Thế Giới Kì Bí Của Ngài Benedict - Tập 1: Bút Chì, Tẩy Và Người Thắng Cuộc

Chương 33: Tin xấu


Đọc truyện Thế Giới Kì Bí Của Ngài Benedict – Tập 1: Bút Chì, Tẩy Và Người Thắng Cuộc – Chương 33: Tin xấu

Kế hoạch của bọn trẻ thật táo bạo, đầy may rủi, và dễ thất bại, tất cả đểu biết điều này. Nhưng chúng cũng biết mình phải hành động ngay bây giờ hoặc không bao giờ nữa. “Ngày mai, nhé,” Sticky nói, vội vã nghiền một cái rễ cây giữa hai hòn đá. Khi cậu hoàn thành, Constance quét chỗ bột đó vào một cái túi nhỏ và lại đưa cho cậu bé một cái rễ cây khác. 

“Ừ, ngày mai,” Kate nói. Cô bé đang đứng gác trên đỉnh đồi, cao hơn mặt đường vài mét. “Và hãy hy vọng là chưa quá muộn.” 

“Tớ không muốn nó đến sớm hơn chút nào,” Constance nói. “Cá nhân tớ không muốn nghĩ đến ngày mai.” Cô bé cứ nhìn mãi cái chỗ bột mềm mềm đang dính trên ngón tay và cố gắng chống cự – đây phải là lần thứ hai mươi rồi ấy – ham muốn thử xem chúng có vị như thế nào. Sticky đã cảnh báo cô bé rằng thứ rễ lúc lắc hoang dã đó (“được biết đến với cái tên khoa học là Euphorbia upchucuanhae”) có độc tính gây nôn rất mạnh. Constance chưa bao giờ nghe đến từ “gây nôn,” nhưng cô bé cũng không yêu cầu giải thích. Rõ ràng theo kế hoạch của bọn trẻ – và từ nụ cười nhăn nhở đẩy ranh mãnh của Sticky – vào ngày mai, phần lớn học sinh tại Học viện sẽ ói mửa. 

Dù vậy, những xuất ăn đó vẫn chưa được động đến. Đang là cuối ngày, chưa đến giờ ăn, và những thành viên phiền phức của Hội Benedict Thần Bí là những đứa trẻ duy nhất ra ngoài trong khí trời lạnh thế này, còn lại đều ở trong phòng học bài hoặc xem tivi. Khi vừa tan lớp, Sticky đã dẫn những người bạn của mình lên đây, ngay trên đỉnh đồi phía trên phòng thể đục. Chính tại đây, vào ngày chúng gặp chú Bloomburg, Sticky đã chú ý đến mảng rẽ cây lúc lắc hoang dã (lẫn trong nhiều cây khác với những cái tên Latin được cậu bé liệt kê hàng dài còn những đứa trẻ khác ngay lập tức quên luôn). 

“Chừng này chắc đủ rồi,” Sticky nói, nghiền nốt mẩu rễ cuối cùng. Cậu phủi mạnh bụi khỏi tay mình. Và sau đó tự hỏi điểu gì sẽ xảy ra nếu cậu lơ đãng chạm vào môi – sau đó lơ đãng liếm môi – Sticky lại tiếp tục phủi bụi. Vài phút sau, khi bọn trẻ đã tụ tập tại đỉnh đồi, cậu lại phủi tay lần nữa. “Tớ thực sự bắt đầu cảm thấy tội lỗi về việc này rồi đấy, các cậu có tin không?” 

“Điều đó có nghĩa là cậu vẫn còn lương tâm,” Reynie nói. 

Kate khịt khịt mũi. “Hoặc có nghĩa là cậu quá cảm thông với kẻ thù. Về phần tớ, tớ không cảm thấy chút tội lỗi nào trong việc gửi cái lũ chuyên gia bắt nạt ấy đến một chuyến du ngoạn khẩn cấp tới phòng tắm.” 

Sticky lau hai tay mình vào ống quần. “Đừng để cảm xúc khiến cậu trở nên quá tham vọng trong lần này, Kate. Nếu dùng quá liều, cậu có thể làm hại một ai đó đấy.” 

“Và không phải chỉ có những Liên lạc viên mới nhận được thứ này đâu,” Reynie nhắc cô bé. “Như thế sẽ quá đáng ngờ. Đành phải để cho tát cả mọi người nếm mùi vị của nó thôi.” 

