Đọc truyện The Bridgertons: Happily Ever After – Chương 8
To Sir Phillip, With Love (1)
Người dịch: Shane_D
Hiếm khi tôi viết về những đứa bé quấy rầy người khác như Amanda và Oliver Crane, cặp anh em sinh đôi cô đơn của Ngài Phillip Crane. Điều đó dường như không thể bọn trẻ sẽ lớn lên trong hoàn cảnh thích hợp, những người lớn phù hợp, nhưng tôi thấy rằng nếu ai đó có thế cho chúng vào khuôn, đó sẽ là mẹ kế của chúng, Eloise (nhũ danh Bridgerton) Crane. Tôi từ lâu đã muốn thử tay viết ở ngôi thứ nhất, nên tôi quyết định sẽ nhìn thế giới qua cặp mắt của đang–lớn của Amanda. Cô ấy sẽ yêu, và Phillip và Eloise sẽ nhìn thấy điều đó xảy ra.
To Sir Phillip, With Love: The 2nd Epilogue
Tôi không phải một người đặc biệt kiên nhẫn. Và tôi gần như không chịu đựng được sự ngu ngốc. Đó là lý do tại sao tôi vô cùng tự hào về bản thân khi giữ mồm lại vào buổi chiều này, trong khi uống trà với gia đình Brougham.
Gia đình Brougham là hàng xóm của chúng tôi đã sáu năm, kể từ khi Ông Brougham thừa kế gia sản từ chú ông, cũng tên là Ông Brougham. Họ có bốn cô con gái và một thằng con trai cực kỳ phá phách. Thật may mắn cho tôi, đứa con trai ấy nhỏ hơn tôi năm tuổi, có nghĩa là tôi sẽ không ấp ủ khái niệm lấy thằng nhóc ấy. (Dù các em gái tôi, Penelope và Georgiana, nhỏ hơn tôi chín và mười tuổi, sẽ không may mắn như vậy.) Những cô con gái nhà Brougham tất cả đều gần tuổi nhau, bắt đầu với cô chị lớn nhất hơn tôi hai tuổi, và kết thúc với cô em gái nhỏ nhất ít hơn tôi hai năm. Họ dễ thương một cách hoàn hảo, nếu có lẽ là hơi quá mức ngọt ngào và dịu dàng so với khẩu vị tôi. Nhưng dù sao chịu đựng họ khá dễ dàng.
Đó là bởi vì tôi, cũng có một người anh, và anh ấy không nhỏ hơn họ tới năm tuổi. Sự thật, anh ấy là anh sinh đôi với tôi, việc ấy khiến anh có thể có khả năng kết hôn với bất kỳ ai trong số bốn cô gái
Chẳng lấy làm ngạc nhiên, Oliver quyết định không đi cùng mẹ, Penelope và tôi tới tiệc trà.
Nhưng đây là những gì xảy ra, và đây là tại sao tôi lại hài lòng với bản thân vì đã không nói những gì tôi mong ước được nói, đó là: Chắc chắn bà hẳn phải là một kẻ ngốc.
Tôi đang hớp ly trà, cô gắng giữ chiếc tách ở miệng càng lâu càng tốt, để có thể tránh những câu hỏi về Oliver, khi Bà Brougham nói, “Hẳn phải rất hấp dẫn khi là một cặp sinh đôi. Nói với ta, Amanda yêu quý, khác biệt như thế
Tôi sẽ hy vọng rằng tôi không cần giải phải thích tại sao câu hỏi ấy thật ngu như lừa. Tôi khó có thể nói với bà ta sự khác biệt là gì, khi tôi dành đến xấp xỉ một trăm phần trăm của cuộc đời mình như một cặp
Tôi hẳn phải đeo vẻ khinh bỉ trên gương mặt, vì mẹ bắn cho tôi một trong những cái nhìn cảnh cáo đầy huyền thoại của bà, khi môi tôi há ra để trả lời. Bởi tôi không ao ước làm mẹ tôi bẽ bàng (và không phải vì tôi cảm giác có bất cứ sự cần thiết nào để khiến Bà Brougham cảm giác bà ấy tài giỏi hơn bà thực sự thế), tôi nói, “Cháu cho là một người luôn có một người bạn.”
“Nhưng anh trai cậu hiện tại không ở đây.” Một trong những cô gái nhà Brougham lên tiếng.
“Cha tớ không phải lúc nào cũng bên mẹ, và tớ có thể tưởng tượng bà nghĩ về ông như người bầu bạn của bà.” Tôi đáp trả.
“Một người anh hoàn toàn không giống một người chồng.” Bà Brougham rung giọng.
“Ai đó sẽ hy vọng thế.” Tôi trả miếng. Thật sự, đây là một trong những cuộc chuyện trò cực kỳ nực cười mà tôi đã tham gia. Và Penelope nhìn như thể em ấy sẽ có nhiều câu hỏi khi chúng tôi trở về nhà.
Mẹ trao cho tôi một cái nhìn nữa, cái nhìn nói rằng bà biết chính xác loại câu hỏi gì Penelope sẽ hỏi, và bà không có bất cứ ao ước nào trả lời chúng. Nhưng như mẹ vẫn thường nói, bà quý trọng tính tò mò của phái nữ…
Chậc, bà đã tự rơi vào bẫy của chính mình.
Tôi nên nhắc tới điều này, đặt vụ gậy ông đập lưng ông sang một bên, tôi bị thuyết phục là tôi có người mẹ tốt nhất nước Anh. Và không giống như việc không phải là một cặp sinh đôi, việc mà tôi chẳng có kiến thức nào, tôi biết sẽ như thế nào khi có một người mẹ khác, nên tôi hoàn toàn đủ tư cách, theo ý kiến tôi, để đưa ra sự phán xét.
Mẹ tôi, Eloise Crane, thực sự là mẹ kế tôi, dù tôi chỉ nghĩ về bà như thế khi cần đến những mục đích sàn lọc. Bà lấy cha khi Oliver và tôi lên tám, và tôi khá chắc chắn bà đã cứu tất cả chúng tôi. Thật khó để giải thích cuộc sống của chúng tôi thế nào, trước khi bà bước vào. Tôi rõ ràng có thể miêu tả vài sự kiện, ngoài vẻ ngoài của tất cả chúng, cảm giác trong ngôi nhà chúng tôi…
Tôi thật sự không biết phải diễn đạt thế nào.
