Thiên Hương Tiêu

Chương 6: Máu nhuộm hoang sơn, giang hồ nổi sóng


Đọc truyện Thiên Hương Tiêu – Chương 6: Máu nhuộm hoang sơn, giang hồ nổi sóng

Tử Dương đạo trưởng chợt biến sắc, nói:

“Vạn đại hiệp luyện “hắc sát chưởng lực”, quả thực khiến cho bần đạo bất ngờ”.

Vạn Hiểu Quang cười khổ nói:

“Tại hạ tuy luyện loại công lực cực kỳ độc này, nhưng trong đời rất ít dùng …”.

Y vốn muốn nhận sai, nhưng lời ra đến miệng thì khó thốt ra, đột nhiên dừng lại.

Sắc mặt Tử Dương đạo trưởng dần dần giãn ra, nhưng thanh âm vẫn nghiêm khắc:

“Loại “hắc sát chưởng lực” này của Vạn đại hiệp, không biết là do ai truyền thụ?”.

Khẩu khí của câu hỏi này, vốn rất khó nghe, nhưng Vạn Hiểu Quang thấy Tử Dương đạo trưởng hạ lệnh trói hai vị sư đệ, trong lòng cảm thấy hổ thẹn, không hề để ý đến khẩu khí ép buộc khác của Tử Dương đạo trưởng, thở dài một tiếng, đáp rằng:

“Chuyện này nói ra thì dài, bốn mươi năm trước, tại hạ vô tình cứu một cao nhân hắc đạo người bị trọng thương, giúp ông ta điều dưỡng thương thế trong một ngôi miếu cũ, khi ông ta dần dần khỏi thì bắt đầu truyền “hắc sát chưởng lực” này cho tại hạ, lúc ấy tại hạ tuổi còn trẻ, không biết công phu này độc địa vô cùng, sau một tháng, thương thế của ông ta lành hẳn, nhưng vẫn cố ý kéo dài thời gian, ở lại trong ngôi miếu cũ này, trải qua ba tháng, cho đến khi tại hạ luyện được “hắc sát chưởng lực” thì ông ta mới rời khỏi, trước khi bỏ đi, đã từng dặn dò tại hạ, bảo rằng phải ngày đêm khổ luyện, ba năm thì có thể tiểu thành, năm năm thì trung thành, mười năm thì đại thành …”.

Tử Dương đạo trưởng hỏi tiếp:

“Người truyền thụ võ công cho Vạn đại hiệp tên gì?”.

Vạn Hiểu Quang lắc đầu nói:

“Y chưa từng nói tên họ của mình”.

Tử Dương đạo trưởng nói:

“Diện mạo của y, Vạn đại hiệp có còn nhớ chăng?”.

Vạn Hiểu Quang gật đầu đáp:

“Người ấy tướng mạo rất quái dị, bất cứ ai chỉ cần gặp y thì sẽ khó quên, tuy đã bốn mươi năm, nhưng cho đến hôm nay vẫn còn nhớ rõ tướng mạo của y”.

Tử Dương đạo trưởng vẫn hỏi bằng giọng điệu lạnh lùng lạ thương:

“Vạn đại hiệp còn nhớ được tướng mạo của người ấy, thật là tốt, hãy mau …” nói chưa hết lời thì đột nhiên ngừng lại.

Vạn Hiểu Quang ngửa mặt nghĩ ngợi một chốc rồi nói:

“Người ấy thân hình ngũ đoản, xương cốt gồ ghề, tay đặc biệt dài, buông xuống tới gối, nhưng mặt mũi y thế nào, xin thứ tại hạ không nhớ được”.

Tử Dương đạo trưởng lạnh lùng nói:

“Y ở bên cạnh ông ba tháng, quả thực không nói tên họ của mình sao?”.

Vạn Hiểu Quang nghe khẩu khí của lão như thế, càng lúc càng thấy kỳ lạ, không khỏi nhíu mày đáp:

“Tại hạ trong đời chưa bao giờ nói dối, nếu đạo trưởng không tin, tại hạ vũng chẳng còn cách nào nữa”.

Tử Dương đạo trưởng vuốt râu, cười:

“Nếu như vạn đại hiệp quả thực không thể nhớ tên họ người ấy, bần đạo lại có thể nói được”.

Vạn Hiểu Quang nói:

“Xin mời đạo trưởng hãy nói, Vạn mỗ rửa tai lắng nghe”.

Tử Dương đạo trưởng nói:

“Y chính là Hắc Ma Thời Phật trong Hắc Bạch Song Ma”.

Vạn Hiểu Quang sững sốt, chép miệng:

“Sau khi tại hạ luyện thành “hắc sát chưởng lực”, rất ít dùng trong đời, cho nên người biết chuyện này không nhiều, chỉ là nghe người ta nhắc đến “hắc sát chưởng lực” thì mới biết võ công mình luyện chính là “hắc sát chưởng”.

Tử Dương đạo trưởng cười nhạt, nói:

“Vạn đại hiệp tuy thâm tàn bất lộ, đi lại trên giang hồ mấy mươi năm, nhưng không ai biết ông có món tuyệt kỹ này, song, trong vòng mười năm, trong thành Khai Phong đã xảy ra một vụ án kinh động võ lâm, chuyện bốn mươi vị cao thủ võ lâm bị giết ở bến đò Hoàng Hà, chắc vạn đại hiệp cũng nhớ!”.

Vạn Hiểu Quang nói:

“Vụ thảm án ấy đã lan truyền trên giang hồ nhiều năm, tại hạ tuy đã phong đao quy ẩn, nhưng chuyện kinh thiên động địa như thế cũng đã từng nghe người ta nói lại”.

Tử Dương đạo trưởng ngửa mặt nhìn áng mây trắng trên trời, nói:

“Vạn đại hiệp có biết mười bốn vị võ lâm cao thủ ấy là nhân vật như thế nào không?”.

Vạn Hiểu Quang nói:

“Điều này tại hạ không biết rõ”.

Tử Dương đạo trưởng trầm ngâm, nói:

“Trong mười bốn người, có năm người là môn hạ của tệ phái, bốn người là nhà sư của chùa Thiếu Lâm, hai người khác là môn hạ của phái Côn Luân, ba người là tiêu đầu của võ lâm Trung Nguyên. Bần đạo nghe được tin dữ này, đã đích thân đến hiện trường điều tra, trong mười bốn người, có sáu người chết bởi “hắc sát chưởng lực””.

Vạn Hiểu Quang cười nhạt một tiếng, nói:

“Sao? Đạo trưởng hoài nghi là do Vạn mỗ ra tay?”.

Tử Dương đạo trưởng không thèm để ý đến lời nói của Vạn Hiểu Quang, tiếp tục nói:

“Một trăm năm nay, kẻ luyện “hắc sát chưởng lực” đến bậc đại thành này khắp thiên hạ chỉ có một mình Hắc Ma Thời Phật, nhưng Hắc Bạch Song Ma bốn mươi năm trước đã bị chương môn nhân đời trước của bổn phái thống lĩnh cao thủ của Côn Luân, Nga Mi bao vây sào huyệt, tuy để cho bọn chúng thoát ra, nhưng cả hai kẻ này đều đã mang trọng thương, trong vòng mấy mươi năm không hề lộ mặt trên giang hồ, đồng đạo võ lâm đều cho rằng hai người này bị thương quá nặng, không thoát khỏi cái chết, không ngờ hôm nay từ lời Vạn đại hiệp mà biết được Hắc Ma Thời Phật vẫn chưa chết”.

Vạn Hiểu Quang nói:

“Nếu như đạo trưởng hoài nghi rằng cái chết của mười bốn vị cao thủ của các đại môn phái trong võ lâm ở bến đò Hoàng Hà ngoại ô phủ Khai Phong có liên quan đến Vạn mỗ …”.

Tử Dương đạo trưởng vuốt râu cười dài, ngắt lời Vạn Hiểu Quang, nói:

“Trước khi bần đạo chưa tìm ra chứng cứ, không dám suy đoán bừa bãi, nhưng hiện nay trên giang hồ, ngoài Hắc Ma Thời Phật đã luyện môn võ công này, Vạn đại hiệp có thể coi là người có thể kế thừa y bác của y, chỉ e ngoài Hắc Ma Thời Phật, không ai có được thành tựu như Vạn đại hiệp nữa!”.

Vạn Hiểu Quang bị lão mấy lời mỉa mai, lửa giận không khỉo bốc cao, cao giọng nói:

“Đạo trưởng bơi móc huynh đệ như thế, không biết là có ý gì?”.

Tử Dương đạo trưởng nói:

“Sau khi vụ án xảy ra, tại hạ cũng cùng với mấy vị cao thủ trong chùa Thiếu Lâm, dắt theo đệ tử của hai phái đi khắp nơi truy tìm tung tích kẻ địch, điều tra cả ba tháng trời mà không có chú tin tức, bần đạo tuy không dám nói bừa Vạn đại hiệp có liên quan đến chuyện này, nhưng Vạn đại hiệp biết loại chưởng công hắc sát tuyệt độc này là sự thật”.

Vạn Hiểu Quang lạnh lùng cười một tiếng, nói:

“Tâm ý của đạo trưởng, Vạn mỗ đã biết, chắc là sau khi vụ huyết án ở Khai Phong xảy ra, đạo trưởng vẫn ngầm chú ý đến người luyện loại chưởng công hắc sát này, nhưng nhiều năm đã qua không hề phát hện được gì, hôm nau vừa thấy Vạn mỗ biết loại chưởng pháp này thì cho rằng vụ án ở bế đò Hoàng Hà năm xưa là hành vi của Vạn mỗ, có phải không?”.

Tử Dương đạo trưởng vẫn không hề động thanh sắc, chậm rãi nói:

“Vạn đại hiệp đã hiểu nhầm ý của bần đạo, bần đạo từ ngày tiếp chưởng phái Võ Đang, xử lý sự vụ chưa bao giờ dựa vào những điều suy đoán bừa bãi, trước khi chưa có chứng cứ xác thực, cũng không ghép tội bừa cho người khác”.

Vạn Hiểu Quang lộ vẻ nôn nóng, nói:

“Đã là như thế, sao đạo trưởng còn buộc tại hạ nhắc lại chuyện xưa để làm gì? Đạo trưởng là chương môn phái Võ Đang, lãnh tụ của võ lâm, có lời gì sao không nói thẳng, cớ gì lại cứ úp mở như thế”.

Tử Dương đạo trưởng cười dài nói:

“Vạn đại hiệp quả thực mau lẹ, khiến cho người ta kính phục, bần đạo giờ đây chẳng có ý gì khác, chỉ là muốn lãnh giáo tuyệt học “hắc sát chưởng lực” của Vạn đại hiệp …”.

Tử Dương đạo trưởng chưa nói dứt lời, Vạn Hiểu Quang đã cắt ngang:

“Điều khác thì Vạn mỗ có thể suy nghĩ, nếu như đạo trưởng muốn thử “hắc sát chưởng”, xin thứ cho Vạn mỗ khó mà tuân mệnh”.

Tử Dương đạo trưởng nói:

“Hàng trăm năm qua chỉ có một vài người luyện được “hắc sát chưởng”, nhất là trong mấy mươi năm gần đây, trên giang hồ càng hiếm thấy hơn, loại võ công hiếm thấy này là tuyệt học trên đời, dầu sao bần đạo cũng đã may mắn được thấy, nếu như không lãnh giáo, thì quả là chuyện đáng tiếc cả đời, cho nên bần đạo mới không tự lượng sức, mong Vạn đại hiệp nể mặt, chỉ giáo cho một đôi chiêu, bần đạo thật sự cảm kích không nguôi”.

Vạn Hiểu Quang nhíu mày nói:

“Vạn mỗ tuy học được loại võ công này, nhưng rất ít sử dụng, tuy đạo trưởng có hứng, nhưng vạn mỗ không thể dùng bừa”. Nói đến đây ngừng một chốc rồi nói tiếp:

“Hôm nay Vạn mỗ đã đả thương đệ tử của quý phái, giết người đền mạng, nợ tiền trả tiền, nợ máu trả máu, đó là điều công bằng trên giang hồ, chỉ cần đạo trưởng nói lời công bằng, tại hạ cũng sẽ nghe theo”.

