The Viscount Who Loved Me

Chương 1


Đọc truyện The Viscount Who Loved Me – Chương 1

Mùa dạ hội mới đã mở ra cho năm 1814, và có rất ít lý do để hy vọng rằng chúng ta sẽ thấy bất cứ sự thay đổi đáng chú ý nào so với năm 1813.

Các tầng lớp trong xã hội lại một lần nữa được lấp đầy bởi những Bà Mẹ Tham Vọng, mà mục tiêu duy nhất chỉ là nhìn thấy các cô Con Gái Cưng của họ cưới những Chàng Độc Thân Đã Được Xác Định. Cuộc trò chuyện giữa những Bà Mẹ đụng chạm đến Tử Tước Bridgerton như là món bở thích hợp nhất trong năm nay, và thực vậy, nếu tóc của anh chàng tội nghiệp này trông rối và bị gió tốc, đó là bởi vì chàng không thể đi bất cứ đâu mà không có vài quý cô trẻ nhấp nháy lông mi với nhiều lực và tốc độ đến mức tạo ra một luồng gió với sức mạnh bão tố.

Có thể quý cô trẻ duy nhất không quan tâm đến Bridgerton là Miss Katharine Sheffield, và thực ra, thái độ của nàng đối với chàng tử tước đôi khi đóng khung ở sự thù địch.

Và đó là lí do vì sao, Độc Giả Thân Mến, Bổn Tác Giả cảm thấy rằng một sự đối đầu giữa Bridgerton và Miss Sheffield sẽ đúng là chất xúc tác làm phấn chấn một mùa vũ hội thông thường nói theo cách khác.

Tạp chí của Lady Whistledown, ngày 13 tháng 4 năm 1814

Anthony Bridgerton đã luôn luôn biết rằng anh sẽ chết trẻ.

Ồ, không phải khi còn là một đứa trẻ. Cậu Thiếu Niên Anhthony chưa bao giờ có lí do để cân nhắc về tuổi thọ của mình. Những năm tháng trẻ thơ của cậu là một sự hoàn hảo đối với một cậu bé, ngay từ ngày cậu được sinh ra.

Sự thật rằng Anthony là người thừa kế của một chức tử tước cổ xưa và giàu có, nhưng không giống như hầu hết các cặp đôi quý tộc, Lord và Lady Bridgerton yêu nhau say đắm, và họ xem sự chào đời của con trai họ không phải như sự ra đời của một người thừa kế, nhưng lại như của một đứa trẻ.

Và do đó đã chẳng có tiệc tùng, lễ hội, không tiệc chúc mừng ngoài niềm hạnh phúc của bậc làm cha làm mẹ, nhìn chăm chú đầy kinh ngạc vào đứa con trai mới sinh.

Nhà Bridgerton là những bậc phụ huynh non trẻ – Edmund chưa tròn hai mươi và Violet mới chỉ mười tám – nhưng họ khôn ngoan và mạnh mẽ, và họ yêu con trai với một sự mãnh liệt và lòng tận tâm rất hiếm thấy trong xã hội lúc đó. Trong phần lớn sự hãi hùng của mẹ cô, Violet yêu cầu được tự mình nuôi dưỡng con trai, và Edmund không bao giờ góp vào thái độ phổ biến lúc đó rằng người cha không nên nghe và thấy con cái họ. Anh dắt con trong những cuộc đi bộ đường dài băng qua các vùng đồi ở Kent, nói với con về triết học và thơ ca trước khi nó có thể hiểu được từ ngữ, và kể cho con nghe truyện đọc vào giờ đi ngủ hằng đêm.

Bởi vì ngài tử tước và tử tước phu nhân còn rất trẻ và yêu nhau say đắm, đó không phải là một ngạc nhiên cho mọi người khi, chỉ hai năm sau sinh nhật của Anthony, cậu bé được kết thân với một cậu em trai, được đặt tên là Benedict. Edmund ngay lập tức điều chỉnh công việc hằng ngày của anh để dẫn hai con trai trên những chuyến đi dạo, và anh dành một tuần đào xới trong chuồng ngựa, làm việc cùng với người thuộc da để phát minh ra một balô đặc biệt sẽ giữ Anthony trên lưng anh, trong khi anh bồng Benedict trong đôi cánh tay mình.

Họ đã đi qua các cánh đồng và các dòng sông nhỏ, và anh kể cho bọn trẻ những điều kỳ diệu, về những bông hoa hoàn mĩ và những bầu trời xanh trong, về những hiệp sĩ trong bộ áo giáp sáng ngời và những thiếu nữ gặp nạn. Violet thường cười khi họ trở về cùng với vẻ bù xù và cháy nắng, và Edmund sẽ nói “Thấy không? Đây là cô gái gặp nạn của chúng ta. Rõ ràng là chúng ta phải cứu cô ấy.” Và Anthony sẽ ném mình vào vòng tay mẹ, cười khúc khích khi cậu thề rằng cậu sẽ bảo vệ cô khỏi hơi thở lửa của con rồng mà họ thấy chỉ cách hai dặm trên con đường vào làng.

“Hai dặm trên đường vào làng sao?” Violet sẽ thở gấp, khéo léo giữ cho giọng cô tràn ngập nỗi sợ hãi. “Trời ơi, ta sẽ làm gì khi không có ba người đàn ông mạnh mẽ này bảo vệ ta đây?”

“Benedict là một đứa trẻ.” Anthony sẽ trả lời.

“Nhưng em sẽ lớn lên,” cô luôn luôn nói thế, xoa tóc cậu bé, “cũng như con vậy. Và cũng như con vẫn sẽ như vậy.”

Edmund luôn luôn đối xử với các con cùng một tình yêu thương công bằng và lòng tận tâm, nhưng vào lúc tối muộn, khi Anthony ôm ấp cái đồng hồ cầm tay vào ngực mình (được cha tặng cho cậu nhân kỷ niệm sinh nhật lần thứ tám của cậu, cha cậu đã nhận cái đồng hồ vào sinh nhật thứ tám từ cha mình), cậu thích nghĩ rằng mối quan hệ của cậu với cha có một chút gì đó đặc biệt. Không phải vì Edmund yêu cậu nhất; lúc đó thì con cái nhà Bridgerton đã lên tới số bốn (Colin và Daphne đã đến gần như là cùng nhau) và Anthony biết rất rõ rằng tất cả những đứa trẻ đều được yêu thương rất nhiều.

Không, Anthony thích nghĩ rằng tình cảm giữa cậu với cha là đặc biệt, đơn giản chỉ vì cậu biết cha lâu nhất. Sau cùng thì, không nhất thiết Benedict đã biết cha họ bao lâu đi chăng nữa, Anthony vẫn luôn có hai năm nhiều hơn. Và sáu năm hơn Colin. Và đối với Daphne thì, chà, bên cạnh sự thật nó là một bé gái (điều kinh khiếp!), con bé biết Cha ít hơn cậu đến tám năm và, cậu thích tự nhắc nhở mình, sẽ luôn luôn như thế.

Edmund Bridgerton là, hoàn toàn đơn giản, trung tâm thế giới của Anthony. Cha cao, đôi vai cha rộng, và cha có thể cưỡi một con ngựa như thể cha được sinh ra trên yên ngựa vậy. Cha luôn luôn biết đáp án của những câu hỏi số học (ngay cả khi người dạy học cũng không biết), cha thấy chả có lý do gì mà con trai mình không nên có một ngôi nhà trên cây (và rồi chính cha đã xây nó), và tiếng cười của cha là tiếng cười sưởi ấm ai đó từ trong ra ngoài.

Edmund đã dạy Anthony làm thế nào để cưỡi ngựa. Cha dạy Anthony làm thế nào để bắn súng. Ch dạy cậu bơi. Cha dắt cậu đến trường Eton, thay vì gửi cậu đến trong một cỗ xe với người hầu, khi hầu hết các bạn bè tương lai của Anthony đã đến theo cách đó, và khi anh thấy Anthony lướt nhìn một cách căng thẳng xung quanh ngôi trường sẽ sớm trở thành nhà cậu, anh đã có một buổi nói chuyện từ trái tim đến trái tim với con trai cả của mình, cam đoan với cậu rằng mọi thứ sẽ ổn thôi.

