươi biết phương pháp dung hòa luyện kim dược phẩm trong dược phẩm trị liệu không?

– Ta có học một loại nhưng chưa bao giờ làm. – La Mông trả lời. Mặc dù lúc ở trấn Lý Tạp, hắn có theo dược sư An Sâm học tập, cũng điều phối dược phẩm nhưng dược phẩm bình thường và dược phẩm luyện kim là hai loại hoàn toàn khác nhau.

– Cái gì? Chưa làm?- Tát Khắc Duy Nhĩ giật nảy mình.

– Phương pháp điều phối thuốc trị thương của Đức Lỗ Y là sử dụng vật liệu: Đêm trăng tròn ngắt lấy cỏ Dạ Nguyệt rồi ngay lập tức tẩm rượu lấy nước. Đá Trạm Lam lấy nước mưa ngâm rồi mài thành phấn… – La Mông suy nghĩ một chút liền mang tất cả những đáp án mình biết ra nói.

Tát Khắc Duy Nhĩ liên tục gật đầu, chờ La Mông nói xong lại nói tiếp:

– Vấn đề cuối cùng. Tận dụng thời điểm tan chảy chính xác và trạng thái thi pháp.

La Mông nhíu mày. Hắn cũng không được trải qua hệ thống học tập Đức Lỗ Y. Cũng may, do để điều chế dược phẩm trị liệu thì người thi pháp rất quan trọng vì vậy mà lúc đó, hắn từng ở trong thư viện thần điện nơi thị trấn mà đọc những tư liệu liên quan, đồng thời cũng hỏi qua Dược sư An Sâm và Đức Lỗ Y Kiệt Pháp nên nhớ được những gì trên sách và những câu mà hai người trả lời. La Mông sắp xếp một chút rồi trả lời:

– Vấn đề đầu tiên là sau khi làm cho dược liệu tan chảy thành công, hoạt tính của chúng liên tục thay đổi. Một khi hoạt tính tan chảy giảm tới không thì dấu hiệu của dung hòa mất đi hiệu lực, cần một lần phối chế nữa. Trên nguyên tắc mà nói thì phải lựa chọn thời điểm dung hòa có hoạt tính cao nhất để tiến hành tăng thêm ma pháp. Vấn đề thứ hai: Điều chế dược phẩm luyện kiam và vật phẩm ma pháp thì trong quá trình đó thi triển được gọi là thi pháp gia tăng pháp thuật. Thi pháp tăng thêm pháp thuật được sử dụng chú ngữ và thủ thế là những cách thi pháp khác nhau. Với những gì hiểu biết của ta trong thuốc trị thương thì quá trình niệm chú trong đó…

La Mông mang tất cả những gì mình biết ra mà nói kỹ càng.

Tát Khắc Duy Nhĩ nghe xong, cười nói:

– Người thanh niên, ngươi đã vượt qua sự kiểm tra của ta. Tiếp theo ta muốn nói chuyện về sự đãi ngộ mà người được hưởng và yêu cầu đối với công việc. Nếu ngươi cảm thấy có gì không hợp hoặc là có chỗ khác biệt thì để sau khi ta nói xong hãy nói ra.

– Vâng thưa đại sư. – La Mông kính cẩn trả lời.

Tát Khắc Duy Nhĩ vuốt chòm râu trắng như tuyết mà nói:


– Ngươi phải biết rằng thuốc trị thương như người biết thì dược lực có hiệu quả trong vòng một tháng. Giá bán là một đồng vàng. Còn ta phối chế dược phẩm, thời hạn dược lực có hiệu lực dài đến bốn mươi lăm ngày, loại dược phẩm này có giá hai kim tệ. Còn về tài liệu dung hòa có giá cả thế nào thì ngươi chắc là biết rõ. Bình thường trên thị trường có giá khoảng hai đồng bạc. Có điều, không phải lần nào cũng thành công phối chế được dược phẩm có đủ điều kiện. Vì vậy cái giá cả phí tổn tài liệu này ột viên giá cả sẽ cao hơn hai đồng bạc. Phương pháp mà ta sử dụng để dung hợp có phí tổn thấp hơn phương pháp mà ngươi đã biết rõ. Giá cả phí tổn của nó khoảng chừng một đồng bạc. Vì vậy mà thù lao trả cho ngươi sẽ được tính toàn như thế này: Mỗi một ngày ngươi phải hoàn thành một lọ dược phẩm đạt yêu cầu. Một lọ dược phẩm này ta sẽ trả cho ngươi bảy đồng bạc cho giá thi pháp. Trong đó, mỗi ngày ta cho phép ngươi có cơ hội thất bại một lần. Nhưng nếu vượt quá thì tha sẽ thu ngươi mỗi lần một đồng bạc để bồi thường phí dược liệu điều chế. Cuối cùng, nếu mỗi ngày ngươi có thể điều chế được ba bình thuốc trị thương, ta sẽ thưởng thêm cho ngươi năm đồng bạc. Về phần ăn uống, ngủ nghỉ, ngươi được một căn phòng nhỏ và bữa cơm trưa miễn phí. Ta quên mất là làm việc ở đây quan trọng nhất là phúc lợi. Mỗi một thời điểm người có thể nghe ta giảng bài, nhưng không thể hỏi, cũng không được nói chuyện. Còn về phần yêu cầu của ta, thì sau khi dung hợp không được mang ra khỏi xưởng. Phế phẩm mất đi hiệu lực cũng phải nộp lại. Ngươi có hiểu không?

