Đọc truyện Thế Giới Kì Bí Của Ngài Benedict – Tập 1: Bút Chì, Tẩy Và Người Thắng Cuộc – Chương 10: Đảo nomansan
Bến cảng Thành phố Đá luôn là một nơi bận rộn: những chiếc tàu chạy bằng hơi nước vào cảng, neo đậu liên tục cả ngày, vô số công nhân bốc dở và thủy thủ bận rộn như bầy kiến, chỗ neo tàu thì chất đầy hàng hóa. Tất cả hoạt động này đều nằm dưới sự bảo trợ của chính Thành phố Đá, một thành phố tồn tại nhờ vào cái bến cảng này, và cũng chính nhờ nó mà thành phố ngày càng mở rộng và đông đúc. Tuy nhiên, gần con dốc phía Nam bến cảng, có một lạch cát ngầm nguy hiểm, nằm rải rác quanh đó là những tảng đá lớn vẫn còn lưu dấu vết những vụ đắm tàu thời xưa, và hậu quả là vùng phía Nam này vẫn khá vắng vẻ. Đâu đây vẫn còn những hòn đá lưu dấu vết những con tàu, từ lúc đảo Nomansan được tìm thấy.
Bờ biển trên đảo lởm chởm đá với một bãi cát rộng nơi thuyền có thể vào bờ; song thuyền trưởng của bất kỳ con tàu nào có ý định vào bờ chắc chắn là phải cực kỳ dũng cảm hoặc cực kỳ ngu ngốc, vì dòng nước xoáy mạnh khủng khiếp, và những vùng nước nông này vốn nổi tiếng là khó vượt qua. Cách duy nhất có thể tiếp cận đảo Nomansan là qua một cây cầu dài và hẹp nối từ bờ hòn đảo tới bờ lục địa cây cối rậm rạp cách đảo nửa dặm. Thành phố vẫn không phát triển dọc theo phần này của bờ biển, mà mở về phía Bắc dọc theo dòng sông chạy sâu vào đất liền, bỏ mặc vài mẫu rừng nguyên sinh. (Một ngày nào đó, chắc chắn là cánh rừng này sẽ bị nhòm ngó – giống như một cơn ngứa dai dẳng – và nhanh chóng bị chặt hạ, nhưng hiện giờ thì nó vẫn tồn tại.) Đi qua rừng cây, về phía cầu, những thành viên của Hội Benedict Thần Bí mới thành lập đang hướng tới.
Chúng di chuyển nhanh chóng trên con đường ít người qua lại, trong một chiếc xe vận tải cũ kỹ do Rhonda Kazembe cầm lái. Khi chiếc xe chạy bên dưới rừng cây, Reynie chú ý đến những sắc màu đầu tiên của mùa thu trên những cành cây cao. Những chiếc lá ở lớp ngoài đang dần chuyển sang màu đỏ, vàng và cam, trong khi những chiếc khác ở bên trong vẫn giữ nguyên màu xanh thẫm của mùa hè, cả khu rừng như được phết một lớp kẹo ngọt vậy. Cảnh tượng thật đáng yêu vô cùng, nhưng Reynie không có tâm trạng nào để tận hưởng nó. Những người bạn đồng hành của cậu cũng vậy. Vài phút nữa, bọn trẻ sẽ được nhận vào Học Viện Siêu Tài Năng, và chúng cảm thấy rất lo lắng. Càng đến gần hòn đảo, cảm giác nguy hiểm càng trở nên rõ nét và thực hơn.
Rhonda chạy qua rừng cây về phía bờ biển. “Kính viễn vọng của chúng ta sẽ được đặt trong bụi cây,” Rhonda nói. “Bọn chị sẽ bắt đầu lắp đặt ngay sau khi thả các em xuống và sẽ luôn túc trực ở đó. Các em đứng ở bất cứ đâu trên hòn đảo này, bọn chị đều nhìn thấy qua kính viễn vọng chẳng khác gì chỉ cách các em hai bước chân. Bất cứ khi nào có việc gì cần báo cáo, bọn chị luôn sẵn sàng. Và nếu có gì cần nói với các em, bọn chị sẽ gửi lại thông điệp. Bọn em có thể chọn thời điểm an toàn nhất để liên lạc. Nhiều khả năng sẽ là sau khi trời tối, lúc mọi người đang ngủ.
“Thậm chí,” Rhonda nói thêm, “luôn có khả năng mong manh rằng thông điệp của bọn chị gửi cho các em sẽ bị theo dõi từ đất liền. Do đó chúng cần phải khó hiểu…”
“Khó hiểu như thế nào ạ?” một giọng lanh lảnh vang lên từ hàng ghế sau.