Mẹ tôi – người mẹ ruột của tôi – đã tự sát. Trong phần lớn cuộc đời mình, tôi không biết chuyện ấy. Tôi nghĩ bà chết vì một trận cảm cúm, việc mà tôi cho là đúng sự thật. Những gì không ai nói với tôi là có trận cảm cúm đó bởi do bà đã cố gắng nhấn chìm bản thân trong hồ, vào một mùa đông chết chóc.
Tôi không có khái niệm nào về việc tự từ bỏ cuộc đời mình, nhưng tôi phải nói, việc ấy không phải là phương pháp tôi chọn lựa.
Tôi biết tôi nên cảm giác tiếc thương và cảm thông cho bà. Người mẹ hiện tại của tôi là em họ xa của bà, và kể với tôi bà đã buồn bã trong suốt cả quãng đời. Mẹ nói với tôi vài người giống thế, chỉ là những người khác gượng ép vui mừng suốt thời gian. Nhưng tôi không thể ngăn được bản thân nghĩ nếu bà không tự kết liễu bản thân, bà cũng có thể làm việc ấy sớm hơn. Có lẽ là khi tôi là một đứa bé mới biết đi. Hay tốt hơn, là một đứa bé còn ẳm ngửa. Chắc cuộc đời tôi khi đó sẽ dễ dàng hơn.
Tôi hỏi chú Hugh (người không thật sự là chú tôi, nhưng chú cưới người em kế của vợ của anh trai của mẹ tôi, và chú sống khá gần, và chú là một cha xứ) liệu tôi có thể xuống địa ngục vì ý nghĩ đó không. Chú nói không, hết sức thành thật, với đầy tình cảm.
Tôi nghĩ tôi thích vùng xứ đạo của chú hơn của tôi.
Nhưng vấn đề là, giờ đây tôi có những hồi ức về bà. Marina, người mẹ đầu tiên của tôi. Tôi không muốn những ký ức về bà. Ký ức tôi có mơ hồ và lẫn lộn. Tôi không thể nhớ thanh âm giọng bà. Oliver nói đó có lẽ là vì bà ít nói chuyện. Tôi không thể nói bà có nói hay không. Tôi không thể nhớ chính xác hình dạng khuôn mặt bà, và tôi không thể nhớ mùi vị bà ra sao.
Thay vào đó, tôi nhớ khi đứng ngoài cửa phòng bà, cảm giác rất bé nhỏ và hoảng sợ. Và tôi nhớ khi nhón chân mà đi, vì chúng tôi biết mình không được gây tiếng ồn. Tôi luôn nhớ cái cảm giác khá hồi hộp, như thể tôi biết chuyện gì đó tồi tệ sẽ xảy ra.
Và thực tế nó đã xảy ra.
Ký ức không thể trở nên cụ thể được sao? Tôi không phiền về ký ức của một thời khắc, hay của một gương mặt, hoặc giả của một âm thanh. Thay vào đó, tôi có những xúc cảm mập mờ, và thậm chí những cảm xúc đó không cả hạnh phúc.
Một lần tôi hỏi Oliver xem anh ấy có những ký ức giống thế không, và anh chỉ nhún vai, và nói anh không thực sự nghĩ về mẹ. Tôi không chắc có thể tin anh không. Tôi cho là tôi nên tin anh ấy; anh không suy nghĩ sâu sắc về bất cứ gì. Ai đó có thể hy vọng khi anh ấy kết hôn (việc rõ là không đến đủ sớm cho các chị em gái nhà Brougham) rằng anh sẽ chọn một cô dâu với cùng sự thiếu thận trọng và không đa cảm như anh. Nếu không thì, chị ấy sẽ phải khốn khổ. Anh ấy sẽ không khốn khổ, tất nhiên; anh thậm chí sẽ không chú ý tới nỗi thống khổ của chị ấy.
Đàn ông là thế đó, tôi nói rồi mà.
Ví dụ như, cha tôi, là một người đặc biệt không tinh ý. Trừ khi, đương nhiên rồi, bạn tình cờ trở thành một cái cây, thì ông ngay lập tức chú ý tới mọi thứ. Ông là một nhà thực vật học, và có thể hạnh phúc tản bộ trong khu nhà kính suốt ngày. Ông dường như chẳng hợp chút nào với mẹ tôi, người sôi nổi, thoái mải, và không bao giờ đánh rơi từ ngữ; nhưng khi họ bên nhau, hiển nhiên rằng họ yêu nhau tha thiết. Tuần trước, tôi bắt gặp họ đang hôn nhau trong vườn. Tôi kinh hãi. Mẹ đã gần bốn mươi, và Cha già hơn cả thế.
Nhưng tôi không lạc đề. Tôi đang nói về gia đình Brougham, đặc biệt hơn là câu hỏi ngu ngốc của Bà Brougham về việc không phải là một cặp sinh đôi. Tôi, như đã nhắc tới từ trước, cảm giác khá hài lòng với bản thân vì không tỏ ra thô lỗ, khi Bà Brougham nói gì đó về việc chuyện ấy mới thú vị làm sao.
“Cháu trai tôi sẽ đến thăm vào chiều nay.”
Từng cô gái một của nhà Brougham thình lình vọt thẳng lên trong chỗ ngồi. Tôi thề, nó giống như trò chơi của lũ trẻ với những tiếng vút vút. Bing bing bing bing… Họ vụt dậy, từ dáng điệu hoàn hảo đến điệu bộ thẳng đứng phi thường.
Từ việc này, tôi ngay lập tức suy ra cháu trai của Bà Brougham hẳn phải ở tuổi kết hôn, gần như là một món tốt, và có lẽ có những điểm dễ chịu.
“Mẹ không nói đến việc Ian sẽ đến thăm.” Một trong những cô con gái nói.
“Cậu ấy không đến.” Trả lời từ một giọng của Bà Brougham. “Cậu ấy vẫn còn ở Oxford, như các con biết rõ. Charles đang đến.”
Póc. Các cô con gái nhà Brougham xịu đi, tất cả cùng một lúc.
“Ồ.” Một trong số họ nói. “Charlie.”
“Vào hôm nay, mẹ nói thế.” Một cô khác lên tiếng, với vẻ thiếu hăng hái rõ rệt.
Và rồi cô nàng thứ ba nói. “Con lẽ ra nên giấu những con búp bê của con đi.”
Nàng thứ tư không nói gì, chỉ uống tiếp ly trà, trông khá buồn chàn trước toàn bộ sự việc.
