Đọc truyện Thế Giới Kì Bí Của Ngài Benedict – Tập 1: Bút Chì, Tẩy Và Người Thắng Cuộc – Chương 14: Những người và những nơi cần tránh
Reynie và Sticky dành cả phần còn lại của buổi sáng để căng thẳng ngó nghiêng. Chúng vội vã đi qua khu hành lang lớp học, thầm cầu mong không bị Martina đang mai phục ở một nơi nào đó tóm được. Vào bữa trưa, vừa thoáng thấy bóng dáng Martina lảng vảng quanh quầy đồ ăn, hai cậu bé dừng ngay việc chọn thức ăn lại mặc dù hai cái dạ dày thì đang sôi lên rồi. Reynie và Sticky tìm một cái bàn trống ngồi đợi Kate và Constance. Lúc hai cô bạn quay lại sau khi đã lấy được đồ ăn, Reynie và Sticky nhanh chóng kể lại những gì S.Q. đã nói về các Liên lạc viên, và cả điều gì đã xảy ra với Martina nữa. Phòng ăn vào thời điểm đó quá ồn ào nên bọn chúng có thể nói chuyện bình thường mà không sợ bị nghe lén. Mà Kate cũng chỉ làm được thế thôi, không thì đã nói mà như gào thét giận dữ rồi.
“Thế bây giờ Martina đang ở đâu?” Kate vừa nói vừa liếc ngang liếc dọc.
“Tớ đang cố để không phải nhìn thấy cô ta đây,” Sticky nói.
“Nhìn chỗ kia kìa Kate,” Reynie nói. Cậu kín đáo nghểnh đầu về hướng một cái bàn ở phía xa. “Cô ta vừa ngồi xuống một cái bàn dành cho Liên lạc viên ấy. Thỉnh thoảng lại liếc xéo về phía này. Nhưng mà không được lo sợ. Bọn mình chỉ phải tránh xa cô ta, thế thôi.”
Constance lấy ống tay chùi miệng. “Này, lúc nào đi lấy đồ ăn thì lấy luôn cho tớ một ít kem nhé.”
“Sao không dùng câu hỏi?” Sticky nói. “Sao không dùng từ hộ tớ nhé?”
Reynie quay sang nhìn Constance, cô bạn đang lè lưỡi chọc Sticky. Cô bạn này quả là phiền phức, và đúng là như thế: Lấy cơ man nào là thức ăn, miệng vừa nhai vừa mở, rồi cầm thìa dĩa như đang cầm một cái xẻng. Nhưng Reynie thấy buồn nhiều hơn là bực bội, vì chắc hẳn cô bé đã chẳng được dạy dỗ để cư xử tốt hơn. Cậu chẳng biết gì về cuộc sống trước đó của Constance – vì cô bé rất ghét và thường sẽ tảng lờ trước các câu hỏi, nếu không thì cũng đáp lại bằng những câu khiếm nhã – nhưng rõ ràng là Constance chẳng được định hướng nhiều.
Constance nhận ra Reynie đang nhìn mình. Mắt long lên, cô bé há miệng thật rộng để lộ ra cả đống thức ăn đang nhai dở. Constance cũng chẳng muốn bị nhìn chẳng khác gì cô bé ghét bị người khác đặt cho những câu hỏi.
Reynie và Sticky đi về phía quầy để lấy đồ ăn. Những Người giúp việc hoặc đang quấy súp, nhào bột pizza hoặc nếu không thì cũng đang bận rộn với số lượng khổng lồ các món ăn, món nào cũng tỏa mùi quyến rũ, khiến hai cậu bé phải nuốt nước bọt liên tục. Cuối cùng Reynie cũng chọn được cho mình món mỳ lasagna[7] và bánh chocolate sữa – và kem nữa, bởi vì Sticky không muốn làm theo yêu cầu của Constance. Còn Reynie lại chẳng muốn nghe bạn mình lải nhải.
