Thiên Hương Tiêu

Chương 29: Tam diệu thư sinh khổ luyện tuyệt nghệ


Đọc truyện Thiên Hương Tiêu – Chương 29: Tam diệu thư sinh khổ luyện tuyệt nghệ

Người ở trong trường không dưới bảy mươi, mọi người đều vây quanh trước vách đá, lặng lẽ nhìn Phong Thu và bọn quái nhân dọn đất đá, trên mặt ai nấy đều lộ vẻ tiếc thương.

Bao Cửu Phong thì càng lo lắng hơn, nước mắt tuôn rơi, chỉ huy đám quái nhân tiếp tục đào bới.

Tiếng khóc thút thít của đám thiếu nữ áo xanh càng lúc càng rõ, càng lúc càng bi thảm, những người còn lại đều muốn bọn chúng nín khóc, nhưng không ai muốn lên tiếng ngăn cản bọn chúng.

Đột nhiên, đám quái nhân ba cánh tay đến một bên có người phát ra tiếng khóc hu hu, trong chớp mắt, tất cả bọn quái nhân ba cánh tay đều khóc òa lên, cả những kẻ đang đào bới cũng thế.

Đám người này bên ngoài trông rất quái dị, tiếng khóc càng khó nghe hơn, cứ giống như ma khóc quỷ gào vậy.

Đám loạn thạch ở cửa hang đã được dọn dẹp, Phong Thu và hai quái nhân ba cánh tay đã đào được một cái lỗ sâu một thước, vì cửa hang rộng không quá một trượng, cho nên những người khác không giúp được, chỉ lui sang một bên.

Nhân Ma Ngũ Độc bước tớ phía trước, thấy đống loạn thách vừa mới cào ra, thì đống đá ở phía trong lại dồn ra nữa, vì thế bước tới một bên, hai tay áo phất lên, một luồng cuồng phong quét tới.

Đống lọan thạch ở dưới đất bị luồng cuồng phong của y cuốn lên, bay sang một bên.

Quỷ Lão Thủy Hàn thấy đám người ba cánh tay ấy gào khóc không ngừng, đột nhiên cảm thấy bực bội, y muốn trút giận lên mình những quái nhân ấy, đột nhiên đổi ý, nói với Bao Cửu Phong:

“Này, ông già hãy mau bảo đám quái vật này câm miệng, nếu không lão phu một chưởng một tên giết chết tất cả!

Bao Cửu Phong đang lúc đau lòng, nghe thế thì ngẩng đầu nhìn về phía Quỷ Lão Thủy Hàn, môi mấp máy.

Quỷ Lão Thủy Hàn tức giận nói:

“Ngươi nhìn ta làm gì, không muốn sống nữa hay sao!”.

Chợt nghe Bàng Sĩ Xung lạnh lùng nói:

“Y là kẻ câm …”.

Quỷ Lão Thủy Hàn chợt nổi giận, bước về phía Bàng Sĩ Xung, gằng giọng nói:

“Lão thất phu, y là kẻ câm, chả lẽ cũng điếc nữa hay sao?”.

Nhân Ma Ngũ Độc đột nhiên lạnh lùng nói:

“Thủy huynh, Cốc Hàn Hương đã chết, chả lẽ bọn chúng cũng không được sao?”.

Lúc này tiếng khóc của đám quái nhân đã bị Bao Cửu Phong ngăn lại, tiếng thút thít của đám thiếu nữ áo xanh cũng dần dần nhỏ hơn.

Ngay lúc này, một tiếng Phật hiệu to rõ từ ở cách mấy trăm trượng truyền tới.

Chỉ thấy sau bụi hoa, hai nhà sư già bước ra, người đi phía trước trên vai vác một cây thiền trượng, người đi phía sau mình mặt tăng bào đã cũ, có vá ở nhiều nơi, trong tay cầm một cây tích trượng.

Mọi người nhìn lại, bất giác đều giật mình, té ra nhà sư vai vác thiền trượng là Thiên Minh đại sư, người nổi danh trong chùa Thiếu Lâm, Thiên Minh đại sư đi lại trên giang hồ đã lâu, quần hùng có mặt ở đây quá nửa đều gặp ông ta, người đi phía sau ông ta chính là Thiên Giác đại sư, Thiên Giác đại sư tuy một đời đều đi đứng trong thiên hạ, nhưng người biết mặt ông ta thì không nhiều.

Chỉ thấy Thiên Minh đại sư bước đến gần, chắp tay về phía mọi người hành lễ, nói:

“Các vị lão thí chủ vẫn khỏe chứ, có nhớ bần tăng Thiên Minh hay không?”.

Bàng Sĩ Xung đột nhiên cười ha ha, nói:

“Thiên Giác, ngươi bày ra cạm bẫy, lão phu rất phục ngươi!” nói xong thì lại cười ha hả.

Thiên Giác đại sư mặt biến sắc, đưa mắt nhìn quần hào rồi lai nhìn về phía cửa hang.

Chợt nghe Thiên Minh đại sư nói:

“Bàng lão anh hùng, ông có thấy ả nữ đồ ấy của bần tăng …”.

Nói chưa dứt, Bao Cửu Phong và hai thiếu nữ áo xanh đột nhiên chạy tới, quỳ xuống trước mặt Thiên Minh đại sư, khóc òa lên.

Thiên Minh đại sư giật mình, hỏi:

“Sao các người lại khóc, chả lẽ Hương nhi có điều gì bất trắc hay sao?”.

Bao Cửu Phong không thể nói, mấy thiếu nữ áo xanh ấy chỉ về phía cửa hang, khóc òa lên nên không trả lời được.

Trung Hoa đại sư chậm rãi gật đầu, lẩm bẩm:

“A di đà Phật, xem bọn họ bi thương thế này, chắc là Hương nhi bình thường đối xử bọn họ không tệ …”.

Ông ta trầm ngâm nhìn xuống đất một lúc, rồi lại hạ giọng nói:

“Xem ra, Hương nhi vẫn không hề mất hết bản tính, chẳng phải Phật ta từ bi, không khiến cho nó mê muội hay sao?”.

Chợt nghe Nhân Ma Ngũ Độc buông giọng cười, nói:

“Thiên Minh, Cốc Hàn Hương có phải là đồ đệ của ngươi hay không?”.

Thiên Minh nhướng mắt lên nhìn sâu vào trong mắt Nhân Ma Ngũ Độc, nói:

“Nó là đệ tử ký danh của lão nạp, Ngũ thí chủ phải chăng đã thấy nó chôn thân trong đám loạn thạch này?”.

Nhân Ma Ngũ Độc gật đầu, nói:

“Ngũ Độc đã tận mắt chứng kiến ả chui vào trong hang, ngăn cản không được, xem ra đống loạn thạch này đã bít kín cửa hang”.

Y hơi ngừng lại rồi nói:

“Ngũ Độc cũng mong ả phước lớn mạng lớn, trời Phật phù hộ, nếu ả vẫn còn sống, từ nay về sau Ngũ Độc cũng ăn chay niệm kinh không làm chuyện xấu nữa”.

Chợt nghe Bàng Sĩ Xung lạnh lùng nói:

“Thiên Minh, ngươi hãy mau đọc kinh siêu độ để cho vong hồn đệ tử của ngươi …” y càng lúc càng chán nản, càng nói càng cảm thấy vô vị, nói chưa xong thì đột nhiên im bặt.

Quỷ Lão Thủy Hàn nhìn chằm chằm vào cửa hang, đột nhiên nói:

“Để mấy lão già không chết chúng ta thi triển chút công phu, có lẽ ả nha đầu Cốc Hàn Hương đại nạn không chết, gặp được cơ duyên”.

Thiên Minh đại sư điềm nhiên cười, quay đầu nhìn Bàng Sĩ Xung nói:

“Bàng lão anh hùng có thể giúp cho một tay hay không?”.

Bàng Sĩ Xung cười lớn, phóng người đến chỗ Thiên Minh đại sư, Nhân Ma Ngũ Độc cũng đứng phía bên cạnh Quỷ Lão Thủy Hàn, bốn người mặt quay về cửa hang.

Bốn người lặng lẽ đứng sánh vai một lúc sau, Bàng Sĩ Xung trước tiên phất ra một chưởng, chậm rãi đẩy về phía cửa hang, tiếp theo thuyết minh đại sư hai chưởng mở ra, Quỷ Lão Thủy Hàn và Nhân Ma Ngũ Độc cũng giơ bốn chưởng lên, đồng thời đẩy về phía cửa hang, ai nấy đều trầm mặt đẩy luồng công lực kinh thế hãi tục của mình hóa thành một nguồn ám kình dồn về phía cửa hang.

Đột nhiên, Phong Thu từ cửa hang phóng vọt ra, hạ xuống cách đó bốn năm trượng.

Chợt nghe Nhân Ma Ngũ Độc quát lớn một tiếng:

“Lên!” thanh âm vừa dứt, bốn người Thiên Minh đại sư, Bàng Sĩ Xung, Quỷ Lão Thủy Hàn và Nhân Ma Ngũ Độc đã phóng vọt người lên đến mấy trượng.

Dừng lại trong khoảnh khắc, một tiếng ầm ầm vang lên, đống loạn thạch bít kín cửa hang đột nhiên rung rinh, rồi từ trong cửa hang tuôn ra ào ào như đê vỡ.

Uy thế của bốn người này thật kinh hãi, chỉ thấy loạn thạch từ trong hang tuôn ra đến hơn ba trượng, cho đến nửa tuần trà thì mới bắt đầu ngừng lại.

Trước cửa động bụi bay mù mịt, đất đá vẫn từ trong động đa phần ánh mắt đều sáng như đuốc, có thể nhìn thấu vào trong bức màn cát bụi ấy, bọn Bàng Sĩ Xung và Thiên Minh đại sư đều đã thấy cái hang ấy sâu lạ thường, ít nhất cũng phải đến năm trượng.

Mọi người nhìn đống loạn thạch tuôn ra, vẫn không thấy thi thể của Cốc Hàn Hương, trong lòng ai nấy đều nhủ rằng có lẽ nàng đã thoát chết được, lúc này nhìn lại trong hang lại có hang, mới càng tin rằng nàng đã vào được chỗ để bảo vật.

Nhân Ma Ngũ Độc thầm nhủ:

“Mình phải vào trước, không thể nào đi sau người ta được!”.

Yù nghĩ ấy lướt qua, lập tức ngưng tụ công lực ở chưởng phải, thầm đề một luồng chân khí, không đợi bụi trong hang tan bớt, lập tức nhún hai chân một cái, phóng vọt người vào trong hang.

Y vừa mới rời khỏi mặt đất, đột nhiên cảm thấy phía sau nổi gió, chỉ nghe Quỷ Lão Thủy Hàn quát lên:

“Ngũ huynh coi chừng!”.

Nhân Ma Ngũ Độc vừa kinh vừa sợ, thân người hạ xuống, vặn eo một cái, phất giác Phong Thu đã lao tới, đôi chưởng đỏ chói giáng xuống đầu của mình.