Kate đảo mắt. “Cần gì người bảo hộ nữa làm gì khi tớ đã có hai bạn chứ? Đừng lo, tớ sẽ không giết ai đâu. Và tớ hứa sẽ không thích thú chút nào nếu Martina chuyển thành màu xanh lá cây.” 

Tội lỗi hay không, bọn trẻ đều mỉm cười trong lòng. 

“Vậy để tớ xem lại kế hoạch,” Constance nói. “Những Liên lạc viên khác sẽ bị ốm và không thể tiếp tục phiên làm việc của mình với Máy Thì Thầm, nên đám con trai các cậu sẽ sớm đến lượt. Khi các cậu được gọi đến, Kate và tớ tìm cách lẻn theo và đợi bên ngoài Phòng Thì Thầm. Bây giờ, chính xác thì thực hiện điều đó bằng cách nào? Chẳng may cả lũ đang trên lớp thì sao?” 

“Bọn mình chưa tính đến đoạn đó,” Reynie thừa nhận. 


“Đúng thế,” Constance nói. “Và sau đó một trong số các cậu sẽ nhấn nút mở cửa, thậm chí dù cái nút đó nằm trên xe lăn của ngài Curtain. Làm thế nào để thực hiện được đây?” 

“Đoạn đó chưa được tính đến,” Sticky lầm bầm. 

“Tớ hiểu. Và sau đó, khi tất cả những điều này được hoàn thành một cách kỳ diệu, Kate và tớ sẽ chạy nhanh vào bên trong, và cả bốn sẽ cùng nhau hạ gục ngài Curtain, phá hủy Máy Thì Thầm của ông ta, và thoát ra ngoài an toàn – thậm chí dù bọn mình đang ở trên đảo, và cây cầu được bảo vệ bởi các Tuyển dụng viên. Có ý tưởng nào để thực hiện được điều này không?” 

“Không,” bọn con trai chán nản nói, Kate nhún vai. 

“Được rồi,” Constance nói. “Tớ chỉ muốn chắc chắn là mình hiểu kế hoạch này.” 

“Dù sao các cậu cũng không thể bỏ qua chú Milligan,” Reynie nói. “Chú ấy sẽ ở đó giúp chúng ta.” 

Constance vung tay vào trong không khí. “Làm thế nào cậu biết được điều đó? Cậu thậm chí còn chưa để lại ghi chú cho chú ấy mà!” 

Reynie xoa xoa thái dương. “Tớ sẽ làm việc đó ngay bầy giờ, Constance. Được chứ?” 

“Nhanh lên, Reynie,” Kate nói. “Tớ sẽ cần cả ba người các cậu đánh lạc hướng những Người giúp việc trong khi tớ trộn thuốc vào thức ăn đấy.” 

“Cậu định làm điều đó bằng cách nào?” Constance hỏi, bắt đầu một tràng chỉ trích thậm tệ về việc bọn trẻ chuẩn bị kém như thế nào, chúng có ít thời gian như thế nào, và kế hoạch này làm cho cô bé đau đầu hơn cả những đợt phát thông điệp ngầm như thế nào. “Vậy tớ hỏi lại,” cô bé tổng kết, “chính xác là các cậu định đánh lạc hướng những Người giúp việc bằng cách nào?” 

“Hãy là chính mình,” Kate thở dài nói. 

Reynie bỏ mặc những đứa trẻ khác đang thảo luận trên đỉnh đồi và chạy nhanh về phía bờ biển. Cậu đã khăng khăng đòi đảm nhiệm việc giấu tờ ghi chú. Kate muốn được lẻn xuống cống một lần nữa, nhưng đây không phải là một hành động bí mật. Nó phải được thực hiện vào ban ngày. Reynie chọn một tuyến đường khiến cậu khó bị nhìn thấy từ phía Học viện, nhưng nếu bị để ý, cậu có thể đưa ra một lời giải thích tốt. 

Reynie có mang theo trong túi quần một ghi chú cho chú Milligan thông báo về kế hoạch của bọn trẻ. Trong túi quần khác cậu mang một bản phác thảo của cây cầu trên đảo, mà cậu đã phải mất gần hai giờ học để vẽ ra từ trí nhớ của mình. Cậu vốn là một họa sĩ loại khá và cảm thấy hài lòng một cách khiêm tốn với kết quả đó cho đến khi Kate liếc nhìn sang sau giờ học. 