“Tại sao chị phải giấu những con búp bê đi?” Penelope hỏi. Vô cùng thật lòng, tôi cũng tự hỏi điều tương tự, nhưng có vẻ quá mức trẻ con với một câu hỏi như thế với một quý cô ở tuổi mười chín.
“Đó là mười hai năm trước rồi, Dulcie.” Bà Brougham nói. “Lạy Chúa, con có trí nhớ của một con voi.”
“Không ai quên được những gì anh ấy đã làm với búp bê của con.” Dulcie ảm đạm nói.
“Anh ấy đã làm gì?” Penelope hỏi.
Dulcie làm dấu hiệu rạch một đường qua cổ họng. Penelope thở hổn hển, và tôi phải thú nhận, có gì đó khá khủng khiếp trên vẻ mặt Dulcie.
“Anh ấy là kẻ hung bạo.” Một trong những chị em gái Dulcie nói.
“Cậu ấy không phải người hung bạo.” Bà Brougham nhấn mạnh.
Tất cả những cô gái nhà Brougham nhìn chúng tôi, lắc đầu trong sự đồng ý câm nín, cứ như nói là – Đừng nghe bà ấy.
“Hiện giờ cháu bà bao nhiêu tuổi?” Mẹ tôi hỏi.
“Hai mươi hai.” Bà Brougham trả lời, trông khá biết ơn trước câu hỏi.
“Thằng nhỏ tốt nghiệp từ Oxford vào tháng trước.” “Anh ấy hơn Ian một tuổi.” Một trong những cô gái giải thích.
Tôi gật đầu, dù tôi không thể sử dụng Ian – người tôi chưa bao giờ gặp mặt – như một điểm tham khảo.
“Anh ấy không đẹp trai.”
“Cũng như không tử tế.”
Tôi giương mắt nhìn cô con gái cuối của nhà Brougham, chờ đợi cô ấy góp phần vào. Nhưng tất cả những gì cô ấy làm là ngáp.
“Cậu ấy sẽ ở lại bao lâu?” Mẹ tôi lịch sự hỏi. “Hai tuần.” Bà Brougham trả lời, nhưng thật sự chỉ thốt ra,
“Hai tuầ–” trước khi một trong những cô con gái của bà tru lên khiếp vía.
“Hai tuần! Cả mười bốn ngày!”
“Mẹ hy vọng cậu ấy có thể tham gia cùng chúng ta tới các cuộc hội họp địa phương.” Bà Brougham nói.
Câu này gây ra nhiều tiếng rên hơn. Tôi phải nói, tôi bắt đầu tò mò về anh chàng Charles này. Bất kỳ ai có thể thôi thúc nên sự kinh sợ giữa những cô con gái nhà Brougham hẳn phải có gì đó đáng cảm mến.
Không phải, tôi gấp gáp thêm vào, rằng tôi ghét những cô con gái nhà Brougham. Không giống như em trai, không ai trong số họ có từng điều ước và ý thích được đáp ứng, và vì vậy họ không phải là không thể chịu đựng nổi. Nhưng họ – tôi nói thế nào nhỉ – điềm tĩnh và dễ bảo, và vì vậy không phải là kiểu bầu bạn tự nhiên của tôi (người mà những tính từ như thế chưa bao giờ được áp dụng vào). Sự thật thì, tôi không nghĩ tôi có bao giờ từng biết bất kỳ ai trong số họ thể hiện một ý tưởng quyết liệt về bất cứ điều gì chưa. Nếu cả bốn trong số họ ghét cay ghét đắng ai đó nhiều đến thế – chà, nếu không là gì khác, anh ta sẽ thú vị.
“Cháu trai bà thích cưỡi ngựa chứ?” Mẹ tôi hỏi.
Bà Brougham lóe lên một ánh nhìn xảo quyệt trong mắt. “Ta tin là thế.”
“Có lẽ Amanda sẽ bằng lòng thấy cậu chàng trong vùng.” Với lời đó, mẹ tôi cười một nụ cười ngọt ngào và ngây thơ mơ hồ nhất.
Có lẽ tôi nên thêm vào một trong những lý do tôi cho rằng mẹ tôi là người mẹ tốt nhất nước Anh, là bà hiếm khi ngây thơ và ngọt ngào. Ồ, đừng hiểu nhầm – bà có một trái tim nhân ái, và sẽ làm bất cứ gì cho gia đình. Nhưng bà lớn lên là người con thứ năm trong gia đình có tám người con, và bà có thể ranh ma đến tuyệt diệu và lừa lọc.
Hơn nữa, bà không thể trở nên giúp ích trong cuộc trò chuyện. Tin đi, tôi đã thử rồi.
Vì vậy nên khi bà đề nghị tôi như một người hướng dẫn, tôi không thể làm gì khác hơn ngoài nói vâng, ngay cả khi ba trong bốn cô chị em gái nhà Brougham bắt đầu khúc khích. (Nàng thứ tư trông vẫn cứ buồn chán. Tôi bắt đầu tự hỏi liệu có gì đó không ổn với cô ấy không.)
“Ngày mai.” Bà Brougham vui mừng nói, vỗ hai tay vào nhau và rạng rỡ. “Ta sẽ gửi cậu ấy đến vào chiều mai. Sẽ như vậy chứ?”
Lần nữa, tôi không thể nào nói gì hơn ngoài vâng, và vậy nên tôi nói ra, thắc mắc tôi chính xác đã chỉ đồng ý điều gì.
Buổi chiều hôm sau, tôi mặc bộ đồ cưỡi ngựa tốt nhất và quanh quẩn trong phòng khách, tự hỏi Charles Brougham huyền bí kia có thực sự xuất hiện hay không. Nếu anh ta không đến, tôi nghĩ, việc ấy hoàn toàn nằm trong quyền hạn của anh. Sẽ rất thô lỗ, dĩ nhiên, khi anh phá vỡ một lời cam kết bởi người cô đại diện cho anh, nhưng dù sao chăng nữa, sẽ không phải như anh yêu cầu cưỡi ngựa với hạng người ở địa phương.
Sự chơi chữ không được dự tính trước.
Mẹ tôi thậm chí không thử chối rằng bà đang diễn vai bà mai mối. Việc ấy làm tôi ngạc nhiên; tôi đã nghĩ bà ít nhất cũng đưa ra một sự phản kháng yếu ớt. Nhưng thay vào đó, bà nhắc nhở rằng tôi đã cự tuyệt mùa lễ hội ở London, và rồi bắt đầu kể lể về việc thiếu sót những quý ngài lịch lãm phù hợp, với tuổi tác thích hợp tại đây, trong góc nhỏ của chúng tôi ở Gloucestershire.