“Huyết thủ ấn” của Phong Thu quả thật không thể coi thường, Nhân Ma Ngũ Độc nổi giận phất tay đẩy một luồng “Hàn âm thần công” về phía Phong Thu.

Nào ngờ, Phong Thu thần trí tuy không tỉnh táo, nhưng vì trong lòng không hề có tạp niệm, võ công một ngày đã tăng thêm ngàn dặm, đột nhiên phóng tới, lúc này thấy chưởng thế của y thay đổi, lật bàn tay lại, xỉa ngón tay vào chưởng tâm của Nhân Ma Ngũ Độc, thân hình vẫn không hề chậm chạp, trong chớp mắt đã phóng vọt qua đỉnh đầu của Nhân Ma Ngũ Độc.

Nhân Ma Ngũ Độc không có chỗ trút giận, thấy mình sắp bị một chưởng của Phong Thu đánh chết, ngón tay của Phong Thu lại xé gió đâm xuống huyệt lao cung trên lòng bàn tay của mình, xem ra y thực sự muốn giết chết mình, chỉ đành cố nén cơn giận, hai chân nhún một cái lách ra một thước.

Y đứng chưa vững thì Phong Thu đã phóng tới gần cửa hang, chân chưa chạm tới đất, hai tay phất lên một cái, trong chớp mắt đã lao vào trong hang.

Chợt hai tiếng vút vút vang lên, Bàng Sĩ Xung và Quỷ Lão Thủy Hàn phóng vào trong hang.

Nhân Ma Ngũ Độc thấy Độc Hỏa Thành Toàn và Âm Thủ Nhất Ma phóng người vọt lên, cũng lao tới, vọt vào trong cửa hang.

Thiên Minh đại sư thấy đám ma đầu ấy ai cũng tranh nhau phóng vào trong hang, vội vàng nói với Thiên Giác đại sư:

“Sư đệ, chúng ta hãy vào xem thử, đừng để bọn họ làm tổn thương Hàn Hương”.

Thiên Giác đại sư cười, nói:

“Sư huynh đừng lo, Phong Thu ấy đã đi phía trước, Hương nhi của sư huynh sẽ an toàn”.

Lại nói Bàng Sĩ Xung và Quỷ Lão Thủy Hàn đuổi theo Phong Thu vào trong hang, cách khoảng năm trượng, đối với mấy người này mà nói, chỉ lách người một cái là đã tới, nào ngờ hai người đứng chưa vững thì đã phát giác ở cuối hang, phía dưới đất có một cửa hang rộng khoảng sáu thước, Phong Thu cúi người nhìn xuống, lập tức tung người nhảy xuống.

Hai người chạy đến cửa hang, cúi đầu nhìn xuống, không khỏi đưa mắt nhìn nhau, không hề nói tiếng nào.

Té ra cái hang này tựa như một cái giếng khô, phía dưới âm u không hề thấy đáy, ánh mắt hai người tuy có thể thấy được cái kim rơi dưới đất trong bóng tối, nhưng vẫn không nhìn ra ở dưới đáy hang rốt cuộc như thế nào.

Trong chớp mắt, Nhân Ma Ngũ Độc, Độc Hỏa Thành Toàn, Âm Thủ Nhất Ma cùng với Thiên Minh, Thiên Giác đại sư nối đuôi nhau tiến vào đứng vây quanh cái hang ấy.

Nhân Ma Ngũ Độc đột nhiên cười khan một tiếng, đưa mắt nhìn Bàng Sĩ Xung nói:

“Lão họ Bàng kia, ngươi sớm muộn cũng thoát không khỏi chưởng của Ngũ Độc, dù sao cũng chết, chi bằng ngươi hãy xuống trước”.

Bàng Sĩ Xung trợn mắt, lạnh lùng nói:

“Lão thất phu, chỉ e là lòai chuột vô sĩ lại giở trò, như thế thì chết cũng không đáng”.

Nói vừa xong, đột nhiên nghe bình một tiếng từ ở dưới đáy hang truyền lên.

Thiên Minh đại sư nhủ thầm:

“Nghe tiếng này, hang này cao khoảng mười trượng, nhảy xuống thì dễ dàng, nhưng lên thì lại rất khó khăn. Lại một tràng tiếng bình bình vang lên nữa.

Thiên Minh đại sư chợt quay sang Thiên Giác đại sư nói:

“Vị Phong thí chủ kia chắc chắn đã phát hiện ra lối vào, đang dùng chưởng lực phá cửa, huynh nhảy xuống, sư đệ ở phía trên này, nếu như bọn Kim Dương đạo trưởng đến đây, sư đệ hãy nói rõ nguyên do để bọn họ chờ một lát”.

Chỉ nghe Quỷ Lão Thủy Hàn nói:

“Đúng vậy! Ta không vào địa ngục, thì ai vào địa ngục? Đó mới chính là bổn phận của người xuất gia”.

Thiên Minh đại sư phất tay áo một cái, tay cầm cây thiền trượng nhảy xuống.

Trong chớp mắt, Thiên Minh đại sư đã xuống tới đáy hang, chỉ thấy hai cánh cửa đá chặn ở phía trước mặt, phía trên cánh cửa đá có đề ba chữ Vấn Tâm Trai, bút lực hùng hậu, đẹp đẽ lạ thường, một luồng ánh sáng dịu dàng từ trên đỉnh hang chiếu xuống hàng chữ, Phong Thu đang đứng trước cánh cửa, từng chưởng vỗ vào.

Thiên Minh đại sư thấy Phong Thu phất chưởng không ngừng, nhưng hai cánh cửa kia chỉ hơi rung rinh, phát ra tiếng kêu ầm ầm, không hề bị suy suyễn, không khỏi nhủ thầm rằng:


“Thiết kế của kỳ nhân tiền bối quả nhiên không tầm thường, chỉ ba chữ Vấn Tâm Trai này thôi cũng đã biết tình trạng ở phía sau cánh cửa đá”.

Ông lại nhủ thầm:

“Theo lý mà nói, mình nên đuổi bọn họ đi, để cho nó tỉnh táo, một mình trong cái hang đá này, vậy thì nói nhất định có thể lấy được di vật của Tam Diệu tiền bối, âm thầm suy nghĩ, xóa bỏ ác niệm ở trong lòng, trở nên thiện lương, bỏ đi lòng khuấy động giang hồ, chỉ là …”.

Té ra Cốc Hàn Hương đã liều mạng xông vào trong hang khi cửa hang sắp bị bít kín.

Thế nhưng sau khi lọt đến Vấn Tâm Trai thì nàng lại lúng túng, trong lòng cảm thấy hối hận.

Té ra Vấn Tâm Trai này là một thạch thất rộng hai trượng, trống rỗng, đối diện cánh cửa đá là một bức tường bằng ngọc sáng lấp lánh, trên bức tường bằng ngọc này có khắc một nho sinh già ngồi nhắm mắt xếp bằng, một tay đặt trước ngực, một tay chỉ lên trời, nhìn dáng vẻ thần thái của nho sinh này, rõ ràng không phải là Tam Diệu thư sinh mà là một người khác.

Trước bức vẽ ấy, có đặt một cái ghế ngọc thấp, trên cái ghế ngọc có phủ một tấm lụa, đã ngả sang màu vàng, trên có đề bốn chữ “Tam Diệu di ngôn”.

Cốc Hàn Hương đoán rằng bức hình này chính là tổ sư của Tam Diệu thư sinh, vì thế trước tiên quỳ xuống bái lạy, sau đó ngồi xếp bằng trước cái ghế ngọc, đọc di ngôn của Tam Diệu thư sinh.

Trên di ngôn ấy của Tam Diệu thư sinh, đoạn đầu viết rằng:

“Sư môn bất hạnh, không có truyền nhân, nay tuyệt thế võ công đang chờ người có duyên …”.

Trên di ngôn ấy nói rằng, tổ sư của Tam Diệu thư sinh là một vị thái thú tài cao học rộng, vì xuất thân từ nho gia, cho nên võ công của ông ta phải từ thành ý và chính tâm, phải nhất quán theo “định, tĩnh, an, lự, đắc”, nếu không theo đúng những điều ấy, dù cho có vào cũng tay không mà ra, không được gì cả.

Cuối cùng, di ngôn ấy viết rằng:

“Hai cánh cửa đá của Vấn Tâm Trai đóng lại, không thể tùy ý mở ra, đồng thời cánh cửa đá đóng lại, thạch thất sẽ có một lối khác xuất hiện, nhưng người vào phải đợi tổ sư chỉ dẫn”.

Cốc Hàn Hương đọc xong Tam Diệu di ngôn, trong lòng đã kinh hoảng đến nỗi mồi hôi chảy ròng ròng, nàng lại nghĩ lòng mình bay giờ làm gì có thành ý với chính tâm? Mà chỉ đầy thù hận, làm sao có thể học được món võ công ấy? Cho nên không dám làm càn, chỉ đành quỳ phục trước bức hình, cầu mong tổ sư gia chỉ dẫn.

Nào ngờ nàng quỳ không lâu, đống loạn thạch bít cửa động đã bị bọn Thiên Minh đại sư hợp lực mở ra, Phong Thu đã nhảy xuống đáy, giờ này lúc này, nàng không dám nghĩ nhiều nữa, cũng không biết kẻ xông vào trước là ai, lách người tới cánh cửa, đưa tay phất một cái, đóng hai cánh cửa đá lại.

Hai cánh cửa đá vừa đóng, sau tiếng ầm ầm vang lên, hai bên bức hình ấy đột nhiên xuất hiện hai cửa nhỏ, trên một cửa có đề bốn chữ “Tẩy tâm tiểu thất”, phía trên cửa kia thì khác bốn chữ “Võ khố, văn lang”.

Nàng vốn là người thông minh tuyệt đỉnh, đã đọc thấy trên di ngôn nói rằng “Tuyệt thế thần công đang đợi người có duyên …” thì biết trước tiên phải vào trong “Tẩy tâm tiểu thất”, tẩy rửa tâm linh của mình trước, nhưng lòng nàng đầy thù hận, nếu vào trong “Tẩy tâm tiểu thất”, chắc chắn mình sẽ đổi ý, không muốn báo thù nữa, cho nên nàng vẫen chần chừ không dám chạm vào cánh của “Tẩy tâm tiểu thất”.

Nhưng trên di ngôn của Tam Diệu rõ ràng viết rằng:

“Nếu trong lòng có điều gì đáng hổ thẹn thì không thể học lén võ công”. nàng chỉ đành y theo lời chỉ bảo trên di ngôn, quỳ xuống phía trước bức hình, cầu xin tổ sư gia chỉ bảo.

Nàng tuy biết rằng, cái gọi là “Tẩy tâm tiểu thất” ấy, cái gọi là lời chỉ bảo của tổ sư gia mục đích là thay đổi khí chất của con người, thế nên nàng cố gắng giữ cho tinh thần tỉnh táo, loại trừ tạp niệm, cố gắng dùng sự thông minh tài trí của mình để tham ngộ bí mật ở trong đó. Thế nhưng, một tràng tiếng ầm ầm vang lên khiến cho nàng bực bội, thần trí không yên, không cách nào suy nghĩ được, càng lúc càng đi xa với pháp môn “định, tĩnh, an, lự, đắc”.