“Không tốt à?” cậu hỏi, nhìn chẳm chẳm cái trán nhăn của cô bé. 

“Nó ổn đấy,” Kate ngập ngừng nói. “Nhưng luật xa gần hơi rời rạc. Nhìn này, nếu cậu chỉ cần đi theo đường này ở đây… và tô đậm những cái bóng ở đó…” Trong khoảng hai phút, cô bé đã tạo ra một bản phác thảo tốt hơn hẳn của cậu. 

Reynie cau có. “Tớ sẽ lấy cái của cậu,” cậu nói một cách gắt gỏng. “Không muốn cậu phải xử lý toàn bộ chỗ rắc rối đó một cách vô ích.” 

Ở phía trên đầu bản phác họa, cậu viết tiêu đề, Góc Nhìn Ưa Thích Của Bạn. Nếu cậu bị bắt gặp, Reynie sẽ nói cậu muốn ra bãi biển để có góc nhìn tốt hơn về cây cầu, để tạo ra bản vẽ đẹp nhất có thể – bản vẽ, tất nhiên, được dự định làm quà cho ngài Curtain. 

Đi nhanh đọc theo chân dốc, ngay ngoài tầm với của sóng nước, Reynie lo lắng vỗ nhẹ vào hai bên túi. Cả hai mẩu giấy đều ở đó. Tốt. Bây giờ đừng đi vào chỗ có nước, cậu tự nhủ. Giày ướt có thể gây nghi ngờ. Phủ kín đất đá để không ai chú ý đến nó. Và không để lại dấu chân nào. Thật kỳ diệu khi lần trước các dấu chân đã không kéo chúng ta xuống bùn.Chỉ có S.Q. tội nghiệp đã cứu bọn mình khỏi thảm họa đó. 

Reynie tìm thấy cái ống cống và đo để tìm vị trí cách đó hai mươi bước chân. Cậu nhìn xung quanh. Không thấy một ai. Không có ai ở trên cầu, cái dốc giúp che giấu cậu từ phía sau, và phía trước không gì khác ngoài nước… và xa hơn là bờ biển phía đất liền. Cậu đột nhiên nghĩ có thể ngài Benedict và nhóm của ngài ấy đang nhìn cậu qua kính viễn vọng ngay lúc này. Cậu bắt đầu nhìn chằm chằm về phía những cái cây dọc qua kênh đào. Không nghi ngờ gì là họ có thể thấy cậu. Câu hỏi đặt ra là liệu cậu có thể gặp lại họ không. Cậu buồn bã vẫy tay – một phần là xin chào và một phần là tạm biệt – sau đó cúi xuống và giấu tờ ghi chú phía dưới hai hòn đá lớn. 

Phải chắc chắn, Reynie tự nhủ. Cậu đã cẩn thận chồng những hòn đá lên nhau chưa? Cậu đã đảm bảo tờ ghi chú không bị nhìn thấy rồi chứ? Có để lại dấu chân nào trên cát không? Thỏa mãn với tất cả những điều này, Reynie nhanh chóng quay trở lại, căng thẳng nới rộng khoảng cách giữa mình và tờ ghi chú. Rời bãi biển và bắt đầu lên dốc, cậu miên man suy nghĩ xem nên làm gì với bản phác họa. Cậu không cho rằng mình đã bị phát hiện, nhưng cậu phải để dành nó để đề phòng. Nếu sau này có ai đó đối chất với cậu về việc này, cậu sẽ có sẵn lý do ở trong túi. 

Reynie vỗ nhẹ vào túi, nhưng bản phác họa không có ở đó! Làm thế nào mà nó lại không ở đó được nhỉ? Không phải cậu đã đặt nó vào túi trái sao? Cậu sờ vào túi còn lại và thấy một tờ giấy. Cậu chắc hẳn đã nhầm mất rồi. Hoặc không? Cậu lấy tờ giấy ra để xem cho chắc, rồi cứ nhìn nó chằm chằm. Đây mới là tờ ghi chú! Cậu đã nhầm lẫn để bản phác họa dưới đống đá mất rùi. 

Bây giờ mọi thứ bắt đầu trở nên nguy hiểm. Kate cần sự giúp đỡ, vì sắp đến giờ ăn rồi. Nhưng chúng nhất định phải liên lạc với chú Milligan. Mày có để làm được, Reynie tự nhủ. Chỉ cần phải chạy. 