Tử Dương đạo trưởng đột nhiên ha ha cười lớn.

Vạn Hiểu Quang ngạc nhiên hỏi:

“Cớ gì đạo trưởng lại cừơi?”.

Tử Dương đạo trưởng chép miệng:

“Người ta nói, Vạn đại hiệp quang minh lỗi lạc, thế nhưng hôm nay lại ẫm ờ như thế, khiến cho bần đạo thất vọng quá”.

Vạn Hiểu Quang vuốt râu nói:

“Cớ gì đạo trưởng lại nói lời này?”.

Tử Dương đạo trưởng cười dài nói:

“Bần đạo đã ba lần bốn lượt yêu cầu Vạn đại hiệp thi triển một đôi chiêu tuyệt học hắc sát chưởng để bần đạo được ở rộng tầm mắt, cũng là để chứng minh vụ án ở bến đò Hoàng Hà có phải là do Vạn đại hiệp gây ra hay không, không ngờ Vạn đại hiệp lại sợ đầu sợ đuôi …”.

Vạn Hiểu Quang hú dài một tiếng nói:

“Không phải Vạn mỗ này sợ đầu sợ đuôi, chỉ là ta đã đả thương môn hạ của quý phái, trong lòng cảm thấy hối hận, nguyện bị đạo trưởng phán xử, không có ý muốn đọ chiêu ứng thủ với đạo trưởng, không ngờ đạo trưởng lại có ý ép buôc, nếu như Vạn mỗ không nghe theo, quả thực sẽ không làm hài lòng đạo trưởng, song …”.

Tử Dương hỏi:

“Song thế nào?”.

Vạn Hiểu Quang nói:

“Vạn mỗ chấp nhận phô cái giở, nhưng đó chỉ là chuyện của một mình Vạn mỗ, mong đạo trưởng hạ lệnh tha cho tiểu nữ và tiểu đồ rời khỏi nơi này, nếu không, vạn mỗ khó mà đáp ứng”.

Tử Dương đạo trưởng gật đầu mỉm cười:

“Được, ông hãy cứ yên tâm”.

Vạn Hiểu Quang hơi điều tức, quát lớn nói:

“Như vậy, mời đạo trưởng hãy tiếp một chưởng của tại hạ”.

Tử Dương đạo trưởng không hề coi thường môn tuyệt học nổi danh trong giới lục lâm, thế rồi ngầm đề tụ chân khí, hạ giọng nói với bốn đạo đồng bên cạnh:

“Các người hãy dắt hai vị sư thúc lùi ra sau”. Bốn đạo đồng trả lời một tiếng, kẹp Bạch Dương, Thanh Dương lùi ra sau đến chín thước.

Vạn Hiểu Quang ngừng thần đứng yên, ngầm đè tụ chân khí, chỉ thấy một luồng khí đen xông lên mặt, trong khoảnh khắc, mặt xanh mét. Tử Dương đạo trưởng mở to hai mắt, sửng sốt nhìn lên mặt Vạn Hiểu Quang, thấy mặt y chuyển thành màu xanh, trong lòng không khỏi kinh hãi, đè tụ đủ chân khí của toàn thân, bảo vệ cho các yếu huyệt.

Vạn Hiểu Quang chậm rãi giơ chưởng phải lên, bước về phía trước hai bước, tới lách nhẹ mấy cái, tỏ ý bảo Tử Dương đạo trưởng chuẩn bị. Té ra loại “hắc sát chưởng công”.

này của y, sau khi ngưg tụ đủ mười thành công lực, huyết mạch toàn thân sẽ căng lên, nếu mở miệng ra, công lực sẽ tản hết, cho nên, không thể mở miệng nói chuyện được, phải dùng tay để ra hiệu có thể Tử Dương đạo trưởng chuẩn bị.

Tử Dương đạo trưởng hơi trầm tư, nói:

“Vạn đại hiệp hãy cứ ra tay, bần đạo đã chuẩn bị ổn thỏa”.

Vạn Hiểu Quang hơi gật đầu, giơ tay đẩy một chưởng tới.

Tử Dương đạo trưởng biết loại “hắc sát chưởng lực” này là một tuyệt kỹ của hắc đạo, ngoài chưởng thế cực lỳ hùng mạnh, còn có một luồng độc khí, nếu bị đánh trúng, dù cho không chết, cũng sẽ bị độc chưởng đả thương, ngoại trừ việc vận đủ chân khí để bảo vệ cho các yếu huyệt, cũng có thể vận công lực “miên chưởng” cí nhu của phái Võ Đang để tiếp chưởng.

Vạn Hiểu Quang vừa suất thủ, lập tức có một luồng tiềm lực mạnh mẽ vô cùng tuôn đến, giáng thẳng tới Tử Dương đạo trưởng.

Tử Dương đạo trưởng vẫn đứng yên, hai chưởng vỗ ra đón lấy luồng chưởng lực mạnh mẽ mà Vạn Hiểu Quang vừa mới đẩy tới.

Một nguồn lực âm nhu mềm mại giao nhau với chưởng lực hắc sát cực hàn, Tử Dương đạo trưởng hơi ngửa người ra sau, còn Vạn Hiểu Quang thì bước về phía trước một bước mà không tự chủ được.

Tử Dương đạo trưởng mỉm cười, nói:

“Hắc sát chưởng lực” của Vạn đại hiệp quả nhiên không tệ, nhưng bần đạo vẫn còn hứng, mong được tiếp thêm chưởng nữa.

Vạn Hiểu Quang đột nhiên bước vọt tới phía trước hai bước, áp sát tới bên cạnh Tử Dương đạo trưởng, giơ tay chém xuống một chưởng.

Tử Dương đạo trưởng đứng theo kiểu tý ngọ trang, thi triển công phu “miên chưởng”, lại tiếp thêm một đòn nữa.

Lần này hai người tiếp chưởng nhau, Vạn Hiểu Quang, chỉ cảm thấy chưởng thế của mình như đánh trúng vào một khối bông, chưởng lực của đối phương mau chóng đưa ra phía sau.

Tử Dương đạo trưởng vừa chạm phải chưởng của Vạn Hiểu Quang, chỉ cảm thấy như đụng phải tấm sắc lạnh lẽo, trong lòng không khỏi kinh hãi, nhủ thầm, loại “hắc sát chưởng công” này không những là kỳ lạ mà thế rất cương mãnh, chỉ loại chưởng lực hùng hậu này cũng khó tiếp được”.

Trong lúc suy nghĩ thì Vạn Hiểu Quang lại giáng xuống một chưởng nữa.

Y đã đề tụ chân khí của toàn thân để đánh ra chưởng này, cho nên uy thế không thể xem thường, một luồng kình đạo mạnh mẽ chém thẳng tới.

Tử Dương đạo trưởng quát lớn một tiếng, tiếp lấy đòn này.

Đòn này, hai người đều dùng công lực của toàn thân, Tử Dương đạo trưởng bị chưởng lực mạnh mẽ tuyệt luân của Vạn Hiểu Quang đẩy lùi đến ba bước, Vạn Hiểu Quang cũng bị chưởng lực mạnh mẽ đẫy lùi đến một bước.

Tử Dương đạo trưởng thối lui ba bước thì hơi nhắm hai mắt, chỉ hơi điều tức thì đã khôi phục lại nguyên khí, Vạn Hiểu Quang thì đứng lặng lẽ bất động, chỉ thấy luồng khí đen trên mặt y dần dần tản đi, nhắm mắt đứng khoảng một tuần trà thì mở to mắt, nói:


“Công lực của đạo trưởng thật thâm hậu, tại hạ không phải là địch thủ, người đã mang trọng thương!” trong khi nói thì chậm rãi giở tay phải lên.

Tử Dương đạo trưởng nheo mắt nhìn qua, chỉ thấy trên tay phải của Vạn Hiểu Quang có một vệt đỏ sưng tấy, năm ngón cũng sưng lên, to hơn bình thường đến hai lần, Vạn Ánh Hà kêu lên một tiếng, lao tớii, nắm lấy tay phải của Vạn Hiểu Quang.

Vạn Hiểu Quang rụt tay phải lại, hạ giọng nói:

“Hãy mau quay về, tay phải của cha đã bị Tử Dương đạo trưởng đánh bị thương, kịch độc “hắc sát chưởng lực” đã xâm nhập vào trong tay phải”.

Vạn Ánh Hà sững người ra, nói:

“Đã trúng “hắc sát chưởng độc”, chẳng lẽ không có cách giải cứu?”.

Vạn Hiểu Quang nói:

“Có thể cứu hay không vẫn còn khó nói …”.

Y ngập ngừng rồi sắc mặt đột nhiên trở nên nghiêm khắc, tiếp lời:

“Hà nhi, Tử Dương đạo trưởng đã hứa thả hai con, sao không mau cảm tạ Tử Dương đạo trưởng”.

Vạn Ánh Hà hai mắt lấp lánh, ánh mắt rất kỳ lạ, chậm rãi nhìn lên mặt Tử Dương đạo trưởng, chậm rãi bước đến.

Vạn Hiểu Quang trong lòng thầm an ủi, nhủ rằng, đứa trẻ này lúc bình thường thì không chịu nghe lời, không ngờ khi gặp chuyện lớn thì lại biết nặng nhẹ như thế …”.

Trong lòng đang vui, đột nhiên thấy Vạn Ánh Hà hạ eo xuống, phóng tới Tử Dương đạo trưởng thật mau, thanh trường kiếm trên lưng cũng rút ra, cả người lẫn kiếm xông về phía Tử Dương đạo trưởng.

Tử Dương đạo trưởng lạnh lùng hừ một tiếng, tay áo phất một cái, lùi nhanh ra sau đến ba thước.

Chỉ nghe hai tiếng quát, hai thanh kiếm từ hai bên trái phải đánh tới, thế đánh rất nhanh, một ánh chớp lóe lên, hai kiếm giao nhau chặn đường Vạn Ánh Hà lại.

Té ra bốn đạo đồng ấy vừa thấy Vạn Ánh Hà rút kiếm tấn công Tử Dương đạo trưởng, lập tức hai người cầm kiếm xông ra.

Đột nhiên Vạn Ánh Hà lách tay, bảy mũi “yến vĩ ngân thoa” nhất tề phòng về phía Tử Dương đạo trưởng.

Tử Dương đạo trưởng hình như không vui vì hanh động ám toáng này của Vạn Ánh Hà, mặc biến sắc, phất chưởng vỗ ra.

Hai đạo đồng ấy quát lớn một tiếng, đồng thời mỗi người đâm ra một kiếm, Vạn Ánh Hà bị ép lùi ra sau một bước.

Tử Dương đạo trưởng cười lạnh lùng, nói:

“Trẻ con không biết trời cao đất dày”.

Hai mắt sáng quắc nhìn thẳng về phía Vạn Ánh Hà, Vạn Ánh Hà bị ép lùi qua một bên, lại bị Tử Dương đạo trưởng mắng, nén không được nhíu mày, giơ ngang kiếm trước ngực, tức giận quát:

“Bọn đạo sĩ lỗ mũi trâu các người, đã xâm phạm Vạn Nguyệt Hiệp của ta, đả thương phụ thân của ta, hừ, nếu phụ thân của ta có bề gì, ta sẽ liều mạng với các ngươi …”.

Cha con bọn họ sống dựa vào nhau, cốt nhục tình thâm, Vạn Ánh Hà gặp phải kinh biến, trong lòng không biết nghĩ gì, nhưng nói ra rất thương tâm, bất giác mũi hơi cay, nước mắt chảy dài”. Vạn Hiểu Quang lúc đầu nghĩ rằng nàng nghe lời mình, đến đáp tạ Tử Dương đạo trưởng, nào ngờ nàng vẫn ngang ngạnh quật cường, đột nhiên lại đánh lén, trong lòng lo lắng, quát lớn:

“Hà nhi hãy dừng tay …” rồi đột nhiên cảm thấy đầu lưỡi cứng đờ, mắt hoa lên nói không ra lời.