Và mọi thứ ổn cả. Anthony đã biết nó sẽ như thế. Cha cậu, sau tất cả, chưa bao giờ nói dối.

Anthony yêu mẹ mình. Chết tiệt, anh có thể cắn đứt cánh tay mình nếu nó có nghĩa là giữ cho mẹ được an toàn và khoẻ mạnh. Nhưng khi lớn lên, tất cả mọi thứ anh làm, tất cả mọi việc anh hoàn thành, mỗi mục đích, mỗi một niềm hy vọng và ước mơ – tất cả là vì cha anh.

Và rồi một ngày, tất cả mọi thứ đã thay đổi. Thật khôi hài, anh phản ứng sau đó, làm thế nào cuộc đời của một con người có thể biến đổi chỉ trong một khoảnh khắc, làm thế nào mà trong một phút, mọi thứ có thể ở trong sự chắc chắn, và rồi phút sau đó nó chỉ đơn giản là… không còn nữa.

* * *

Việc ấy xảy đến khi Anthony mười tám tuổi, về nhà trong kỳ nghỉ hè và chuẩn bị cho năm đầu tại đại học Oxford. Anh sẽ gia nhập vào AllSoulsCollege, như cha anh cũng đã tham gia trước anh, và cuộc đời của anh tươi sáng và chói lọi như bất kỳ một người mười tám tuổi nào có quyền được hưởng. Anh đã khám phá ra phụ nữ, và có thể là huy hoàng hơn, họ khám phá ra anh. Cha mẹ anh vẫn còn tái tạo một cách hạnh phúc, đã thêm Eloise, Francesca, và Gregory vào gia đình, và Anthony đã cố gắng hết sức để không đảo tròn mắt khi anh đi ngang qua mẹ trên đại sảnh – mang thai với đứa thứ tám! Nó hơi không thích hợp, trong suy nghĩ của Anthony, có con vào độ tuổi của họ, nhưng anh giữ ý kiến đó cho riêng mình.

Anh là ai mà dám nghi ngờ sự thông thái của Edmund chứ? Có thể anh cũng sẽ muốn nhiều con cái hơn ở độ tuổi ba mươi tám.

Khi Anthony phát hiện ra, thì đã là chiều muộn. Anh vừa trở về từ một cuộc cưỡi ngựa dài và bầm tím với Benedict và mới chỉ vượt qua cánh cửa trước của Aubrey Hall, căn nhà tổ tiên của dòng họ Bridgerton, khi anh thấy cô em gái mười tuổi đang ngồi trên sàn nhà. Benedict vẫn còn đang ở trong chuồng ngựa, đã thua vài cuộc cá độ ngu ngốc với Anthony, lụât quy định cậu phải ở lại và tắm rửa cho mấy con ngựa.

Anthony ngừng lại khi anh thấy Daphne. Nó đã đủ kỳ lạ khi em gái anh lại ngồi giữa sàn của gian đại sảnh. Nó còn kỳ lạ hơn khi cô bé đang khóc.

Daphne không bao giờ khóc.

“Daff,” anh nói ngập ngừng, quá trẻ để hiểu phải làm thế nào với một người phụ nữ đang khóc lóc, và tự hỏi liệu anh có bao giờ học được không, “chuyện gì -”

Nhưng trước khi anh có thể kết thúc câu hỏi của mình, Daphne đã ngước đầu lên, và ánh nhìn tan vỡ trong đôi mắt nâu to tròn cắt vào anh như một lưỡi dao. Anh sượt chân lùi một bước, biết rằng có điều gì đó không ổn, không ổn kinh khủng. “Ông chết rồi.” Daphne thì thầm. “Papa đã chết.” Trong một lúc Anthony chắc chắn rằng anh đã nghe nhầm. Cha anh không thể chết được. Những người khác chết trẻ, như Chú Hugo, nhưng Chú Hugo còn rất trẻ và mỏng manh.

Chà, ít nhất thì trẻ hơn và mong manh hơn Edmund.

“Em nhầm rồi.” Anh nói với Daphne. “Em nhất định là đã nhầm.”

Cô bé lắc đầu. “Eloise nói với em. Ông đã… Nó là…”

Anthony biết anh không nên lắc em gái anh khi cô bé đang khóc, nhưng anh không thể ngăn mình được. “Nó là cái gì, Daphne?”

“Một con ong.” Cô thì thầm. “Cha bị chích bởi một con ong.”

Trong một lúc Anthony chẳng thể làm gì khác ngoài nhìn chằm chằm vào cô. Cuối cùng, trong một giọng khàn khàn và khó có thể nhận ra, anh nói. “Một người đàn ông không chết vì ong đốt, Daphne.”

Cô bé không nói gì, chỉ ngồi trên sàn nhà, cổ họng co giật khi cố kiềm chế nước mắt.

“Cha đã từng bị đốt trước đây rồi.” Anthony nói thêm, âm lượng trong iọng anh tăng lên. “Anh đã ở cùng với cha. Cả hai cùng bị đốt. Bọn anh đã đi ngang qua một cái tổ ong. Anh bị chích trên vai.” Tự ý, tay anh đưa lên chạm vào vết mà anh đã bị chích từ nhiều năm trước. Trong một lời thì thầm anh nói thêm. “Cha bị đốt trên cánh tay.”

Daphne chỉ nhìn chằm chằm vào anh với một vẻ mặt trống rỗng. “Cha ổn thôi.” Anthony ra lệnh. Anh có thể nghe được sự sợ hãi trong giọng của mình và biết anh đang làm cho em gái anh hoảng sợ, nhưng anh lại không có sức mạnh nào để kiềm chế điều đó. “Một người đàn ông không thể chết vì một vết ong đốt!”

Daphne lắc đầu, đôi mắt cô bé bỗng trông như đã hàng trăm năm tuổi. “Đó là một con ong.” Cô nói trong một giọng trống rỗng. “Eloise đã thấy mà. Một phút trước cha chỉ là đang đứng đó, và sau đó cha đã… cha đã…”

Anthony cảm thấy điều gì đó rất kỳ lạ đang dâng lên trong anh, như thể là các cơ bắp của anh đang chuẩn bị nhảy ra khỏi da anh vậy. “Sau đó cha đã thế nào, Daphne?”

“Ra đi.” Cô bé trông ngạc nhiên bởi từ đó, ngạc nhiên nhiều như anh cảm thấy.

Anthony để Daphne ngồi lại trên đại sảnh và đi lên cầu thang ba bậc một tới phòng ngủ của cha mẹ anh. Chắc chắn cha anh không chết. Một người đàn ông không thể chết vì một vết ong đốt. Điều đó là không thể. Hoàn toàn điên rồ. Edmund Bridgerton còn trẻ, ông khoẻ mạnh. Ông cao lớn, đôi vai ông rộng, cơ bắp đầy sức mạnh, và vì Chúa, không có một con ong mật ngớ ngẩn nào có thể đánh bại ông.

Nhưng khi Anthony đến sảnh trên lầu, anh có thể nói bởi sự im lặng hoàn toàn và trọn vẹn của hàng tá hoặc hơn nữa số người hầu lảng vảng quanh đó rằng, tình thế nghiêm trọng.


Và những khuôn mặt thương hại của họ… cho đến tận cuối đời anh sẽ còn bị ám ảnh bởi những gương mặt thương hại đó.

Anh đã nghĩ anh phải chen lấn để vào phòng cha mẹ anh, nhưng những người hầu đã tránh ra như thể họ bị ném vào Biển Đỏ, và khi Anthony đẩy cánh cửa mở, anh đã biết.

Mẹ anh đang ngồi trên mép giường, không khóc than, không cả gây ra một tiếng động, chỉ nắm lấy tay cha anh khi bà chầm chậm đung đưa người trước ra sau. Cha đang nằm yên. Yên như… Anthony còn không muốn nghĩ đến cái từ đó nữa. “Mama?” Anh ho. Anh đã không còn gọi mẹ như thế từ nhiều năm rồi, bà đã là “Mẹ” từ khi anh rời Eton.

Bà quay lại, chậm chạp, như thể nghe tiếng anh từ xuyên qua một con hầm dài, rất dài. “Chuyện gì đã xảy ra?” anh thì thầm. Bà lắc đầu, đôi mắt bà tuyệt vọng, xa xăm. “Mẹ không biết.” Bà nói. Đôi môi bà vẫn hé mở một khoảng, như thể bà muốn nói gì đó nữa nhưng đã quên mất.