Reynie chạy xuống dốc, cẩn thận bước trên những hòn đá để không để bị ướt và để lại dấu chân. Ngay sau đó cậu đã trở lại chỗ hai hòn đá chồng lên nhau. Cậu nhanh chóng nhìn xung quanh – bờ biển, cây cầu, nước. Không có ai. Đổi tờ ghi chú thay cho bản phác thảo (lần này mở tờ ghi chú ra cho chắc), cậu đặt lại những hòn đá về vị trí, kiểm tra lần cuối các dấu chân, và chạy khỏi với tốc độ nhanh nhất có thể. 

Hai phút sau Reynie đang đứng một mình tại quảng trường, thở nặng nhọc. Cậu thấy S.Q. Pedalian xuất hiện phía sau Nhà Điều hành, nhưng S.Q. không nhìn thấy cậu, và không ai xuất hiện trong tầm nhìn. Reynie quệt tay lau mồ hôi trên trán. Cậu vẫy tay với S.Q. và nhanh chóng tiếp tục, không muốn bị bắt gặp và phải nói chuyện. Không có thời gian cho việc đó. Còn nhiều việc khác đang đợi. 

Khi điều này xảy ra, S.Q. cũng đang vội. Suốt cả ngày anh ta đã bị giày vò bởi sai lầm của mình. Làm sao lại có thể ngu ngốc xóa mất đấu chân của tên gián điệp? Thật là một sai lầm hài hước! Và suốt cả ngày nay, anh ta cứ quanh quẩn với suy nghĩ có thể, chỉ là có thể thôi, nếu trở lại nơi đó và tìm kiếm kỹ hơn…. Và S.Q. tăng tốc, cảm thấy háo hức hơn với mỗi bước đi. Anh ta quyết định sẽ bỏ qua bữa ăn và dành toàn bộ thời gian để tìm kiếm. Nếu cuối cùng anh ta lại tìm thấy dấu chân của tên gián điệp thì sao? Hoặc một dấu vết nào đó khác? Trước đó chúng đã rà soát khu vực đó kỹ lắm rồi, nhưng chẳng ai có thể lường hết được mọi tình huống mà, đúng không? Thật tuyệt vời nếu anh ta có thể chuộc lại lỗi lầm đó để chứng tỏ với ngài Curtain! 


Với những sải bước càng lúc càng dài hơn, S.Q. Pedalian vội vã đi qua quảng trường, xuống con dốc, về phía bờ biển, về phía ống cống, tiến về nơi mà Reynie, trong sự hồi hộp vội vã, đã chồng hai hòn đá hơi kém cẩn thận hơn lần đầu – về nơi một góc tờ ghi chú lộ ra ngoài, rung rinh trong gió nhẹ của bến cảng như một lá cờ trắng đầu hàng. 

Giờ ăn đến và phòng ăn lại đông đúc với đám học sinh ồn ào, các thành viên của Hội Benedict Thần Bí đột nhiên trở nên không thích bất kỳ thứ gì mặn hay ngọt. Chúng chất đầy các khay như bình thường; để tránh bị nghi ngờ, nhưng cẩn thận tránh chạm dĩa của mình vào bất kỳ thứ gì ngoại trừ rau xanh. 

“Cậu không thể chừa lại một loại bánh ngọt à, Kate?” Constance hỏi, nhăn mặt nuốt món cải Brussels hầm. Nhưng, cô bé gần như khồng thể làm được, đã thế lại còn phải nuốt nó xuống với nước lọc thay vì soda vị cam như thường lệ. “Những thứ này có thể cũng đã bị bỏ độc.” 

“An toàn còn hơn là phải hối tiếc,” Kate nói với cái miệng đầy đậu lima. “Dù sao thì tớ cũng không có thời gian để chọn lựa, cậu biết đấy.” 