[7] Mỳ lasagna là một loại mỳ ống phẳng, rất rộng (đôi khi có các cạnh lượn sóng), thường được phục vụ dưới dạng xếp lớp chồng lên nhau xen kẽ với pho mát, nước sốt…
Người giúp việc lắng nghe yêu cầu của Reynie rồi lặng lẽ gật đầu, quay mặt lảng tránh ánh nhìn của cậu. Reynie băn khoăn đứng nhìn. Rất ít Người giúp việc nói chuyện với cậu, và tuyệt nhiên chẳng có ai nhìn vào mắt cậu cả. Rõ ràng ngài Curtain đã đề ra những quy định nghiêm ngặt liên quan đến việc này. Đây quả là một yêu cầu kỳ lạ, cái sự tôn trọng này, nhưng những Người giúp việc lại tuân thủ đến mức đáng ngưỡng mộ. Thật ra, những người này lặng lẽ và ngại phải nhìn mắt người khác đến mức chính bản thân Reynie cũng cố gắng tránh chào hỏi họ, và thậm chí tránh nhìn họ quá nhiều. Với cậu, hành động đó là cực kỳ vô lễ, nhưng nếu không làm thế thì lại khiến những Người giúp việc cảm thấy khó chịu.
Sticky chắc hẳn cũng thấy băn khoăn về cùng một chuyện giống Reynie, nên khi cả hai quay về bàn, Sticky nói ngay, “Các cậu có nghĩ ra việc nào tồi tệ hơn làm một Người giúp việc không?”
“Trông họ lúc nào cũng buồn bã,” Kate nói. “Không trò chuyện, không giao tiếp bằng mắt. Tớ chẳng thể nào làm được một công việc tương tự như thế đâu – hoặc là phải cho tớ dùng thuốc an thần.”
“Này, có lẽ nào thực sự là họ đang bị buộc phải uống thuốc thật không?” Sticky đoán. “Có thể là có gì đó trộn trong đồ ăn của họ.”
Kate lắc đầu. “Tớ thấy họ cũng ăn những thứ bọn mình ăn mà, mà bọn mình thì chẳng bị làm sao cả, đúng không?”
Cả lũ khó chịu nhìn Constance, cô bé đã kịp ngoạm hết phần kem của mình và gục cằm dính đầy kem xuống ngực. Hai mắt vẫn chưa kịp khép hẳn, mà miệng thì đã bắt đầu phát ra những tiếng ngáy.
“Thôi nào, bạn ấy đã luôn như thế từ trước khi bọn mình đến đây rồi,” Reynie nói.
Đó là một ngày dài và mệt mỏi. Buổi học chiều trôi qua gần giống với những gì đã diễn ra vào buổi sáng: Đầu tiên, Reynie cảm thấy phấn khởi vì cả mình và Sticky đã làm bài kiểm tra tốt đến thế nào, nhưng liền sau bao nhiêu phấn khích mất hết khi nhận thấy những ánh nhìn chán ghét đang chĩa vào mình – ánh mắt của những học sinh khác và của các Liên lạc viên, mà đặc biệt là Martina. Kate và Constance không phải hứng chịu những phiền toái ấy chẳng qua là vì cả hai đang có một khoảng thời gian khủng khiếp với những bài kiểm tra, mà điều này thậm chí còn làm Reynie thấy chán nản hơn nữa.
Khi tiết học cuối cùng kết thúc, cả nhóm bốn người đi ra quảng trường và cùng ngồi xuống một cái ghế đá. (Trừ Kate, cô bé cứ nhảy nhót, cựa quậy để tiêu bớt năng lượng trong người.) Hầu hết học sinh của Học viện thường dành quãng thời gian một tiếng đồng hồ trước bữa tối để hoặc chơi thể thao trong phòng tập, hoặc xem tivi trong phòng riêng. Còn những thành viên Hội Benedict Thần Bí lại muốn ở riêng với nhau. Hóa ra, trong suốt khoảng thời gian đó, chẳng có một ai, thậm chí là cả Martina, làm phiền chúng, và bản thân chúng cũng chẳng nói với nhau được mấy câu. Lý do là cả bốn cứ mải nhìn chằm chằm vào ngài Curtain với bộ đồ kẻ màu xanh, cặp kính màu ánh bạc và cái xe lăn kì dị của ông ta một cách thích thú pha lẫn sợ hãi và bồn chồn lo lắng.