Anthony bước tới trước một bước, cử động của anh ngượng nghịu và giật giật.

“Ông ấy đã đi rồi.” Violet cuối cùng cũng thì thầm. “Ông ấy đã ra đi và mẹ… ôi, Chúa ơi, mẹ…” Bà đặt một bàn tay lên bụng căng tròn với em bé. “Mẹ đã nói với cha – ôi, Anthony, mẹ đã nói với cha – ” Bà trông như thể có thể nứt vỡ từ bên trong.

Anthony kiềm lại nước mắt đang làm cay mắt anh, chích vào họng anh và đi đến bên cạnh bà. “Sẽ ổn thôi, mama.” Anh nói. Nhưng anh biết nó không hề ổn.

“Mẹ đã nói với cha đây phải là đứa cuối của chúng ta.” Bà thở gấp, khóc trên vai anh. “Mẹ đã nói với cha mẹ không thể mang thai đứa nào nữa, và cha mẹ phải cẩn thận, và… ôi, Chúa ơi, Anthony, mẹ sẽ làm bất cứ việc gì để có cha ở đây và trao cho cha một đứa con nữa. Mẹ không hiểu. Mẹ không thể hiểu được…”

Anthony ôm mẹ khi bà khóc. Anh chẳng nói gì; nó có vẻ như là vô dụng khi cố gắng thốt ra từ nào thích hợp với sự hủy hoại trong tim anh.

Anh cũng không thể hiểu được.

* * *

Những người bác sĩ tới sau đó vào buổi tối và tuyên bố họ bị bối rối. Họ đã từng nghe về điều này trước đây, nhưng chưa bao giờ ở một người trẻ và khoẻ mạnh như thế. Ông thật đầy sức sống, thật mạnh mẽ; chẳng ai có thể biết được. Sự thật rằng em trai Hugo của vị tử tước đã chết hoàn toàn đột ngột vào năm ngoái, nhưng những việc như thế không hẳn là di truyền trong gia đình, và bên cạnh đó, ngay cả khi Hugo đã chết bên ngoài ngôi nhà, không ai đã từng nhận thấy một nốt ong đốt trên da anh ta.

Nhưng một lần nữa, chẳng có ai đã tìm cả.

Chẳng ai có thể biết được, những người bác sĩ nói vậy, lặp đi và lặp lại cho đến khi Anthony muốn bóp cổ hết tất cả bọn họ. Cuối cùng, anh đuổi họ ra khỏi ngôi nhà, và anh đưa mẹ vào giường. Họ đã phải chuyển bà đến một phòng ngủ còn trống; bà trở nên khích động với ý nghĩ ngủ trên cái giường mà bà đã chia sẻ với Edmund từ rất nhiều năm. Anthony cũng đã sắp xếp đưa các em vào giường, nói với chúng rằng họ sẽ nói chuyện vào buổi sáng mai, rằng tất cả mọi chuyện sẽ tốt thôi, và anh sẽ chăm sóc cho chúng như cha đã mong muốn.

Rồi anh đi vào căn phòng nơi cha anh vẫn còn nằm đó và nhìn ông. Anh nhìn ông và nhìn ông, nhìn chằm chằm trong nhiều tiếng đồng hồ, chỉ hơi chớp mắt.

Và khi anh đã rời phòng, anh rời khỏi đó với một phiên bản khác của cuộc đời anh, và một sự hiểu biết mới về ngày tận số của mình.

Edmund Bridgerton đã chết ở lứa tuổi ba mươi tám. Và Anthony đơn giản là không thể hình dung được có bao giờ vượt qua cha anh trong bất cứ điều gì, ngay cả về tuổi tác.

Chủ đề về những kẻ ăn chơi trác táng, tất nhiên, đã được thảo luận trước đây trên mục báo này, và Bổn Tác Giả đã đi đến một kết luận là có tồn tại những kẻ ăn chơi trác táng, và có tồn tại những Kẻ Ăn Chơi Trác Táng.

Anthony Bridgerton là một Kẻ Ăn Chơi Trác Táng.

Một kẻ ăn chơi trác táng (viết thường) còn trẻ và chưa chín chắn. Anh ta khoe khoang những chiến công của mình, cư xử với cực điểm của chứng ngu ngốc, và nghĩ rằng anh ta nguy hiểm đối với phụ nữ.

Một Kẻ Ăn Chơi Trác Táng (viết hoa) biết rằng chàng nguy hiểm đối với phụ nữ. Chàng không phô trương những chiến công của chàng, bởi vì chàng không cần phải làm thế. Chàng biết chàng sẽ được thì thầm khắp nơi bởi những đàn ông cũng như phụ nữ, và trên thực tế, chàng thà rằng họ đứng có thì thầm gì về chàng hết. Chàng biết chàng là ai và chàng đã làm gì; những trò tường thuật chi tiết, đối với chàng, thật là rườm rà.

Chàng không cư xử như một kẻ ngu ngốc chỉ bởi vì lý do đơn giản rằng chàng không phải là thằng ngốc (không nhiều hơn những gì được trông chờ ở tất cả thành viên thuộc giới tính nam). Chàng có rất ít kiên nhẫn cho những nhược điểm của xã hội, và thành thật mà nói, hầu hết các lần Bổn Tác Giả chẳng thể nói rằng nàng đổ lỗi cho chàng được.

Và nếu đó không miêu tả Tử Tước Bridgerton – rõ ràng là người độc thân thích hợp nhất của mùa vũ hội này – đến hoàn hảo, Bổn Tác Giả nên ngừng nghề viết ngay lập tức. Câu hỏi duy nhất là: liệu năm 1814 sẽ là năm chàng cuối cùng cũng đầu hàng niềm hạnh phúc tuyệt vời của hôn nhân?

Bổn Tác Giả nghĩ… không.

Tạp chí của Lady Whistledown, ngày 20 tháng 4 năm 1814

“Làm ơn đừng nói với chị,” Kate Sheffield nói với căn phòng rộng lớn, “rằng cô ta lại viết về Tử Tước Bridgerton lần nữa chứ.”

Cô em kế của cô, Edwina, nhỏ hơn đến gần bốn tuổi, nhìn lên từ sau tờ báo một trang. “Làm sao mà chị biết?”

“Em đang cười khúc khích như một người điên.”

Edwina cười khúc khích, làm rung chiếc ghế sofa thêu hoa mà họ đang ngồi.

“Thấy chưa?” Kate nói, tặng cho em gái một cú thúc vào cánh tay. “Em lúc nào cũng cười khúc khích khi cô ta viết về mấy gã ma cà bông đáng quở trách.” Nhưng Kate lại cười toét miệng. Có rất ít thứ mà cô thích hơn là chọc em gái. Với ý tốt, tất nhiên.

Mary Sheffield, mẹ của Edwina, và mẹ kế của Kate đã gần tám năm nay, liếc lên từ đồ thêu của bà và đẩy cặp kính lên cao hơn trên sống mũi. “Hai đứa cười cái gì đấy?”

“Chị Kate đang nổi điên lên vì Lady Whistledown lại viết về ngài tử tước phóng đãng đó nữa.” Edwina giải thích.

“Chị không nổi điên. nói, ngay cả khi không có ai lắng nghe.

“Bridgerton?” Mary hỏi lơ đãng.

Edwina gật đầu. “Vâng.”

“Cô ấy lúc nào cũng viết về anh ta.”

“Con nghĩ cô ấy chỉ thích viết về những kẻ ăn chơi trác táng.” Edwina bình luận.

“Tất nhiên là cô ấy thích viết về mấy kẻ trác táng.” Kate vặn lại. “Nếu cô ấy mà viết về những người chán ngắt, thì chả ai sẽ mua tạp chí của cô ấy.”

“Điều đó không đúng.” Edwina trả lời. “Chỉ mới tuần trước cô ấy đã viết về chúng ta đó thôi, và ông trời mới biết chúng ta không phải là những người đáng quan tâm nhất ở Luân Đôn.”