Xung quanh phòng ăn, những đứa trẻ đang nhồi nhét những món ưa thích cho mình – đồ ăn nhiều dầu mỡ, các loại rau thơm, đồ ngọt – và uống ừng ực sữa chocolate, nước giải khát. Reynie, trong lúc đó, đâm một chiếc lá rau diếp khô với cái dĩa và nghĩ: Đến giờ vẫn ổn. Cho đù bữa ăn tối nhạt nhẽo, cho dù đợt phát sóng thông điệp dai dẳng trong đầu, và cho dù kế hoạch không chắc chắn, cậu vẫn thấy xúc động trong tim, một dự cảm tốt rằng có thể vượt qua. Kate đã phát tán thứ bột đó, Reynie đã chuyển tờ ghi chú đến chú Milligan, và cả hai đứa đều không bị bắt gặp. Ít nhất một vài phần của kế hoạch đang tiến triển đúng như chúng mong muốn. 

Đó là một cảm giác tốt. Nhưng nó không kéo dài lâu. 

Jillson xuất hiện tại phòng ăn với nụ cười nhăn nhở vui sướng trên mặt, và đi thẳng đến bàn của bọn trẻ. Không hỏi han, chị ta tự chen vào giữa Reynie và Kate – bờ vai rộng của chị ta buộc chúng phải co hai tay lại gần nhau, sát khay đồ ăn, như những con bọ ngựa đang cầu nguyện – và chộp lấy một phần kem từ khay của Kate và nói, “Xin chào, bọn oắt con!” 

Kate cau mày, nhưng chỉ một chút. Cô bé bí mật vui sướng. “Tự lo cho mình đi,” cô bé lạnh lùng nói. 

“Cảm ơn, tôi sẽ lo,” Jillson nói, nuốt hết chỗ kem. “Nghe này, tao có tin tốt và tin xấu, và tao nghĩ bọn trẻ chúng mày sẽ đặc biệt quan tâm. Đã nghe v ề việc S.Q. phá hỏng kế hoạch của bọn gián điệp rồi, đúng không?” 

“Cũng hay ho đấy,” Reynie nói, cậu không thích khởi đầu theo kiểu này. 

“Ừ, đoán xem nào?” Jillson nói. “Có một tiến triển mới. S.Q. vừa quay trở lại ống cống để tìm kiếm xung quanh lần cuối. Và anh ta đã thấy thứ gì đó.” 

Bọn trẻ chẳng thể nói gì, chỉ nhìn chằm chằm chị ta, chúng đang quá sợ hãi và bối rối nữa. Nếu S.Q. tìm thấy tờ ghi chú, vậy tại sao chúng vẫn chưa gặp rắc rối? Jillson đang đùa giỡn với chúng à? 

“Bây giờ, như tao đã nói, có tin tốt và tin xấu,” Jillson tiếp tục. 

Đoán rằng mình vừa được cho biết một tin rất xấu, Reynie phải cố kiềm chế để không hỏi tin tốt là gì. 


“Tin xấu,” Jillson nói, “là thứ mà S.Q. tìm thấy – một mẩu giấy kỳ lạ – bị phá hủy trước khi anh ta kịp đọc nó.” 

“Trời ạ… tệ thật!” bọn trẻ hét lên, cố gắng che giấu sự nhẹ nhõm. Nó quá rõ ràng trên mặt bọn trẻ, và chúng biết điều đó. 

May mắn thay, Jillson đã không để ý. Chị ta đặt một tay lên thắt lưng và cau mày. Sau một lúc chị ta ợ một cái, mỉm cười thỏa mãn, và tiếp tục, “Đừng lo, tin tốt là: tên gián điệp đã bị bắt!” 

Bọn trẻ nhìn nhau. Bị bắt? 

Jillson lại ợ lần nữa và cau có. “Chắc là do ăn quá nhiều bánh pudding rồi. Ừ, bị bắt như một con chuột trong bẫy. Hóa ra đó là một người đàn ông giả dạng Người giúp việc. Đột nhiên xuất hiện, giật lấy tờ giấy từ S.Q và cố gắng bỏ chạy. Nhưng Jackson đã nghe thấy S.Q. hét lên cầu cứu, và một vài Tuyển dụng viên trên cầu nhìn thấy việc này, nên ngay sau đó họ đã bao vây tên gián điệp. Hắn cố gắng đánh trả, nhưng không thể đánh lại người của chúng ta, có thể nói như vậy. Hắn hiện đang ở trong phòng học, bị canh chừng cẩn thận lắm.” 

Reynie cảm thấy như vừa bị đá vào bụng. Chúng đã mất chú Milligan. “Tại… tại sao lại nói với bọn tôi việc nạy, Jillson?” 