“Chị xin lỗi, Constance. Khó hiểu nghĩa là mơ hồ và bí ẩn. Bọn chị không bao giờ dùng tên, và sẽ không bao giờ đưa ra thông điệp rõ ràng ngoại trừ trường hợp khẩn cấp. Trong phần lớn các trường hợp, bọn chị sẽ dựa vào khả năng của các em để tìm hiểu xem chúng ta muốn nói gì. Cách này khó hơn một chút, nhưng phải cảnh giác vì an toàn của chính bản thân chúng ta thôi. Ngay cả khi có các biện pháp phòng ngừa, tình thế của các em sẽ vẫn cực kỳ nguy hiểm.”
Cụm từ “cực kỳ nguy hiểm” vọng đi vọng lại trong tai bọn trẻ, chiếc xe bắt đầu lăn bánh ra khỏi khu rừng đến một chỗ đất bằng phẳng nhìn ra đảo Nomansan. Và ở phía bờ gần đảo, là Học viện: vô số tòa nhà màu xám xếp thành từng lớp, một quảng trường rộng lớn, và một tháp nhỏ giống như ngọn hải đăng, tất cả dường như đều được xây bằng đá. Từ vị trí này Học viện như hoà lẫn hoàn toàn vào các vách đá lởm chởm của Nomansan, cứ như là một phần của hòn đảo vậy. Phía sau nó xuất hiện những ngọn đồi dốc, tầng tầng lớp lớp tới tận chân trời. Một cột cờ nhô ra từ ngọn tháp của Học viện, căng một băng rôn màu đỏ đài bay phấp phới trong gió với các chữ cái đủ lớn để có thể đọc được từ đất liền, là từ SỐNG[4] – từ viết tắt, hiển nhiên rồi, của Học Viện Siêu Tài Năng.
[4] Nguyên gốc tiếng Anh: The Learning Institute for the Very Enlightened – LIVE
“Ít nhất nó cũng không nói là CHẾT” Kate trầm ngâm.
“Ừ, phải rồi, nghe có vẻ khích lệ đấy,” Sticky nói, trán cậu bé bắt đầu lấm tấm mồ hôi.
Reynie chăm chú nhìn ra ngoài cửa sổ hướng về phía cây cầu. Để đi qua đó, trước tiên phải qua một lần kiểm tra tại một trạm gác, Reynie cảm thấy rất lo lắng dù đã có những đảm bảo của ngài Benedict. Sinh viên mới liên tục được nhận vào, và ngài Benedict đã sắp xếp mọi việc, làm theo mọi thủ tục thích hợp, nhưng chưa đủ… Cảm giác lo lắng là hết sức bình thường, ngài Benedict đã từng nói thế mà. Mọi trẻ em đều lo lắng trong ngày đầu tiên đến trường, và mọi đặc vụ đều lo lắng trong ngày đầu tiên làm nhiệm vụ. Kết hợp hai điều này, khả năng cảm thấy lo lắng của bạn chắc hẳn sẽ tăng lên rất nhiều.
Tại lối vào qua cầu, hai người bước ra từ trạm gác và vẫy tay yêu cầu xe dừng lại.
“Bình tĩnh nào,” Rhonda nói nhỏ. “Không phải lo lắng gì hết.”
Bảo vệ lối vào là một đôi nam nữ trẻ tuổi, đeo kính râm, mỉm cười trong bộ comple đắt tiền, với đôi giày được đánh xi cẩn thận đến mức chúng sáng loáng trong ánh nắng mai. Khi chị bảo vệ ra hiệu cho Rhonda kéo cửa sổ xuống, khó ai có thể không để ý đến những chiếc đồng hồ đeo tay bằng bạc lớn trên cổ tay cô ta. Reynie siết chặt tay vịn.
“Tôi có thể giúp gì không?” chị bảo vệ hỏi, ghé nhìn vào bên trong. Một mùi nước hoa ngọt ngào thoáng qua cửa sổ. Cô ta luôn mỉm cười, tỏ vẻ thân thiện. Anh gác cổng cũng mỉm cười lịch thiệp, chắc anh ta phải tập luyện nhiều lắm mới có thể cười được như thế.
“Đây là học sinh mới của các bạn,” Rhonda nói. “Ba đứa chuyển đến từ Học viện Binnud và một đến từ Trại trẻ mồ côi Thành phố Đá.”
“Vui lòng đợi ở đây.” Chị bảo vệ bước lại chỗ trạm gác, trong khi anh gác cổng vẫn tiếp tục canh chừng. Anh ta nghiêng đầu để nghe xem người nữ nói gì, trong khi đó vẫn để mắt đến chiếc xe.
“Bình tĩnh,” Rhonda nhỏ giọng nhắc lại, chỉ đủ lớn để bọn trẻ nghe được, trong khi cài số lùi cho chiếc – để đề phòng – Reynie nghĩ chị ấy thông minh thật.