Đột nhiên, tiếng ầm ầm càng lúc càng lớn, lại văng vẳng tiếng nói truyền vào.

Nàng không chịu đựng được nữa, máu nóng nhộn nhạo, nàng đứng phắt dậy, mặt đầy nước mắt bước thẳng về phía cánh cửa có đề văn môn “Võ khố văn lang”.

Bình một tiếng, nàng đưa tay vỗ vào cánh cửa đá của “Võ khố văn lang”, rồi phóng người lại nghe tiếng ầm ầm vang lên ở sau lưng, quay đầu lại nhìn thì thấy cánh cửa đá nặng nề đã đóng lại.

Cốc Hàn Hương thầm nhủ:

“Động này bố trí thật tinh xảo, nơi nào cũng có hàm ý!” đang suy nghĩ thì phóng tới trước cánh cửa, đưa tay vỗ mạnh lên, quả nhiên cánh cửa bất động, tựa như đã hợp với vách hang thành một khối.

Cốc Hàn Hương thầm nhủ:

“Đã đến nước này, chết hay không chết cũng thế thôi.

Nàng gạt bỏ hết mọi suy nghĩ, quay mình lại, đưa mắy nhìn xung quanh.

Chỉ thấy nơi đang đứng là một hành lang dài thăm thẳm, trên vách tường cứ cách hơn một trượng thì có khảm một hạt minh châu, mỗi hạt minh châu đều phát ra ánh sáng dìu dịu, nhưng không hề lạnh lẽo.

Cốc Hàn Hương cất chân bú tới, phát hiện trên một cánh cửa đá có đề bốn chữ “Thưởng tâm tiểu tàng”, nàng tò mò bước tới, dùng tay đẩy lực vào cành cửa.

Chỉ nghe kẹt một tiếng nhẹ vang lên, cánh cửa đá mỏng ấy bật ra, Cốc Hàn Hương đưa mắt nhìn vào trong phòng, té ra nơi này bày rất nhiều những thứ nhạc cụ, tự họa, đồ cổ …

Căn phòng “Thưởng tâm tiểu tàng” này tuy có nhiều đồ quý giá đẹp đẽ, nhưng Cốc Hàn Hương cũng tựa như cỡi ngựa xem hoa, chỉ đứng ngoài cửa nhìn vào và lập tức xoay người đi.

Đi một đoạn nữa, là nơi giữ sách của Tam Diệu thư sinh, Cốc Hàn Hương đẩy cửa đá nhìn vào, thấy trong đó toàn là những loại sách quý ở trên đời, hầu như sách của các nhà đều tập trung ở đây, nhưng không có liên quan gì đến võ công.

Nàng không khỏi thở dài, lẩm bẩm:

“Nếu không phải vì báo thù cho đại ca, mình sẽ ở mãi trong này”.

Từ lúc bước vào căn phòng này đến đây, nàng đều để ý đến những vật trong căn phòng, lúc này tiếng táng cửa đột nhiên ngừng lại.

Một sự tĩnh lặng bất ngờ, một luồng khí lạnh chợt dâng lên trong lòng nàng, nàng rùng mình một cái rồi quay đều bước về phía trước.

Bước qua một căn mật thất, lại là nơi cất giữ những đồ quý giá mà Tam Diệu thư sinh ưa thích, Cốc Hàn Hương đứng đấy lưu luyến không muốn đi, nhìn qua một lượt các bức tranh chữ trong căn phòng, thế nhưng, nàng rốt cuộc vẫn thở dài buồn bã, xoay người bước ra ngoài.

Té ra căn phòng này ngoài những sách vở và y dược, còn có những loại thuốc khác nhau, cùng với những bình thuốc đựng đầy các loại thuốc, nàng đều nhìn qua, nhưng thấy những loại thuốc này chỉ có thể trị được bệnh chứ không giúp cho võ công của nàng tăng tiến.

Nàng tiếp tục bước về phía trước, phát giác lối đi này đã đến cúi đường, hai cánh cửa đá bít kín lối đi.

Trong khoảnh khắc, nàng trở nên lo lắng, nàng bắt đầu nghe được hơi thở của mình, nàng cũng cảm thấy tim mình đang đạp thình thình.

Hai cánh cửa đá này rất rộng lớn, phía trên cánh cửa có gắn một miếng ngọc thạch rộng bốn thước, cao khoảng một thước, bề mặt miếng ngọc thạch trơn láng vô cùng, nhưng lại chẳng có tỳ vết, xem ra chủ nhân của tòa động phủ này đã quên viết chữ ở trên miếng ngọc thạch, hoặc không biết đề chữ gì mới phải cho nên mới để trống như vậy.

Nàng trước tiên ngạc nhiên rồi lại nghiến răng, nhủ thầm:

“Mặc kệ nó có ý nghĩa gì, thà chôn xác ở đây còn hơn có tiến mà không lui”. Yù đã quyết, lập tức lách mình ra phía trước, hai chưởng vung ra đẩy vào cánh cửa đá.

Chỉ nghe một tiếng nhỏ vang lên, hai cánh cửa bật ra, Cốc Hàn Hương nhìn vào, đột nhiên thấy một văn sĩ trung niên ngồi ngay cánh cửa, hai mắt nhìn về phía nàng mỉm cười, đồng thời một tràng tiếng ầm ầm như sấm nổ từ sau cửa vang lên.

Tiếng ấy khiến cho nàng giật thót mình, toàn thân chảy mồ hôi.

Cốc Hàn Hương thối lui đến mấy trượng, sau khi đứng vững, chưa kịp nhìn thấy rõ khung cảnh trong phòng, thì hai cánh cửa chậm rãi đóng lại, đồng thời căn thông đạo cũng vang lên tiếng kêu ầm ầm, tiếng kêu ấy không biết phát ra từ nơi nào, chỉ là khi truyền vào trong tai khiến người ta phải kinh hồn, cảm thấy giống như lối thông đạo này sắp sụp xuống.

Trong khoảnh khắc, trong đầu Cốc Hàn Hương lướt qua hàng ngàn bóng người, nàng nhớ lại Hồ Bách Linh, nhớ lại Phong Thu chiếm cứ Mê Tông Cốc, vì thế mà Linh nhi cùng bọn Miêu Tố Lan, Vạn Ánh Hà phải đi tránh nạn, nàng cũng nhớ lại những thuộc hạ ở Mê Tông Cốc, đồng thời cũng nhớ lại những kẻ thù không thể nào đếm được.

Nàng càng rõ hơn một chuyện, lối thông đạo này sắp sụp xuống, sau khi cánh cửa đá khóa lại thì đừng hòng mở ra.

Chợt một dòng máu nóng xông lên, một ý chí cầu sinh, một quyết tâm báo thù thúc đẩy công lực ẩn chứa trong tòan thân của nàng, chỉ thấy nàng hai chân nhún một cái, vọt lên như điện xẹt, khi cánh cửa đá ấy sắp đóng lại, vẫn cón rộng không quá một thước, nàng phóng tọt vào, chỉ nghe ầm một tiếng, một tảng đá từ trên đỉnh thạch thất buông xuống, đóng kín hai cánh cửa lại.

Cốc Hàn Hương, tuy người của hai phái chính tà đều coi nàng là kẻ liều mạng, e ngại nàng, thế nhưng khi bản thân nàng rơi vào chốn hiểm nguy, sống chết khó lường, rủi may khó đoán, nàng cũng cảm thấy kinh hoảng.

Một lát sau, nàng hơi định thần lại, nhớ rằng mình đã vào trong căn thạch thất, đưa mắt nhìn lại, nàng không khỏi lạnh mình.

Té ra văn sĩ trung niên ấy ngồi xếp bằng trên một cái bồ đoàn bằng ngọc đen, không biết từ lúc nào đã đứng dậy, thối lui ra sau đến ba thước, đứng giữa căn thạch thất, hai mắt mở ta mỉm cười nhìn về phía Cốc Hàn Hương.

Cốc Hàn Hương mồ hôi đổ như mưa, đột nhiên lại nhận ra rằng khi mình chui vào trong động, áo quần đã rách tả tơi, trên người đầy đất cát.

Chợt thấy môi của văn sĩ trung niên ấy mấp máy, chậm rãi nói:

“Lão phu đã sống hơn một trăm sáu mươi tuổi, ngươi không cần e ngại, trong mắt của lão phu, ngươi chẳng qua là một đứa trẻ sơ sinh”.

Cốc Hàn Hương tuy e thẹn, nhưng mặt thì tái nhợt, hai tay nàng ôm trước ngực, ngạc nhiên một lúc rồi mới lắp bắp:

“Lão nhân gia chính là …”.

Văn sĩ trung niên ấy thấy nàng ấp úng không thành lời, không khỏi mỉm cười, nói:

“Người đời gọi lão phu là Tam Diệu thư sinh, ngươi cũng hãy cứ gọi lão phu là Tam Diệu thư sinh”.

Cốc Hàn Hương ngạc nhiên vô cùng, nói:

“Tam Diệu … lão nhân gia không phải đã …”.

Văn sĩ trung niên ấy định nói gì đấy, nhưng lại mỉm cười, nói:

“Có lẽ ngươi rất lấy làm lạ, lão sao tại sao chưa chết?” y nhìn lên mặt Cốc Hàn Hương rồi nói tiếp:

“Thực ra lão phu đã chết”.

Cốc Hàn Hương nghe thế thì tim đánh thình một cái, nhủ thầm:

“Y rõ ràng chưa chết, sao nói là đã chết? Nhưng y nói tự nhiên như thế, thật khiến cho người ta không thể nào tin được”.

Trong nhất thời, nàng cũng không nghĩ ra được hàm ý trong câu nói của vị kỳ nhân trùm đời này, chỉ thấy y nhắm mắt lại, thở dài một tiếng rồi im lặng.

Cốc Hàn Hương vốn rất nghi ngờ, nhưng thấy nho sĩ trung niên tự xưng là Tam Diệu thư sinh ấy nhắm mắt không nói, tựa như đã quên đi sự tồn tại của mình, cũng không dám mở lời, lại không biết nên hỏi từ đâu.

Im lặng một lúc lâu, Cốc Hàn Hương đột nhiên nhủ thầm:

“Nhìn dung mạo áo quần của người này, chính là người trên bức họa ở ngoài của hang, tuy lời nói không giống như người đã hơn trăm tuổi …”.

Nàng nghĩ chưa xong, đột nhiên lao về phía trước, quỳ phục xuống dưới chân của văn sĩ trung niên, bật khóc òa lên.

Văn sĩ trung niên ấy chậm rãi mở mắt, nói:

“Ngươi khóc cái gì? Nhìn thần sắc của ngươi, tựa như là có điều gì nghi ngờ lão phu”.

Cốc Hàn Hương hởi ngửa mặt lên, khóc gằng:

“Lão nhân gia người chính là Tam Diệu … tài nhân của Tam Diệu tổ sư?”.