Văn Thiên Sinh thấy sư phụ không hay, vội vàng hai tay đỡ Vạn Hiểu Quang ngồi xuống.

Vạn Hiểu Quang ngồi xuống, trong lòng không yên, gắng gượng mở mắt, thấy Vạn Ánh Hà chống kiếm đứng đấy mà rơi nước mắt, trong lòng bất đồ cảm thấy chua chát, vốn định kêu lên, nhưng không còn sức, chỉ nhìn sang Văn Thiên Sinh.

Văn Thiên Sinh nói:

“Sư phụ muốn đệ tử gọi sư muội trở về?”.

Vạn Hiểu Quang hơi gật đầu.

Văn Thiên Sinh kêu:

“Sư muội …”.

Vạn Ánh Hà quay đầu lại nhìn, thấy phụ thân ngồi dưới đất, lại thấy mặt mũi sư huynh ngưng trọng, trong lòng chợt rung, xoay người vọt một cái thì hạ xuống bên mình Vạn Hiểu Quang, khóc òa một tiếng, vốn định ngã lên người phụ thân. Vạn Hiểu Quang cố né người, vội vàng nói:

“Đừng động vào ta”. Giọng nói tuy lớn nhưng lại ồm ồm không rõ.

Vạn Ánh Hà nuốt lệ nói:

“Phụ thân, cha cảm thấy thế nào, trong người có khó ở không?”.

Vạn Hiểu Quang cố cười nói:

“Các con đừng động vào người ta, coi chừng nhiễm phải độc khí”. Nói rồi thở dài:

“Sau Hà nhi không nghe lời như thế? Chao ôi, con thật quá ngang ngạnh, cả ta cũng phải là đối thủ của y, con có thể làm gì được? con bình thường thông minh, nhưng gặp chuyện lớn thế này, sao lại hồ đồ đến thế?” y nói một hồi thì không khỏi thở dốc, rõ ràng chân khí đã đứt.

Vạn Ánh Hà sững ra nhìn phụ thân, nói:

“Vậy chúng con đưa phụ thân ra kỏi nơi đây, được không?”.

Vạn Hiểu Quang chậm rãi lắc đầu, gượng cười nói:

“Trong người ta có độc, con có thể đưa ta đi đâu …”.

Vạn Ánh Hà lo lắng nói:

“Nhưng không thể để một mình phụ thân ở đây!”.

Vạn Hiểu Quang nhìn ái nữ và ái đồ rồi nói:

“Ta làm sao để cho những người không hề có kinh nghiệm giang hồ như các con đi xa, chỉ là sự việc đến nước này cũng đành làm như thế”.

Văn Thiên Sinh lau nước mắt nói:

“Phái Võ Đang cũng coi như là danh môn đại phái trên giang hồ, sư phụ đã mang trọng thương, dù cho có liều mạng, đệ tử cũng đưa người rời khỏi nơi đây, chả lẽ bọn họ thật sự có thể đuổi cùng giết tận chúng ta hay sao?”.

Vạn Ánh Hà nhìn Văn Thiên Sinh nói:

“Đúng rồi, sư huynh sẽ cõng cha, còn con hộ vệ một bên, chúng ta ra khỏi đây thì tìm cách đến chỗ ngoại công, homl;c đến chỗ Hồ thúc thúc”.

Vạn Hiểu Quang nhìn con gái và đệ tử, nghe bọn họ nói rất thật lòng, trong lòng càng khó chịu hơn, nén không được rơi đôi dòng lệ, cúi đầu nhìn tay phải, vết đỏ ửng màu đỏ giờ đây đã chuyển sang màu tím đen, ông quay mặt sang nói với Văn Thiên Sinh:

“Sinh nhi, con hãy đi nhặt một cành cây đến đây”.

Văn Thiên Sinh y theo lời nhặt một cành cây, chàng không biết sư phụ lúc này dùng cành cây để làm gì, cũng không tiện hỏi nhiều, chỉ đành đưa lên.

Vạn Hiểu Quang tay trái cầm lấy cành cây, nhẹ nhàng đưa tay đánh lên tay phải.

Văn Thiên Sinh và Vạn Ánh Hà đều ngẩn người ngồi một bên, không biết thế nào mới phải.

Vạn Hiểu Quang đánh ba lần, đột nhiên dùng kình đánh ba lần nữa, rồi nghiền răng giơ cao cành cây dùng lực đánh mạnh xuống cánh tay phải của mình.

Văn Thiên Sinh và Vạn Ánh Hà chưa bao giờ thấy trạng táhi thất thường này của ông, hành động ấy khiến cho hai người hoảng sợ đến nỗi biến sắc.

Vạn Ánh Hà kêu lên một tiếng kinh hãi, ôm chặt lấy cánh tay trái của Vạn Hiểu Quang, khóc:

“Phụ thâm, cha làm gì, tại sao nhẫn tâm đến thế …”.

Văn Thiên Sinh cũng nước mắt đầy mặt, nói:

“Sư phụ, người không cần lo lắng, như thế há chẳng phải đã tự làm khồ mình hay sao? Người phải bảo trọng …”.

Vạn Hiểu Quang buồn bã ngẩng đầu nhìn ái nữ và ái đồ, thở dài, nói:

“Chao ôi!

Các con không biết nỗi khổ của lòng ta hay sao?”.

Té ra Vạn Hiểu Quang cúi đầu nhìn thấy tay phải của mình, màu đỏ đã chuyển sang màu tím đen, ông biết rằng đó là do chất độc gây ra, cho nên bảo vta nhặt một cành cây, rồi tự đánh vào thử, nếu như tay phải vẫn còn đau thì còn cơ hội, lúc đó sẽ tạm thời rời khỏi Vạn Nguyệt Hiệp như thỉnh cầu của hai người.

Ông tuy đã đổi ý, nhưng khi dùng cành cây đánh thử, tay phải vẫn không hề có cảm giác, trong lòng thầm lo lắng, liền dùng kình đánh mạnh xuống vài lần, nào ngờ cũng chẳng có cảm giác gì cả.

Vạn Hiểu Quang thấy tay phải vẫn không hề đau đớn, trong lòng buồn bã, lại thấy Vạn Ánh Hà, Văn Thiên Sinh hai người sững sốt nhìn mình đang sững sờ, trong lòng chua chát, dâng lên một cảm giác sinh ly tử biệt không thể nào nói ra được.

Nỗi lo lắng thống khổ ấy như ngàn vạn mũi đao đâm vào tim, nỗi niềm oán hận, bi phẫn, lo buồn khó tả khiến cho ông phát cuồng, cho nên mới giơ cao cành cây đánh mạnh xuống để phát tiết những nỗi thống khổ ấy.

Lúc này tay trái đã bị Vạn Ánh Hà chụp lại, trong lòng của ông hoang mang, ông rầu rĩ ôm tay trái, cành cây rơi xuống đất.

Vạn Hiểu Quang nuốt nước mắt nói:

“Hà nhi, Sinh nhi, không phải là ta không muốn đi, ta nói thật với các con, dù cho có Đại La thần tiên hạ phàm, Hoa Đà tái sinh cũng không thể cứu được tính mạng của ta, tay phải của ta đã hoàn toàn tê rần, chất độc đã phát tác, dù cho ta có chịu đi cùng với các con đến nhà ngoại công, cũng chẳng có ích gì …”.

Vạn Ánh Hà, Văn Thiên Sinh nghe xong thì đứng một bên khóc thút thít.

Vạn Hiểu Quang gượng cười, nói:

“Đời người trăm năm vẫ khó qua ải này, chẳng qua thời gian sớm hay muộn mà thôi, từ ngày mẫu thân các con qua đời, nếu không phải vì các con, ta cần gì phải sống dối giữa chốn nhân gian, nay sự việc đã như thế, cũng coi như khó thoát, ta có thể xuống chín suối để gặp mẹ con, nhưng để lại hai đứa trẻ không hiểu sự đời, bảo các con đi xa, ta thật không yên tâm …” đang nói thì nước mắt tuôn xuống như mưa.

Ba người khó một hồi, Vạn Hiểu Quang đột nhiên sắc mặt lộ vẻ cương nghị, nói:

“Hà nhi, Sinh nhi, ta nay tuổi đả quá hoa giáp, chỉ cần các con yêu thương hòa thuận nhau, ta đã an tâm, hai con hãy nghe lời ta, mau đến nhà của ngoại công, đừng nhớ đến ta nữa”. Ngừng một lát thì nhíu mày nói:

“Phụ thân đã giết chết nhiều người của phái Võ Đang, bọn họ sẽ không tha cho ta mà ta giết người thì phải thường mạng, chỉ là Hồ thúc thúc của các con tánh tình nóng nảy, quyền không chịu để yên chuyện này, chỉ e sự việc này sẽ bị y khơi dậy cơn sóng gió …”.

Văn Thiên Sinh lau nước mắt nói:

“Nếu như sư phụ quả thực có điều gì hai dài ba ngắn, đệ tử sẽ tìm đến phái Võ Đang để tính nợ”.

Vạn Hiểu Quang thở dài:

“Những chuyện sau này, ta không quản được nữa, giờ đây chỉ mong các con bình an rời khỏi nơi đây”. Nói đến đây thì xoay mặt sang bọn Tử Dương đạo trưởng.

Tử Dương đạo trưởng là chương môn nhân của phái Võ Đang, cho nên cách làm việc không giống với bọn người kia, lão vừa thấy chất độc của Vạn Hiểu Quang phản công lại nổi phủ thì cũng hối hận rằng mình đã ra tay quá nặng, nhưng sự việc đã như thế, hối hận cũng vô ích, nay thấy bọn họ trong khoảnh khắc phân ly cốt nhục, mình không thể bỏ đi không lo được, cho nên vẫn đứng yên tại chỗ, chờ đợi sự việc phát triển.

Vạn Hiểu Quang nhìn sang Tử Dương đạo trưởng, Tử Dương đạo trưởng biết ngay ông có điều muốn nói, chậm rãi bước về phía Vạn Hiểu Quang.

Vạn Ánh Hà, Văn Thiên Sinh vừa thấy Tử Dương đạo trưởng bước tới, đều đứng dậy, giận dữ nhìn.

Vạn Hiểu Quang vội vàng nói:

“Các con không được làm càn, ta có điều muốn nói với lão”.

Tử Dương đạo trưởng nhìn Vạn Hiểu Quang, nói:

“Không biết Vạn đại hiệp có điều chi chỉ giáo?”.

Vạn Hiểu Quang nói:

“Đạo trưởng là chương môn nhân của một phái, nhưng không biết lời lúc nãy có thể giữ được không?”.

Tử Dương đạo trưởng nói:

“Bần đạo là đệ tử của Tam Thanh, sao lại nói bừa bãi với Vạn đại hiệp”.

Vạn Hiểu Quang gật đầu nói:

“Tốt, vậy hãy nhận của tại hạ một lễ, rồi gắng gượng vươn người vái dái một cái.

Tử Dương đạo trưởng vội vàng né người qua một bên, nói:

“Vạn đại hiệp cần chi phải như thế …”.

Vạn Hiểu Quang phấn chấn tinh thần, cười, nói:

“Huynh đệ bái không phải là vì ngài là Tử Dương đạo trưởng chương môn phái Võ Đang, mà là tôn kính ngài một lời hứa như ngàn vàng, đó là toàn do tinh thần đạo nghĩa trên chốn võ lâm”.

Rồi xoay mặt gọi:

“Hà nhi, Sinh nhi, hãy đến đây”.

Vạn Ánh Hà, Văn Thiên Sinh không biết việc gì, lo lắng bước đếnb cạnh.

Vạn Hiểu Quang nghiêm mặt, nói:

“Bọn chúng một đứa là nữ nhi của tại hạ, một đứa là đồ nhi của tại hạ, nhưng tại hạ vẫn yêu thương chúng như nhau, không phân dày mỏng, không biết các con có chịu nghe lời của ta hay không?”.

Văn Thiên Sinh nhìn Vạn Ánh Hà, nói:

“Sư muội và đệ tử đều do một tay người nuôi dưỡng, lời dạy của sư phụ đương nhiên phải nghe theo”. Vạn Hiểu Quang nhìn Vạn Ánh Hà, Vạn Ánh Hà cũng buồn bã gật đầu.