Kate mỉm cười với sự ngây thơ của em gái. Kate và Mary có thể không phải là người đáng quan tâm nhất Luân Đôn, nhưng Edwina, với mái tóc màu vàng ngọt ngào như bơ và đôi mắt xanh trong đến sững sờ, đã được vinh danh là Người Không Thể So Sánh của năm 1814. Kate, mặt khác, với mái tóc và đôi mắt một màu nâu giản dị, thường được nhắc đến như là “Chị gái lớn của Người Không Thể So Sánh”.

Kate vờ như còn có cách nói tệ hơn. Ít nhất thì chưa có ai bắt đầu gọi cô là “Chị gái già của Người Không Thể So Sánh.” Điều đó rất nhiều phần gần với sự thật hơn là bất cứ người nhà Sheffield nào chịu thừa nhận. Ở tuổi hai mươi (gần như là hai mươi mốt, nếu người ta thành thật về điều đó), Kate hơi dài răng để có thể tận hưởng mùa vũ hội đầu tiên ở Luân Đôn.

Nhưng đã chẳng có lựa chọn nào khác. Nhà Sheffield đã không từng giàu có ngay cả khi cha Kate vẫn còn sống, và từ khi ông qua đời vào năm năm trước, họ đã buộc phải tiết kiệm nhiều hơn nữa. Họ chắc chắn là chưa đến mức vào nhà tế bần, nhưng phải lo lắng cho từng đồng và xem xét từng bảng.

Với tài chính bị thu hẹp, nhà Sheffield chỉ có thể sắp xếp một khoản tiền cho một chuyến đi đến Luân Đôn. Thuê mướn một ngôi nhà – và một cỗ xe – và thuê một ít người hầu vừa đủ cho mùa vũ hội tốn một khoản tiền. Nhiều tiền hơn là họ có thể xoay sở để có thể trang trải qua cả hai lần. Như thế, họ phải chuẩn bị trong năm năm khó khăn để có thể chu cấp cho chuyến đi này đến Luân Đôn. Và nếu các cô gái không thành công ở Hội Chợ Hôn Nhân… À thì, chả có ai sẽ đẩy họ vào nhà tù nợ nần, nhưng họ sẽ phải trông đến một cuộc sống yên bình của nghèo khó thanh đạm ở một mái nhà tranh đáng yêu nhỏ nhắn nơi vùng Somerset.


Và vì vậy hai cô gái đành phải khởi đầu mùa vũ hội đầu tiên trong cùng một năm. Đó là một quyết định rằng thời gian logic nhất là khi Edwina mười bảy và Kate sắp hai mươi mốt. Mary sẽ muốn chờ cho đến khi Edwins đã mười tám, và chín chắn hơn một chút, nhưng điều đó sẽ làm cho Kate gần hai mươi hai, và trời ơi, nhưng ai sẽ cưới cô lúc đó chứ?

Kate cười nhăn nhó. Cô còn không muốn một mùa vũ hội. Cô đã biết rằng cô không thuộc dạng sẽ thu hút sự chú ý của mọi người. Cô không đủ xinh xắn để che lấp sự thiếu hụt của hồi môn, và cô chưa bao giờ học cách cười điệu và nói chuyện dịu dàng và đi đứng duyên dáng, và làm tất cả những việc mà các cô gái khác dường như biết cách làm từ trong nôi. Ngay cả Edwina, người chẳng có một cái xương ranh mãnh nào trong người, bằng cách nào đó cũng biết cách đi và đứng và thở dài sao cho đàn ông chạy vù tới, chỉ để có cái vinh dự được đưa nàng sang đường.

Kate, mặt khác, luôn luôn đứng với đôi vai thẳng và cao, không thể ngồi yên nếu cuộc sống của cô phụ thuộc vào điều đó, và đi như cô đang ở trong một cuộc đua – và tại sao lại không? Cô luôn tự hỏi. Nếu một người đang đi đến đâu đó, có lý gì khi không đến đó nhanh chóng?

Còn đối với mùa dạ hội của cô ở Luân Đôn, cô còn không thích thành phố nhiều nữa. Ôi, cô có một khoảng thời gian vui vẻ, và cô đã gặp nhiều người tử tế, nhưng một mùa vũ hội Luân Đôn dường như là một sự phung phí tiền bạc khủng khiếp đối với một cô gái sẽ hoàn toàn hài lòng được ở lại nông thôn và tìm một anh chàng hiểu biết lý lẽ để mà cưới.

Nhưng Mary không chấp nhận điều gì như thế. “Khi ta cưới cha con,” bà nói, “ta đã thề sẽ yêu thương con và đem đến cho con mọi sự chăm sóc và tình thương ta sẽ dành cho con ruột của ta.”

Kate đã thu xếp để vừa thốt ra được một từ “nhưng – ” trước khi Mary tiếp tục với, “ta có trách nhiệm đối với người mẹ tội nghiệp của con, cầu Chúa cho bà yên nghỉ, và một phần của trách nhiệm đó là thấy con được cưới xin hạnh phúc và định.”

“Con có thể hạnh phúc và được bảo đảm ở thôn quê mà.” Kate đã trả lời.

Mary đã đối lại, “Có nhiều người đàn ông để lựa chọn hơn ở Luân Đôn.”

Sau đó Edwina cũng đã tham gia, khăng khăng nói rằng cô sẽ hoàn toàn khốn khổ nếu không có Kate, và bởi vì Kate không bao giờ có thể chịu được khi nhìn thấy em gái không hạnh phúc, số phận cô được quyết.

Và thế là cô ở đây – ngồi trong một căn phòng khách hơi sờn cũ, trong một căn nhà thuê ở phần rìa Luân Đôn mà gần như hợp thời, và…

Cô nhìn quanh một cách tinh nghịch… và cô sắp sửa giật tờ tạp chí từ tay em gái.

“Chị Kate!” Edwina kêu ré lên, mắt cô trợn vào mảnh báo nhỏ hình tam giác còn lại giữa ngón tay cái và ngón trỏ. “Em chưa xong mà!”

“Em cữ đọc nó mãi.” Kate trả lời với nụ cười ngoác miệng táo tợn. “Bên cạnh đó, chị muốn coi cô ta viết gì về tử tước Bridgerton hôm nay.”

Đôi mắt của Edwina, thường xuyên được ví như mặt hồ Scot tĩnh lặng, ánh lên quỷ quái. “Chị quan tâm khủng khiếp đến ngài tử tước đấy, Kate. Có điều gì chị không nói với mẹ và em đúng không?”

“Đừng có ngu ngốc thế. Chị còn không biết anh ta. Mà nếu chị có biết, có thể là chị sẽ chạy về hướng ngược lại. Anh ta cụ thể là loại đàn ông mà hai chúng ta nên tránh xa bằng mọi giá. Anh ta rất có thể quyến rũ một tảng bẳng ấy chứ.”

“Kate!” Mary bật ra.

Kate nhăn nhó. Cô đã quên mất rằng mẹ cô đang lắng nghe. “Chà, đó là sự thật.” Cô thêm. “Con đã nghe rằng anh ta có nhiều người tình hơn là sinh nhật của con nữa.”

Mary nhìn cô trong vài giây, như thể cố quyết định bà có muốn trả lời hay không, và cuối cùng bà nói, “Không phải đó là một chủ đề thích hợp cho tai con đâu, nhưng nhiều người đàn ông

“Ôi.” Kate đỏ mặt. Có rất ít thứ kém hấp dẫn hơn là bị phản đối khi một người đang cố gắng đưa ra một lập luận quan trọng. “Chà, thế thì, anh ta có gấp đôi con số nhiều. Cho dù trường hợp nào đi nữa, anh ta quá bữa bãi hơn hầu hết những người đàn ông khác, và không phải loại Edwina nên cho phép tán tỉnh nó.”

“Con cũng đang tận hưởng một mùa vũ hội đấy.” Mary nhắc nhở cô.

Kate chiếu vào Mary một cái nhìn khó chịu nhất. Họ đều biết là nếu ngài tử tước chọn tán tỉnh một người nhà Sheffield, đó sẽ không là Kate.

“Em không nghĩ có bất cứ thứ gì ở đó sẽ thay đổi ý kiến của chị.” Edwina nói với một cái nhún vai khi cô nghiêng người tới Kate để nhìn cho rõ hơn tờ tạp chí. “Cô ấy không nói nhiều về anh ta, thật đấy. Đó giống như là một thảo luận trên chủ đề về mấy kẻ trác táng hơn.”