Văn sĩ trung niên ấy gượng cười, nói:

“Lão phu nếu có truyền nhân thì đã thoát khói cái vỏ da này”. Y hơi dừng lại rồi lại hỏi:

“Tại sao ngươi quỳ phía trước mặt lão phu, phải chăng đang lo lắng từ nay không thể ra ngoài được?”.

Cốc Hàn Hương nhớ lại Tam Diệu di ngôn, bất đồ lắc đầu, nói rằng:

“Đệ tử trải qua gian nan nguy hiểm chính là muốn mong học được tuyệt nghệ, cầu xin lão nhân gia từ bi …”.

Văn sĩ trung niên ấy điềm nhiên cười, chen vào:

“Tuyệt nghệ thì có, song lão phu không phải tăng cũng chẳng phải đạo, không lấy từ bi làm gốc, không nói đến nhân quả báo ứng”.

Cốc Hàn Hương đau buồn nói:

“Lão nhân gia đã cứu sống rất nhiều người, còn hơn cả ngàn vạn Phật sống, đệ tử thân thế đáng thương, cầm mong lão nhân gia rũ lòng thương”. Nước mắt nàng tuôn rơi, giọng nói rất thê thảm, khiến ai nghe thấy đều động lòng, nhưng văn sĩ trung niên ấy chỉ điềm nhiên cười, nói:

“Ngươi khắp người đầy máu tanh, theo lý mà nói, lão phát huy không thể lo liệu cho ngươi”. Y mỉm cười rồi lại nói tiếp:

“Song ngươi đã có thể đến đây, coi như là cũng có duyên gặp mặt lão phu, ngươi hãy nói tường tận thân thế lai lịch cho lão phu được biết, lão phu sẽ châm chước mà xử lý, quyết không đãi bạc ngươi”.

Cốc Hàn Hương đưa tay áo lau nước mắt, nói:

“Đệ tử sẽ bẩm cáo sự tình”.

Văn sĩ trung niên ấy hơi cau mày, nói:

“Ta thấy ngươi là người xảo quyệt quen thói, ngươi hãy cứ từ từ mà nói, không cần bẩm cáo theo sự thực”.

Cốc Hàn Hương nghe thế thì ngạc nhiên, suy nghĩ một chốc rồi đột nhiên quỳ xuống khóc òa lên, nói:

“Lão nhân gia có thành kiến với đệ tử, đệ tử dù cho có nói sự thực, lão nhân gia cũng sẽ không tin tưởng”.

Nàng càng khóc càng thê thảm, hai vai run lên bần bật, nước mắt cứ tuôn trào, xem ra hoàn toàn giống như một thiếu nữ mới hiểu chuyện đời, đâu giống như một Cốc Hàn Hương kêu mưa gọi gió, khuấy động giang hồ.

Đột nhiên trên vách ở ngoài mật thất truyền vào một tràng thanh âm, thanh âm này tựa có tựa không, tràng thanh âm này chưa hết thì tràng thanh âm kia lại vọng vào.


Nho sĩ trung niên ấy cau mày, nói:

“Chưởng lực này rất hùng hậu, người phát chưởng là địch hay bạn của ngươi?”.

Cốc Hàn Hương nghiêng tai lắng nghe, lắc đầu nói:

“Đệ tử không phân biệt được người phát chưởng là ai, chắc là tên ác ma của chốn hắc đạo tên gọi Phong Thu, hoặc nhân vật của quang ngoại tên là Bàng Sĩ Xung”.

Nho sĩ trung niên ấy trầm ngâm một chốc rồi nói:

“Lão phu không nhớ ra hai người này, song hai thanh âm ấy chính là “Đại lực kim cương chưởng” của Phật môn đánh vào”.

Cốc Hàn Hương cũng không biết Thiên Minh đại sư đã đến đây, suy nghĩ một chốc rồi nói:

“Có lẽ là một hòa thượng pháp hiệu Thiên Giác ở trong phái Thiếu Lâm …”.

Văn sĩ trung niên mỉm cười nói:

“Lão phu đã mấy mươi năm không đi lại trên giang hồ, đối với những nhân vật trong võ lâm đã trở nên xa lạ”.

Đang nói thì thần sắc lộ vẻ tiếc nuối, nói tiếp:

“Ngươi tuy trầm luân trong biển thù, linh trí đã bị che mờ, nhưng niệm tình ngươi tuổi hãy còn trẻ, lão phu phá lệ lần này, ngươi trước tiên hãy kể rõ hết chuyện năm xưa, nếu có chỗ đáng dung thứ, lão phu sẽ giúp cho ngươi”.

Cốc Hàn Hương trong lòng đã kinh hãi, nghe thế thì không khỏi mừng rỡ ra mặt, vừa quỳ vừa kể lại những chuyện giữa mình với Hồ Bách Linh, không hề giấu diếm.

Nước mắt nàng cứ tuôn rơi theo lời nói, chuyện xưa cứ quay ngược lại, không biết kể đến bao lâu, đến cúi cùng thì phục xuống đất, khóc òa lên trở lại, văn sĩ trung niên ấy nhắm mắt mà đứng yên, sắc mặt nghiêm túc, tựa như một nhà sư già đang nhập định.

Trên vách đá, tiếng chưởng vỗ vào lại vang lên từng hồi truyền vào bên trong.

Văn sĩ trung niên ấy đột nhiên mở mắt, cau mày, nói:

“Thanh âm ấy, chắc là do Phong Thu gây ra”.

Cốc Hàn Hương cúi đầu không nói, rõ ràng lúc này nơi này, nàng đã cảm thấy kinh hoảng với những thủ đoạn sấm sét của mình trước nay.

Văn sĩ trung niên ấy đột nhiên đưa tay vuốt nhẹ đầu nàng, nói:

“Trên vách tường bên trái có một cánh cửa nhỏ, phía trong có đồ ăn thức uống, con đi nghỉ ngơi một lát, ta bắt đầu truyền chân phải cho con”.

Cốc Hàn Hương mừng rỡ, nói:

“Đa tạ sư phụ …”.

Nho sĩ trung niên mỉm cười, nói:

“Lão phu không có phước thu nhận đệ tử, ngươi cũng không có phước trở thành môn hạ của lão phu, hãy đi thôi, ngươi hãy muốn báo thù cho nên mới học nghệ, lão phu ít nhiều cũng giúp ngươi hoàn thành tâm nguyện”.

Cốc Hàn Hương nghe thế thì ngạc nhiên, nàng vốn là người kiêu ngạo, lúc này trên mặt lúc đỏ lúc trắng, vừa xấu hổ vừa lo lắng, một lát lâu sau vẫn không nói thành tiếng.

Văn sĩ trung niên ấy vẫn mỉm cười, đưa mắt nhìn lên mặt nàng, nói:

“Sao ngươi lại lo lắng? Lão phu truyền chân phải cho ngươi đã đủ, không nhận sư đồ, có hề chi đâu?

Nghĩ lại Thiên Minh hòa thượng ấy đã thu nhận ngươi làm đệ tử ký danh, chỉ vì chưa truyền võ công cho ngươi, ngươi có bao giờ nhận y là sư phụ chưa?”.

Mấy câu ấy khiến cho Cốc Hàn Hương hổ thẹn vô cùng, cúi đầu một lúc lâu sau rồi mới ấp úng:

“Phái Thiếu Lâm đã nhúng tay vào cái chết của tiên phu, đệ tử nóng lòng báo thù, cho nên đã quên rằng Thiên Minh đại sư chính là sư phụ”.

Văn sĩ trung niên điềm nhiên mỉm cười, nói:

“Chuyện này tạm thời không nhắc đến nữa, trong tiểu thất này có một dòng suối, dưới suối có một cây long tu bảo trúc, bảo trúc ấy cứ cách ba ngày thì mọc ra một búp măng, búp măng này có thể ăn được, nước suối có thể uống được, ngươi hãy vào trong uống nước suối, rồi quay lại đây ta sẽ chỉ cho ngươi luyện khí hành công”.

Cốc Hàn Hương đã sớm khuất phục trước khí độ của Tam Diệu thư sinh, nghe bảo thế thì lập tức gật đầu, đứng dậy đi theo hướng y chỉ tay.

Trên vách đá, quả nhiên có một cánh cửa, Cốc Hàn Hương đưa tay đẩy một cái, cánh cửa nhỏ ấy bật ra.

Nàng bước vào trong phòng, thấy căn phòng nhỏ này rộng khoảng một trượng, ở dưới đất sát vách có một cái lỗ rộng khoảng một thước, trên cái lỗ là một cây tre xanh tốt cao khoảng ba thước, trên vách có một dòng suối phun ra, tưới vào cây tre ấy.

Chợt nghe giọng nói của văn sĩ trung niên truyền vào:

“Không được làm bẩn dòng suối ấy, búp măng chỉ có thể dùng tay bẻ xuống, không thể tiếp xúc với vật bằng kim loại”.

Cốc Hàn Hương cúi xuống nhìn, trên đốt của long tu bảo trúc có mọc đầy râu dài khoảng một tấc, trông tươi xnah nõn nà, vừa nhìn thì đã thấy cây tre ấy là thứ quý hiếm.

Nàng ngồi xuống, nhìn ở dưới gốc cây tre, quả nhiên có một búp măng nho nhỏ, búp măng này chỉ lớn bằng ngón tay cái, màu sắc vàng óng, trông rất sạch sẽ, đẹp mắt.

Vốn là nàng đã đói, thấy búp măng này thì càng thém thuồng hơn, nhưng nàng chợt nghĩ:

“Long tu bảo trúc cứ ba ngày mọc ra một búp măng, trước khi mình tới đây, Tam Diệu sư phụ chắc là dùng nó để sống qua ngày, nay mình lại ăn mất búp măng, người sẽ ăn gì?”.

Yù nghĩ ấy lướt qua, bất giác hỏi:

“Sư phụ, nếu đệ tử ăn búp măng này sư phụ ăn cái gì?”.

Chỉ nghe văn sĩ trung niên ấy từ bên ngoài phòng nói vọng vào:

“Ngươi không cần lo lắng, lão phu đói không chết, chỉ cần ngươi đừng kêu bừa sư phụ”.

Cốc Hàn Hương cừơi thầm, nói:

“Nếu mình nhất thời không cách nào rời khỏi nơi này, vậy thì sẽ cùng Tam Diệu sư phụ lần lượt ăn búp măng này, nếu như búp măng này là loại bảo vật, sáu ngày ăn một lần chắc không đói chết”.

Yù nghĩ đã quyết, vì thế lấy cái bát ngọc bên cạnh, múc đầy nước suối, đi đến góc phòng rửa sạch tay chân mặt mũi, sau đó bẻ một búp măng.

Búp măng này chẳng qua chỉ to như ngón tay cái, cắn vào thì thấy rất mát mẻ, vị đắng và chát, không có điều kỳ lạ, nàng ăn xong, uống mấy ngụm nước suối, rồi bước ra ngoài phòng.

Văn sĩ trung niên ấy vẫn ngồi dưới cái bồ đoàn, lúc này đưa tay chỉ sang bên phải, nói:

“Ở đấy có một căn đơn thất, vốn là nơi ở của lão phu, ngươi hãy vào thay y phục”.