Văn Thiên Sinh nói:

“Sư phụ có việc gì, xin hãy căn dặn …”.

Vạn Hiểu Quang quay mặt sang Tử Dương đạo trưởng nói:

“Vừa rồi đạo trưởng đã hứa, chuyện hôm nay chỉ là việc riêng của Vạn mỗ, không liên quan gì đến tiểu nữ với tiểu đồ, giờ đây mong đạo trưởng giữ lời hứa, tha cho tiểu nữ, tiểu đồ rời khỏi nơi này”.

Nói rồi quay mặt lại:

“Hà nhi, Sinh nhi, hãy mau đến tạ ơn đạo trưởng”.


Vạn Ánh Hà, Văn Thiên Sinh trong lòng rất tức giận vì Tử Dương đạo trưởng đã đả thương Vạn Hiểu Quang, cho nên chần chừ không bước.

Vạn Hiểu Quang thở dài:

“Chao ôi! Hai con lại không nghe lời ta rồi!”.

Hai người thấy Vạn Hiểu Quang đau đớn như thế, chỉ đành lê bước tới phía trước tạ ơn Tử Dương đạo trưởng.

Vạn Hiểu Quang thở dài một tiếng nói:

“Tử Dương đạo trưởng, Vạn mỗ này giết người đền mạng, chỉ mong ngài giữ lời hứa, tha cho hai đứa trẻ này một con đường sống, Vạb mỗ cảm kích không nguôi!” rồi mặt đầy nước mắt nói:

“Hà nhi, Sinh nhi, ta chỉ mong hai con thương yêu nhau, đừng phụ tấm lòng của ta đối với hai con, nếu ta ra đi, các con đừng nên đau buồn, hãy mau đi …” nói đến đây, ánh mắt đột nhiên nhìn về nơi xa xăm, miệng quát lên:

“Ngươi là ai?”.

Mọi người đều bị tiếng quát của y làm cho giật mình, đồng thời quay lại.

Trong khoảnh khắc mọi người quay đầu lại, Vạn Hiểu Quang nghiến răng vận công, giơ cao tay trái, vỗ mạnh xuống huyệt thiên linh cái của mình, chỉ thấy máu văng ra, kêu bốp một tiếng, Vạn Hiểu Quang ngã nhào xuống đất.

Khi mọi người nhìn ra, chẳng có một bóng người, biết là bị lừa, đến khi quay lại thì một bậc đại hiệp sớm đã đầu vỡ khí tuyệt, rời khỏi thế gian.

Vạn Ánh Hà thấy phụ thân tự đánh vỡ thiên linh cái mà chết, trong lòng đau như dao cắt, nhưng nàng không hề khóc, chỉ cười thảm một tiếng, quát lớn nói:

“Tên lỗ mũi trâu kia, ta liều mạng với ngươi”. Rồi một ánh bạc lóe lên, cả người lẫn kiếm xông về phía Tử Dương đạo trưởng.

Văn Thiên Sinh cũng kêu lên:

“Linh hồn sư phụ phù hộ, đệ tử sẽ báo mối huyết thù này cho người”. Rồi giở ngọn roi long đầu tơ vàng xốc lên.

Tử Dương đạo trưởng nhìn thấy Vạn Hiểu Quang tự xử, trong lòng cảm thấy hoang mang, đồng thời vì đã hứa thả cho hai người này rời khỏi đây, cho nên cứ thối lui không đánh trả.

Trong lúc này, trên núi có vọng lại tiếng quát:

“Hà nhi hãy gừng tay!”.

Tiếng quát ấy thật là bất ngờ, Vạn Ánh Hà, Văn Thiên Sinh đều ngừng tay thu thế, quay đầu nhìn sang.

Chỉ thấy trên sườn núi có hai bóng người phóng xuống nhanh như sao xẹt.

Người đi đầu mình mặc kình trang màu xanh, trên tay cầm gậy sắt, trên lưng cắm trường kiếm, nhìn từ xa thấy ngọn tua kiếm bay phất phơ trong gió, người đi phía sau thì che mặt bằng vải đen.

Người ấy chính là minh chủ của lục lâm trong thiên hạ, Lãnh diện Diêm La Hồ Bách Linh, người đi theo sau chàng chính là Chung Nhất Hào.

Vạn Ánh Hà vừa thấy Hồ Bách Linh, như thấy người thân, lao về phía trước, ôm chân Hồ Bách Linh, nói:

“Xin thúc thúc hãy báo thù cho phụ thân …” nói chưa hết lời thì khó òa lên.

Hồ Bách Linh nhảy vọt vào, đưa mắt nhìn quanh, lạnh lùng hừ một tiếng, nói:

“Hà nhi đừng khóc, ngu thúc đã đến, chuyện sẽ do ngu thúc làm chủ”. Vừa nói vừa vuốt mái tóc của nàng xoay mặt sang nói với Văn Thiên Sinh:

“Thiên Sinh hãy đến chăm sóc cho sư muội của con”. Rồi chậm rãi bước về phía thi thể của Vạn Hiểu Quang.

Chung Nhất Hào thấy minh chủ Hồ Bách Linh bước về phía trước cũng đi sát theo.

Lãnh diện Diêm La cúi người nhìn thi thể Vạn Hiểu Quang, quả thậ cảm thấy bất nhẫn, nhất thời lòng dạ rối bời, chuyện xưa cứ tràn về trong đầu, lòng nghĩ, đại ca an cư ở Vạn Nguyệt Hiệp, đã không còn liên quan gì đến việc phân tranh trên giang hồ, hưởng phúc nhân gian ở đây, nếu không phải vì mình dắt mọi người đến Vạn Nguyệt Hiệp của y, y đã không dính líu đến việc tị phi của giang hồ. Nghĩ đến đây, bất đồ nói:

“Đại ca, toàn là do tiểu đệ hại huynh”. Chàng ngẩng đầu lên, nhìn trời xanh mây trắng, lại nhớ đến tấm lòng của đại ca đối với chàng, nhưng cảnh vật trong Vạn Nguyệt Hiệp vẫn như xưa, mà đại ca kính yêu duy nhất của mình giờ đã nhân gianc cách biệt, mãi mãi xa rời … nghĩ đến đây, lòng đau xót, nén không được, rơi mấy giọt lệ anh hùng.

Ngẩng đầu lên nhìn, Tử Dương đạo trưởng và môn nhân của phái Võ Đang vẫn đứng một bên, chàng lau nước mắt, đứng dậy đi về phía Tử Dương đạo trưởng.

Chàng biết địa vị của phái Võ Đang trong võ lâm cùng với chùa Thiếu Lâm như thái sơn bắc đẩu, mà hôm nay mình là minh chủ của lục lâm trong thiên hạ, trong lòng tuy đau đớn vạn phần, cũng không thể làm lớn chuyện này, thế rồi mới ôm quyền hỏi:

“Xin hỏi đạo trưởng, phái Võ Đang là danh môn đại phái trong võ lâm, không biết cớ gì mà xâm phạm Vạn Nguyệt Hiệp của đại ca tôi?”.

Tử Dương đạo trưởng gật đầu trả lễ nói:

“Chuyện này suất phát từ sự hiểu lầm, Vạn đại hiệp gặp phải kiếp nạn này, bần đạo cũng đang rất hối hận …”.

Hồ Bách Linh cười nhạt, nói:

“Đạo trưởng không cần thoái thác, phái Võ Đang của ông kéo người đến đây xâm phạm Vạn Nguyệt Hiệp, Hồ mỗ đã biết được từ sớm, chỉ là đại ca tôn trọng phái Võ Đang là danh môn đại phái trong võ lâm, phàm chuyện gì cũng phải hành sự theo quy củ võ lâm, cho nên không để cho huynh đệ nhúng tay vào chuyện này, nào ngờ môn nhân của phái Võ Đang các người không màng đến đạo nghĩa võ lâm giang hồ, ỷ thế mạnh người đông, làm ra những chuyện đi ngược lại với công đạo của võ lâm, lúc này đạo trưởng lại bảo rằng hiểu nhầm, không biết nân giải thích thế nào đây?”.

Lãnh diện Diêm La Hồ Bách Linh lời nói rất cứng rắn, chỉ câu hỏi ấy thôi cũng khiến Tử Dương đạo trưởng trong nhất thời không có lời gì để nói, sững người ra một lúc rồi mới nói:

“Câu hỏi của tôn giá quả thực khiến cho bần đạo hổ thẹn, sự việc đã như thế, cũng đành nói thực với tôn giá. Chỉ vì Vạn đại hiệp và sư đệ của bần đạo có chút hiềm khích, sư đệ vô tri, nhân lúc bần đạo có việc phải đi nơi khác đã tự tiện truyền lệnh dắt các đệ tử đến Vạn Nguyệt Hiệp, đến khi bần đạo xong việc quay về thì mới biết, chỉ e sự việc rắc rối, cho nên đang đêm đã đến đây, không ngờ Vạn đại hiệp đã liên tục đánh bị thương nhiều người của phái Võ Đang chúng tôi, sự hiểu lầm này muốn giải thích cũng khó …”.

Tử Dương đạo trưởng chưa nói xong, Hồ Bách Linh ha ha cười lớn nói:

“Nếu bảo như thế, Hồ mỗ đã biết lòng đạo trưởng, chắc là đạo trưởng vừa đến Vạn Nguyệt Hiệp, thấy môn hạ đã có thương vong, không hỏi rõ trắng đen, chỉ biết bênh vực cho môn hạ, rốt cuộc thẹn quá hóa giận, toàn lực ra tay cho nên …”.

Hồ Bách Linh nói đến đây, Tử Dương đạo trưởng vội vàng chặn lại:

“Lời tân giá có phần hơi quá, từ ngày bần đạo tiếp chưởng phái Võ Đang đến đây, tự thấy đối với người và việc đều tuân theo hai chữ tình lý. Vạn đại hiệp danh lừng võ lâm, bần đạo xử lý việc này nào dám lỗ mãng, đối với môn hạ của mình, càng không có lòng bênh vực”.

Hồ Bách Linh nói:

“Đã là như thế, đạo trưởng xử lý cũng chưa công bằng”.

Tử Dương tatr cười nói:

“Không biết tôn giá dựa vào đâu mà trách bần đạo không công bằng, theo cao kiến của tôn giá, làm thế nào mới tính là công bằng?”.

Hồ Bách Linh lạnh lùng hừ một tiếng, nói:

“Đạo trưởng đã biết môn nhân tự tiện truyền lệnh, đến nơi này, cũng nên phải tạ tội quấy nhiễu với đại ca, sau đó thì căn cứ theo môn quy, xử phạt người tự tiện truyền lệnh, rồi mới phân tranh cao thấp với đại ca của tại hạ, như thế mới tỏ rõ khí độ danh môn đại phái của Võ Đang, cũng có thể khiến cho anh hùng trong thiên hạ kính phục”.

Tử Dương đạo trưởng nghe mà hơi biến sắc, nói:

“Chả trách nào tôn giá trở thành minh chủ của lục lâm, cao kiến lúc nãy, bần đạo rất bội phục, bần đạo tuy không có tài cán gì nhưng được tiên sư sớm tối dạy dỗ, tất nhiên biết được cái lý làm việc làm người, bần đạo xử lý việc này như thế nào, tôn giá có thể hỏi lại môn nhân của Vạn đại hiệp”.

Lãnh diện Diêm La Hồ Bách Linh quay sang hỏi ngọn ngành, Văn Thiên Sinh liền kể lại sự việc từ lúc Tử Dương đạo trưởng đến đây.

Hồ Bách Linh vừa nghe vừa gật đầu, khen rằng:

“Đạo trưởng xử lý sự việc này, tại hạ tuy bái phục, song cái sai vẫn là do một tay đạo trưởng gây nên.

Tử Dương đạo trưởng hỏi:

“Không biết bần đạo lại sai ở đâu?”.