Đôi mắt Kate lướt khắp hàng chữ in. “Hmmph.” cô nói, biểu hiện yêu thích nhất về sự khinh bỉ. “Chị sẽ cá là cô ấy đúng. Anh ta có thể không đi đào bới năm nay đâu.”

“Con luôn nghĩ Lady Whistledown đúng mà.” Mary thì thầm với một nụ cười.

“Cô ấy thường như vậy.” Kate trả lời. “Người phải thừa nhận, đối với một cột báo đầy tin đồn, cô ấy đã thể hiện một trí tuệ đáng chú ý đó chứ. Cô ấy chắc chắn là đã đúng trong cách nhìn nhận tất cả mọi người mà con đã gặp ở Luân Đôn này.”

“Con nên tự đưa ra phán xét của mình, Kate.” Mary nói nhẹ nhàng. “Sẽ là hạ thấp chính mình khi con căn cứ ý kiến của bản thân vào một cột báo tin đồn.”

Kate biết mẹ kế của cô đã đúng, nhưng cô không muốn thừa nhận nó, và do đó cô chỉ buông ra một tiếng “Hmmph” khác và quay trở lại với tờ tạp chí trong tay.

Tạp chí Whistledown là, không nghi ngờ gì, tờ báo được quan tâm nhất trong toàn Luân Đôn. Kate không hoàn toàn chắc chắn từ lúc nào tờ báo đầy tin đồn thổi này đã bắt đầu – khoảng năm ngoái, cô nghe như vậy – nhưng có một thứ chắc chắn. Dù cho Lady Whistledown có là ai đi nữa (và không ai thực sự biết cô ta là ai), cô ta là một người có quan hệ rộng. Cô ấy phải như thế. Không một kẻ hay xía mũi vào chuyện người khác nào có thể tiết lộ mọi tin đồn mà cô ta đã in trong cột báo của mình vào các ngày Thứ Hai, Thứ Tư và Thứ Sáu.

Lady Whistledown luôn luôn có tất cả những thứ người-ta-nói, và không giống như các nhà viết báo khác, cô ấy không hề ngập ngừng khi dùng tên đầy đủ của người khác. Như đã quyết định vào tuần trước, ví dụ, rằng Kate trông không ổn với màu vàng, cô ấy đã viết, rõ ràng như ban ngày: “Màu vàng khiến cho Quý Cô Katharine Sheffield tóc sẫm màu trong như một cây thuỷ tiên cháy sém.”

Kate đã không phiền lòng vì câu sỉ nhục đó. Cô đã nghe điều đó được nói đến hơn một lần rằng một người không thể tự xem là “thành đạt” cho đến khi người đó bị sỉ nhục bởi Lady Whistledown. Ngay cả Edwina là một thành công rực rỡ của xã hội trong mắt mọi người, cũng đã tỏ ra ghen tị vì Kate đã được chỉ đích danh trong một lời sỉ nhục.

Và mặc dù Kate không đặc biệt mong muốn ở Luân Đôn cho một mùa vũ hội, cô đã suy ra rằng nếu cô đã tham gia vào vòng quay của xã hội, thì tốt nhất là cô không nên trở thành một sự thất bại hoàn toàn và trọn vẹn. Nếu bị sỉ nhục trên một tờ báo lá cải là dấu hiệu duy nhất về sự thành công của cô, vậy thì, cứ như thế đi. Kate sẽ sử dụng chiến thẳng của mình khi cô có thể.

Bây giờ khi mà Penelope Featherington khoe khoang rằng cô ấy đã từng bị so sánh với một quả cam chín rục trong bộ váy sa-tanh chói loá, thì Kate cũng có thể vẫy cánh tay và thở dài rất kịch, “Vâng, ừ, chị là một cây thuỷ tiên cháy sém đấy thôi.”

“Một ngày nào đó,” Mary thông báo, đẩy thêm một cái khác vào cặp kính với ngón tay trỏ, “sẽ có người khám phá ra nhân dạng của người phụ nữ đó, và rồi cô ta sẽ gặp rắc rối lớn cho mà xem.”

Edwina nhìn vào mẹ mình với sự thích thú. “Mẹ thật sự nghĩ ai đó sẽ truy tầm cô ấy sao? Cô ấy đã sắp xếp để giữ bí mật của mình hơn một năm rồi.”

“Không có thứ gì to tát như thế có thể mãi mãi là bí mật.” Mary trả lời. Bà chích vào cái mẫu thêu với cây kim, kéo một đoạn chỉ dài màu vàng xuyên qua lớp vải. “Nhớ lời mẹ đấy. Nó sẽ được bật mí dù sớm hay muộn, và khi nó đã lan ra, một vụ bê bối mà các con chưa bao giờ thấy sẽ bùng nổ trong toàn thành phố.”

“Ừ thì, nếu con mà biết cô ấy là ai,” Kate thông báo, lật cái tạp chí sang trang hai, “con có thể sẽ làm bạn với cô ấy. Cô ấy thật là thú vị như quỷ sứ vậy. Và dù cho mọi người có nói gì, cô ấy hầu như luôn luôn đúng.”

Vừa lúc đó, Newton, chú chó giống corgi béo phệ của Kate, phi nước kiệu vào phòng.

“Không phải là con chó đó nên đang ở ngoài sao?” Mary hỏi. Sau đó bà hét lên “Kate!” khi chú chó rẽ ngoặt trên chân bà và thở phì phì như thể đang chờ một nụ hôn.

“Newton, lại đây ngay lập tức.” Kate ra lệnh.

Con chó nhìn đầy mong mỏi lên Mary, sau đó đi lạch bạch đến chỗ Kate, nhảy hụp lên ghế sofa, và đặt bộ móng trước của nó lên lòng cô.

“Anh chàng đó đang làm cho chị dính đầy lông kìa.” Edwina nói.


Kate nhún vai khi cô vuốt ve bộ lông màu caramel dày của con chó. “Chị không phiền mà.”

Edwina thở dài, nhưng cô vẫn vươn tới và tặng cho Newton một cái vỗ nhẹ. “Cô ấy còn nói gì nữa không?” Cô hỏi, nghiêng người tới trước với sự thích thú. “Em chưa bao giờ đi tới được trang thứ hai.”

Kate cười mỉm trước lời châm biếm của em gái. “Không nhiều. Một tí chút về Ngài Công Tước và Nữ Công Tước của Hastings, họ vừa đến thành phố vào tuần này, một bản danh sách về thức ăn tại vũ hội của Lady Danbury mà cô ấy đã xuýt xoa là nó “ngon lành đến kinh ngạc”, và một miêu tả không may mắn về bộ váy của Bà Featherington vào Thứ Hai tuần trước.”

Edwina cau mày. “Cô ấy dường như thích chích vào nhà Featherington hơi nhiều đấy.”

“Và chẳng có gì mà thắc mắc,” Mary nói, đặt đồ thêu xuống trong khi bà đứng dậy. “Người phụ nữ đó sẽ không biết được làm thế nào để lựa chọn một bộ váy màu thích hợp cho các con gái của bà ta nếu một cái cầu vòng quấn quanh cổ bà ấy.” “Mẹ à!” Edwina thốt lên.

Kate đập một tay lên miệng mình, cố gắng để không cười. Mary hiếm khi nào đưa ra ý kiến cá nhân, nhưng khi bà đã làm, thì chúng luôn luôn phi thường.

“Chà, đó là sự thật. Bà ta cứ mặc đồ cho cô con gái út màu cam. Trong khi bất cứ ai cũng có thể thấy cô gái tội nghiệp đó cần màu xanh dương hoặc xanh lá bạc hà.”

“Người đã mặc cho con màu vàng.” Kate nhắc nhở bà.

“Và ta rất lấy làm tiếc ta đã làm như thế. Điều đó dạy cho ta một điều là nên lắng nghe cô gái bán hàng. Ta không bao giờ nên nghi ngờ đầu óc phán xét của ta mới phải. Chúng ta chỉ cần đơn giản là cắt bớt chiếc váy đó cho Edwina.”

Bởi vì Edwina thấp hơn Kate một cái đầu, và vài chỗ mỏng manh hơn, nên đây sẽ là một vấn đề.