Tôi nhắc rằng bà đã không tìm thấy chồng mình ở London.
Bà sau đó nói gì đó bắt đầu với “Hãy làm như thế khi có thể.” rồi đổi hướng xoay đi nhanh chóng và ngoắt ngoéo đến mức tôi không thể theo kịp tới một lời bà nói.
Việc mà tôi rõ ràng chắc là mục đích của bà.
Mẹ tôi chính xác không khó chịu khi tôi nói không với mùa lễ hội; bà khá vui thích với cuộc sống của chúng tôi ở thôn quê, và Chúa biết cha tôi sẽ không sống sót ở thành phố hơn được một tuần. Mẹ nói tôi không tử tế khi nói thế, nhưng tôi tin bà ngấm ngầm bí mật đồng ý với tôi – Cha sẽ bị quẫn trí bởi một cái cây trong công viên, và chúng tôi sẽ không bao giờ tìm thấy ông lần nữa. (Ông có hơi quẫn trí, cha tôi ấy.)
Hay, và tôi phải thú nhận việc ấy sẽ giống như thế này, ông sẽ nói gì đó cực kỳ không thích hợp tại một buổi tiệc. Không giống mẹ, cha tôi không được ban cho món quà về chuyện trò lịch sự, và ông chắc chắn không thấy nhu cầu trong việc thân thiện gấp đôi hay khôn vặt quanh co trong từ ngữ. Đến tận mức mà khi ông quan tâm, ông sẽ nói những gì ông có ý nói.
Tôi yêu cha, nhưng rõ ràng ông nên được giữ xa khỏi thành phố.
Tôi có thể có một mùa lễ hội ở London, nếu tôi ao ước thế. Gia đình mẹ tôi có quan hệ vô cùng rộng. Anh trai bà là một tử tước, và các chị em bà kết hôn với một công tước, một bá tước và một nam tước. Tôi nên đến tất cả các cuộc hội họp riêng biệt. Nhưg tôi thật sự không ước điều đó. Tôi sẽ không có tự do trong bất cứ thứ gì. Tại đây, tôi có thể đi dạo, hay tự cưỡi ngựa rất lâu miễn là tôi nói cho ai đó tôi đang đi đâu. Ở London, một quý cô trẻ tuổi có thể không chạm được đến đầu ngón chân cô ta lúc bước đi về phía trước mà không có một người đi kèm.
Tôi nghĩ việc đó nghe thật khiếp đảm.
Quay ngược lại với mẹ tôi. Bà không phiền tôi đã từ chối mùa lễ hội, vì điều đó có nghĩa bà sẽ không phải xa cha tôi trong vài tháng. (Vì, như chúng tôi đã quyết tâm, ông sẽ phải bị bỏ lại nhà.) Nhưng cùng lúc đó, bà thành thật lo lắng cho tương lai tôi. Nên cuối cùng, bà đã lao vào một chiến dịch vận động lớn. Nếu tôi không thể đi đến nơi có các quý ngài thích hợp, bà sẽ mang họ đến chỗ tôi.
Đó là lý do có Charles Brougham.
Lúc hai giờ, anh ta vẫn chưa đến, và tôi phải thú nhận, tôi đang trở nên cáu kỉnh. Hôm nay là một ngày nóng bức, hay ít nhất nóng bức ở Gloucestershire, và tính khí tức tối kín đáo ở tôi, thứ đã cảm tưởng quá kiểu cách và tự mãn khi tôi xong việc, bắt đầu trở nên ngứa ngáy.
Tôi đang bắt đầu héo mòn.
Bằng cách nào đó, mẹ tôi và Bà Brougham đã quên mất đặt thời gian cho chuyến viếng thăm của cháu trai bà ấy, nên tôi đã bị ép thay phục trang và sẵn sàng chính xác vào giữa trưa.
“Mẹ sẽ nói là giờ nào là thời gian cuối của buổi chiều?” Tôi hỏi, tự quạt cho mình với một tờ báo gập lại.
“Hửmmm?” Mẹ tôi đang viết một bức thư – đoán chừng là cho một trong nhiều anh chị em bà – và không thật sự lắng nghe. Bà trông khá đáng yêu khi ngồi đó cạnh cửa sổ. Tôi không biết một người mẹ thông thường sẽ giống với một người phụ nữ già nua ra sao khi về già, nhưng Eloise đã không mất đi bất kỳ vẻ đẹp nào. Tóc bà vẫn là một màu hạt dẻ tốt tươi, và làn da không nhăn lại. Đôi mắt thật khó để miêu tả – có thay đổi trong màu sắc, thật vậy.
Bà nói với tôi bà không bao giờ được coi như một giai nhân khi còn trẻ. Không ai nghĩ bà không lôi cuốn, và thực tế bà khá nổi tiếng, nhưng chẳng bao giờ được xem là viên kim cương tốt nhất. Bà nói với tôi phụ nữ thông minh già đi muộn hơn.
Tôi thấy chuyện này thật thú vị, và tôi hy vọng nó báo trước tương lai tốt lành của chính tôi.
Nhưng hiện tại, tôi không bận tâm về bất kỳ tương lai nào ngoài mười phút tiếp nữa, sau khi tôi lo lắng mình sẽ bỏ mạng vì cái nóng. “Buổi chiều.” Tôi lặp lại. “Mẹ nói khi nào thì nó kết thúc? Bốn giờ? Năm? Xin hãy nói không phải là sáu.”
Cuối cùng bà liếc lên. “Con đang nói về cái gì vậy?”
“Bà Brougham. Chúng ta đã nói là buổi chiều, không phải sao?”
Bà đơ ra nhìn tôi.
“Con có thể ngưng đợi anh ta khi buổi chiều chuyển thành buổi tối, phải thế không?”
Mẹ tôi dừng lại trong một thoáng, cây viết lông ngỗng lơ lửng trong không trung. “Con không thể mất kiên nhẫn như thế, Amanda.”
“Con không mất kiên nhẫn.” Tôi khăng khăng. “Con nóng.”
Bà suy nghĩ đến điều đó. “Ở đây nóng thật, đúng chứ?”
Tôi gật đầu. “Bộ đồ của con làm từ len.”