Hồ Bách Linh nói:

“Đại ca tôi hành đạo trên giang hồ, danh lừng võ lâm, đạo trưởng không phải không biết, huống chi từ ngày từ ngày đại tẩu mất đi, đại ca càng coi nhẹ danh lợi, lui ẩn chốn núi rừng, chưa từng hỏi đến những chuyện trên giang hồ, chuyện này người trong thiên hạ biết cả, đạo trưởng là lãnh tụ của võ lâm, chưa hiểu rõ về việc này, sao lại tự tiện đến đây?”.

Tử Dương đạo trưởng bị hỏi đến mặt biến sắc, nhưng cũng bình tĩnh lại, nói:

“Vạn đại hiệp tiết tháo trong sạch, bọn chúng tôi rất tôn kính, nhưng mười bốn mạng người của mười năm trước cũng phải không thể không hỏi tới”.

Hồ Bách Linh hừ hừ mấy tiếng nói:

“Lời này của đạo trưởng quả đúng là hiếp người, dù cho đại ca của tôi có biết môn võ công này, chả lẽ đạo trưởng có thể rằng vụ huyết án mười bốn mạng người ở Hoàng Hà là da một tay đại ca tôi gây nên? Xin hỏi đạo trưởng, phái Võ Đang lừng danh thiên hạ về kiếm thuật, vậy thì hễ những người bị thương bởi đao kiếm, phải chăng tất cả đều quy cho môn hạ của phái Võ Đang?”.

Tử Dương đạo trưởng có định lực thậm hậu, nhưng bị Hồ Bách Linh trách một hồi cũng không khỏi nổi giận, lạnh lùng cười, nói:

“Tôn giá nói với bần đạo những lời như thế, chả lẽ là lấy thân phận minh chủ lục lâm đến giáo huấn bần đạo hay sao?”.

Hồ Bách Linh cũng cười nhạt nói:

“Nào dám, nào dám, tại hạ chỉ là nói lý với đạo trưởng mà thôi”.

Tử Dương đạo trưởng vuốt râu, nói:

“Chúng ta không nói đến vụ án ở sông Hoàng Hà nữa, năm mạng người của phái Võ Đang chúng tôi chả lẽ phải hy sinh uổng phí hay sao?”.

Hồ Bách Linh mặt biến sắc, nói:

“Đạo trưởng coi trọng môn hạ của mình như thế, có thể báo thù cho họ, chả lẽ đại ca đối với tại hạ tình như thủ túc, yêu thương như cha anh, Hồ mỗ này sẽ nhịn món huyết thù, ngoảnh mặt làm ngơ hay sao? Ngày nay ông là chương môn của một phái lớn, có thể cưỡng từ đoạt lý, không mang đến đạo nghĩa, chả lẽ Lãnh diện Diêm La này sợ ông hay sao?”.

Lưỡi kiếm môi thương hai người, sau một lúc tranh cãi, đều không khỏi có nộ ý.

Đạo nhân đứng phía sau Tử Dương đạo trưởng, vừa thấy Hồ Bách Linh chỉ trích tôn sư chương môn của mình, ai nấy đều tức giận, đưa mắt nhìn nhau, bước về phía trước hai bước.

Chung Nhất Hào đều thấy hành động của môn nhân của phái Võ Đang, trong lòng thầm cười, thuận tay lấy ra chiếc quạt xếp phe phẩy cũng bước về phía trước mấy bước, đứng thành thế ỷ giác với Hồ Bách Linh, đề phòng người của phái Võ Đang ra tay bất ngờ.

Văn Thiên Sinh cũng thấy rõ tình thế ấy, chàng lo lắng sư muội vì đau lòng quá độ cho nên ra tay bất ngờ, vì thế mới cố nén cơn bi thương, đứng một bên Vạn Ánh Hà để chờ đợi ứng biến.

Lúc này Tử Dương đạo trưởng vuốt râu cười dài, nói:

“Bần đạo đối với chuyện này tự cảm thấy hổ thẹn, tuy đã giải thích, nhưng tôn giá lại không tin, cũng chẳng còn cách nào nữa, không biết tôn giá tính thế nào đây?”.

Chung Nhất Hào lạnh lùng cưới:

“Giết người đền mạng, nợ tiền trả tiền, đạo lý này chẳng lẽ đạo trưởng không hiểu rõ hay sao?”.

Tử Dương đạo trưởng biến sắc, không nhìn Chung Nhất Hào mà nhìn thẳng về phía Hồ Bách Linh.

Hồ Bách Linh ngưng thần trầm tư, như tự nói với mình:

“An nghĩa của đại ca đối với ta to như núi, nếu ta không báo thù này, không những không thể an ủi người chết, mà cũng khó ăn nói với bản thân mình!” rồi quay sang Vạn Ánh Hà đang nước mắt lưng tròng, mặt lộ vẻ suy tư, nói:

“Song …”.

Lúc này từ trong Vạn Nguyệt Hiệp có một người phóng ra.

Hồ Bách Linh nhìn thấy người ấy là thuộc hạ của Vạn Hiểu Quang, lòng nhủ thầm, đại ca gặp điều không may, thù nhất định phải báo, nhưng lúc này cao thủ của Võ Đang rất nhiều, nếu như động thủ, thương vong tất nhiên không ít, vả lại hai đứa trẻ Ánh Hà và Thiên Sinh đều đau lòng quá độ, chuyện trong Vạn Nguyệt Hiệp chưa thể sắp xếp ổn thỏa, nếu như động thủ, bên cạnh mình chỉ có Chung Nhất Hào, mình không thể nào …

nghĩ đến đây, trong lòng rất khó xử.

Lúc này Tử Dương đạo trưởng trong lòng đã tính toán, lão suy nghĩ một hồi rồi dứt khoát nói:

“Lần này môn hạ của phái Võ Đang tự tiện truyền lệnh đến đây báo thù riêng, đối với phái Võ Đang mà nói, thật sự là chuyện lớn, cần phải mau chóng quay về núi thanh lý môn hộ, còn chuyện của Vạn đại hiệp, sự thể đã thế này, hối hận cũng không kịp, bần đạo không muốn sai rồi lại sai nữa, tuy Võ Đang là đệ tử của Tam Thanh, cũng phải nói đến công đạo trong giớ võ lâm, sự việc này do bần đạo gây ra, tự thấy không có lời gì nói nữa, chuyện này chắc chắn sẽ có ngày chấm dứt …”.

Hồ Bách Linh nghe Tử Dương đạo trưởng nói thì biết đó là việc ngoài ý muốn của lão, đồng thời trong lòng mình cũng có tính tóan khác, thế rồi gật đầu đáp:

“Đạo trưởng không hổ là một bậc chương môn, xử lý sự việc rất quyền đoán, chuyện này chính như lời lúc nãy của đạo trưởng, tất sẽ có một ngày chấm dứt, chuyện hôm nay dừng lại ở đây, xin mời đạo trưởng hãy về núi, Hồ mỗ quyết không có ý làm khó, may mà Võ Đang là danh môn đại phái, đạo trưởng cũng không phải là người sợ đầu sợ đuôi, một câu nói trên giang hồ chúng ta, chính là non xanh không đổi, nước biếc còn đây, chuyện của Vạn Nguyệt Hiệp đâu chỉ trong một sớm một tối, ngày sau Hồ Bách Linh này sẽ đến Tam Nguyên quán của núi Võ Đang gặp mặt đạo trưởng để chấm dứt chuyện này”. Nói xong thì quay sang Vạn Ánh Hà nói:

“Hà nhi, con có trách ngu thúc xử lý như thế không?”.

Vạn Ánh Hà trong lòng rất tôn kính Hồ Bách Linh, gật đầu nói:

“Thúc thúc hãy cứ làm chủ”.

Hồ Bách Linh cười buồn bã quay sang Tử Dương đạo trưởng phẩy tay nói:

“Xin thứ không thể giữ được, đạo trưởng hãy cứ tùy tiện”.

Tử Dương đạo trưởng gật đầu, nói:

“Cung kính chi bằng tuân mệnh, bần đạo chỉ nhận lãnh tấm thịnh tình, nếu như tôn giá có hứng, chịu giá lâm núi Võ Đang chúng tôi, bần đạo sĩ cung hầu đại giá ở sơn môn!”.

Hồ Bách Linh nói:

Quá lời, quá lời, ngày sau sẽ đến thỉnh giáo, hôm nay xin thứ lỗi Hồ mỗ không thể tiễn”.

Tử Dương đạo trưởng lùi ra sau một bước, gọi môn hạ một tiếng, dắt mọi người lui khỏi Vạn Nguyệt Hiệp, quay về núi Võ Đang.

Hồ Bách Linh thấy Tử Dương đạo trưởng vừa đi, quay sang nói với Vạn Ánh Hà:

“Hà nhi, di thể của phụ thân con sẽ xử lý thế nào đây?”.

Vạn Ánh Hà ngửa mặt nhìn lên, hất mái tóc sang một bên, suy nghĩ một lát, nói:

“Di thể của phụ thân không thể để lộ thế này, theo ý của điệp nữ, chi bằng hãy đưa vào trong thạch động, chỗ để quan tài của mẫu thân, nơi ấy vừa kín đáo mà khô ráo, không biết ý thúc thúc thế nào?”.

Hồ Bách Linh gật đầu:

“Được, nếu con đã biết chỗ để quan tài của mẫu thân, vậy thì tốt còn gì bằng, cứ như thế, đại ca cũng rất yên lòng”.

Văn Thiên Sinh nói:


“Đã như thế, con sẽ cõng sư phụ đi …”.

Hồ Bách Linh nói:

“Hãy khoan”. Quay sang Vạn Ánh Hà nói:

“Phụ thân có di ngôn gì cho các con không?”.

Vạn Ánh Hà nghe mà không khỏi đỏ mặt, liếc nhìn Văn Thiên Sinh cúi đầu không nói.

Hồ Bách Linh đã nhìn thấy thần thái của nàng, cũng không hỏi nữa, bảo:

“Chả lẽ đại ca không căn dặn các con đi đâu hay sao?”.

Vạn Ánh Hà hạ giọng trả lời:

“Theo ý của phụ thân, người muốn chúng con đến chỗ ngoại công”.

Hồ Bách Linh nhíu mày, nói:

“Đường đến đấy rất xa, hai con còn trẻ tuổi chưa có kinh nghiệm giang hồ, ta thật không yên tâm”.

Vạn Ánh Hà biết Hồ Bách Linh đã chế phụ được anh hùng trong thiên hạ, giờ là minh chủ của lục lâm, lại nghe những sự tích của chàng, thì đã sớm khâm phục vị nghĩa thúc này, chỉ là phụ thân quá câu nệ, song nàng quả thật muốn đến thăm thú phong cảnh ở Mê Tông Cốc.

Vạn Ánh Hà nói:

“Thúc thúc, điệp nữ cũng nghĩ đến điều này, đường xa vạn dặm, quả thực không tiện, điệp nữ thấy chi bằng đến chỗ thúc thúc ở vài ngày, sau đó lại tính tiếp, một mặt có thể học chút võ công với thúc thúc …”.

Hồ Bách Linh nói:

“Được, cứ quyết định như thế, thời gian không còn sớm nữa, chúng ta hãy xử lý mọi việc”. Ngừng một lát, lại nói:

“Ta và Hà nhi đi mai táng đại ca, Thiên Sinh hãy cùng với Chung huynh vào trong cốc bảo với mọi người rằng:

“Lão chủ nhân không may gặp nạn, giờ đây tiểu thư sẽ tạm thời theo ta đến Mê Tông Cốc, nếu như bọn họ muốn cùng đi thì hãy lập tức thu xếp lên đường, nếu như bọn họ muốn đi nơi khác, các người cứ làm chủ, chia ít vật quý cho họ để cho bọn họ tự mưu sinh, lát nữa bọn chúng ta sẽ gặp lại ở đây”.

Thiên Sinh trả lời một tiếng đi theo Chung Nhất Hào dắt theo người lúc nãy quay về Vạn Nguyệt Hiệp.

Hồ Bách Linh cúi người ôm di thể của Vạn Hiểu Quang, nói:

“Hà nhi hãy dẫn đường”.