La Mông nghe xong gật đầu:

– Đại sư là một người khẳng khái. Ta nguyện phục vụ cho ngài.

– Nếu vậy, chúng ta ký một cái hợp đồng ma pháp. Kỳ hạn là một tháng. Sau một tháng chúng ta sẽ căn cứ vào tình hình có quyết định tiếp tục ký nữa hay không. – Tát Khắc Duy Nhĩ cười rồi lấy từ trong ngăn kéo ra hai tấm da cừu.

La Mông nhận lấy, xem kỹ những điều khoản ghi trong đó thì thấy đại khái cũng như lời mà Tát Khắc Duy Nhĩ đã nói, đồng thời cũng ghi rõ biện pháp xử lý nếu không đạt được yêu cầu. Dưới cùng, Tát Khắc Duy Nhĩ đã ký tên của lão. La Mông không thấy có vấn đề gì liền cầm bút ký tên mình.

Lão pháp sư cầm lấy hợp đồng mà nở nụ cười hòa ái, căn dặn A Lịch:

– A Lịch! Con đưa La Mông tới phòng của hắn và chỗ làm việc. Ừm! Cũng làm một lần điều phối cho hắn. La Mông! Ngươi phải nhớ kỹ ngươi có ba lần miễn phí được xem A Lịch điều phối dược phẩm, đồng thời cũng chỉ được nhìn không được hỏi. Về sau, nếu ngươi muốn xem A Lịch điều phối dược phẩm thì A Lịch sẽ thu phí, mỗi lần năm đồng bạc. Còn có, ta chắc ngươi biết không nên tự tiện đi vào phòng thí nghiệm của một ma pháp sư đúng không?

La Mông xoay người cúi đầu:

– Đại sư Tát Khắc Duy Nhĩ! Ta hiểu. – Sau đó, hắn đi theo A Lịch ra ngoài.

Ba người lại đi qua cầu thang tối, quay ra công xưởng bên ngoài.

– Pháp sư A Lịch! Về sau La Mông xin ngài chiếu cố. – Sau khi đi ra, Phí Tề Á cười nói.

A Lịch vỗ bả vài La Mông:

– Không thành vấn đề. Ta thấy hắn là một tiểu tử thông minh.

– Xin cảm tạ ngài. Lần này chúng ta tới đây mua bán gấp rút, đội buôn phải trở về trấn Lý Tạp ngay, cho nên đành để lần sau mời ngài tới nhà Áo Pháp uống một chén.

La Mông vểnh lỗ tai lên nghe hai người nói chuyện. Nhà Áo Pháp, lúc ở trấn Lý Tạp, hắn cũng nghe những kẻ mạo hiểm nhắc tới. Đây là một cái khách sạn thuộc hiệp hội những người thi pháp, cơ bản phụ vụ những pháp sư có như cầu. Có thể nói, nếu người nào đó muốn tìm một người thi pháp làm chuyện gì đó sẽ chọn nhà Áo Pháp để mời các pháp sư uống một chén. Tất nhiên, các pháp sư còn có vị trí riêng của mình trong quán rượu, đây không phải là chỗ mà người bình thường có thể đi vào.

– Bản thân mình mặc dù là một người thi pháp nhưng là một Đức Lỗ Y, phải chờ tới cấp năm mới có tư cách vào đó. Hiện giờ, những chỗ như vậy không thể vào được. – La Mông suy nghĩ, cũng không hề cảm thấy tức giận. Có sừng Thần Nông làm chỗ dựa, hắn hoàn toàn tin tưởng vào tương lai.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.