Quảng trường là địa điểm yêu thích của ngài Curtain. Ngày hôm qua bọn trẻ thấy ông ta ở đó, rồi buổi tối cũng thế. Ai cũng biết là chiều nào ngài Curtain cũng ngồi đó khoảng một tiếng, và trong suốt một tiếng đó sẽ chẳng có ai làm phiền ông ta cả, ngoại trừ các Điều hành viên – và họ cũng chỉ tìm gặp ông ta khi có việc khẩn cấp thôi. Buổi chiều hôm nay cũng không là ngoại lệ. Ngài Curtain ngồi lặng yên, chăm chú nhìn về cây cầu phía xa, vì thế mà ai ai cũng tránh xa vì họ không muốn phá hỏng không gian đó của ngài viện trưởng.
Nhìn nghiêng, dễ nhận ra là ngài Curtain không hề ngồi không, rảnh rỗi, mà đang tỉ mỉ đọc từng trang một từ sấp báo mang theo, thỉnh thoảng dừng lại đánh dấu vào chỗ này chỗ kia và mỉm cười bí hiểm. Đôi lúc, ông ta ghi ghi chép chép gì đó vào quyển sổ rất to đang để ở trên đùi. Rồi lại nhìn về phía xa. Cuối cùng, ngài Curtain quay xe, lao nhanh qua quảng trường trước khi mất hút vào trong Nhà Điều Hành Học viện.
Vì đã tốn quá nhiều thời gian cho việc nhìn chằm chẳm vào ngài Curtain, và vì vào bữa tối chúng chẳng thể tìm được một cái bàn trống nào đủ cho cả bốn, nên bọn trẻ sẽ phải đợi cho đến khi đèn đã tắt mới có thể thảo luận riêng được. Các buổi tối sẽ được dành cho việc học. Reynie và Sticky cần phải tiếp tục làm các bài kiểm tra thật tốt – đặc biệt là nếu Kate và Constance chẳng chịu bắt đầu học tốt hơn. Và cũng bởi vì, với bất kỳ giá nào thì vẫn luôn có một trong số ít những quy định mà các Điều hành viên sẵn sàng tuân theo, đó là học sinh không được phép sang phòng nhau. Các “cuộc họp bí mật” giữa những học sinh bị nghiêm cấm tuyệt đối tại Học viện này. Ở đây, tất cả những gì được coi là bí mật đều chỉ được dành cho các Liên lạc viên và các Điều hành viên mà thôi.
Tuy nhiên, lại chẳng có luật lệ nào liên quan đến những dãy hàng lang ký túc xá vào giờ học buổi tối cả. Vì thế, trước khi chui vào phòng với mớ kiến thức được học trong ngày, bọn trẻ cứ nấn ná mãi trước cửa phòng Reynie và Sticky.. Chỉ có một lý do duy nhất để chúng không nói chuyện bây giờ, đó là chúng đang bị nghe trộm. Bọn trẻ đã phát hiện ra rằng sẽ có khá nhiều hoạt động diễn ra trên các dãy hành lang vào khoảng thời gian này trong ngày, và đây sẽ là cơ hội tốt để biết thêm được điều gì đó. Từng nhóm nhỏ đứng túm tụm lại với nhau, cười cười nói nói, có vẻ vẫn chưa sẵn sàng để ngồi vào bàn học. Rồi từng tốp đi ra đi vào phòng tắm, tay cầm theo bàn chải đánh răng và các đồ vệ sinh cá nhân khác.
Buổi tối hôm nay, có hai kẻ nghe lén lộ liễu nhất, chính là hai gã hàng xóm lớn tuổi của Reynie và Sticky. Hai gã ngu xuẩn đó đã tuyên bố là sẽ không bao giờ nói chuyện với Reynie và Sticky. Giờ, cả hai đang đứng trước cửa phòng, cùng chơi trò đá vào người nhau và không được kêu la. Chúng vừa đá nhau, vừa nhăn nhó, vừa không ngừng đoán già đoán non về những đặc quyền bí mật của các Liên lạc viên. Thật ra, đây là chủ đề chuyện trò yêu thích của những học sinh không phải là Liên lạc viên, và những thảo luận đó chẳng bao giờ mang lại được kết quả như ý. Với hai cậu bạn hàng xóm này cũng vậy. Chẳng mấy chốc cả hai đành phải chắp nhận rằng những đặc quyền đó vẫn là những bí ẩn, và điều duy nhất chúng nghĩ ra được là những đặc quyền ấy rất đáng mơ ước.