“Khi người làm thế,” Kate nói, quay sang em gái, “hãy chắc chắn rằng người loại ra nếp diềm xếp trên tay áo. Nó phiền hà khủng khiếp. Và nó ngứa. Con đã có một nửa ý định xé nó ra ngay tại buổi dạ vũ của Ashbourne.”

Mary trợn tròn mắt. “Ta vừa ngạc nhiên và biết ơn rằng con đã thấy phù hợp mà kiềm chế bản thân đấy.”

“Con ngạc nhiên nhưng không biết ơn,” Edwina nói với một nụ cười tinh quái. “Chỉ cần nghĩ đến sự thích thú mà Lady Whistledown sẽ có với điều đó xem.”

“À, vâng,” Kate nói, đáp lại bằng nụ cười toét miệng của cô. “Chị có thể thấy nó rồi. ‘Cây thuỷ tiên bị cháy sém đã tự ngắt rụng những cánh hoa của mình’.”

“Mẹ sẽ lên lầu đây.” Mary thông báo, lắc đầu với trò cười của con gái bà. “Cố đừng có quên rằng chúng ta có một buổi dạ hội phải tham gia vào tối nay đấy. Mấy đứa có thể muốn ngủ một tí trước khi chúng ta đi. Chắc chắn sẽ là một đêm về muộn cho tất cả chúng ta.”

Kate và Edwina gật đầu và thì thầm những lời hứa với hiệu quả của lời nói đó khi Mary thu gom đồ thêu của mình và rời phòng. Khi bà vừa rời khỏi, Edwina đã qung Kate và hỏi, “Chị đã quyết định sẽ mặc gì tối nay chưa?”

“Màu xanh khói, chĩ nghĩ thế. Chị nên mặc màu trắng, chị biết, nhưng chị sợ là nó không hợp với chị.”

“Nếu chị không mặc màu trắng,” Edwina nói với lòng trung thành, “thì em cũng không. Em sẽ mặc bộ muslin xanh của em.”

Kate gật đầu tán thưởng khi cô liếc lại vào cột báo trong tay, cố gắng giữ thăng bằng cho Newton, anh chàng đã lăn ngửa ra và đang ngọ nguậy để được gãi bụng. “Chỉ mới tuần trước thôi Mr.Berbrooke đã nói em là một thiên thần trong bộ cánh màu xanh còn gì. Khi tính đến nó hài hoà cực kỳ với màu mắt của em.”

Edwina chớp mắt ngạc nhiên. “Mr.Berbrooke nói vậy sao? Với chị ư?”

Kate nhìn lên lại. “Tất nhiên. Tất cả các anh chàng của em đều cố gắng đưa lời khen thông qua chị.”

“Họ làm thế ư? Để làm gì chứ?”

Kate cười chậm chạp và khoan dung. “Nào, bây giờ, Edwina, đó có thể có liên quan đến việc em đã tuyên bố cho toàn thể khán giả của buổi hoà nhạc nhà Smythe-Smyth là em sẽ không bao giờ có thể kết hôn, mà không có sự đồng tình của chị em đấy.”

Đôi má Edwina hơi ửng hồng. “Nó không hoàn toàn là toàn thể khán giả.” Cô thì thầm.

“Nó có thể lắm chứ. Tin tức lan truyền nhanh hơn là lửa trên mái nhà nữa, Chị còn không có trong phòng lúc đó và chỉ cần có hai phút để chị có thể nghe về nó.”

Edwina khoanh tay và buột ra một tiếng “Hmmph” làm cho cô ấy nghe như là chị gái lớn của mình. “À, đó là sự thật mà, và em không quan tâm ai biết điều đó. Em biết là em được hy vọng sẽ có được cuộc hôn nhân lớn và rực rỡ, nhưng em không nhất thiết phải cưới người sẽ đối xử không tốt với em. Bất cứ ai với sự dũng cảm chịu đựng có thể thật sự gây ấn tượng với chị sẽ phải không còn bé bỏng ngây thơ nữa.”

“Vậy chị khó để mà gây ấn tượng lắm à?”

Hai chị em gái nhìn nhau, rồi đồng thanh trả lời, “Vâng.”

Nhưng khi Kate cười cùng với Edwina, một ý thức tội lỗi nhỏ bé lớn lên trong cô. Cả ba người nhà Sheffield đều biết rằng sẽ là Edwina, người đốn ngã một quý ông hoặc kết hôn vào một gia tài. Sẽ là Edwina, người bảo đảm rằng gia đình cô sẽ không phải sống suốt cuộc đời trong nhà tế bần. Edwina là một mĩ nhân, trong khi Kate thì…

Kate là Kate.

Kate không phiền lòng. Sắc đẹp của Edwina chỉ đơn giản là một sự thật của cuộc đời. Có vài sự thật mà Kate từ lâu đã chấp nhận. Kate sẽ không bao giờ học cách nhảy điệu Valse mà không cố gắng là người dẫn; cô luôn luôn sợ hãi giông bão, không kể là bao nhiêu lần cô tự nhủ là cô thật ngu ngốc; và không nhất thiết là cô mặc cái gì, không nhất thiết cô bới tóc như thế nào hay véo đôi má mình bao nhiêu lần, cô cũng không bao giờ xinh đẹp như Edwina.

Bên cạnh đó, Kate không chắc cô có thích tất cả những sự quan tâm mà Edwina nhận được hay không. Mà cũng không, cô đang nhận ra, cô sẽ không hứng thú với trách nhiệm phải kết hôn tốt để lo liệu cho mẹ và em gái cô.

“Edwina,” Kate nói nhẹ nhàng, mắt cô trở nên nghiêm túc, “Em không cần phải kết hôn người nào mà em không thích. Em biết điều đó mà.”

Edwina gật đầu, bỗng nhiên trông như thể cô sắp khóc.

“Nếu em quyết định rằng chẳng có quý ông nào ở Luân Đôn đủ tốt cho em, vậy thì cứ thế đi. Chúng ta chỉ đơn giản là quay về Somerset và tận hưởng sự bầu bạn của chúng ta. Dù sao đi nữa thì chẳng có ai mà chị thích hơn cả.”

“Em cũng thế.” Edwina thì thầm.

“Và nếu em tìm thấy một người đàn ông khiến cho em say đắm, thì Mary và chị sẽ rất sung sướng. Em cũng không nên lo lắng về chuyện bỏ lại mẹ và chị. Mẹ và chị sẽ sống tốt với nhau thôi.”

“Chị cũng có thể tìm được để kết hôn mà.” Edwina chỉ ra.

Kate cảm thấy miệng cô nhích thành nụ cười nhỏ. “Chị có thể.” Cô cho phép câu này, biết rằng điều đó có thể không đúng. Cô không muốn làm một gái già suốt cuộc đời, nhưng cô nghi ngờ cô sẽ tìm được một người chồng ở Luân Đôn. “Có thể một trong những người theo đuổi điên cuồng của em sẽ quay sang chị, một khi anh ta nhận ra em không thể với tới được.” Cô trêu.

Edwina đập cô với một cái gối. “Đừng có ngu ngốc thế.”

“Nhưng chị không có!” Kate phản đối. Và cô không ngu ngốc. Thành thật mà nói, đây đối với cô là con đường gần giống nhất nhờ nó cô có thể thực sự tìm được một người chồng trong thành phố.

“Chị có biết kiểu đàn ông nào em muốn kết hôn không?” Edwina hỏi, đôi mắt trở nên mơ mộng.

Kate lắc đầu.

“Một học giả.”

“Một học giả?”

“Một học giả.” Edwina nói kiên quyết.

Kate hắng giọng. “Chị không chắc em sẽ tìm thấy nhiều người như thế ở thành phố cho mùa vũ hội này đâu.”

“Em biết.” Edwina bật ra một tiếng thở dài nhỏ. “Nhưng sự thật là – và chị biết điều này ngay cả khi em không được nói ở nơi công cộng – em thật sự hơi mọt sách. Em thích thà dành cả ngày trong thư viện còn hơn là đi lang thang trong Hyde Park. Em nghĩ em nên tận hưởng cuộc sống với một người đàn ông cũng thích thú với sự theo đuổi học vấn.”