Bà nhăn mặt, nhưng tôi chú ý bà không gợi ý rằng tôi thay phục trang. Bà sẽ không hy sinh một người cầu hôn tiềm năng cho bất kỳ thứ gì tầm thường như thời tiết. Tôi tiếp tục phành phành quạt cho mình.
“Mẹ không nghĩ tên cậu ấy là Brougham.”
Mẹ nói. “Con xin lỗi?”
“Mẹ tin là cậu ấy có họ hàng với Bà Brougham, không phải Ông Brougham. Mẹ không biết họ cậu ấy là gì.”
Tôi nhún vai.
Bà trở lại với lá thư. Mẹ tôi viết những lá thư nhiều đến thất thường. Về chuyện đó, tôi không thể hình dung. Tôi sẽ không gọi gia đình chúng tôi là tẻ ngắt, nhưng chúng tôi hoàn toàn bình thường. Chắc chắn các chị em gái của bà đã trở nên buồn chán với việc Georgiana nắm vững việc chia động từ trong tiếng Pháp ra sao, và em trai Frederick làm trầy da đầu gối em ấy như thế nào.
Nhưng Mẹ thích nhận những lá thư, và bà nói một người phải gửi đi những lá thư để có thể nhận lại, vậy nên bà ở bàn của mình, gần như mỗi ngày, đếm lại những chi tiết buồn chán trong cuộc sống chúng tôi có.
“Ai đó đang đến.” Bà nói, chỉ vừa khi tôi bắt đầu gà gật trên ghế sofa. Tôi đứng dậy và quay về phía cửa sổ. Đủ rõ, một xe ngựa đang lăn bánh vào.
“Con nghĩ chúng ta có ý cưỡi ngựa.” Tôi nói, có chút gắt gỏng. Có phải tôi đã nhễ nhại mồi hôi trong trang phục cưỡi ngựa mà chẳng được gì?
“Con nghĩ thế.” Mẹ tôi lầm bầm, mày chau lại khi quan sát cỗ xe tiến lại gần
. Tôi không nghĩ Anh Brougham đó – hay bất kể ai trong xe ngựa – có thể nhìn thấy trong phòng khách qua cửa sổ để mở, nhưng chỉ để đề phòng, tôi duy trì vị trí trang trọng trên ghế sofa, nhẹ nghiêng đầu để có thể theo dõi những sự kiện trước đường vào nhà.
Cỗ xe tạm dừng lại, và một anh chàng nhảy xuống, nhưng hướng lưng về phía ngôi nhà, và tôi không thể thấy gì khác hơn ngoài chiều cao (trung bình) và mái tóc (sẫm màu). Anh sau đó với lên và giúp một quý cô bước xuống.
Dulcie Brougham!
“Cô ấy làm gì ở đây?” Tôi căm phẫn nói.
Và rồi, một khi Dulcie đã yên vị cả hai chân an toàn trên mặt đất, anh chàng giúp đỡ thêm một quý cô trẻ tuổi khác, rồi một người nữa. Và rồi một người nữa.
“Anh ta mang tất cả những cô gái nhà Brougham đến?” Mẹ tôi hỏi.
“Rõ ràng thế.”
“Mẹ nghĩ họ ghét cậu ấy.”
Tô lắc đầu. “Rõ ràng không.”
Lý do cho sự có mắt của các cô chị em gái trở nên hiển nhiên vào vài phút sau, khi Gunning thông báo sự có mặt của họ.
Tôi không biết Anh Họ Charles đã từng trông như thế nào, nhưng giờ thì… à, hãy để chúng tôi nói rằng bất cứ quý cô trẻ tuổi nào cũng sẽ tìm thấy ở anh ta sự hài lòng. Mái tóc dày và hơi gợn sóng, và thậm chí ở đối diện phòng, tôi có thể thấy lông mi anh ta dài đến nực cười. Miệng anh ta là kiểu nhìn như thể luôn muốn nở nụ cười, mà theo kinh nghiệm của tôi là đôi môi tốt nhất mà một người có.
Tôi không nói rằng tôi cảm thấy bất cứ gì hơn sự hứng thú lịch sự, nhưng tất cả chị em nhà Brougham đã ngã cái oạch dính chùm vào vòng tay anh ta.
“Dulcie.” Mẹ tôi nói, bước tới trước với nụ cười chào đón. “Và cả Cordelia nữa.
Thật là một chứng cứ rõ ràng trong những kỹ năng của mẹ tôi khi là một chủ nhà, rằng bà thật sự nghe hài lòng.
“Chúng cháu không thể để Anh Họ Charles yêu quý đến một mình được.” Dulcie giải thích.
“Anh ấy không biết đường.” Antonia đế
Không thể nào là một cuộc hành trình đơn giản hơn – chỉ cần cưỡi ngựa trong làng, quẹo phải tại nhà thờ, và hãy còn tới một dặm khác cho đến khi đến đường vào nhà chúng tôi.
Nhưng tôi không nói điều này ra. Tuy nhiên, tôi nhìn qua Anh Brougham với vài sự thương cảm. Đó không thể là một cuộc hành trình thú vị.
“Charles, anh yêu quý,” Dulcie đang nói, “đây là Quý bà Crane, và Cô Amanda Crane.”
Tôi nhún gối chào, tự hỏi tôi có phải leo vào trong cái xe ngựa đó với tất cả năm người họ hay không. Tôi hy vọng là không. Nếu ở đây đã nóng đến thế, trong xe ngựa sẽ còn khó chịu hơn.
“Quý bà Crane, Amanda,” Dulcie tiếp tục, “anh họ thân thương của cháu Charles, Anh Farraday.”
Tôi hất đầu lên trước câu ấy. Mẹ tôi đã đúng – tên anh ta không phải là Brougham. Ôi trời ơi, thế có nghĩa anh ta có quan hệ với Bà Brougham? Tôi thấy Ông Brougham biết điều hơn trong hai người.
Anh Farraday cúi đầu một cách lịch sự, và trong một khoảnh khắc ngắn nhất, đôi mắt anh bắt gặp mắt tôi.
Tôi nên nói vào lúc này rằng tôi không phải mẫu người lãng mạn. Hay ít nhất tôi nghĩ mình không phải là mẫu người lãng mạn. Nếu tôi là thế, tôi sẽ đi London cho ba cái mùa lễ hội rồi. Tôi sẽ dành cả nhiều ngày trải qua việc đọc thơ và những buổi tối cho việc khiêu vũ, tán tỉnh và vui đùa.