Reynie thở sâu một cái rồi nín thở. Cậu hy vọng các bạn mình ghi nhớ tiểu sử của họ. Tiểu sử của cậu khá dễ nhớ, vì nó là sự thật: ngài Rutger, bị thuyết phục hoàn toàn, đã cho phép một ngoại lệ đặc biệt với trường hợp của cậu. Những bạn khác, dù sao, cũng từ một trường học tạm thời đặc biệt dành cho trẻ mồ côi có tên là Học viện Binnud. Sáng hôm đó, khi chào tạm biệt sau bữa sáng, ngài Benedict đã nhấn mạnh rằng nếu họ nói to “Học viện Binnud”, nó sẽ nhắc nhở rằng tâm trí ông luôn đi cùng bọn trẻ.
“Cô cũng vậy,” Số Hai nói. Qụá nhiều cảm xúc, Số Hai đã đưa lát bánh mì lên để lau nước mắt. “Toàn bộ tâm trí và lời cầu nguyện của cô.”
Tất cả người lớn dường như đều mệt mỏi và buồn bã – ngoại trừ Milligan, chú ấy vẫn luôn như vậy – thậm chí, có một tia phấn khích, có lẽ là hy vọng lóe lên trong đôi mắt.
“Đi thôi, các cháu,” ngài Benedict nói, “và cho chúng thấy các cháu là ai.”
Lúc này Reynie cảm thấy chắc chắn chúng là người dễ bị kích động nhất. Đầu gối của cậu run rẩy, và khó khăn lắm mới giữ cho răng không va vào nhau. Sticky thì lau kính mạnh đến mức chúng kêu ken két, còn Constance thì nhắm tịt mắt lại, giả vờ ngủ một cách thiếu thuyết phục. Thậm chí ngay cả Kate cũng thấy đôi chút lúng túng. Chẳng hiểu mấy người bảo vệ này làm gì mà lâu khủng khiếp.
Cuối cùng cô ta cũng quay trở ra, ít nhất thì nụ cười của cô ta cũng không nhạt đi. Reynie chỉ có thời gian để tự hỏi liệu nụ cười ấy có đang cố giấu điều gì đó hay không… Cô ta đến bên chiếc xe nói, “Chào mừng các em! Các em đến rất đúng giờ. Vui lòng lái xe qua cổng vào đảo. Tôi sẽ truyền radio để họ cho mọi người vào.”
Khi Rhonda kéo cửa sổ lên và cài lại số tiến cho xe, cả bốn đứa trẻ mới thở phào nhẹ nhõm. Sau đó họ đi qua cây cầu dài hướng về phía định mệnh.
Sau khi hành lý của bọn trẻ được dỡ xuống từ chiếc xe, Rhonda ký thủ tục và tạm biệt chúng, bọn trẻ ngồi chờ tại nơi chất hàng ở gần đầu cầu. Những người dẫn đường sẽ sớm đến đón thôi, bảo vệ cổng nói. Trong lúc đó, bọn trẻ ngồi gọn sang một bên và quan sát. Đây là khu vực bận rộn, không phải chỗ để bọn trẻ chơi đùa. Những công nhân trong bộ đồng phục đang kéo thùng hàng từ nhà kho gần đó và chất chúng lên chiếc xe tải lớn. Họ trông có vẻ thực sự bận rộn, kéo và chất hàng liên tục không ngừng nghỉ đến mức bạn cảm thấy đau lưng chỉ vì xem họ làm việc.
Bọn trẻ di chuyển ra phía ngoài của khu chất hàng, kéo hành lý theo đằng sau. (Rhonda đã gói ghém quần áo dự phòng cho từng đứa, bao gồm cả bộ trang phục chị ấy đã may cả đêm cho vừa với kích cỡ nhỏ bé của Constance.) Chúng không có nhiều việc để làm hoặc làm chúng trông có vẻ bận rộn, thậm chí chúng còn muốn trở nên bận rộn để cảm giác lo lắng rời khỏi tâm trí này. Chỉ có một trạm gác, kho lưu trữ và khu bốc dỡ hàng – tất cả đều nằm ngoài khả năng – và một bức tường đá chắn tầm nhìn ra phía bến tàu của bọn trẻ. Chơi trò đấu vật bằng ngón cái một lúc, bọn trẻ xếp chồng hành lý lên nhau và lần lượt đứng lên đó nghển cổ qua tường. (Constance cần cả bốn cái vali, những đứa khác thì hai cái là đủ.)