“Đúng rồi. Hmmm…” Đầu óc Kate làm việc điên cuồng. Edwina không chắc cũng sẽ tìm được một học giả ở Somerset. “Em biết không, Edwina, có thể khó để tìm cho em một học giả thật sự ngoài các trường đại học thành phố. Em có thể phải chấp nhận một người thích đọc và học hành như em thôi.”

“Như thế cũng rồi.” Edwina nói sung sướng. “Em sẽ hoàn toàn hài lòng với một học giả nghiệp dư.”

Kate thở dài nhẹ nhõm. Chắc chắn họ có thể tìm được ai đó ở Luân Đôn thích đọc.


“Và chị biết gì không?” Edwina thêm. “Chị thật sự không thể nói về một quyển sách chỉ bởi bìa của nó. Mọi người đều là học giả nghiệp dư. Sao chứ, ngay cả tử tước Bridgerton mà Lady Whistledown cứ nói mãi đó có thể là một học giả từ trong tim đấy.”

“Tự cắn lưỡi em đi, Edwina. Em sẽ không có gì liên quan đến tử tước Bridgerton cả. Mọi người đều biết anh ta là loại tệ nhất trong số những kẻ chơi bời phóng đãng. Thật sự, anh ta là kẻ chơi bời phóng đãng tệ nhất mọi thời đại. Trong toàn Luân Đôn. Trong toàn quốc!”

“Em biết, em chỉ nêu anh ta ra như một ví dụ thôi. Bên cạnh đó, anh ta không chắc là sẽ chọn một cô dâu năm nay mà. Lady Whistledown đã nói thế, và chị cũng đã nói rằng cô ấy hầu như luôn luôn đúng.”

Kate vỗ lên cánh tay em gái. “Đừng lo. Chúng ta sẽ tìm cho em một người chồng thích hợp. Nhưng không – không không không không không phải là tử tước Bridgerton!”

* * *

Vào đúng lúc đó, đối tượng của cuộc trò chuyện của họ đang thư giãn tại White’s với hai trong số ba em trai của anh, tận hưởng đồ uống vào chiều muộn.

Anthony Bridgerton dựa vào chiếc ghế da, quan sát ly scotch với một vẻ mặt đăm chiêu khi anh xoay nó, và rồi tuyên bố, “Anh đang nghĩ đến việc kết hôn.”

Benedict Bridgerton, đang tự chiều chuộng cái thói quen mà mẹ anh rất ghét – ngã chiếc ghế của anh một cách say xỉn ra ra hai chân sau – té nhào.

Colin Bridgerton bắt đầu nghẹn.

May mắn cho Colin, Benedict đã ngồi trở lại vừa kịp lúc để vỗ anh thật mạnh vào lưng, làm một quả oliu xanh bay ngang qua bàn.

Nó trượt qua tai Anthony trong đường tơ tóc.

Anthony để sự sỉ nhục này qua một bên mà không bình luận gì. Anh đang biết quá rõ lời tuyên bố đột ngột của anh đã được thốt ra như một sự ngạc nhiên nhỏ.

Chà, có thể là hơn cả nhỏ. “Hoàn toàn,” “toàn bộ”, và “trọn vẹn” là những từ hình thành trong đầu thì đúng hơn.

Anthony đã biết rằng anh không phù hợp với hình ảnh một người đàn ông có ý định ổn định cuộc sống trong đầu. Anh đã dành cả chục năm qua như một kiểu trác táng tồi tệ nhất, nắm bắt lấy khoái lạc khi anh có thể. Bởi vì anh biết rất rõ, cuộc đời rất ngắn và chắc chắn nó có nghĩa là phải tận hưởng. Ồ, anh chắc chắn là có một quy tắc về danh dự. Anh chưa bao giờ dây dưa với phụ nữ trẻ gia giáo. Bất cứ ai có quyền đòi hỏi một cuộc hôn nhân đều hoàn toàn ngoài giới hạn.

Với bốn em gái của anh, Anthony có một mức độ kính trọng lành mạnh cho danh tiếng tốt đẹp của những phụ nữ có giáo dục. Anh đã gần như đấu một cuộc đọ súng tay đôi vì một trong các cô em gái anh, chỉ vì sự coi thường danh dự của cô ấy. Và đối với ba cô khác… anh tự do thú nhận rằng anh đã chảy mồ hôi lạnh chỉ mới một tí ý nghĩ về việc họ có dính líu với một người đàn ông có danh tiếng như anh.

Không, anh chắc chắn sẽ không bắt đầu tước đoạt em gái của các quý ông khác.

Nhưng đối với các kiểu phụ nữ khác – những goá phụ và các diễn viên luôn biết những gì họ muốn và những gì mà họ đang dính dáng vào – anh tận hưởng sự bầu bạn của họ và tận hưởng nó rất tốt. Từ cái ngày anh rời Oxford và đi về hướng Tây tới Luân Đôn, anh đã luôn có một người tình.

Đôi lúc, anh nhăn nhó nghĩ, anh đã có tới hai.

Anh cưỡi ngựa trong gần như tất cả các cuộc đua mà xã hội dâng cho anh, anh đấm bốc tại câu lạc bộ Quý Ông Jackson’s, và anh thắng trong các trò chơi bài nhiều hơn là anh có thể đếm. (Anh cũng thua một ít, nhưng anh không đếm xỉa đến chúng). Anh dành cả mười năm của những năm tháng tuổi đôi mươi trong một cuộc đeo đuổi đầy trí tuệ của hoan lạc, chỉ bị kiềm chế bớt bởi ý thức trách nhiệm tràn ngập đối

Cái chết của Edmund Bridgerton đã vừa đột ngột và không đoán trước được; ông đã không có cơ hội nào để nói lời yêu cầu cuối cùng với đứa con trai đầu của ông trước khi qua đời. Nhưng nếu ông đã làm thế, Anthony chắc chắn rằng ông sẽ yêu cầu anh chăm sóc cho mẹ anh, và các em trai em gái anh với cùng một sự tận tâm và tình yêu thương mà Edmund đã thể hiện.

Và thế là xen giữa những loạt buổi party và những cuộc đua ngựa, anh đã gửi các em trai đến trường Eton và Oxford, đến dự một lượng làm tê liệt đầu óc các buổi độc tấu piano của các em gái anh (không phải là chiến công dễ dàng; ba trong số bốn đứa bị mù âm), và giữ một con mắt tỉ mỉ và thận trọng trên vấn đề tài chính của gia đình. Với bảy em trai và em gái, anh thấy đó là bổn phận của anh phải chắc chắn có đủ tiền để bảo đảm cho tương lai các em.

Khi anh ngày càng gần đến tuổi ba mươi, anh nhận ra anh đang dành nhiều và nhiều thời gian hơn chăm lo cho di sản của mình, của gia đình và ít và ít thời gian hơn cho những đeo đuổi cũ của suy đồi và hoan lạc. Và anh nhận ra anh thích như thế. Anh vẫn giữ một người tình, nhưng không còn hơn một người cùng một lúc nữa, và anh khám phá ra rằng anh không còn cảm thấy sự cần thiết phải đi vào mỗi cuộc đua ngựa, hoặc ở lại lâu ở một buổi tiệc chỉ để thắng ván bài cuối cùng.

Danh tiếng của anh, tất nhiên, vẫn ở lại với anh. Thật ra, anh đã không phiền lòng vì điều đó. Chắc chắc là có lợi ích trong việc được nghĩ đến như là kẻ ăn chơi trác táng đáng quở trách nhất nước Anh. Anh gần như là bị e ngại phổ thông, chẳng hạn.

Đó luôn luôn là một điều tốt.

Nhưng giờ là thời gian dành cho hôn nhân. Anh phải ổn định, có một đứa con trai. Anh có một tước hiệu phải truyền lại, sau tất cả. Anh cũng cảm nhận thấy một sự nuối tiếc nhức nhối – và có thể một chút tội lỗi nữa – về sự thật là khó chắc chắn rằng anh sẽ sống để nhìn con trai anh trưởng thành. Nhưng anh có thể làm gì chứ? Anh là con đầu Bridgerton của một người con đầu Bridgerton của một người con đầu Bridgerton tám lần như thế. Anh có một trách nhiệm triều đại phải đơm quả và sinh sôi nảy nở.