To Sir Phillip, With Love (2)
Tôi chắc chắn không tin tình yêu vào cái nhìn đầu tiên. Ngay cả cha mẹ tôi, người với tình yêu ngập tràn như bất cứ ai tôi biết, nói rằng họ đã không yêu nhau ngay lập tức.
Nhưng khi đôi mắt tôi bắt gặp mắt Anh Farraday…
Như tôi đã nói, đó không phải tình yêu từ cái nhìn đầu tiên, vì tôi không tin vào những thứ như thế. Chẳng có bất cứ gì về cái nhìn đầu tiên, thật đó, nhưng vẫn có gì đó… một sự thừa nhận được sẻ chia… một cảm giác vui thích. Tôi không biết phải miêu tả thế nào.
Tôi cho là, nếu thúc ép, tôi sẽ nói đó như một cảm nhận được biết đến. Đó là không biết bằng cách nào, tôi đã biết anh. Dĩ nhiên nghe mới thật buồn cười.
Nhưng chẳng buồn cười như những người em họ của anh, những cô nàng đang run lên và nhắng lên và lẩy bẩy về anh. Rõ là họ đã quyết định Anh Họ Charles đã không còn là một gã thô bạo nữa, và nếu có bất kỳ ai đó cưới anh, đó sẽ là một trong số họ.
“Anh Farraday.” Tôi nói, và tôi có thể cảm giác hai khóe môi tôi khó khăn trong nỗ lực đeo lên lại một nụ cười.
Lần nữa, tôi phải nhấn mạnh tôi không phải là một người lãng mạn. Nhưng trong tôi búng nhẹ khi môi anh chạm vào làn da tôi.
“Tôi e rằng tôi mặc đồ cho một chuyến cưỡi ngựa.” Tối nói với anh, ra dấu tới bộ phục trang cưỡi ngựa của tôi.
“Đúng là thế.”
Tôi rầu rĩ liếc về phía các cô em họ anh, những cô nàng tuyệt đối nhất định là không ăn mặc như bất kỳ nỗ lực vận động nào. “Thật là một ngày tuyệt vời làm sao.” Tôi làu bàu.
“Các cô gái,” mẹ tôi nói, quả quyết nhìn vào các chị em nhà Brougham, “tại sao không tham gia với ta, trong khi Amanda và anh họ các cháu ra ngoài cưỡi ngựa. Ta hứa với mẹ cháu là bà sẽ vẫn thấy cậu trai ấy trong vùng.”
Antonia mở miệng để phản bác, nhưng cô ấy chả là cái đinh gì với Eloise Crane, và thay vào đó, thậm chí không nói được âm thanh nào trước khi mẹ tôi bồi thêm, “Oliver sẽ xuống nhanh thôi.”
Câu nói giải quyết ổn thỏa chuyện ấy. Họ đứng lên, cả bốn cô nàng, theo một hàng rạch ròi trên ghế sofa, thứ tự thấp dần, với những nụ cười bình thản y chang nhau trên gương mặt.
Tôi gần như cảm thấy tiếc cho Oliver.
“Tôi không mang theo ngựa để cưỡi.” Anh Farraday tiếc nuối nói.
“Đó không phải là vấn đề.” Tôi trả lời. “Chúng tôi có một chuồng ngựa rất tuyệt. Tôi chắc có thể tìm vài con phù hợp.”
Và chúng tôi bước đi, khỏi cánh cửa phòng khách, rồi khỏi ngôi nhà, rồi vòng quanh góc tới thảm cỏ phía sau, và rồi–
Anh Farraday dựa hẳn vào tường, phá ra cười. “Ôi, cám ơn.” Anh ấy nói, với vô vàn cảm xúc. “Cám ơn. Cám ơn em.”
Tôi không chắc tôi có nên giả vờ làm ngơ hay không. Tôi hiếm khi có thể chấp nhận tình cảm ấy mà không xúc phạm các em họ anh, việc tôi không mong muốn làm. Như đã nhắc đến, tôi không ghét các chị em gái nhà Brougham, ngay cả khi tôi có thấy họ khá nực cười vào chiều hôm đó.
“Nói với anh em có thể cưỡi ngựa.” Anh ấy nói.
“Tất nhiên.”
Anh ra hiệu về phía ngôi nhà. “Không ai trong số họ có thể.”
“Không đúng.” Tôi trả lời, thắc mắc. Tôi biết tôi đã nhìn thấy họ trên lưng ngựa ở vài thời điểm nào đó.
“Họ có thể ngồi trên yên,” anh nói, đôi mắt lóe lên với một thứ gì đó chỉ có thể là sự thách thức, “nhưng không biết cưỡi.”
“Em hiểu.” Tôi lầm bầm. Tôi ngẫm nghĩ về những ý kiến mình và nói, “Em có thể.”
Anh nhìn tôi, một bên khóe môi nhếch lên. Đôi mắt anh là một sắc thái khá đẹp của màu xanh, thứ màu xanh rêu với những vệt nâu nho nhỏ. Và lần nữa, tôi có cảm giác trở nên hòa hợp đến lạ.
Tôi hy vọng không trở nên khiếm nhã khi tôi nói có rất ít thứ tôi không làm tốt. Tôi có thể bắn với một khẩu súng (dù không với một khẩu súng trường, và không bắn giỏi như mẹ tôi, người giỏi đến quái đản). Tôi có thể tính tổng nhanh gấp hai lần Oliver, khi được đưa cho một cây bút và tờ giấy. Tôi có thể câu cá, và tôi có thể bơi, và hơn hết, tôi có thể cưỡi ngựa.
“Anh nghĩ người bạn đồng hành của anh không đủ xứng đáng?”
“Em không biết anh.” Anh chỉ ra.
“Đúng vậy.” Chúng tôi quay lên con đường dẫn tới chuồng ngựa, và tôi hạnh phúc để cảm giác rằng cơn gió nhẹ thổi qua. “Chuyện xảy ra là, em vượt trội hơn nhờ mẹ em.”
“Em nhận mình vượt trội hơn.” Anh lẩm bẩm. “Thú vị thật.”
“Anh không biết mẹ em đâu.”
“Không.” Anh ấy cam đoan với tôi. “Anh đang ấn tượng. Phần lớn mọi người sẽ không thú nhận nó.”
“Như em nói, anh không biết mẹ em.” Tôi quay sang anh và cười. “Bà là một người trong số tám anh chị em ruột. Cái hay nhất của bà trong bất kỳ vấn đề ranh ma nào là không gì ngắn hơn chiến thắng.”