“À, ta phải thừa nhận rằng ta đã ngạc nhiên. Martina thuyết phục ta rằng Kate chính là gián điệp và nó đã rất thất vọng khi biết điều ngược lại. Nhưng ta nghĩ bọn mày cần biết Kate hiện giờ trong sạch. Người giúp việc đó đã thú nhận mọi việc. Hắn hành động một mình, rõ ràng là vậy. Điều đó có nghĩa hắn không có đồng minh.” 

Kate trông có vẻ buồn nôn. “Hắn có nói hắn là ai không?” 

“Chúng tao không biết tên hắn, nhưng trước đây hắn đã từng ở trên đảo – nhiều nhiều năm trước. Khi họ lột lớp ngụy trang của hắn ta, ngài Curtain và một vài Tuyển dụng viên đã nhận ra hắn ngay lập tức. Ồ, và nhớ này: Hắn đã ăn mẩu giấy đó! Nhai và nuốt nó trước khi bất kỳ ai có thể đọc. Nói rằng nó là nhật ký cá nhân và không phải việc của chúng ta. Một kẻ điên rất nguy hiểm. Đừng lo, dù vậy, họ sẽ đưa hắn đến Phòng chờ chỉ trong… Ồ! Họ đến rồi này!” 

Bọn trẻ khó khăn lắm mới dám nhìn theo hướng Jillson chỉ. 

Đó là chú Milligan. Tay và mắt cá chân của chú ấy bị còng lại, chân lê bước đi trong một hình dáng thất bại, và đôi mắt xanh nước biển của chú ấy, buồn hơn bao giờ hết, chỉ tập trung vào sàn nhà ngay phía trước. Mặc dù chú ấy cúi gằm mặt, vẫn rẩt dễ nhận ra có những những vết cắt và vết bầm tím trên mặt chú. Có nửa tá Tuyển dụng viên và Điều hành viên đang áp giải chú (bao gồm cả Martina Crowe với một vẻ mặt vênh vênh tự đắc) – nhưng tuyệt nhiên chẳng có ai trong số đó có vẻ như vừa tham gia một vụ ẩu đả. Reynie cứ nghĩ mãi về việc này. Jillson nói chú ấy đã cố chống trả, nhưng nếu chú Milligan thực sự chống trả, không phải những kẻ bắt chú ấy cũng phải trông giống như vừa mới bắt hổ bằng đuôi sao? Hay chú ấy chỉ giả vờ vật lộn thôi? Nhưng tại sao? Trừ phi…. 

Đột nhiên Reynie hiểu ra. Vì S.Q. đã thoáng nhìn thấy tờ ghi chú, nên chú Milligan đã lựa chọn bị bắt. Chú ấy muốn một cơ hội để thú nhận, một cơ hội để tạo ra một câu chuyện về mẩu giấy đó. Một ghi chú sẽ bị cho là được viết bởi ai đó khác – một gián điệp khác trên đảo – nhưng một trang nhật ký cá nhân chỉ hướng đến bản thân chú Milligan mà thôi. Đúng, chú ấy đã muốn thuyết phục ngài Curtain rằng chú ấy hành động một mình, muốn chịu sự nghi ngờ thay cho bọn trẻ. Chú ấy đã hy sinh bản thân vì chúng. 

Khi chú Milligan đi ngang qua phòng ăn, tiếng vỗ tay dành cho các Điều hành viên và các Tuyển dụng viên vang lên khắp phòng, sau đó là những tiếng la ó và chế giễu khủng khiếp dành cho tên gián điệp bị bắt. Người đàn ông khốn khổ đó bị dẫn đi qua bàn của bọn trẻ – chính là bọn trẻ đang cảm thấy vô cùng biết ơn nhưng cũng vô cùng đau khổ khi vừa mới được chú ấy cứu thoát – nhưng chú Milligan không hề nhìn lên hay lộ ra bất kỳ dấu hiệu nào. 

“Cậu bé, hắn không có vẻ nhăn nhó nhỉ?” Jillson nói. 

Kate bắt đầu nói, nhưng có một cục gì đó cứ nghẹn lại trong họng khiến những lời cô bé nói ra rất khó hiểu. Suy nghĩ của Kate bây giờ cũng chính là những gì ba người bạn của cô đang nghĩ. Milligan từng nói chú ấy sẽ chết trước khi để bất kỳ tổn hại nào xảy đến với chúng.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.