Bọn trẻ thích thú khám phá ra hoạt động nào đó bên dưới cây cầu – thêm nhiều công nhân trong bộ đồng phục trắng điều khiển thuyền qua bãi cọc. Những công nhân này mang theo những cái vặn đai ốc, dụng cụ quay tay khởi động máy nổ và một số công cụ khác đều có kích cỡ quá khổ, và sử dụng chúng để điều chỉnh những máy móc gì đó mà chúng nhìn không rõ ở phía dưới mặt nước. Giống như các công nhân đang bốc dỡ hàng hoá, những người trên thuyền cũng rất nghiêm túc làm việc. Họ rất hiếm khi nói chuyện, nếu có nói thì cũng kín đáo, cứ như thể họ có thái độ rất tôn kính đối với nhiệm vụ trước mắt.
Chắc là mấy cái tuốc-bin, Reynie nghĩ, trèo xuống từ đống vali. Sticky và Kate cũng có kết luận như vậy, nhưng Constance lại tự hỏi, một cách ồn ào, xem trên thế giới này có cái gì mà những người đó có thể làm dưới đó. Họ đang cố gắng sửa chữa nước à?
Reynie không dám chắc liệu có phải Constance đang đùa hay không. Cậu bắt đầu trả lời, không quan tâm việc giọng nói của cậu chìm nghỉm trong tiếng ầm ầm của động cơ. Những người công nhân đã chất xong hàng lên chiếc xe tải lớn. Hai người trong bộ comple trèo lên phía trước, và khi cánh cổng mở ra, họ vui vẻ vẫy tay với bọn trẻ và lái xe qua cầu.
“Cậu có thấy không?” Constance hét lên. “Họ đều đeo những chiếc đồng hồ phóng điện đó! Bảo vệ cầu cũng thế. Các cậu có thấy không?”
“Thấp giọng xuống,” Kate rít lên. “Cậu điên à? Tất nhiên là bọn tớ thấy chứ.”
Constance phẫn nộ, nhưng không có thời gian để tranh cãi, vì ngay sau đó, đội dẫn đường cho bọn trẻ đã đến.
Cả đội dẫn đường đều mặc quần xanh nước biển, áo chẽn màu trắng khỏe mạnh, đeo thắt lưng xanh nước biển, nhưng không thể nhầm họ với nhau được. Một người nam trẻ, có dáng bè bè, tóc đỏ với ánh mắt xanh băng giá, mũi gầy và nhọn giống như một con dao. Người kia là một phụ nữ trẻ có thân hình khỏe mạnh với mái tóc đuôi ngựa màu nâu và đôi mắt nhỏ giống như mắt lợn có màu chẳng biết gọi tên là gì. Họ tự giới thiệu mình là Jackson và Jillson.
Reynie chìa tay ra. “Tên em là…”
“Để sau đi,” Jillson nói, quay người đi. “Đi thôi. Chúng ta sẽ đưa các cô cậu về phòng để cất hành lý trước.”
Ngạc nhiên, Reynie hạ thấp tay xuống. Cậu biết Jillson là người thô lỗ (cô ta và Jackson cũng không đề nghị giúp bọn trẻ mang hành lý), nhưng vẫn cảm thấy mình thật ngờ nghệch.
“Cô ấy quả là người tốt, đúng không?” Kate thì thầm.
Bọn trẻ được dẫn đi dọc theo một con đường trải sỏi dài về phía các tòa nhà của Học viện. Chúng đi qua quảng trường bằng đá lớn, sau đó là một khu vườn đá khiêm tốn, và dừng lại đợi Constance lấy sỏi ra khỏi đế giày của cô bé. Cuối cùng bọn trẻ cũng đến khu ký túc xá cho học sinh, ở đó, vì phòng của các cô bé ở một đầu của hành lang bằng đá dài và của các cậu bé thì ở đầu còn lại, chúng buộc phải chia nhau ra. Phòng của Reynie và Sticky, ngoài việc rất sạch sẽ và ngăn nắp ra, khá giống với những gì mà chúng dự đoán: giường ngủ, hai cái bàn học và ghế (nhưng không có giá sách), một tủ quần áo, lò sưởi, tủ tivi lớn (ừ, cái này thì nằm ngoài dự đoán), và một cái cửa sổ nhìn ra quảng trường. Reynie đi về phía cửa sổ. Phía ngoài quảng trường có những lạch nước lấp lánh, sáng chói trong ánh mặt trời và bập bềnh với những gợn sóng đầu bạc, xa hơn nữa là bờ biển rậm rạp cây, kính viễn vọng của ngài Benedict được giấu ở đó. Bọn trẻ có thể gửi các thông điệp bằng mật mã Morse qua chính cửa sổ này. Bụng dạ của Reynie thắt lại. Ý thức của cậu thừa nhận rằng cậu hiện là một đặc vụ bí mật, nhưng cơ thể cậu vẫn khó mà tin được.