Hồ Bách Linh tẩm liệm xong Vạn Hiểu Quang quay về, Văn Thiên Sinh, Chung Nhất Hào đã sắp xếp xong mọi việc, thuộc hạ cũ của Vạn Hiểu Quang không ai chịu rời khỏi Vạn Nguyệt Hiệp, đều ở lại canh giữ.

Hồ Bách Linh gật đầu nói:

“Thật hiếm thấy một tấc lòng của bọn họ”.

Thế rồi bốn người cũng không dừng lại, đi về phía Mê Tông Cốc.

Vạn Ánh Hà, Văn Thiên Sinh đến Mê Tông Cốc, trong chớp mắt đã hai tháng, hai tháng này, nhờ có Cốc Hàn Hương an ủi cho nên cuộc sống cũng bình thường trở lại.

Sau bữa cơm tối ngày hôm nay, mọi người đang ở trong nhà nói chuyện, đột nhiên có người vào báo, bảo rằng Đa Trảo Long Lý Kiệt, Nhập Vân Long Tiền Bính cầu kiến.

Hồ Bách Linh nói:

“Gọi bọn họ vào”.

Người ấy ra không bao lâu thì Tiền Bính, Lý Kiệt bước vào trong.

Hai người vừa thấy Hồ Bách Linh, Cốc Hàn Hương thì vúi người thi lễ, nói:

“Tiểu đệ xin thỉnh an đại ca và đại tẩu”.

Hồ Bách Linh cười nói:

“Hai vị huynh đệ đi Hà Nam, trên đường cực khổ, không biết phía ngoài nghĩ gì về lục lâm chúng ta?”.

Hai người Tiền Bính, Lý Kiệt nhìn Vạn Ánh Hà, Văn Thiên Sinh rồi lại nhìn nhau.

Hồ Bách Linh cười nói:

“Hai người này chắc các người đã gặp, ngày trước chúng ta đã tụ hội tại Vạn Nguyệt Hiệp của bọn họ, ta và phụ thân của họ có nghĩas kim lang, hai vị huynh đệ có lời gì hãy cứ nói, đừng ngại”.

Nhập Vân Long Tiền Bính nói:

“Từ ngày đại ca trở thành minh chủ lục lâm, đặt ra bốn điều giới luật, người trong bạch đạo quả thực nhìn chúng ta bằng con mắt khác, bằng hữu ở các nơi cũng tuân theo, nào ngờ lần này trên đường đến Hà Nam, không biết bằng hữu ở nơi nào đã làm ra chuyện không hay khiến cho người ta lại hiểu nhầm chúng ta nữa …”.

Hồ Bách Linh nhíu mày, kêu ồ một tiếng, nói:

“Không biết bọn họ lại làm ra chuyện xấu gì nữa?”.

Đa Trảo Long Lý Kiệt nói:

“Huynh đệ chúng tôi phụng lệnh minh chủ đại ca, đi đến hai đất, Dự, Lỗ, âm thầm điều tra hành vi của người trong chốn lục lâm, ở Sơn Đông thì chưa có phát hiện gì, nhưng ở Hà Nam lại xảy ra một chuyện lớn …”.

Cốc Hàn Hương đang dỗ đứa trẻ, nghe thế thì bất đồ thất kinh, rê về phía trước một chút, mở to mắt:

“Đại ca, chả lẽ chuyện bên ngoài có liên quan đến chúng ta sao?”.

Hồ Bách Linh gật đầu nói:

“Hôm nay ta là minh chủ của lục lâm, chuyện của bằng hữu trong giới lục lâm, ta nàng không liên quan.

Rồi xoay sang Lý Kiệt nói:

“Xảy ra chuyện gì, đệ hãy nói ra nghe thử”.

Đa Trảo Long Lý Kiệt nói:

“Năm xưa ở Lạc Dương có một vị lão tiêu đầu, người ta gọi là Bố y thiện sĩ Trịnh Thọ Phong, không biết đại ca có biết người này hay không?”.

Vạn Ánh Hà chớp mắt, hỏi:

“Sao lại gọi là Bố y thiện sĩ? Tên này thật là kỳ lạ!”.

Hồ Bách Linh nói:

“Vị Trịnh lão tiêu đầu này là một người trọng nghĩa khinh tài, tế khổ phò nguy, nhưng bản thân thì rất tiết kiệm, suốt năm đều mặc một bộ áo vải, chưa bao giờ mặc áo tơ, tuy nhà giàu có, nhưng tiền bạc đều dùng vào việc cứu người, cho nên trên giang hồ rất kính ngưỡng ông ta, chỉ cần nhắc đến đó là tiêu của tiêu cục Trịnh Gia, dù đến nơi nào cũng không hề bị ngăn cản”. Nói xong thì hỏi Lý Kiệt:

“Sao, đệ đột nhiên nhắc đến người này, chả lẽ chuyện này xảy ra với ông ta hay sao?”.

Lý Kiệt nói:

“Đại ca sáng suốt …”.

Hồ Bách Linh nói:

“Tiêu cục của Trịnh lão tiêu đầu hai mươi năm trước đã dẹp bỏ, huống chi ông ta lại không có kẻ thù, chẳng lẽ còn có sóng gió gì hay sao?”.

Nhập Vân Long Tiền Bính nói:

“Đại ca nói rất phải, trịnh lão tiêu đầu biết rõ rằng tiêu cục của mình lớn như thế, có thể đi lại được trên giang hồ không phải là nhờ sức của mình trấn áp được kẻ khác, mà là nhờ vào một chút tiếng tốt, cho nên trong lần đại thọ sáu mươi, đã bày tiệc mời anh hùng trong thiên hạ tuyên bố giải tán tiêu cục, quy ẩn chốn núi rừng, con cháu trong nhà cũng không ai tập võ, chỉ ở Lạc Dương buôn bán, nhưng lần này tai họa lại giáng xuống đầu!”.

Tiền Bính nhìn Cốc Hàn Hương, đột nhiên im lặng.

Hồ Bách Linh biết y muốn nói nhưng lại ngại Cốc Hàn Hương, thế rồi mới bảo:

“Hiền đệ hãy cứ nói ra đừng ngại, đại tẩu và hà nhi không phải người ngoài”.

Tiền Bính ho khan một tiếng, nói:

“Trịnh lão tiêu đàu ày sau khi quy ẩn, con cháu cũng chẳng có công danh gì mở một tiệm thuốc, tạ tuyệt với giang hồ, cả nhà đều sống yên vui, không ngờ vào một đêm tối trời tháng trước, đột nhiên có ba người bịt mặt, võ công của Trịnh lão tiêu đầu rất bình thường, đừng nói ba người, dù cho một người ông ta cũng không chống nổi. Nói đến đây thì hừ một tiếng, rồi nói tiếp:

“Người ấy xử quyết Trịnh lão tiêu đầu, đả thương công tử Trinh Gia, cuối cùng lại còn phạm điều thứ nhất trong bốn giới luật!”.

Hồ Bách Linh gật đầu, nói:

“Ác tặc, hừ, huynh đệ, hãy nói tiếp”.

Tiền Bính lại nói:

“Ba kẻ ấy cưỡng bức xong phụ nữ họ Trịnh, rồi cướp sạch những đồ quý giá …”.

Hồ Bách Linh lạnh lùng hừ một tiếng, nói:

“Ta đã biết, ta hỏi đệ, khi chuyện này xảy ra, quan phủ ở Lạc Dương có biết hay không?”.

Tiền Bính nói:

“Chuyện này xảy ra được bốn ngày, hai huynh đệ chúng tôi đến Lạc Dương, quan phủ địa phương biết Trịnh tiêu đầu là người có tiếng tăm, cho nên điều tra rất nghiêm ngặt, nhưng không hề phát hiện tin tức gì”.

Đa Trảo Long Lý Kiệt nói:

“Đệ quen biết một người là Hộ viện giáo tộc trong nhà của Phi hồn kiếm Từ Mồ Bạch, một trong quan lạc tam kiếm, y nói rằng, Phi Hồn Kiếm rất coi trọng việc này, quyết điều tra chân tướng sự việc …”.

Hồ Bách Linh kêu ừ một tiếng, nói:

“Có y ra mặt, chắc chắn sẽ điều tra được”. rồi trầm ngâm một lúc, nói:

“Hai người ở Lạc Dương mấy ngày, chả lẽ không tìm ra được manh mối gì sao?”.

Tiền Bính nhíu mày nói:

“Chỉ nghe người của Trịnh gia nói, bọn người ấy đều mặc đồ màu đen, dùng cương đao, khi xông vào không hề mở miệng, cho nên ấn tượng để lại rất mơ hồ”.

Hồ Bách Linh nói:

“Tốt, hai vị hiền đệ đã cực khổ, các người hãy nghỉ ngơi”.

Hồ Bách Linh nhìn Vạn Ánh Hà, Văn Thiên Sinh trên mặt cũng lo lắng, thì cười nói:

“Chuyện chẳng có gì lớn, không khó giải quyết, các con cũng đi nghỉ”.

Cái chết của Trịnh tiêu đầu ở Lạc Dương khiến cho Hồ Bách Linh trong lòng bất an, suốt hai ba ngày tinh thần không yên, nhưng chuyện này không thể bạn bạc với mọi người, chỉ để ở trong lòng.

Hôm nay, Chung Nhất Hào không nén được, nói với Hồ Bách Linh:

“Thấy minh chủ mấy ngày hôm nay mày chau ủ dột, trong lòng chắc có chuyện khó xử …”Hồ Bách Linh nhìn Chung Nhất Hào không đáp.

Chung Nhất Hào lại nói:

“Minh chủ là chủ của lục lâm, rất nhiều chuyện phải do minh chủ giải quyết, có chuyện chi bằng hãy nói ra để cho mọi người cùng tìm đối sách, minh chủ cần gì phải suy nghĩ một mình?”.

Hồ Bách Linh gật đầu nói:

“Đa tạ đã quan tâm, chỉ là chuyện này quá bất ngờ khiến cho người ta không nghĩ tới, nói ra cũng chẳng ích gì, nếu như chuyện này quả thực cần đến mọi người, ta sẽ tự nói, giờ đây chúng ta cùng hưởng vinh nhục, làm việc cần gì phải khách sáo nữa?”.

Chung Nhất Hào cũng gật đầu nói:

“Tuy minh chủ nói như thế, song tại hạ chỉ nghĩ có thể minh chủ, nếu như trong lòng minh chủ đã có tính toán khác, vậy minh chủ hãy cứ xử lý theo ý mình”. Ngừng một lúc rồi nói:

“Mấy hôm nay lá đỏ đáng rất đẹp, minh chủ sao không thưởng ngoạn một phen để giải sầu?”.

Cốc Hàn Hương ngồi một bên nói:

“Đúng thế, đại ca sao không nghe lời Chung gia đến Tiền Sơn du ngoạn?”.

Hồ Bách Linh quay mặt hỏi:

“Vậy Hương muội có đi không?”.

Cốc Hàn Hương nhìn Hồ Bách Linh nói:

“Nếu đại ca có hứng, tiểu muội sẽ phụng bồi …” rồi hơi trầm ngâm một lát, nói:

“Hãy gọi Hà nhi và Thiên Sinh cùng đi”.

Thế là Hồ Bách Linh, Chung Nhất Hào, Cốc Hàn Hương, Vạn Ánh Hà, Văn Thiên Sinh một hàng năm người chậm bước vào trong cốc, đi về phía Tiền Sơn.

Đi được một đoạn đường, thấy lối ra, ở lối ra có ba ngã rẽ, ở nơi họ đang đứng lá đỏ như son, vừa diễm lệ mà hùng vĩ, khiến cho ai nấy đều thoải mái trong lòng.

Mọi người đang ngắm nhìn, bỗng nhiên thấy ở lối rẽ bên phải có bụi tung lên.

Chung Nhất Hào nói:

“Minh chủ, hình như có người đến”.

Hồ Bách Linh gật đầu nói:

“Không sai, có người đến”.

Bụi tung lên, lại vang lên tiếng vó ngựa, gấp gáp lạ thường.

Bọn họ bước về phía trước, leo lên một ngọn đồi nhỏ, đưa mắt nhìn ra, chỉ thấy trên con đường núi có hai thớt ngựa khỏe phóng nhanh tới.