Cốc Hàn Hương đỏ mặt, tới vách đá bên phải, sau đó lại bước ra ngoài phòng.

Văn sĩ trung niên ấy nhướng mắt lên thấy nàng buông tóc, mặc y phục nam nhân của mình, khềnh khàng bước ra, sát khí trên mặt đã quét sạch, thay vào đó là thần thái yêu kiều ngây thơ, không khỏi vỗ tay cười ha ha.

Cốc Hàn Hương nghe tiếng cười của y rất rõ ràng, nhưng tựa như không phải là người có nội công thâm hậu, không khỏi nhủ thầm:

“Chả lẽ vị Tam Diệu sư phụ này đã tu luyện đến cảnh giới chuyển phác thành hư”. Yù nghĩ ấy lướt qua, vái dài một cái rồi dịu dàng gọi một tiếng “sư phụ”.

Văn sĩ trung niên ấy cười khan một tiếng, vẫy tay một cái, nói:

“Lão phu không thích vờ vĩnh, ngươi cũng không cần làm thế”. Rồi đưa tay chỉ, nói:

“Ngươi hãy ngồi xuống, lão phu sẽ kể sơ qua cho ngươi rõ chuyện của lão phu”.

Cốc Hàn Hương ngồi xuống, nói:

“Sư phụ có điều gì, xin hãy nói”.

Văn sĩ trung niên ấy điềm nhiên cười, nghiêm mặt, thần sắc trở nên ngưng trọng, nói:

“Trong tòa động phủ này, sau mỗi cánh cửa là có một tấm đoạn môn thạch nặng đến hàng vạn cân, nếu đoạn môn thạch ở các nơi đều đã rơi xuống, ngươi không thể luyện chưởng lực nặng ba vạn cân, thì cả đời này đừng hòng thoát ra”.

Cốc Hàn Hương mở to mắt, nói:

“Vậy sư phụ cứ truyền công phu cho đệ tử, đến khi đệ tử luyện được chưởng lực nặng ba vạn cân”.

Văn sĩ trung niên thấy nàng nói chuyện rất nhẹ nhàng, không khỏi mỉm cười, nói:

“Môn công phu của ta, đầu tiên coi trọng chữ “tĩnh”, nếu ngươi không thể bỏ hết những âm thù thế tục, yên tâm ngưng thần học nghệ, lão phu dù cho có ý thành toàn, cũng khó giúp được cho ngươi, ngươi cũng không thể học được môn tuyệt nghệ này”.

Y hơi ngập ngừng, lắng tai nghe tiếng động từ bên ngoài truyền vào, nói tiếp:

“Nếu không thể thủ định tâm thần, một khi bị quấy nhiễu, nặng thì mất mạng, nhẹ thì tàn phế”. Y thở dài một tiếng, lẩm bẫm:

“Nếu không phải vì điều này, lão phu làm sao để cho môn tuyệt nghệ này thất truyền, rốt cuộc vẫn không thể tìm ra đệ tử y bát?”.

Cốc Hàn Hương ngạc nhiên một lúc lâu, hỏi:

“Nếu như đệ tử có thể gạt bỏ chuyện thế tục, rửa sạch linh trí, vậy thì khoảng bao lâu mới có thể luyện được chưởng lực nặng ba vạn cân?”.

Văn sĩ trung niên ấy trầm tư, nói:

“Khoảng mười năm “.

Cốc Hàn Hương nghe như sét đánh ngang tai, sững người rồi nước mắt tuôn rơi, nói:

“Đệ tử ngoài chuyện báo thù, còn có một đứa dưỡng tử ở bên ngoài, nay không dám cầu mong gì nhiều, chỉ mong sư phụ truyền cho một chút võ công, sau đó mở cánh cửa, thả đệ tử rời khỏi nơi này”.

Văn sĩ trung niên ấy hơi cau mày, nói:

“Ngươi đang nghĩ, chỉ cần lão phu truyền cho ngươi một chút công phu thì đã đủ cho ngươi ngang dọc giang hồ, báo thù cho tiên phu, đúng không?”.

Cốc Hàn Hương quả thực có ý nghĩ này, bị y vạch trần ra, mặt ngọc không khỏi đỏ ửng, lộ vẻ hổ thẹn.

Văn sĩ trung niên ấy đột nhiên thở dài, nói:

“Ý nghĩ của ngươi cố nhiên không sai, lão phu chỉ là đèn khô cạn dầu, sớm không đủ lực mở đoạn môn thạch nữa”.

Cốc Hàn Hương thất kinh, biết vị cao nhân ở ngoài đời này không thể nào lừa gạt mình, trong nhất thời nàng kinh hoảng, bất giác mặt tái nhợt, miệng lẩm bẩm tự nói với mình:

“Mười năm, mười năm, mười năm quá dài …” đột nhiên hai tay bưng mặt, khóc òa lên.

Văn sĩ trung niên ấy thấy nàng khóc bi thảm như thế, cũng không nói lời an ủi, ngược lại nhắm mắt rồi tự hành khô tọa.

Thế nhưng, Cốc Hàn Hương là người có tuệ căn, khóc một lát thì biết dù có bi thương cũng chẳng ích gì, thế rồi lau khô nước mắt, ngửa mặt nói:

“Sư phụ cứ truyền võ công cho đệ tử, đệ tử hết sức mà học, lúc nào thoát ra được khỏi nơi đây thì phải nghe theo ý trời”.

Văn sĩ trung niên ấy mở mắt, gật đầu, nói:

“Thông quyền đạt biến, đúng là một nhân tài có thể đào tạo”. Rồi nghiêm mặt, trầm giọng nói:

“Lão phu bình sinh cứu người vô số, chưa từng giết qua một người. Nói tuy là như thế, cũng biết có người đáng giết, ngươi hãy nói trước, ngươi sẽ giết ai?”.

Cốc Hàn Hương không ngờ y hỏi câu ấy, nghe thế thì trong lòng thầm lo, không biết đáp thế nào mới phải.

Nàng đối với Hồ Bách Linh tình thâm ý trọng, từ ngày quyết chí báo thù cho đến nay, cố gắng nhẫn nhục là vì muốn tiêu diệt hết những kẻ trong hai phái chính tà đã khiến cho Hồ Bách Linh rơi vào thảm cảnh, thế nhưng cho đến lúc này nàng không thể dám nói thẳng được.


Một lát sau nàng mới ấp ứng nói:

“Quỷ Lão Thủy Hàn, Nhân Ma Ngũ Độc, Độc Hỏa Thành Toàn. Ba người này không điều ác gì mà không làm, đệ tử nhất định phải lấy mạng bọn chúng để trừ hại cho thế nhân”.

Văn sĩ trung niên ấy đột nhiên nghiêm trang, ánh mắt nhìn thẳng lên mặt Cốc Hàn Hương, chậm rãi nói:

“Lão phu mặc kệ ngươi giết ai, song sau khi học được võ công của Tam Diệu ta, suốt đời ngươi chỉ được giết bốn mạng người, giết xong bốn mạng người này, dù cho ngươi có thù hận to bằng trời cũng không được lấy mạng của người ta nữa”.

Nói đến đây, mặt đột nhiên lộ nụ cười thê lương, nói tiếp:

“Lão phu thà để cho tuyệt nghệ thất truyền chứ không muốn gây họa cho võ lâm, quyết định thế nào thì ngươi hãy tự suy nghĩ lấy”.

Cốc Hàn Hương sững người, một lát sau vẫn không nói, lại nghe văn sĩ trung niên ấy điềm nhiên nói:

“Lão phu nói lời sẽ không đổi, song ngươi chỉ cần dùng tay đẩy một cái thì sẽ lấy được mạng của lão phu, còn kết tinh võ học một đời của lão phu đều cất trong căn đơn thất, ngươi có thể tự đọc tự luyện lấy”.

Cốc Hàn Hương ngẩng mặt, lắc đầu nói:

“Đệ tử không phải là kẻ tà ác thực sự”.

Văn sĩ trung niên nói:

“Vậy thì ngươi hãy suy nghĩ cho kỹ càng”.

Cốc Hàn Hương đưa mắt nhìn xuống đất, cúi đầu trầm tư một lúc lâu cuối cùng ngẩng mặt nói:

“Chính là đệ tử tự xông vào đây, nay tiến lu không còn đường nữa, chỉ có nghe theo căn dặn của sư phụ, suốt đời không được giết hơn một người nữa”.

Văn sĩ trung niên ấy gật đầu nói:

“Lão phu tin lời nói của ngươi là từ gan ruột, song thù hận của ngươi quá sâu làm thế nào để thủ tín, ngươi hãy lập một lời thề mà bản thân cũng không thể vi phạm được, ngươi hãy tự suy nghĩ đi”.

Cốc Hàn Hương giật thót mình, trầm mặt một lúc lâu cuối cùng buồn bã nói:

“Đệ tử xin thế suốt đời này chỉ lấy bốn mạng người!”.

Văn sĩ trung niên ấy trang nghiêm nói:

“Cũng được, ngươi hãy dẹp trừ tạp niệm, nghe lão phu truyền cho ngươi nội công tâm pháp”.

Y ngập ngừng rồi lại nói kỹ càng khẩu quyết nội công và cách luyện khí hành công.

Nội công tâm pháp của Tam Diệu thư sinh này đặc biệt trọng chữ tịnh, y lập đi lập lại, giảng nhẽ kỹ càng, cho đến mức nửa ngày thì mới giúp cho Cốc Hàn Hương lãnh ngộ, không hề có điều gì nghi vấn nữa sau đó mới lệnh cho nàng tu luyện.

Nào ngờ khi nàng mới bắt đầu thì cảm thấy tiếng động ở phía bên ngoài tryuền vào càng lúc càng nhức tai, khiến cho người ta bực bội.

Tiếng động đến vách đá ấy từ lúc bắt đầu vang lên không hề ngơi nghỉ, nhưng tiếng động ấy rất nhỏ, không khiến cho người ta bực bội, nhưng cho đến khi Cốc Hàn Hương tĩnh tâm, thì thanh âm ấy lại to lên, thế nhưng khi nàng luyện công theo phương pháp trâu thiên tọa tức thì không hề thì không hề bị thanh ấy quấy nhiễu.

Khoảng một ngày trôi qua, Cốc Hàn Hương không thể nào loại trừ được tạp niệm, khi nàng vào đơn thất, mặt căn phòng có cây long tu bảo trúc, thanh âm ấy càng rõ ràng hơn, lúc này, văn sĩ trung niên ấy cũng lo lắng.

Cốc Hàn Hương cuối cùng phải lên tiếng van nài:

“Sư phụ, đệ tử quả thực không cách nào …”.

Văn sĩ trung niên ấy cười khổ nói:

“Lão phu biết! môn tâm pháp này luyện đến ba phần hỏa hầu thì tiếng muỗi cũng nghe thành tiếng sấm, lúc mới luyện quả thực không thể nào tránh được sự quấy nhiễu của tạp âm”.

Cốc Hàn Hương hỏi:

“Đệ tử vẫn luyện nội công của mình, sư phụ truyền cho đệ tử võ công chiêu thuật, được không?”.