Chúng tôi tới chuồng ngựa, và tôi dừng lại trước khi bước vào. “Và anh thì sao, Anh Farraday?” Tôi hỏi. “Anh bị hối lộ cái gì để đến đây vào chiều này?”
“Anh, cũng bị cản trở.” Anh nói. “Anh phải nói rằng anh đã thoát khỏi những cô em họ.”
Tôi bật ra một tiếng khịt mũi cười nhạo. Không thích hợp chút nào, vâng, nhưng không thể tránh được.
“Họ tấn công ngay khi anh sao lãng.” Anh cương quyết nói với tôi.
“Họ khá dữ dội.” Tôi lên tiếng, hoàn toàn ngây mặt ra.
“Anh bị vượt trội về số lượng.”
“Em nghĩ họ đã không thích anh.” Tôi nói.
“Anh cũng vậy.” Anh chống tay lên hông. “Đó là lý do duy nhất anh đồng ý đến thăm.”
“Anh chính xác đã làm gì với họ khi còn bé?” Tôi hỏi.
“Câu hỏi hay hơn là – họ đã làm gì với anh?”
Tôi biết tốt hơn nên khẳng định rằng anh ở thế thượng phong vì anh là con trai. Bốn cô gái có thể dễ dàng thắng đậm một thằng con trai. Tôi đã vùng lên chống lại Oilver không biết bao nhiêu lần khi còn nhỏ, và dù anh ấy chưa bao giờ thừa nhận, tôi thường giỏi hơn anh.
“Những con ếch?” Tôi hỏi, nghĩ về những trò chơi khăm của chính mình.
“Đó là trò của anh.” Anh ngượng ngùng thú nhận.
“Cá chết?”
Anh không nói, nhưng biểu cảm rõ ràng là một loại tội lỗi.
“Với ai?” Tôi hỏi, cố tưởng tượng nỗi kinh hãi của Dulcie.
“Tất cả họ.”
Tôi bị rút hết hơi. “Cùng một lúc?”
Anh gật đầu.
Tôi bị ấn tượng rồi đây. Tôi cho là hầu hết quý cô sẽ không thấy những thứ thế này hấp dẫn, nhưng tôi luôn có một sự hài hước khác thường. “Anh có bao giờ tạo ra một con ma bột mì chưa?” Tôi hỏi.
Anh nhướng mày, và thực sự chồm người tới trước. “Nói cho anh nữa nào.”
Và vậy nên tôi kể cho anh về mẹ tôi, và việc Oliver và tôi đã thử dọa bà trước khi bà cưới cha tôi ra sao. Chúng tôi hoàn toàn trở thành những kẻ đáng ghét. Thật đấy. Không phải chỉ là những đứa trẻ tinh nghịch, mà còn là vô cùng và cực kỳ hư hỏng trên một mặt nào đó. Thật là kỳ diệu khi cha đã không gửi chúng tôi đến trại tế bần. Ký ức đáng nhớ nhất trong những trò phá bĩnh của chúng tôi là khi lừa đặt một cái xô bột mì trên cửa phòng bà, để nó sẽ làm bà vấy bẩn khi đi ra vào đại sảnh.
Ngoại trừ việc chúng tôi đặt cái xô khá cao, nên việc đó như là phủ đầy người hơn là vấy bẩn, và thực sự là một trận hồng thủy hơn bất cứ gì khác.
Chúng tôi cũng đã không tính đến việc cái xô đánh vào đầu bà.
Khi tôi nói rằng việc người mẹ hiện tại bước vào cuộc đời và cứu tất cả chúng tôi, tôi có ý như vậy đến từng chữ. Oliver và tôi đã quá liều lĩnh để có sự chú ý, và cha chúng tôi, cũng hay ho như bây giờ vậy, không hề biết làm sao để kiểm soát bọn tôi.
Tôi nói tất cả chuyện này với Anh Farraday. Đó là thứ lạ lùng nhất. Tôi không biết tại sao tôi lại nói lâu và nhiều đến thế. Tôi nghĩ hẳn phải vì anh là một người biết lắng nghe, ngoại trừ việc anh sau đó nói với tôi anh rằng sự thật anh là một kẻ lắng nghe khiến người khác chán ngấy, và thường xuyên ngắt ngang.
Nhưng anh không làm thế với tôi. Anh lắng nghe, và tôi nói, rồi tôi lắng nghe, và anh nói, và anh kể với tôi về người em trai Ian của anh, với vẻ ngoài tựa thiên thần và những cử chỉ phong nhã. Mọi người xun xoe nịnh hót cậu ấy đến nhường nào, dù cho Charles là anh trai. Dù vậy, Charles không bao giờ có thể ghét em trai anh ấy, vì như tất cả nói và nói, Ian là một người thân khá tốt.
“Anh có còn muốn đi cưỡi ngựa nữa không?” Tôi hỏi, khi chú ý rằng mặt trời đã bắt đầu lặn xuống dưới bầu trời. Tôi không thể tưởng tượng được chúng tôi đã đứng đây lâu đến thế, chuyện trò và lắng nghe, lắng nghe và trò chuyện.
Với sự ngạc nhiên to lớn của tôi, Charles nói không, thay vào đó bước đi.
Và chúng tôi cùng đi.
Tối hôm đó vẫn còn là một ngày ấm áp, và sau khi buổi tối đã xong, tôi tự đi ra ngoài. Mặt trời đã lặn dưới đường chân trời, nhưng vẫn chưa hoàn toàn tối. Tôi ngồi trên những bậc thềm của hiên sau, hướng về phía Tây, nên tôi có thể thấy những dấu hiệu mờ nhạt của ánh sáng ban ngày chuyển từ màu oải hương sang màu tím và rồi là sẫm lại.
Tôi yêu thời khắc này của đêm.
Tôi đứng đấy có đến một lúc lâu, đủ lâu để các ngôi sao bắt đầu xuất hiện, đủ lâu để tôi phải tự ôm lấy mình bằng cả hai tay để xua đi cái rét. Tôi đã không mang theo khăn choàng. Tôi cho là tôi đã không nghĩ đứng ngoài lâu đến thế. Tôi chỉ vừa chuyển hướng vào lại bên trong khi nghe ai đó đang đến.