Trong chốc lát hai thớt ngựa đã đến gần ngọn đồi nhỏ, Chung Nhất Hào nói:

“Là Khương lão đại” nói xong người đã vọt xuống.

Hồ Bách Linh cũng cảm thấy ngạc nhiên, tung mình nhảy xuống.

Đó là hai người Suất Vân Long Khương Hoằng và Phú Hỏa Long Lưu Chấn đi Giang Nam quay về.

Vốn là Hồ Bách Linh phái Giang Bắc Ngũ Long chia nhau đi các nơi trong vòng một tháng, điều tra phản ứng ở bên ngoài, hôm qua Nhập Vân Long Tiền Bính, Đa Trảo Long Lý Kiệt đã từ Lạc Dương quay về Mê Tông Cốc.

Hồ Bách Linh nhìn thấy Khương Hoằng quay về, lại nhìn Lưu Chấn, người thì nằm bẹp trên yên ngựa, hình như bị nội thương, Hồ Bách Linh bước về phía trước, một tay nâng cằm Phú Hỏa Long lên nhìn, chỉ thấy hai mắt của y vô thần, mặt mũi tái mét, thế rồi mới hỏi:

“Y đã bị người ta điểm huyệt đạo, sao đệ không giải khai, chả lẽ đã động thủ với người ta hay sao?”.

Suất Vân Long Khương Hoằng mặt lộ vẻ áy náy, nói:

“Chuyện này mong đại ca thứ lỗi, huyệt đạo của lão ngũ là bởi Khương Hoằng này điểm”.

Lời này của y thật bất ngờ, Giang Bắc Ngũ Long của bọn họ tình như thủ túc, thế mà y cớ gì lại điểm huyệt đạo của lão ngũ? Cho nên y vừa nói ra, mọi người không hẹn mà đều quay mặt nhìn y.

Suất Vân Long Khương Hoằng nói:

“Lão ngũ quá nóng nảy, đệ điểm huyệt đạo của y là chuyện bất đắc dĩ, điều này …

Chung Nhất Hào nói:

“Lẽ nào trên đường xảy ra chuyện?”.

Khương Hoằng nói:

“Không phải xảy ra trên đường mà ở Giang Tây”.

Hồ Bách Linh lúc ấy mới thất kinh, nhử thầm, chả lẽ trong thiên hạ lại có chuyện khéo như thế, sớm không xảy ra, muộn không xảy ra, sao lại xảy ra không cùng một lúc?


Chàng trong lòng lo lắng, nhưng là minh chủ lục lâm, cho nên không tỏ ra mặt, để tránh ảnh hưởng tới toàn cuộc, thế rồi mới an ủi Khương Hoằng:

“Đệ trên đường đã cực nhọc, chi bằng hãy ngồi xuống nghỉ một lát, rồi hãy nói chuyện này”. Nói xong thì đến chỗ Lưu Chấn, đưa tay ra vỗ vào vai trái của y, Lưu Chấn bừng tỉnh, vừa thấy Hồ Bách Linh, thì liền nhìn về phía Suất Vân Long Khương Hoằng nói:

“Đại ca, lão đại thật hiếp người quá đáng, nếu như không vì đại ca, Phú Hỏa Long sẽ …”.

Hồ Bách Linh biết y là người nóng nảy, chỉ vỗ vai y rồi an ủi:

“Ngũ đệ, đệ hay ngồi xuống nghỉ ngơi một chốc, huynh đệ các người tình như thủ túc, có chuyện gì nói không được?”.

Phú Hỏa Long Lưu Chấn đang tức giận, vung tay dặm chân, gi một đứa trẻ bị mắng oan.

Cốc Hàn Hương mỉm cười, bước tới, nói:

“Ngũ đệ, đừng quá bực tức, đại ca của đệ sẽ không bức hiếp đệ, y có lẽ có nỗi khổ bất đắc dĩ …”.

Phú Hỏa Long nhìn Cốc Hàn Hương, nói:

“Y mà không bức hiêp đệ, y giúp người ngoài, không để cho đệ trừng trị bọn chúng, bởi vì bọn chúng đã nói điều xằng bậy, thế mà còn điểm huyệt đạo của đệ, khiến cho đệ, khiến cho đệ …” nói xong một chàng thì ngồi xuống tảng đá nghỉ ngơi.

Hồ Bách Linh nhìn Cốc Hàn Hương cười, sau đó mới quay sang Suất Vân Long Khương Hoằng hỏi:

“Các người lần này đến Giang Tây, chả lẽ đã gặp phải chuyện gì sao?”.

Khương Hoằng lau mồ hôi trán, thở dài:

“Huynh đệ chúng tôi phụng lệnh đại ca, vượt qua hồ Phiên Dương, đến Nam Xương, dọc đường đều bình an, cũng không nghe nói có chuyện gì, nhưng khi chúng tôi đến Phủ Châu, lại xảy ra một chuyện bất ngờ, đại ca nhất định chắc biết Nhất tinh thần đạn Bành Tịnh …”.

Hồ Bách Linh không nói, nhưng đang lắng nghe, Chung Nhất Hào đáp:

“Không sai, trên giang hồ có nhân vật này, người này nổi tiếng nhờ “thất tinh liên châu thần đạn”, đã mở một tiêu cục ở Nam Xương, gọi là Thất Tinh tiêu cục, nghe nói mấy năm nay làm ăn rất phát đạt, đã trở thành một tiêu cục giàu có”.

Suất Vân Long Khương Hoằng nói:

“Chung đại ca nói đúng, Thất Tinh tịêu cục của y không những là đệ nhất tiêu cục ở Giang Tây, mà cũng nổi tiếng sang cả vùng bắc Việt Bát Bân, lần này ở Phúc Kiến gặp hạn hán, thân sĩ trong toàn tỉnh Giang Tây đã quyên góp được hai chục vạn lượng bạc, đưa đến cứu tế, nhưng vì sợ giữa đường xảy ra chuyện, cho nên đã nhờ Thất Tinh tịêu cục áp giải. Thất Tinh Thần Đạn rốt cuộc không hổ là một bậc cao nhân, y cũng cảm thấy trách nhiệm không nhẹ, cho nên mới chia hai chục vạn lượng ấy ra làm hai, một nửa là do hai người con trai của y hộ tống, một nửa thì đích thân ra tay … nghe nói con đường từ Giang Tây đến Phúc Kiến vốn rất bình an, không cần nói do hai đứa con trai của ông đích thân áp giải, chỉ dựa vào lá cờ Thất Tinh cũng đã vượt qua mọi rủi ro, nào ngờ lần này lại để ra sơ hở, khi tiêu xa của Thất Tinh tiêu cục đến Quảng Tinh thì cả ba người đều bị cướp xe tiêu …

Cốc Hàn Hương nghe nói mà giận dữ:

“Bạc này là dùng để cứu người, sao lại có người độc ác đến thế, không màng đến hàng trăm vạn dân đang đau khổ, cướp đi món tiền này? Thực đáng chết”.

Hồ Bách Linh nhìn Suất Vân Long Khương Hoằng nói:

“Chắc sau khi các người đến Phủ Châu, chuyện này mới xảy ra?”.

Khương Hoằng nói:

“Đại ca nói phải, sau khi đệ và lão ngũ đến Phủ Châu, chỉ cảm thấy những người mang theo binh khí quả thực không ít, lúc đó cũng không ngờ rằng xảy ra biến cố này, bọn đệ cũng theo những người này dạo phố, sau đó vào một tửu quán, phía đối diện có bốn đại hán, nhìn cách ăn mặc là biết người của tiêu cục, bọn chúng tôi ngồi xuống thì liền nghe một người cao gầy nói:

“Chuyện của lão bản chúng tôi, ba vị thấy đấy, không ai dám chạm vào!” một trung niên lắc đầu, nói:

“Không thể, Đông gia chúng tôi cũng không phải là nhân vật không tên không hiệu, vả lại gần đây ông ta chưa hề đắc tội với ai …” người cao gầy lại nói:

“Gần đây lục lâm trên giang hồ vừa mới lập minh chủ, chuyện này chúng tôi e rằng có lẽ là có bàn tay của minh chủ lục lâm, muốn hạ uy chúng ta”. Trung niên khác lại nói:

“Theo ý tiểu đệ, chuyện này không phải là hành vi của họ, lần trước có người đến tiêu cục chúng tôi, nói chuyện minh chủ lục lâm của lần này, quả là phúc của võ lâm, lại nói người này vừa mới trở thành minh chủ đã đặt ra bốn điều giới luật, bốn điều giới luật này rất quang minh chính đại, cho nên không thể làm những chuyện như thế được”. người cao gầy hừ một tiếng nói:

“Sao lại có lọai cường đạo có thiện tâm như thế?” lúc ấy trong lòng đệ có tính toán khác, định rằng từ miệng bốn người này để dò hỏi manh mối, nhưng lão ngũ ngu ngốc này vừa nghe người cao gầy nói như thế thì liền muốn động thủ …”.

Phú Hỏa Long Lưu Chấn mặt nổi gân xanh đứng dậy, cãi lại:

“Đệ ngu ngốc, huynh nghe bọn chúng mắng đại ca, thế mà không cho đệ đánh gãy vài cái răng của chúng, chả lẽ huynh không ngốc?” y quay sang nhìn Cốc Hàn Hương, cười nói:

“Đại ca nói rất phải, lão ngũ này tình tình ngay thẳng, không thể để cho đại ca bị người ta mắng …”.

Hồ Bách Linh hiểu rõ tính tình của Giang Bắc Ngũ Long, thế rồi mới giả vờ trách Suất Vân Long Khương Hoằng:

“Ngũ đệ nói rất có lý, nếu như lúc ấy đệ có dụng tâm gì cũng phải thương lượng trước với y, chả lã đệ còn không biết lão ngũ là người thẳng tính hay sao?” dừng một lát rồi lại nói:

“Sau đó thì thế nào?”.

Mấy lời ấy của Lãnh diện Diêm La khiến cho Lưu Chấn mừng hớn hở.

Suất Vân Long biết dụng tâm của minh chủ, cũng nhoẻn miệng cười với Lưu Chấn, tiếp tục nói:

“Vì sự việc quá bất ngờ, cho nên không thể bàn bạc với lão ngũ trước. Lại có một người nói:

“Trước khi sự việc chưa rõ ràng, chúng ta không nên gây phiền toái cho Đông gia”. Người cao gầy cười mà nói rằng:

“Không phải lão đệ nói khó nghe, chỉ dựa vào hai vị, bữa cơm này không nên ăn nữa, chúng ta làm nghề này, vẫn là trên đầu đao có dính máu, có mấy người định kết bằng hữu với hắc đạo, chúng ta mặc y là minh chủ lục lâm, cường đạo hắc lâm, cướp tiêu hay cường đạo, ngày mốt Đông gia sẽ đến đây, đến lúc ấy, các người sẽ tin rằng lời của huynh đệ không phải là giả”. Bọn họ nói đến đây, tiểu đề thấy mặt lão ngũ biến sắc, biết nếu không đi, y chắc chắn không nén giận được, cho nên lúc đó đệ đã kéo y ra khỏi quán:.

Phú Hỏa Long Lưu Chấn lại muốn đứng lên, Khương Hoằng không để y lên tiếng, nói tiếp, đệ nghĩ, nếu Thất Tinh Thần Đạn Bành Tịnh sắp đến, chi bằng mình cứ ở lại Phủ Châu thêm vài ngày, xem y sẽ giải quyết thế nào”.

Suất Vân Long nói đến đây, Lưu Chấn đứng một bên gào lên:

“Y xử lý cái rắm, càng nói càng khiến lão ngũ này thêm bực …”.

Chung Nhất Hào nói:

“Khương lão đại, Thất Tinh Thần Đạn ấy nói thế nào?”.