Bên cạnh đó, anh có được một ít an ủi khi biết rằng anh sẽ để lại ba người em có khả năng và đầy quan tâm. Họ sẽ bảo đảm cho con trai anh lớn lên với tình yêu và danh dự mà mỗi người nhà Bridgerton đưởng. Các em gái của anh sẽ chiều chuộng cậu bé, và mẹ anh có thể sẽ làm hư nó…

Anthony thực sự mỉm cười một tí khi anh nghĩ về gia đình lớn và thường xuyên ầm ĩ của anh. Con trai anh sẽ không cần một người cha để được yêu thương chu đáo.

Và dù cho anh có sinh bao nhiêu con đi nữa – à, chúng chắc chắn là sẽ không nhớ về anh sau khi anh ra đi. Chúng sẽ còn nhỏ, chưa đủ trưởng thành. Anh nhận thấy rằng trong tất cả con cái nhà Bridgerton, anh, đứa con cả, là người bị tác động mạnh nhất bởi cái chết của cha họ.

Anthony uống cạn một ngụm của ly scotch của anh và nâng thẳng vai, đẩy những suy nghĩ không vui ra khỏi đầu. Anh cần phải tập trung vào việc quan trọng trước mắt, tên là, cuộc đeo đuổi một người vợ.

Là một người sáng suốt và biết tổ chức, anh đã làm một danh sách trong óc những yêu cầu phải có cho vị trí đó. Trước tiên, cô ấy phải hấp dẫn vừa phải. Cô ấy không cần phải là một người đẹp đến mê say (mặc dù điều đó sẽ tuyệt), nhưng nếu anh sẽ phải ngủ với cô, anh nghĩ rằng một chút hấp dẫn phải làm cho việc đó dễ chịu hơn.

Thứ hai, cô ấy không thể ngu ngốc. Cái này, Anthony trầm ngâm, có thể sẽ là yêu cầu khó thực hiện nhất. Anh không hoàn toàn bị ấn tượng bởi trình độ năng lực của các cô gái trẻ Luân Đôn. Lần cuối anh phạm sai lầm khi lôi kéo một cô gái trẻ vừa mới ra trường vào cuộc trò chuyện, cô ta đã không thể bàn luận gì khác ngoài thức ăn (cô ta có một đĩa dâu tươi trong tay vào lúc đó) và thời tiết (và cô ta còn không nói về nó đúng nữa; khi Anthony hỏi cô ta có nghĩ thời tiết cho trở nên khắc nghiệt không [turn inclement], cô ta đã trả lời, “Em chắc là em không biết. Em chưa bao giờ đến Clement.”)

Anh có thể tránh trò chuyện với một người vợ kém tài giỏi hơn, nhưng anh không muốn những đứa con ngu ngốc.

Thứ ba – và đây là điều quan trọng nhất – cô ấy không thể là một ai đó mà anh có thể thật sự yêu.

Sẽ không có trường hợp nào mà ngyên tắc này bị phá vỡ.

Anh không hoàn toàn là một kẻ hay nhạo báng; anh biết tình yêu thật sự có tồn tại. Bất cứ ai đã từng ở trong cùng một căn phòng với cha mẹ anh đều rằng tình yêu thật sự có tồn tại.

Nhưng tình yêu là một sự rầy rà mà anh muốn tránh. Anh không có mong muốn nào cho cuộc sống của anh bị viếng thăm bởi phép màu kỳ diệu đó.

Và bởi vì Anthony đã quen với việc có được những gì anh muốn, anh không có nghi ngờ gì rằng anh sẽ tìm được một người phụ nữ hấp dẫn, thông minh mà anh không bao giờ có thể yêu. Và có vấn đề gì với nó chứ? Nhiều cơ may là anh không thể tìm được tình yêu của đời anh ngay cả khi anh tìm kiếm cô ấy. Hầu hết đàn ông đều không.

“Lạy Chúa Lòng Lành, Anthony, cái gì làm anh nhăn nhó đến thế? Không phải trái oliu đó. Em thấy nó rõ ràng và nó còn chưa đụng vào anh.”

Giọng của Benedict kéo anh ra khỏi sự mơ tưởng, và Anthony chớp mắt vài lần trước khi trả lời, “Không có gì. Không có gì hết.”

Anh đã không, tất nhiên, chia sẻ những suy nghĩ về sự tận số của anh với bất cứ ai, ngay cả với em trai anh. Đó không phải là loại chuyện mà một người muốn thông báo. Chết tiệt, nếu có ai đó đến và nói với anh điều tương tự, anh chắc chắn là sẽ cười hắn văng ra khỏi cửa.

Nhưng không ai có thể hiểu được chiều sâu mối liên kết giữa anh và cha. Và không ai có thể hiểu được theo cái cách mà Anthony cảm nhận vào trong xương tuỷ của mình, làm thế nào anh biết được anh sẽ không thể sống lâu hơn cha anh. Edmund đã là tất cả đối với anh. Anh đã luôn luôn khao khát là một người đàn ông cừ khôi như cha, biết rằng điều đó là không thể, tuy nhiên anh vẫn cố gắng. Thật sự sống lâu hơn Edmund – trong mọi trường hợp – điều đó chẳng là gì ngoài không tưởng.

Cha của Anthony là, hoàn toàn đơn giản, người đàn ông vĩ đại nhất mà anh từng biết, có thể là người đàn ông vĩ đại nhất từng sống trên trái đất. Để nghĩ rằng anh có thể hơn được cha dường như là kiêu ngạo ở mức tột cùng.

Có điều gì đó đã xảy đến với anh vào cái đêm cha anh qua đời, khi anh ngồi lại trong phòng ngủ của cha mẹ với xác cha, chỉ ngồi đó hàng giờ liền, nhìn ngắm cha anh và cố gắng một cách tuyệt vọng để nhớ lại mọi thời khắc họ đã chia sẻ. Sẽ rất dễ dàng để quên đi những thứ nhỏ nhặt – như Edmund sẽ bóp cánh tay của Anthony khi anh cần sự động viên. Hoặc làm thế nào ông có thể thuật lại từ trí nhớ toàn bài hát Thở Dài Nữa” của Balthazar trong Chẳng Có Chuyện Gì Cũng Làm Rối Lên, không phải bởi vì ông nghĩ nó thật ý nghĩa, mà chỉ bởi vì ông đã thích nó.

Và khi Anthony cuối cùng cũng ra khỏi căn phòng, ánh nắng bình minh đầu tiên tô hồng bầu trời, anh biết bằng cách nào đó rằng những ngày tháng của anh được đánh số, và được đánh số như cách ngày tháng của Edmund đã được đánh số.

“Phun nó ra đi.” Benedict nói, cắt dòng suy nghĩ của anh một lần nữa. “Em sẽ không đưa anh một đồng cho những suy nghĩ của anh đâu, bởi vì em biết chúng không thể đáng giá chừng đó được, nhưng mà anh đang nghĩ gì thế?”

Anthony đột nhiên ngồi thẳng hơn, quyết định buộc sự chú ý của anh vào vấn đề ngay trước mắt. Sau tất cả, anh có một cô dâu phải chọn, và đó là một công việc nghiêm túc. “Ai đang được xem là viên kim cương đắt giá của mùa vũ hội này vậy?” anh hỏi.

Các em trai anh ngừng một lúc để nghĩ về điều đó, và rồi Colin nói. “Edwina Sheffield. Chắc chắn là anh đã thấy cô ấy rồi. Hơi nhỏ nhắn, với mái tóc vàng và đôi mắt xanh. Anh có thể thường xuyên thấy cô ấy ở đám đông như cừu những kẻ tán tỉnh theo đuổi cô ấy khắp nơi.”

Anthony ngó lơ ý đồ trò vui châm biếm của em trai anh. “Cô ta có não chứ?”

Colin chớp mắt, như thể câu hỏi một người phụ nữ có một bộ não là một câu hỏi chưa bao giờ xảy đến với anh. “Vâng, em nghĩ cô ấy có. Em trong một lần đã nghe cô ấy bàn luận thần thoại với Middlethorpe, và nghe như là cô ấy nói đúng về nó.”

“Tốt.” Anthony nói, để cho ly rượu scotch của anh va vào cái bàn với một tiếng thụp. “Vậy anh sẽ cưới cô ta.”


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.