Jackson dựa người vào khung cửa ra vào. “Nếu cần bất cứ thứ gì thì cứ hỏi một Điều hành viên. Bọn mày có thể nhận ra Người điều hành nhờ bộ đồng phục – quần xanh nước biển, áo chẽn trắng, thắt lưng xanh nước biển. Các Điều hành viên quản lý nơi này. Nhiều người trong số chúng tao là cựu học sinh, từng làm việc giỏi khi còn là Liên lạc viên nên ngài Curtain đã thuê chúng tao. Đừng nhầm lẫn bọn tao với Liên lạc viên, mặc dù chúng cũng mặc áo chẽn và đeo thắt lưng, nhưng chúng mặc quần sọc. Chúng chỉ là sinh viên giống bọn mày, chỉ là họ đứng đầu lớp và có nhiều đặc quyền. Đặc quyền bí mật, tao cần nói thêm như vậy. Bọn mày sớm hay muộn cũng sẽ biết điều này thôi. Bây giờ thu xếp chỗ của mình đi đã, và xem tivi nếu muốn.” Anh ta bật tivi cho bọn trẻ. “Sẽ có chuyến tham quan định hướng trong một giờ nữa. Sau đó bọn mày sẽ gặp ngài Curtain.”
“Ngài Curtain là ai?” Reynie nói, cho rằng tốt nhất nên thể hiện là mình biết càng ít càng tốt. Bạn biết càng ít, bạn sẽ càng ít bị nghi ngờ – và có thể họ còn kể thêm thông tin cho bạn nữa.
Jackson cười chế nhạo, nhưng rồi phải cố nặn thành điệu cười mỉm. Trông hắn như một con cá sấu đầu đỏ vậy. “Tao quên mất là bọn trẻ ranh chúng mày ngu dốt như thế nào khi mới đến. Ngài Curtain là ông chủ. Ông ấy là người thành lập Học viện, đó là lý do vì sao chúng ta ở đây. Hiểu chưa?” Rõ ràng Jackson là loại người trẻ tuổi cứ nghĩ mình thông minh lắm, là loại người có bản chất tồi tệ nhưng lại tự cho mình là tử tế. Khi những cậu bé nhỏ hơn không kịp thời trả lời hắn, sẽ bị hắn đánh, “Bọn mày có hiểu tao nói gì không đấy? Bọn mày nói được tiếng Anh mà, đúng không?”
Các cậu bé gật đầu.
“Tốt. Gặp lại trong một giờ nữa.”
Khi Jackson rời khỏi, Sticky tắt tivi. “Cậu có nghe thấy không? Liên lạc viên. Chúng ta biết nó nghĩa là gì, đúng không?”
“Chúng ta nên tìm hai cô bạn trước đã,” Reynie nói.
“Bọn mình ở ngay đây,” một giọng nói bị nghẹt vang lên từ phía trên các cậu bé. Tấm trần trượt sang một bên, Kate Wetherall thò đầu qua khe hở. “Chả có cái rầm nào phía trên giường ngủ của cậu, một trong số các cậu cho ghế lên, được không? Mình sắp thả Constance xuống đây. Mà các cậu đang làm gì đấy?”
Trong khi đang rất căng thẳng, lại có một giọng nói bất thình lình vang lên ngay trên đầu, nên theo phản xạ tự nhiên, Reynie nhanh chóng giơ tay lên như thể muốn tránh một cú đánh, và Sticky cố gắng, một cách thất bại, trốn đằng sau cái vali của mình. Bẽn lẽn cười, Reynie đẩy nhẹ chiếc ghế đến dưới lỗ hổng. Một lúc sau, bàn chân nhỏ bé của Constance xuất hiện, sau đó là toàn bộ thân, và Kate, đang treo chân trên một cái xà, cẩn thận hạ cô bé xuống ghế. Các cậu bé giúp cô bạn xuống sàn nhà trong khi Kate đảm bảo dây thừng nối đến cái xà đủ chắc chắn và trèo xuống nhập hội.
“Không cần cảm ơn tớ đâu,” cô bé nói với Constance đang cau có phủi bụi khỏi quần áo.
“Tại sao tớ phải cám ơn cậu? Cậu kéo tớ xuống trần nhà, qua lỗ thông hơi sưởi ấm, bò qua mạng nhện trong bóng tối, lại còn tuôn ra toàn bộ những lời lẽ đáng sợ nữa chứ, ‘Đừng có đặt đầu gối của cậu ở đó! Cậu sẽ rơi xuống và gãy cổ đấy!’ và ‘Đừng có thở lớn tiếng thế! Ai đó sẽ nghe thấy đấy!’ cho đến khi tim tớ chui tọt lên cổ và đầu gối thì sắp giết chết tớ, và cậu lại còn muốn tớ phải cảm ơn nữa à?”
“Không hề,” Kate nói. “Tớ thấy hạnh phúc khi làm như vậy.”
Mắt của Constance dường như sắp nổ tung trên đầu cô bé.