Suất Vân Long Khương Hoằng nói:

“Trưa ngày thứ ba, trong thành Phủ CHâu quả nhiên có xuất hiện mười hai thớt khoái mã, đó là bọn người Bành Tịnh, người của Thất Tinh tiêu cục tại Phủ CHâu đã đón bọn họ đến một tửu quán tên là Cao Bảo lâu, đệ cũng dắt theo lão ngũ đến chọn một chỗ ngồi để nghe bọn nói gì, nhưng lần này đệ nhắc nhở lão ngũ rằng, bảo y đừng la lối”. Dừng một lát rồi lại nói:

“Thất Tinh Thần Đạn xử lý việc này rất thỏa đáng, y không lên tiếng mà chỉ nghe từng tiêu sư một báo cáo …”.

Vạn Ánh Hà ngồi một bên hỏi:

“Vậy hai đứa con trai của y?”.

Phú Hỏa Long nói:

“Đã bị người ta đả thương”.

Khương Hoằng ngừng một lát rồi nói:

“Những tiêu sư này toàn những điều không có liên quan, một lát sau Thất Tinh Thần Đạn Bành Tịnh mới lên tiếng, y không điều tra, chỉ hỏi diện mạo, y phục và binh khí của đối phương! Nghe nói trong ba n. có hai người dùng kiếm, một người tuổi rất trẻ, một người lại là lão già râu bạc, còn người khác là …” y nhất thời không nói được nữa.

Chung Nhất Hào hỏi dấn tới:

“Lại là thế nào?”.

Khương Hoằng lung túng nói:

“Người ấy sử dụng binh khí giống như đại ca”.

Cốc Hàn Hương kêu ối chào một tiếng, nói:

“Sao, binh khí của y sao lại giống đại ca?”.

Chung Nhất Hào hỏi:

“Vậy tướng mạo, y phục của người ấy, có ai thấy rõ không?”.

Suất Vân Long Khương Hoằng nói:

“Nói ra càng khiến người ta bực bội, kẻ này che mặt bằng vải đen, cho nên không ai thấy được diện mạo của y, song nghe nói, thân hình rất cao lớn”.

Hồ Bách Linh kêu ồ một tiếng.

Khương Hoằng lại nói tiếp:

“Khi cướp tiêu, người này chỉ đứng một bên, không ra tay, sau đó chỉ hơi nhúc nhích, hình như người này là đầu lĩnh trong số ba người”.

Hồ Bách Linh nhìn sang Chung Nhất Hào nói:

“Mấy năm nay ta ít đi lại trên giang hồ, cho nên chắc đệ rõ chuyện hơn ta, đệ hãy xem, có ai dùng binh khí giống như ta?”.

Chung Nhất Hào nhíu mày một lát sau, lắc đầu:

“Không phải tiểu đệ tự khoác lác, mấy năm nay đệ biết rất nhiều nhân vật, ngoại trừ minh chủ chưa bao giờ gặp người như thế, vả lại ba người bọn họ nếu có thể đả thương hai đứa con trai của Thất Tinh Thần Đạn, võ công nhất định không kém, không giống như người bình thường, song đệ chưa bao giờ nghe nói tới”.

Hồ Bách Linh trầm tư một lát, cũng không có manh mối gì, thế rồi lại hỏi Khương Hoằng:

“Vậy Thất Tinh Thần Đạn nói thế nào?”.

Suất Vân Long Khương Hoằng nói:

“Bọn họ cũng suy đoán là nhân vật ở phía nào làm, thương lượng một lúc lâu cũng chẳng có kq gì, nhưng một tên mập mặt tía nói:

“Theo ta thấy, hiện nay trên võ lâm, người sử dụng gậy và kiếm chỉ có Lãnh diện Diêm La, mà Hồ Bách Linh vừa mới trở thành minh chủ của lục lâm, sự việc này quả thực khiến người ta nghi ngờ”. Lại một người nữa nói:

“Hồ Bách Linh trah đọat chức minh chủ lục lâm vốn là muốn vực dậy đạo nghĩa giang hồ, mở một con đừng sáng cho lục lâm, nghe nói đã có được thành tựu, theo tiểu đệ thấy, y chắc không làm như thế”. Lúc này Thất Tinh Thần Đạn lại nói:

“Bành Tịnh này tự tin, chua bao giờ đắc tội bằng hữu trên giang hồ, các vị ngồi ở đây, cũng chưa bao giờ kết thù chuốc oán trên giang hồ, chuyện này khiến cho người ta khó hiểu, nhưng không thể không điều tra, phải biết rằng số bạc này có quan hệ đến tính mạng của hàng vạn dân, nếu như không tìm ra được số bạc, ta không những không thể đứng chân trên giang hồ, mà cũng không còn mặt mũi gì nhìn muôn dân đang lầm than, giờ đây chỉ có hai con đường, thứ nhất là, may mà số hàng này nhiều không dễ giấu, chỉ cần chúng ta phái người đi điều tra là được, thứ hai, mặc dù ba kẻ này không để lại giấu vết gì, nhưng chúng ta đã biết được hình dạng của bọn chúng, chúng ta cứ bắt đầu từ manh mối này, có lẽ sẽ tìm ra được”. kẻ cao ốm đã gặp mấy ngày trước nói:

“Bẩm tiêu chủ, theo tiểu nhân thấy, chuyện này tám phần là hành vi của minh chủ lục lâm”.

Thất Tinh Thần Đạn ấy hỏi:

“Sao ngươi lại đoán đó là hành vi của bọn họ?”.

Kẻ cao gầy lại nói:

“Tiêu chủ chắc không nghĩ rằng, Lãnh diện Diêm La này đã từng quy ẩn giang hồ, lần này xuất hiện lại đoạt được chức minh chủ lục lâm, y nhất định sẽ làm hai điều, một là sẽ lậy uy tín trong nội bộ mới có thể chế phục người khác, cho nên không thể không ra tay một đôi lần, thứ hai là muốn khoa trương thân thế với người ngoài, đương nhiên cũng phải làm một đôi chuyện thất thường để cho người ta biết đến uy phong của minh chủ lục lâm, hơn nữa y không thể tay không mà làm vua, không có vốn thì chẳng làm được chuyện gì, cho nên tiểu đệ đoán rằng tám phần là do bọn họ làm …”.

Thất Tinh Thần Đạn nghe người ấy nói, cười ha ha nói:

“Hay cho Lãnh diện Diêm La, Bành mỗ này với ngươi nước sông không phạm nước giếng, ngày trước không có oán, ngày nay không có thù, thế mà ngươi lại động đến ta, chả lẽ Thất Tinh Thần Đạn này thua ngươi hay sao! Hừ hừ, ngươi đã sai rồi …”.

Hồ Bách Linh nghe thế thì lạnh nhạt hừ một tiếng, nói:

“Kẻ này không hiểu lý lẽ như thế, xem ra rất khó giải thích với y …”.

Chung Nhất Hào nhìn Hồ Bách Linh nói:

“Kẻ này dám ngậm máu phun người như thế, lúc đấy, ta sẽ lãnh giáo tuyệt học “Thất tinh thần đạn” của y …”.

Hồ Bách Linh nói:

“Chuyện này tuy khó giải thích, nhưng cũng phải thu xếp cho ổn thỏa”. Nói xong thì quay sang Khương Hoằng:

“Sau đó bọn chúng còn nói gì nữa?”.

Suất Vân Long Khương Hoằng nói:

“Sau đó lại còn điều tra tất cả các nhân vật ở chốn lục lâm, vẫn không có manh mối gì, cho nên càng nghi ngờ chúng ta hơn, người cao gầy ấy lại nói thêm mấy câu đổ dầu vào lửa”.

Cốc Hàn Hương bực dọc nói:

“Y rốt cuộc đã nói gì?”.

Khương Hoằng nói:

“Y nói giang hồ dễ đổi, bản tính khó dời, đại ca tuy có lòng chỉnh đốn lục lâm nhưng phẩm cách trời sinh, nào có thể đổi được, y còn nói những lời không tốt, nhưng lão ngũ không nén giận được cho nên giơ quyền định đánh”.

Cốc Hàn Hương nói:

“Ngôi Cao Bảo lâu ấy là phạm vi thế lực của bọn chúng, lão ngũ thật không hiểu chuyện, động thủ có ích gì?”.

Khương Hoằng nói:

“Đệ vừa thấy lão ngũ như thế, cho nên đã cầm đũa điểm huyệt lão ngũ”.

Chung Nhất Hào nói:

“Khi ấy đang ở trước mặt bọn họ, bọn họ có nghi ngờ không?”.

Suất Vân Long Khương Hoằng nói:

“Điểm này đệ cũng biết, ở đó có nhiều cao thủ, nếu ra tay không cẩn thận thì bị chúng nhìn thấy lúc đó sẽ phiền toái nhiều, cho nên đệ giả vờ làm đổ chén rượu, mượn cơ hội lau rượu trên mình y, trong khoảnh khắc đã điểm huyệt y, rồi bảo:

“Đã bảo đừng uống nhiều thế mà lại uống say, đi, chúng ta về thôi, Quế nhi đang chờ chúng ta ăn cơm ở nhà”. Đệ vừa nói, vừa kéo y trở về, cho nên bọn Thất Tinh Thần Đạn mới không phát hiện thân phận của bọn đệ …”.

Hồ Bách Linh gật đầu nói:

“Chuyện này đệ làm rất tốt, tuổi tác cao thì hiểu biết nhiều”.

Phú Hỏa Long Lưu Chấn không đợi Hồ Bách Linh nói xong, thì gào lên:

“Y để cho người ta mắng đại ca, mà còn bảo là làm đúng, đệ thấy đại ca bị người ta mắng thì tức giận thế mà lại sai”.

Hồ Bách Linh cười mà an ủi rằng:

“Ngũ đệ hào sảng, tâm địa lại tốt, đại ca biết, đệ không nên khó chịu, lần này hai đệ đã cực nhọc, tối nay chúng ta sẽ uống hai chum để tẩy trần cho các đệ …”.

Phú Hỏa Long nghe đại ca sẽ uống cùng y hai chum, đó là chuyện chưa bao giờ có, trong lòng vui mừng, quên hết những chuyện buồn bực trong lòng.

Tối đến, Hồ Bách Linh chuẩn bị mấy món ăn, mời Suất Vân Long Khương Hoằng, Nhập Vân Long Tiền Bính, Đa Trảo Long Lý Kiệt, Phú Hỏa Long Lưu Chấn vào trong nhà đàm đạo.

Hồ Bách Linh nhìn Giang Bắc Tứ Long ngồi quanh, nói:

“Các vị huynh đệ bình an quay về, chỉ có lão tam đến vùng Tam Tương vẫn chưa trở lại, ngu huynh rất mong nhớ”.

Suất Vân Long Khương Hoằng nói:

“Điều này đại ca hãy yên tâm, lão tam thông minh tài cán, hiểu biết nhiều, sẽ không xảy ra chuyện gì, thời gian nhất định của chúng ta đã đến, đêm nay không về, ngày mai chắc chắn sẽ về”.

Phú Hỏa Long vì Hồ Bách Linh phá lệ mời bọn họ uống rượu, trong lòng rất vui, nói:

“Đại ca hãy yên tâm, cả Phú Hỏa Long này mà không đi lạc được, tam ca càng không thể …”.

Đột nhiên, ở phía ngoài có tiếng huyên náo, Hồ Bách Linh đặt chén rượu xuống lắng nghe, nói:

“Có người đến …”.

Cốc Hàn Hương ôm đứa trẻ, chậm rãi bước vào nói:

“Có lẽ tam đệ quay về”.

Mọi người im lặng, tiếng vó ngựa dần dần truyền đến, lại còn có cả tiếng chuông, trong chốc lát tiếng vó ngựa đã đến cửa, lại một lát sau, Phi Thiên Long Hà Tông Huy bước vào nhà, trước tiên thỉnh an phu phụ Hồ Bách Linh, sau đó mới chào hỏi bọn Khương Hoằng rồi mới ngồi vào chỗ.

Phi Thiên Long uống ba chén rượu, quay sang Hồ Bách Linh nói:

“Đại ca, lần này tiểu đệ phụng mệnh đến Tam Giang, Hòanh Dương, sau đó quay sang Tương Đàm, đến Trường Sa, trên đường vẫn bình an”.

Hồ Bách Linh gật nhẹ đầu, không lên tiếng.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.