Văn sĩ trung niên ấy lắc đầu nói:

“Môn nội công tâm pháp của ngươi khó có đại thành, luyện cho đến mức cùng cực cũng đừng mong giở đoạn môn thạch lên”.

Cốc Hàn Hương nhíu mày, hỏi:

“Vậy dùng chưởng lực đánh gãy đoạn môn thạch, có được không?”.

Văn sĩ trung niên nói:

“Trong động này có cả thảy ba tấm đoạn môn thạch, loại đá này đặc biệt rắn chắc không thể giở lên được, đánh cũng không vỡ”. Đang nói thì chậm rãi đứng dậy, bước xuống cái bồ đoàn, nói tiếp:

“Cái bồ đoàn này là chí bảo của võ lâm, ngươi hãy ngồi lên thử”.

Cốc Hàn Hương từ ngày vào động, lần đầu tiên thấy y đứng dậy, bất đồ nhún nhường nói:

“Đây là bảo tọa của sư phụ, đệ tử làm sao có thể chiếm được!”.

Văn sĩ trung niên ấy mỉm cười, nói:

“Lão phu đã hơn ba mươi năm nay chưa xuống cái bồ đoàn này, nay đã đến lúc thoái vị nhường hiền”. Nói xong thì bước tới căn đơn thất.

Cốc Hàn Hương ngạc nhiên, thấy y một lúc lâu không bước ra, chỉ đà ngồi lên cái bồ đoàn, bắt đầu thử luyện công lại.

Cái bồ đoàn này kỳ diệu vô cùng, Cốc Hàn Hương ngồi không lâu thì cảm thấy toàn thân thư thái, đầu óc tỉnh táo, âm thanh từ bên ngoài truyền vào nghe càng rõ hơn, nhưng không hề làm dao động tinh thần, khiến cho nàng bực bội nữa.

Chính vì trong động không có ánh mặt trời, cho nên nàng ngồi như thế cũng không biết đã bao lâu, khi đứng dậy thì nghe âm thanh bên ngoài vẫn truyền vào, không khỏi thầm than, nghĩ bụng:

“Nếu không phải đó là chủ ý của Phong Thu, thì là Bao Cửu Phong, những người khác chắc chắn sẽ không nhẫn nại như thế”.

Nàng vén áo đứng dậy, thấy trong tòa đơn thất vẫn không có động tịnh gì cho nên bước tới.

Đưa mắt nhìn vào thấy cây long tu bảo trúc lại mọc một búp măng, so với búp măng mình ăn lần trước thì lớn hơn một chút, thế nên thời gian không chỉ ba ngày.

Nàng vừa thấy búp măng, lập tức cảm thấy bụng đói, thèm thuồng, nhưng nàng không ăn búp măng ấy, chỉ uống mấy ngụm nước suối, sau đó lấy cái bát ngọc múc đầy nước, rồi bẻ cái búp măng bưng vào trong căn đơn thất.

Tấm cửa đá của căn đơn thất từ lúc mở ra thì không bao giờ đóng lại nữa, Cốc Hàn Hương nhón chân bước vào, thò đầu nhìn vào trong phòng, nào ngờ vừa nhìn vào nàng không khỏi ngạc nhiên, kêu lên thành tiếng.

Té ra trong thời gian ba bốn ngày ấy tóc trên đầu của văn sĩ trung niên ấy đã trở thành bạc trắng, râu dưới cằm cũng trở nên màu bạc, da mặt chùng xuống, nếp nhăn ẩn hiện, xem ra ít nhất cũng là một ông già đã sáu mươi.

Ông già râu bạc ấy vẫn nhắm mắt ngồi trên cái giường, nghe Cốc Hàn Hương kêu thì mở hai mắt ra, cười khà khà, giở tay gọi:

“Sao ngươi lại thất kinh? Đến nay lão phu chính là Tam Diệu lão nhân”.

Cốc Hàn Hương vẫn nghe được trong lời nói thường tình, ngoài vẻ già lão thì vẫn khí định thần nhàn, nho nhã ung dung, không khác gì so với trước, vì thế bước vào, lo lắng nói:

“Sư phụ, té ra người đã dùng thuật dị dung …” nàng nói được một nửa, đột nhiên cảm thấy đó là chuyện không thể, thế nên mới im lặng không nói nữa.

Tam Diệu lão nhân ấy đưa mắt nhìn về phía cái bát ngọc và búp măng long tu trên tay của nàng, hiền từ cười nói:

“Lão phu không giống như ngươi, giỏi dùng cơ mưu đối với người khác”. Y vuốt râu rồi nói tiếp:

“Đã nói với ngươi, lão phu đã là người đèn khô cạn dầu, chỉ nhờ vào cái bồ đoàn ấy, và búp măng lông tu trên tay của ngươi, mới có thể kéo dài được mạng sống cho đến ngày hôm nay …”.

Cốc Hàn Hương không đợi y nói xong, đột nhiên đặt cái bát ngọc và búp măng xuống, phục trên giường, cất giọng khóc òa lên.

Nàng cũng không biết vì lý do gì, sau khi gặp vị kỳ nhân tiền bối này tâm trạng đặc biệt dễ kích động, may mà vị kỳ nhân ngoài đời này mỗi khi thấy nàng khóc thì lại nhắm mắt khô tọa, không thèm để ý đến, nàng khóc được một lát thì cũng chỉ đành tự nín mà thôi.

Tam Diệu lão nhân ấy thấy nàng ngừng khóc, mỉm cười, nói:

“Con người ai mà không chết? Chỉ cần chết có ý nghĩa, không thẹn với lòng thì không có gì đáng tiếc”. Y lại mỉm cười, nói tiếp:

“Ngươi đem những thứ này đến đây là để cho lão phu ăn?”.

Cốc Hàn Hương gật đầu, kiên quyết nói:

“Đệ tử và sư phụ thay phiên nhau ăn, lần này đến lượt sư phụ”. Ngập ngừng rồi lại nói:

“Đệ tử cũng là người một lời đã nói ra, đến chết vẫn không đổi”.

Tam Diệu lão nhân vuốt râu cười, nói:

“Sáu ngày ăn một búp măng thì có chút hơi đói, búp măng này có tác dụng bồi nguyên tích khí, trợ giúp cho công lực, trụ nhân tăng thọ …”.

Cốc Hàn Hương ngắt lời:

“Luyện đến cảnh giới của sư phụ, cũng sẽ có ngày vũ hóa phi thăng, nhưng trên đời này không hề có người sống mãi mà không chết, sư phụ không ăn, đệ tử cũng thà bị đói chết”.

Tam Diệu lão nhân ấy cười khà khà, nói:

“Thôi được, ngươi đã nhịn đói, lão phu cũng phải khoan chết một lúc, để chỉ điểm cho ngươi nhiều thêm, giúp ngươi sớm ngày thành công thoát khỏi chốn này”. Nói xong cầm cái búp măng lên rồi nhai, uống mấy ngụm nước suối, sau đó lấy ra một cái hộp ngọc.

Cốc Hàn Hương bật cười, hỏi:

“Sư phụ còn cất bảo vật gì, sao không để cho đệ tử mở rộng tầm mắt?”.

Tam Diệu lão nhân ấy mỉm cười, nói:

“Trong động phủ này, mỗi thứ đều là bảo vật, song thứ có ích đối với ngươi chỉ có một viên thuốc trong hộp ngọc này mà thôi”.

Cốc Hàn Hương nhìn hộp ngọc không chớp, miệng thì nói:

“Quyền kinh kiếm quyết hay bất cứ bí cấp võ học gì cũng đều có ích đối với đệ tử”.

Tam Diệu lão nhân ấy mở hộp ngọc, lấy ra một viên thuốc, mỉm cười nói:

“Lão phu không chịu nhận ngươi làm đệ tử, chính là vì tuyệt nghệ của môn phái ta khó học, dù cho ngươi có vào trong môn hạ, cũng không có phước hưởng hết …”.

Cốc Hàn Hương vừa giận vừa lo, giận dỗi nói:

“Đã như thế, sư phụ cần gì phải truyền võ công cho đệ tử?”.

Tam Diệu lão nhân ấy đưa mắt nhìn nàng, mỉm cười nói:

“Lão ngươi mong ngươi có thể luyện được chưởng lực nặng ba vạn cân, giở tấm đoạn môn thạch lên, song kết tinh võ học một đời của lão phu đều phải trao cho ngươi, nếu sau khi ngươi giở đoạn môn thạch lên, có thể thấu triệt hai chữ âm thù, ở lại trong động này tiếp tục nghiên cứu tuyệt nghệ của lão phu, vậy thì lúc đó lão phu tuy chết nhưng cũng nhận ngươi là đệ tử, y bát truyền nhân”.

Cốc Hàn Hương nghe xong thì im lặng, mặt lộ vẻ buồn bã, nàng nhủ thầm:

“Muốn mình thay điổ chủ ý, vứt bỉ oán thù, vậy võ công trùm đời của mình còn có tác dụng gì?”.

Đang suy nghĩ thì một mùi hương lạ xộc vào mũi khiến nàng ngây ngất.

Té ra Tam Diệu lão nhân ấy đã bóc lớp ngoài của viên thuốc, một mùi hương lạ tỏa ra khắp căn phòng.

Cốc Hàn Hương thấy mùi hương ấy nồng nặc lạ thường, biết viên thuốc trong tay của y chắc là ắt hẳn được luyện từ các loại dược vật quý báu, trên đời hiếm thấy, từ lời nói của y mà biết được, tựa như còn có ý muốn tặng viên thuốc này cho mình, vì thế vừa lo vừa mừng, mắt cứ nhìn chằm chằm vào viên thuốc.

Nàng vốn trời sinh tuyệt sắc, đẹp đẽ vô cùng, trước mặt Tam Diệu lão nhân này thì lại trở về nét thơ ngây, dù cho lão nhân ấy lòng như nước đọng, không hề vướng chút bụi trần, nhưng cũng cười khà khà.

Tam Diệu lão nhân ấy cười chưa dứt, tay đã lột hết lớp vỏ bên ngoài, lộ ra một viên đơn hoàn màu đỏ như trái long nhãn, đưa cho Cốc Hàn Hương, nói:

“Viên được hoàn này tên gọi là hỏa long đơn, lão phu mất mười năm mới luyện thành, giữ cho đến ngày hôm nay, thời gian đã trên sáu mươi năm, vốn là ta chuẩn bị cho đệ tử nhập môn, nay lại trao cho ngươi”.

Nàng vừa bỏ viên hỏa long đơn vào trong miệng thì lập tức lăn xuống bụng, nghe thế thì cảm kích, nước mắt như muốn trào ra.

Chỉ nghe Tam Diệu lão nhân nghiêm mặt nói:

“Đừng nhiều lời, hãy mau ngồi lên cái bồ đoàn, vận khí hành công theo phương pháp điều tức mà lão phu đã truyền cho ngươi, lão phu không gọi, không được đứng dậy”.