“Các cậu đã bao giờ thử xem xét việc đi bộ xuống hành lang chưa?” Sticky hỏi.
“Tớ cho rằng tốt hơn hết chúng ta nên có một lối đi bí mật,” cô bé trả lời, “trong trường hợp chúng ta muốn bí mật gặp mặt. Tớ cá là đám Điều hành viên luôn tuần tra nơi này. Tớ chẳng thích chúng chút nào. Jillson lôi hộp đồ của tớ ra làm trò cười, và cô ta cứ gọi bọn tớ là ‘lũ oắt con’ và lại còn ra lệnh cho bọn tớ nữa chứ. Tớ nghĩ Constance có ý định cắn đứt chân cô ta rồi.”
“Tớ có ý định như vậy thật đấy,” Constance nói.
“Dù sao thì cô ta khó nhằn đây,” Kate ngẫm nghĩ. “Cao sáu thước, tay to như khủng long, và buộc tóc đuôi ngựa bằng dây. Có thể dùng cái dây ấy để treo cổ những đứa trẻ dám qua mặt cô ta đấy.”
“Vậy thì đảm bảo đừng có qua mặt cô ta,” Reynie nói, và kể lại những gì Jackson nói về nhóm Liên lạc viên.
“Jillson cũng nói với bọn tớ như vậy,” Kate nói. “Vậy giọng nói chúng ta nghe trên tivi chắc hẳn cũng là một đứa Liên lạc viên nào đấy đúng không?”
“Chắc chắn là như vậy. Có vẻ như các học sinh khác không biết nhiều về công việc của Liên lạc viên – họ không có các ‘đặc quyền bí mật’ này cho đến khi họ trở thành học sinh đứng đầu lớp. Điều đó có nghĩa là chúng ta phải đứng đầu lớp thật nhanh, để chúng ta có thể trở thành Liên lạc viên và tìm hiểu mọi thứ càng sớm càng tốt.”
“Sao chúng ta không đi điều tra xung quanh và tìm hiểu vài điều luôn nhỉ?” Kate nói, cô bé luôn có niềm đam mê với việc khám phá những thứ mới lạ.
Những đứa khác đồng ý, sau đó Kate thu lại sợi dây, đặt tấm trần vào đó, và bọn trẻ đi xuống hành lang.
Reynie tăng tốc để bắt kịp với Kate, cô bạn lúc nào cũng di chuyển với vận tốc của xe gài số cao vậy. Đến tận sát lối ra của ký túc xá, cậu mới phát hiện ra là Constance không có mặt trong nhóm. Cả lũ cùng quay lại, và thấy Constance vẫn đang loanh quanh ở ngay bên ngoài phòng của lũ con trai, một tay chỉ một mảng rêu trên trần nhà, tay còn lại ngoáy ngoáy mũi. “Kinh quá! Ý tớ là ở đây dơ bẩn quá! Tớ ghét rêu mốc!”
“Này, Constance,” Reynie nói. “Cậu quên mất là bọn mình đang vội à?”
Cả lũ lại đi về phía lối ra, lần này thì cẩn thận để mắt tới Constance. Nhưng mà, ngoài việc rất dễ bị phân tâm, Constance còn đi cực chậm. Khi cả lũ giục cô bé đi nhanh hơn, cô bé còn ngang ngạnh cãi cố, nhưng khi bị tụt lại phía sau thì lại tỏ ra tức giận.
“Không phải lỗi của tớ, chân tớ ngắn hơn chân các cậu,” Constance giải thích. “Các cậu không thể bắt tớ đi nhanh hơn được.”
“Thế nếu một trong số bọn tớ cõng cậu thì sao?” Reynie đề xuất.
“Ngớ ngẩn,” Constance nói. Nói thế, nhưng cuối cùng cô bé cũng phải chịu để Kate nhấc bổng mình lên. Bằng cách đó, cuối cùng cả lũ cũng ra khỏi ký túc xá, hòa vào không gian ngập tràn ánh nắng.
Bọn trẻ quyết định men theo một lối đi rải đá dăm hẹp, được chăm sóc cẩn thận và chạy ngoằn ngoèo lên một ngọn đồi ngay cạnh ký túc xá. Cả lũ leo lên đến đỉnh đồi chỉ mất vài phút. Trước mắt chúng bây giờ là bức tranh hòn đảo tuyệt đẹp, bức tranh của những ngọn đồi nhấp nhô nối tiếp nhau.
Bọn trẻ ngây người đứng nhìn ngôi trường mới của mình từ trên cao. Những tòa nhà bằng đá xám giống hệt nhau, gần nhau tới mức mà thật khó để biết chính xác chỗ nào là đầu, chỗ nào là cuối của chúng nữa. Chúng được xếp theo hình chữ U bao quanh một quảng trường rộng bằng đá và được nối với nhau bằng những lối đi hoặc những bậc thang cũng bằng đá. Đứng nhìn từ trên cao, thêm cả tòa tháp bằng đá sừng sững ngay phía sau ký túc xá, những tòa nhà trông giống một pháo đài hơn là một trường học.