Cuộc nói chuyện của hai gã hàng xóm nhanh chóng giảm nhiệt. Khi Reynie bắt đầu định học bài, cậu nghe thấy giọng của Jackson oang oang ở phía cuối hành lang: “Corliss Danton! Mày đây rồi!”
Cách đó vài căn phòng, Corliss Danton nhảy dựng lên. (Thật ra đứa trẻ nào cũng đã phản ứng như thế, nhưng Corliss là người nhảy lên cao nhất.) Cậu ta quay người lại và nhìn Jackson với ánh mắt đầy vẻ tội lỗi. Jackson đi lướt qua các tốp học sinh, tất cả đều đứng dạt vào tường để nhường lối cho anh ta. Cả dãy hành lang đang ngập trong những câu chuyện phiếm ồn ào huyên náo, đột nhiên yên lặng tựa như một nghĩa địa. Corliss vừa kịp thắt lại đai Liên lạc viên thì Jackson đi đến nơi. “Có… có vấn đề gì thế, Jackson?”
“Mày biết vấn đề đó là gì mà, Corliss,” Jackson nói. “Ngài Curtain cần nói chuyện với mày. Tao đến đây để đưa mày đến Phòng Chờ.”
Nghe nhắc đến Phòng Chờ, làn da hồng hào của Corliss bỗng tái nhợt. Mấy cậu bạn ở phòng bên cạnh chần chừ một lát rồi vội vàng lùi lại phía sau, cố gắng để chứng tỏ là mình không hề có sự liên quan nào. Tiếng thì thầm bàn tán bắt đầu lan dọc hành lang.
“Nhưng… Nhưng…” Corliss hắng giọng, giật giật áo Jackson. “Nhưng đợi đã Jackson, tại sao tôi lại bị phạt? Điều gì…?”
“Mày có bị phạt đâu. Chỉ là ngài Curtain muốn nói chuyện với mày thôi. Nhưng ngài ấy hiện đang bận, nên mày sẽ phải đợi. Đi thôi nào.”
Corliss lắc đầu nguầy nguậy, từ từ lùi về phía sau. “Tôi… anh biết không? Tôi không nghĩ thế. Tôi nghĩ tôi sẽ…sẽ…” Corliss liếc nhanh sang trái, rồi sang phải, nghĩ ngợi về mấy cái lối ra.
Từng lời của Jackson nhẹ nhàng nhưng chắc nịch. “Tao hiểu mày không muốn phải đợi, Corliss. Chẳng ai thích việc chờ đợi đâu. Nhưng nếu mày không muốn đi đến Phòng Chờ và rồi bỏ lỡ những đặc quyền bí mật, thì tao cũng không ép đâu.”
Corliss khúm núm. “Kh-không, không cần đâu. Tôi sẽ đi, Jackson. Tôi đoán là dù có thế nào thì cũng sẽ phải đợi. Đúng không?”
“Dù có thế nào.”
Corliss hít một hơi thật sâu để lấy lại tinh thần. “Được rồi. Anh có thể yên tâm là ngài Curtain có muốn gì thì tôi cũng không phàn nàn dù là nửa lời.”
Jackson nháy mắt. “Thế mới là một chàng trai chứ. Đi thôi.” Rồi anh ta đặt tay lên vai Corliss, kéo cậu bé đi.
Corliss chỉ vừa mới đi khỏi, tiếng bàn tán râm ran đã lan khắp dãy hành lang. Một cô bạn thậm chí còn khóc toáng lên; bản thân cô bạn ấy đã từng phải vào Phòng Chờ, và rõ ràng giờ đang rất quẫn trí khi nghe nhắc đến cái địa điểm đó. Một người bạn đang cố gắng dỗ dành cô bé, còn hai gã hàng xóm ngu xuẩn của Reynie và Sticky thì vẫn đơ người nhìn chằm chằm về hướng Jackson vừa dẫn Corliss xuống địa ngục.