Cốc Hàn Hương cảm thấy ở ngực và bụng có một luồng khí ấm tản ra, máu trong toàn thân như xông lên đầu, thân người như lơ lửng, thế rồi cảm kích nhìn Tam Diệu lão nhân rồi xoay người chạy ra ngoài phòng, ngồi lên cái bồ đoàn nhắm mắt vận khí hành công.

Hai mạch nhâm, đốc của nàng khi mới vào Vạn hoa cung thì đã được quái nhân một mắt Đồng Công Thường đánh thông, lại thêm bản thân của nàng chịu khó khổ luyện, cho nên nội công hỏa hầu đã đến cảnh giới của một cao thủ nhất lưu, nay tuy luyện theo tâm pháp nội công của Tam Diệu lão nhân, điều đó cũng chẳng qua là vì đi theo con đường khác, công lực hỏa hầu hơi kém mà thôi, còn chân khí ở đan điền thì vẫn lưu chuyển toàn thân, không hề bị ngăn cản, cho nên sau một lúc hành công thì một luồng khí ấm ở bụng và ngực đã hòa vào với chân khí ở trong người, chạy khắp thân.

Dưới ánh sáng của những viên minh châu, nàng không phân biệt được ngày đêm nữa, Cốc Hàn Hương nàng vẫn ngồi trên cái bồ đoàn, hội ý với thần, đi vào cõi vong ngã, không biết đã bao lâu, nàng đột nhiên cảm thấy, nhiệt độ của toàn thân dần dần tăng lên.

Nàng biết dược lực của hỏa long đơn đã thẩm thấu vào trong huyết dịch của toàn thân, cho nên tiếp tục vận khí hành công, thúc đẩy dược lực, khiến cho dược lực lưu chuyển trong một trăm huyệt toàn thân, thế nên nhiệt độ càng lúc càng cao, càng về sau, máu trong người như sôi lên, sôi đến nỗi nàng chịu không nổi.

Một lát sau, tòan thân nàng đổ mồ hôi, nàng rên rỉ, lại một khắc nữa trôi qua, nàng cảm thấy như muốn gục ngã, nàng không ngừng co giật, mồ hôi đổ xuống như tắm, thấm ướt cả quần áo, một luồng nhiệt khí từ đỉnh đầu của nàng bốc lên, nàng đau đớn thở phì ra lấy hơi, cuối cùng nhắm mắt ngất ở trên cái bồ đoàn.

Không biết đã trải qua bao lâu, nàng dần dần tỉnh lại, mở to mắt nhìn quanh căn phòng, nàng nhớ rằng Tam Diệu lão nhân đã từng căn dặn, chưa được gọi thì không được rời khỏi chỗ ngồi, nàng lại điều tức vận khí, nhắm mắt hành công.

Nàng cảm thấy máu trong người của mình đã lạnh đi rất nhiều, tuy cũng có cảm giác khó chịu, nhưng không đến nỗi giống như lúc bị lửa đốt ban nãy.

Tiếp theo chân khí của nàng lưu chuyển, nhiệt độ trong người của nàng dần dần giảm xuống, mồ hôi trong y phục đã khô, nàng lại bước vào cảnh giới vong ngã …

Tiếng gõ vào vách đá vẫn cứ tiếp tục, thời gian vẫn cứ trôi qua, búp măng trên long tu bảo trúc đã nhú lên, đột nhiên, trong tòa đơn thất vang lên tiếng gọi yếu ớt của Tam Diệu lão nhân.

Chỉ nghe Tam Diệu lão nhân ấy nói:

“Cốc Hàn Hương, ngươi hãy mau đến đây, lão phu sẽ truyền cho ngươi mấy chiêu thủ pháp”.

Cốc Hàn Hương tỉnh dậy, phóng người phía trước giường, lo lắng kêu:

“Sư phụ …”.

lời chưa hết, đột nhiên cảm thấy mắt cay xè, rồi nước mắt chảy ròng ròng xuống má.


Té ra chỉ có mấy ngày mà Tam Diệu lão nhân ấy đã râu tóc bạc phơ, trên mặt toàn là nếp nhăn, lưng đã hơi gù xuống.

Cốc Hàn Hương nhớ lại khi mới bước vào trong hang, ông ta vẫn là một văn sĩ trung niên nho nhã trẻ trung, tiên phong đạo cốt, chưa được mấy lúc thì đã trở thành một ông già tóc bạc da mồi, nàng vốn là người tính tình nhân hậu, nhớ lại rằng chỉ vì mình mà nên nỗi này, bất đồ ôm mặt khóc òa lên.

Chợt nghe Tam Diệu lão nhân cười nói:

“Ngươi thật là thích khóc, đâu có giống minh chủ lục lâm”.

Cốc Hàn Hương đột nhiên chạy ra ngoài phòng, bưng cái bồ đoàn vào trong.

Cái bồ đoàn ấy vốn rất nặng, nhưng nàng bưng trong tay cứ như không, chỉ thấy nàng đặt cái bồ đòan trên giường, nói:

“Sư phụ hãy mau ngồi lên …” nói chưa xong, thì lại đem bức măng long tu đến trước giường, Tam Diệu lão nhân cũng không từ chối, ăn búp măng long tu, uống mấy ngụm nước suối rồi chỉ một cái bình ngọc trước cái bàn đá, cười khà khà nói:

“Thuốc ở trong bình có thể chống đói, ngươi hãy ăn trước một ít, lão phu sẽ nói chuyện với ngươi”.

Cốc Hàn Hương bước tới đổ ra năm sáu viên thuốc trong bình, rồi cho vào mồm nuốt xuống, sau đó đến trước cái giường, nói:

“Sư phụ có gì dạy bảo”.

Tam Diệu lão nhân hai mắt hơi khép lại, nghiêng tai lắng nghe ở phía bên ngoài, nói:

“Không biết là ai đã dùng một loại bảo vật gõ vào lớp đá đầu tiên, chừng vài ba ngày nữa, người ấy có thể sẽ đục được một lỗ nhỏ trên cánh cửa đá ấy, nếu kẻ này biết môn “Xúc cốt thần công” thì ngươi hãy chui vào Vấn Tâm Trai”.

Y nói đến đây ngừng lại thở dài, Cốc Hàn Hương đã thấy trong lòng thầm nhói đau, chen vào nói:

“Có lẽ là Phong Thu, có lẽ những người khác thì không kiên trì được như thế”.

Tam Diệu lão nhân mỉm cười nói:

“Kẻ này có lẽ đã lấy công chuộc tội, sau khi ra khỏi hang, ngươi hãy giải trừ Hướng tâm lộ cho y”.

Cốc Hàn Hương gật đầu, nói:

“Đệ tử tuân lệnh sư phụ”.

Tam Diệu lão nhân mỉm cười, nói:

“Khi y phá đến lớp đoạn môn thạch thứ hai, lão phu đã không chống chọi nổi thanh âm ấy, ngươi cũng không thể nào tiếp tục luyện công, cho nên lão phu tính toán rằng, trước tiên phải nói rõ chuyện này, sau đó mới truyền cho ngươi vài chiêu thủ pháp, ngươi hãy cố gắng luyện tập”.

Cốc Hàn Hương nước mắt tuôn trào, nói:

“Sư phụ đừng nói những lời đau buồn như thế, có cái bồ đoàn bằng ngọc với búp măng long tu, lão nhân gia ít nhất còn sống đến hơn trăm năm nữa!”.

Tam Diệu lão nhân cười lớn, tiếp theo lấy ra một cái hộp ngọc dày khoảng một tấc, giống như một cuốn sách, nói:

“Tinh túy võ học cả đời của lão phu đều để trong hộp ngọc này, khi ra khỏi hang, ngươi hãy mang hộp ngọc này theo, nếu có cơ duyên thì hãy giúp lão phu tìm truyền nhân”.

Cốc Hàn Hương nhận lấy hộp ngọc, sau đó đặt bên cạnh cái bồ doàn, buồn bã nói:

“Đệ tử vốn định ở trong hang này, kế thừa y bát của sư phụ, nhưng vì có ngoại địch xâm phạm, đành phải rời khỏi động, vậy thì đệ tử có coi như là môn đồ của sư phụ không? Tam Diệu lão nhân cười lớn, nói:

“Nha đầu này thật dảo họat, nếu ngươi thực lòng muốn ở lại trong động này, lão phu chỉ cần phất tay một cái thì có thể khiến cho động phía trước sụp xuống, lúc đó dù cho Thổ Hành Tôn đến đây cũng không thể nào chui vào nơi này”.

Cốc Hàn Hương đỏ mặt, e thẹn nói:

“Dưỡng tử Linh nhi của đệ tử là đồ tôn của lão nhân gia người, đệ tử phải ra động một lần để giắt nó đến đây”.

Tam Diệu lão nhân vuốt râu cười lớn, nói:

“Ngươi hoa ngôn xảo ngữ, lão phu không tranh cãi với ngươi nữa”. Rồi y nghiêm mặt, nói tiếp:

“Ngươi phải nhớ kỹ một chuyện, trước khi tấm đoạn môn thạch cuối cùng bị người ta phá vỡ, ngươi phải nhổ cả long tu bảo trúc lên rồi ăn cho hết”.

Cốc Hàn Hương ngạc nhiên hỏi:

“Tại sao?”.

Tam Diệu lão nhân nói:

“Sau khi ăn, công lực của ngươi sẽ tăng lên ba mươi năm, vả lãi thân người sẽ nhẹ như chim én”.

Cốc Hàn Hương hơi trầm tư, nói:

“Vậy sư phụ hãy ăn long tu bảo trúc, chúng ta cùng rời khỏi nơi này”.

Tam Diệu lão nhân nhìn nàng chốc lát, thấy đó là lời thật tình của nàng, không khỏi cảm động, đưa tay vuốt tóc nàng, nói:

“Dương thọ của lão phu đã tận, không loại thuốc nào có thể cứu được, huống chi hộp ngọc này rất quan trọng, nếu như ngươi không có công lực cái thế, nhất định sẽ bảo vệ không được, giả sử lọt vào trong tay kẻ xấu, vậy thì hào kiếp của kẻ ấy tạo ra còn lớn hơn của nha đầu nhà ngươi gấp nhiều lần”.

Cốc Hàn Hương bĩu môi, giận dữ nói:

“Đệ tử tạo hào kiếp cho võ lâm hồi nào?”.

Tam Diệu lão nhân mỉm cười, nghiêm mặt nói:

“Không cần phải nói nữa, lão phu truyền cho ngươi mấy chiêu chưởng pháp, thời gian gấp rút, ngươi hãy ráng lĩnh hội rồi luyện tập”.

Cốc Hàn Hương nói:

“Sư phụ hãy nói tên gọi của chưởng pháp”.

Tam Diệu lão nhân nói:

“Không có tên nhất định, nếu ngươi hành thiện diệt ác thì gọi là “Thiên lôi chưởng”, nếu như ngươi lạm sát kẻ vô tội thì có thể gọi là “Thiên ma chưởng””.

Cốc Hàn Hương biết trong đó có điều bí mật, cố ý hỏi:

“Nếu đệ tử dùng để báo thù rửa hận thì gọi như thế nào?”.

Tam Diệu lão nhân điềm nhiên nói:

“Thế gian làm gì có thù hận? Cũng giống như giữa ta và ngươi không hề có ân huệ”.