Tuy thế, dưới ánh mặt trời rạng rỡ buổi sớm mai, Học viện không có vẻ gì là bí ẩn, cũng chẳng có nét gì hăm dọa, đáng sợ như cả lũ đã hình dung. Ngược lại, hòn đảo trông đáng yêu kinh khủng. Sườn đồi là những tác phẩm của cát, của những luống rau xanh tươi, và những mảng đá tảng xen lẫn những lối đi rải sỏi. Dọc lối đi, những chậu xương rồng lớn bằng đá đang nở hoa rực rỡ. Một dòng suối tràn trề sinh lực chảy xuống từ một ngọn đồi gần đó, uốn lượn xung quanh những tảng đá, có đôi chỗ chảy thành một dòng thác nhỏ trước khi đi ra đến bờ biển ngay dưới chân đồi, cách Học viện không xa. Ngoài tiếng nước đôi lúc bắn tung tóe, lúc lại thì thầm róc rách, và tiếng gọi vọng đến từ phía xa của lũ chim én, hòn đảo gần như im ắng. Không thấy bóng dáng một đứa trẻ nào, chỉ thỉnh thoảng thấp thoáng một người thợ mặc đồ trắng đang lau dọn các lối đi, hoặc vội vàng với nhiệm vụ nào đó.
“Tớ đoán các bạn khác đang trong lớp học,” Sticky nói. Rồi cậu bé quay sang, nhìn Kate vẻ trêu chọc. “Cậu lôi cái kính vạn hoa ra làm gì?”
“Nó là một cái ống nhòm được ngụy trang đấy,” Reynie nói lúc Kate đang tháo rời mấy cái mắt kính màu mè sặc sỡ.
Kate chĩa chiếc ống nhòm của mình về phía tòa tháp đá.
“Nhìn kìa, có một ô cửa sổ ngay phía dưới lá cờ Học viện. Tớ cá là có một thứ gì đó quan trọng ở đó. Đó là cái cửa sổ cao nhất ở trên đảo, mà thường thì hay có một thứ quan trọng ở phía sau ô cửa sổ cao nhất.” Rồi Kate đưa cho Constance cái ống nhòm.
“Cũng có thể nhờ cái cửa sổ đó người ta mới với tới lá cờ được,” Sticky nói “Vì phải có một cách gì đó để treo nó lên, và để giặt nó nữa chứ.”
“Có thể,” Kate nói. “Cũng đơn giản thôi, đột nhập vào đó và tìm ra sự thật. Cái cửa sổ đó có thể sẽ không cao như bọn mình đang nhìn thấy đâu – rõ ràng là không nếu ta đứng trên đỉnh đồi kia. Đầu tiên là phải vượt qua cái bức tường bằng đá kia đã” – cô bé chỉ lên phía trên gần đỉnh đồi – “rồi nhảy qua dòng suối trước khi leo lên quãng đường còn lại. Cái tháp được xây sát vào sườn đồi, các cậu thấy không? Với một đoạn dây đủ dài, ta có thể bắt thòng lọng lên cái cột cờ kia, rồi đu lên, đứng ở chỗ lá cờ mở cánh cửa ra.”
“Cậu gọi cái đó là đơn giản á?” Reynie nói.
Kate nhún vai. “Hơi hơi.”
“Dù sao,” Reynie nói, “quãng đường khá trống trải và chắc chắn là cậu sẽ bị phát hiện. Tớ không nghĩ đó là những gì ngài Benedict dặn dò, bọn mình không được quá liều lĩnh.”
Kate thở dài. “Tớ cũng cho là như vậy.”
Constance lúc đó có vẻ ngán ngẩm. “Cái ống nhòm này của cậu tệ quá Kate ạ. Nó làm cho mọi thứ trông có vẻ xa hơn.”
Kate xoay xoay cái ống nhòm rồi đưa lại cho cô bạn của mình.
Lũ trẻ cứ nấn ná mãi ở trên đỉnh đồi. Ở trên đó thật sảng khoái, phong cảnh hùng vĩ, hây hây gió nhẹ, và mặc dù chẳng ai nói ra nhưng tất cả đều không muốn trở về để phải gặp lại những Điều hành viên đó nữa. Kate là người không muốn quay về nhiều nhất, chẳng phải vì cô bé lo sợ bị lộ mình là một gián điệp (mặc dù, giống như những người bạn của mình, Kate có cảm thấy căng thẳng khi nghĩ về điều đó), mà bởi vì cô bé ghét việc phải ngừng khám phá. Khám phá là việc cô bé có thể làm tốt nhất, và Kate thì lại luôn luôn muốn được làm những gì là sở trường của mình. Không phải vì Kate là người ích kỷ, mà ngược lại cô bé rất thoải mái, hiếm khi phàn nàn về một điều gì đó. Nhưng Kate đã dành cả cuộc đời của mình – kể từ khi bị bố bỏ rơi, điều đã ảnh hưởng đến cô bé nhiều hơn những gì cô bé dám thừa nhận – để chứng minh rằng mình không cần đến sự giúp đỡ của bất kỳ ai, và cách dễ nhất để chứng minh điều đó là làm những gì cô bé giỏi nhất.
Vì thế, khi Sticky lấy hết can đảm đề nghị quay trở về, Kate không thể không buông một tiếng thở dài. Những người khác cũng muốn được thở dài lắm, nhưng chẳng ai hỏi Kate vì sao.
Reynie giúp Constance trèo lên lưng Kate, và cả lũ bắt đầu quay trở lại ký túc xá. Kate đưa mắt nhìn xung quanh, hy vọng có thể nhìn thấy một thứ gì đó khác thường, nhưng đã phải thất vọng bởi vì chẳng có gì khác ngoài những tảng đá, cát và những vạt rau xanh.
Đi được nửa quãng đường xuống chân đồi, Sticky dừng lại “Thật kỳ quặc. “
Mắt Kate sáng lên, cô bé vội vàng quay nhìn xung quanh. “Cái gì, cái gì kỳ quặc đấy?”
Sticky đưa tay chỉ một mảng cây thường xuân xanh tốt – hoặc là một loại cây nào đó rất giống thường xuân – bao phủ một khoảng đất rộng cách đó vài mét. “Các cậu thấy loại cây hoa kép lá nhỏ đấy chứ? Đó là một loại cây hiếm có tên là drapeweed, chỉ mọc xanh tốt trên những khoảnh đất nghèo nàn.”
“Ồ cậu bạn,” Constance nói, “Một loại cây hiếm.”
Kate xị mặt xuống.
“Điều tớ muốn nói,” Sticky cự nự, “là có một vài cây mới được trồng thêm vào. Những cây hoa kép trưởng thành có thân màu nâu gỗ, những cây non có cành non màu xanh nhẹ. Còn lại những phần khác giống hệt nhau.”
Những đứa còn lại bắt đầu săm soi đám cây hoa kép, cố gắng phân biệt thân với cành non phía bên dưới đám lá màu xanh đậm. Quả đúng như thế: Một khoảnh cây ở giữa không giống với phần còn lại, mặc dù sự khác biệt đó nhỏ bé đến mức chỉ một nhà thực vật học – hoặc là Sticky – mới có thể nhận ra được.
“Các cậu nghĩ sao?” Constance hỏi “Có thể nào có thứ gì đó mới được chôn dưới đó không?”
“Hoặc là một người nào đó,” Kate đoán già đoán non. Cô bé quay sang nhìn Reynie. “Bọn mình có nên kiểm tra luôn không?”
Reynie ngạc nhiên nhưng có vẻ thích thú. Cậu vẫn chưa quen với việc những đứa bạn hỏi ý kiến cậu. “Tớ nghĩ thế,” Reynie trả lời sau một thoáng. “Nhưng cần phải cẩn thận.”
“Cẩn thận vì cái gì kia chứ?” Kate hỏi. “Chỉ là cây cỏ thôi mà.”
“Tớ cũng không rõ nữa. Nhưng có gì đó cứ khiến tớ có cảm giác bất an.”
“Có thể cũng chẳng có gì đặc biệt đâu,” Sticky nói, cậu bé lúc này đã bắt đầu thấy hối hận và nghĩ đáng lẽ mình đã không nên nói gì. Sticky đi theo những người bạn của mình xuống phía dưới. “Có thể một vài cây bị nhiễm nấm và chết, rồi người làm vườn thay vào đó những cây mới. Loài hoa kép rất dị ứng với nấm mà…”
Lũ trẻ dừng lại bên mép thảm cây hoa kép, nó phải rộng gấp đôi một tấm thảm phòng khách nhưng ngược lại cảm giác thích thú thì giảm mất một nửa – ít nhất là với Kate. “Trông giống cây thường xuân quá nhỉ,” Kate nói, kéo Constance lên cao hơn trên lưng. “Nó có làm cậu bị ngứa không đấy?”
“Không đâu, loại cây này vô hại mà,” Sticky nói và tiến về khoảng giữa của tấm thảm cây. Kate và Constance theo sát phía sau. “Tớ sẽ tìm ra một cành non và chỉ cho các cậu thấy…”
Trong phút chốc, những cây hoa kép dường như đã nuốt chửng cậu bé.