Nói xong không đợi nàng trả lời, lập tức giải thích rõ chiêu thức, biến hóa, vận lực, sử kình của loại chưởng pháp này.

Cốc Hàn Hương vừa mới nghe xong chiêu thứ nhất, thì biết chín chiêu chưởng pháp này chính là tinh hoa tuyệt học của Tam Diệu lão nhân, vì thế không hề sơ ý, hỏi xong những điều chưa rõ thì bắt đầu học chiêu thứ hai.

Tam Diệu lão nhân truyền xong chiêu thứ ba lập tức sai Cốc Hàn Hương múa lại, đồng thời đem bồ đoàn bằng ngọc ra ngoài phòng, đích thân đứng một bên chỉ điểm, ba chiêu chưởng pháp luyện đã thành thục, không hề sai sót, lại học thêm ba chiêu chưởng pháp nữa, cho đến khi học xong chín chiêu chưởng pháp, Cốc Hàn Hương chưa luyện lại từ đầu thì trên vách đá truyền vào một tiếng động lớn.

Cốc Hàn Hương từ sau khi uống hỏa long đơn, nhãn lực và thính lực đã tăng thêm nhiều lần, lúc này nghe thế thì không khỏi kêu:

“Sư phụ, đoạn môn thạch của Vấn Tâm Trai đã bị người ta phá vỡ!”.

Tam Diệu lão nhân gật đầu, mỉm cười:

“Kẻ này phá vỡ được tấm đoạn môn thạch đó mất mười một ngày đêm, theo đó mà luận, chí ít còn có hơn hai mươi ngày nữa, mới có thể đến đây, ngươi hãy mau luyện chưởng pháp không được phân tâm”.

Cốc Hàn Hương cúi người nói vâng một tiếng lập tức phóng vọt ra đến hơn một trượng, luyện tập ba chiêu chưởng pháp cuối cùng.

Đột nhiên, ầm một tiếng từ bên ngoài truyền đến, dư âm chưa hết thì lại ầm thêm một tiếng nữa, tiếng kêu vang động cả căn phòng.

Cốc Hàn Hương thâu chưởng thế lại, nhíu mày, nói:

“Sư phụ, thanh âm này phải chăng đến từ cửa thông đạo?”.

Tam Diệu lão nhân gật đầu, nói:

“Mau mau luyện công, không được phân tâm”.

Cốc Hàn Hương ngạc nhiên, bắt đầu luyện tập lại bộ chưởng pháp.

Sau khi ba chiêu cuối cùng luyện tập thành thục, Cốc Hàn Hương luyện là từ đầu tới cuối chiêu chưởng pháp, chiêu chưởng pháp này, bề ngoài tuy là bảo chín chiêu, nhưng trong mỗi chiêu đều hàm chứa sự biến hóa phức tạp, tinh kỳ huyền ảo.

Chín chiêu chưởng pháp này triển khai có thể phòng thủ khắp thân người, đồng thời từ bất cứ góc độ nào cũng có thể đánh vào chỗ yếu hại của kẻ địch.

Cốc Hàn Hương vốn là kẻ thông minh hơn người, huống chi võ công vốn đã cao cường, nhưng khi luyện bốn chiêu chưởng pháp này, trước sau đã mất hơn mười ngày, nhưng vẫn chưa thể đạt được như ý nguyện, cách cảnh giới xuất thần nhập hóa càng xa hơn.

Tiếng phá đá ngày đêm vẫn không ngớt, vì thanh âm này còn rõ ràng hơn trước, vả lại vách đá truyền âm, vang vọng khắp nơi khiến cho người ta như muốn ngất đi, nếu không phải có Tam Diệu lão nhân đứng một bên đốc thúc, Cốc Hàn Hương sớm đã nổi điên.

Cho đến khi nàng luyện đến mức sức cùng lực kiệt, định nghỉ một lát, ăn mấy viên thuốc, đột nhiên Tam Diệu lão nhân ánh mắt như mờ đi, sắc mặt tái nhợt, thần thái rất mệt mỏi.

Cốc Hàn Hương thất kinh, nhảy bổ tới phía trước Tam Diệu lão nhân, lo lắng kêu lên:

“Sư phụ, sư phụ thế nào rồi?”.

Tam Diệu lão nhân mỉm cười, nói:

“Lão phu sắp phải ra đi, âm thanh này thật khó chịu, ngươi hãy đưa lão phu ngồi lên giường”.

Cốc Hàn Hương thấy lời nói của ông ta yếu ớt, tựa như một người sắp chết, trong lòng không khỏi nhói đau, nước mắt tuôn trào.

Nàng đặt Tam Diệu lão nhân lên cái bồ đoàn rồi bê cả người lẫn bồ đoàn đặt trên giường.

Tam Diệu lão nhân đưa tay vuốt tóc nàng, mỉm cười nói:

“Một người tình cảm yếu đuối như ngươi, quả thật không nên luyện môn công phu này của ta …”.

Cốc Hàn Hương thút thít nói:

“Chỉ có trước mặt của sư phụ đệ tử mới như thế, đối với người khác thì lòng dạ rất cứng rắn”.

Tam Diệu lão nhân gượng cười, nói:

“Cứng rắn thì càng không thể, cần phải tâm bình khí hòa …” y càng nói càng nhỏ, nói được hai câu thì ngưng lại, bắt đầu thở dốc.

Cốc Hàn Hương trong lòng lo lắng, bước ra ngoài đóng cửa lại, nhưng cũng không làm giảm thanh âm ấy, vội vàng mở cửa ra, chạy ra ngoài.

Chợt nghe Tam Diệu lão nhân kêu:

“Cốc Hàn Hương, ngươi định làm gì?”.

Cốc Hàn Hương nghe thế thì nói:

“Đệ tử đi nhổ long tu bảo trúc …”.

Tam Diệu lão nhân xua tay cười:

“Long tu bảo trúc chỉ có thể tăng cường công lực, không thể kéo dài mạng sống, cứ nhổ bừa như thế cả ngươi cũng sẽ đói chết”. Ông ta thỏ phì một hơi, nói:

“Hãy nhớ lấy lời thề của ngươi, không được giết hơn một người, giữ kỹ hộp ngọc của lão phu, không được rơi vào tay kẻ xấu”. Nói xong thì chậm rãi nhắm mắt lại.

Cốc Hàn Hương thấy trên mặt của ông ta sắc hồng dần dần biến mất, biết rằng ông ta sắp đi, không khỏi đau đớn, nước mắt tuôn trào, nhưng vẫn cố nén mà không dám khóc to.

Aàm … ầm … ầm tiếng phá đá càng lúc càng rõ, giống như thôi thúc Tam Diệu lão nhân mau mau rời khỏi trần gian.

Chợt Tam Diệu lão nhân hơi mở mắt, nhìn Cốc Hàn Hương chốc lát rồi lại nhắm mắt, đầu cúi gục xuống.

Cốc Hàn Hương sớm đã nước mắt như mưa ướt cả vạt áo phía trước ngực, nàng lặng lẽ nhìn di thể của vị lão nhân ấy, đột nhiên quỳ xuống đất, lạy chín lạy.

Sau đó, nàng cầm cái hộp ngọc đặt ở trên giường lên, cất vào trong người xong thì lẳng lặng lui ra khỏi phòng, đóng cửa đơn thất lại. Nàng chây đến cánh cửa nhỏ ở bên trái, lách vào sau cánh cửa,thút thít không nguôi, nàng lo rằng sẽ kinh động đến vong linh của Tam Diệu lão nhân, vì thế không dám khóc thành tiếng, nhưng nỗi đau đớn trong lòng nàng lại cứ tuôn trào, cho nên không thể nào ngừng khóc được.

Không biết trải qua bao lâu, đột nhiên nghe mấy tiếng vọng lớn truyền vào trong tai.

Nàng hơi suy nghĩ thì đã biết người ấy đang dùng chưởng lực đánh lên tấm đoạn môn thạch, chắc là người ấy chưởng lực vô hiệu cho nên tiếng búa gõ đá lại vang vọng.

Cốc Hàn Hương đau đớn khôn nguôi, lập tức cảm thấy thanh âm này rất khó chịu, nàng nghiến răng chạy ra ngoài phòng, bắt đầu luyện chưởng.

Một ngày, hai ngày, ba ngày … đột nhiên một tiếng nổ lớn từ bên ngoài truyền vào.

Cốc Hàn Hương đã bị thanh âm ấy quấy rối cả hơn hai mươi ngày nay, cho nên lòng đã bứt rứt không yên, lúc này thấy có người đã đến ngoài cửa, lập tức đề chân khí ở đơn điền lên, quát lớn:

“Ai?”.

Té ra ở ngoài thạch thất có một người đang đứng, đó chính là Phong Thu, người bên trái là Thiên Minh đại sư của chùa Thiếu Lâm, người bên phải là Tử Dương đạo trưởng.

Trên tấm đoạn môn thạch đã có một cái lỗ khoảng một thước, Nhân Ma Ngũ Độc, Quỷ Lão Thủy Hàn, Độc Hỏa Thành Toàn, Âm Thủ Nhất Ma lần lượt chui vào trong hang, xem qua một lượt những căn phòng đá ở phía ngoài, lập tức tiến vào trong, tiếp theo ở cửa hang có một vị lão ni với một hòa thượng mặt mũi già nua đi sát theo sau bọn Nhân Ma Ngũ Độc, trong chớp mắt đã thấy hết những căn phòng đá trong thông đạo.

Cốc Hàn Hương đứng sau cách cửa quát lên, người ở ngoài cửa chỉ cảm thấy tiếng ong ong chứ không nhận ra là thanh âm của người nào.

Thiên Minh đại sư đột nhiên phẩy tay vầ phía Phong Thu, tiếp theo dùng công phu “Ngưng khí thành ty” và “Truyền âm nhập mật” chậm rãi nói vào trong khe cửa:

“Lão nạp là Thiên Minh hòa thượng của chùa Thiếu Lâm, trong phòng nếu là Hương nhi thì hãy vỗ tay lên vách đá ba lần”. Cốc Hàn Hương không ngờ rằng trung khí của mình lại xung mãn như thế, vừa quát một tiếng thì đã chấn động màn nhĩ, nhưng nàng lập tức hiểu ra rằng, nội lực của nàng tuy tiến triển kinh người nhưng vẫn còn rất phức tạp, chưa đến mức tinh thuần.

Lúc này, giọng nói của Thiên Minh đã truyền vào trong tai của nàng rất rõ ràng, nàng ngạc nhiên rồi vỗ nhẹ lên vách đá ba lần.

Nàng ra tay tuy nhẹ, nhưng ở ngoài cánh cửa lại vang lên ba tiếng ầm ầm, như rung rinh cả thông đạo.

Người ở bên ngoài phòng đều tưởng rằng nàng cố sức vỗ lên vách đá, ai nấy đều thầm nhíu mày, Quỷ Lão Thủy Hàn và Nhân Ma Ngũ Độc đưa mắt nhìn nhau, trên mặt đều lộ nụ cười hiểu ý nhau.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.