Đó là cha tôi, trên đường trở về từ nhà kính. Ông đang cầm một chiếc đèn lồng, và hai tay dơ bẩn. Có thứ gì đó ở dáng hình ông khiến tôi thấy mình như một đứa trẻ lần nữa. Ông là một người đàn ông to lớn, và cả trước khi ông cưới Eloise, trước cả khi ông dường như không biết phải nói những gì với các con mình, ông luôn khiến tôi cảm giác an toàn. Ông là cha tôi, và sẽ bảo vệ tôi. Ông không cần nói điều đó ra, tôi chỉ đơn giản biết.
“Con ra ngoài muộn.” Ông nói, đứng cạnh bên tôi. Đặt chiếc đền lồng xuống và ông chà hai tay vào chiếc quần làm việc, phủi những lớp bụi bẩn đi.
“Chỉ suy nghĩ thôi ạ.” Tôi trả lời.
Ông gật đầu, rồi chống khủy tay lên đùi và nhìn ra về phía bầu trời. “Có ngôi sao băng nào tối nay chăng?”
Tôi lắc đầu dù ông không đối diện tôi. “Dạ không.”
“Có phải con cần một ngôi sao băng?”
Tôi tự mỉm cười với chính mình. Ông đang hỏi cứ như tôi có vài điều để ước ấy. Chúng tôi đã từng cùng ước nguyện với những ngôi sao trong suốt thời gian tôi còn nhỏ, nhưng bằng cách nào đó, đã đánh mất thói quen ấy.
“Không ạ.” Tôi nói. Tôi cảm giác mình đang độc thoại nội tâm, nghĩ về Charles và tự hỏi có nghĩa gì khi tôi trải qua cả buổi chiều với anh, và giờ không thể đợi để thấy anh lần nữa vào sáng mai. Nhưng tôi không cảm giác như cần ban cho bất cứ điều ước nào. Ít nhất, vẫn chưa.
“Cha luôn có những điều ước.” Ông nhận xét.
“Cha có ư?” Tôi quay sang ông, đầu nhẹ nghiêng về một bên khi nhìn dáng hình ông. Tôi biết ông cực kỳ không hạnh phúc trước khi gặp người mẹ hiện tại của tôi, nhưng sau đó mọi chuyện đều ổn. Nếu từng có một người đàn ông với cuộc sống hạnh phúc và mãn nguyện, thì đó là ông.
“Cha ước gì thế?” Tôi hỏi.
“Sức mạnh và sự hạnh phúc của các con, đầu tiên và trước hết.”
“Cái đó không tính.” Tôi nói, cảm thấy mình mỉm cười.
“Ồ, con không nghĩ vậy sao?” Ông nhìn tôi, và trong đôi mắt còn hơn cả một gợi ý về sự thích thú. “Cha đảm bảo với con, đó là điều đầu tiên cha nghĩ đến vào buổi sáng, và là điều cuối cùng cha nghĩ về trước khi đặt lưng xuống ngủ.”
“Thật vậy ạ?”
“Cha có năm đứa con, Amanda, và từng đứa một đều khỏe khoắn và mạnh mẽ. Và theo tất cả những gì cha biết, các con đều hạnh phúc. Hầu như chắc là một may mắn không lời khi các con đều lớn lên mạnh khỏe, nhưng cha sẽ không liều lĩnh với bất kỳ số mệnh nào bằng cách ước thứ gì khác.”
Tôi nghĩ về điều cha nói trong một thoáng. Trong tôi chưa bao giờ dâng lên cảm giác sẽ ước điều gì đó tôi đã có. “Có sợ hãi không khi trở thành một bậc cha mẹ?” Tôi hỏi.
“Thứ đáng hãi hùng nhất thế giới.”
Tôi không biết tôi nghĩ ông có thể nói gì, nhưng nó không phải thế. Nhưng rồi tôi nhận ra – ông đang nói với tôi như với một người trưởng thành. Tôi không biết ông có bao giờ làm thế trước kia không. Ông vẫn là cha tôi, và tôi vẫn là con gái ông, nhưng tôi đã bước qua vài ngưỡng cửa khó hiểu.
Nó xúc động và buồn bà cùng một lúc.
Chúng tôi đứng cạnh bên nhau trong vài phút, chỉ trỏ các chùm sao và không nói bất cứ gì quan trọng. Và rồi, chỉ vừa khi tôi hướng vào trong, ông nói, “Mẹ con nói rằng con có một anh chàng đến thăm vào chiều nay.”
“Và cùng với bốn cô em họ của anh ấy.” Tôi chua cay.
Ông nhìn qua tôi với hai hàng lông mày cong lên, một sự quở trách im lặng vì đang xem thường chủ đề ấy.
“Vâng.” Tôi nói. “Con có một người đến thăm.”
“Con có thích cậu ta không?”
“Có.” Tôi thấy chính mình có hơi bừng sáng, cứ như trong tôi sủi bọt lên. “Con thích anh ấy.”
Ông tiêu hóa câu đó, rồi nói. “Cha sẽ phải kiếm một cái gậy rất lớn.”
“Sao ạ?”
“Cha đã từng nói với mẹ con, rằng khi con đủ tuổi để bị tán tỉnh, cha sẽ phải nện anh chàng đó đi.”
Có thứ gì gần như thật ngọt ngào. “Thật thế sao?”
“À, không phải khi con còn rất nhỏ. Khi đó con là một cơn ác mộng mà cha tuyệt vọng cho bất kỳ ai muốn con.”
“Cha!”
Ông cười thầm. “Đừng nói con không biết đó là sự thật.”
Tôi không thể cãi lại.
“Nhưng khi con lớn hơn một chút, cha bắt đầu thấy những gợi ý đầu tiên của việc con sẽ trở thành một thiếu nữ như thế nào…” Ông thở dài. “Chúa ơi, nếu có bao giờ việc trở thành cha mẹ lại kinh hãi đến thế…”
“Và giờ đây?”
Ông suy nghĩ trong thoáng chốc. “Cha cho là giờ đây cha có thể hy vọng mình nuôi dạy con đủ tốt để con đưa ra những quyết định nhạy bén.” Ông dừng lại. “Và, dĩ nhiên, nếu ai đó thậm chí nghĩ tới việc ngược đãi con, cha vẫn sẽ có cây gậy đó.”
Tôi cười, sau đó nhẹ lỉnh về trước, để có thể ngả đầu trên vai ông. “Con yêu cha, Cha à.”
“Cha cũng yêu con, Amanda.” Ông quay lại và hôn lên đỉnh đầu tôi. “Cha cũng yêu con.”
Nhân tiện, tôi đã cưới Charles, và cha tôi chưa một lần nào phải khua cây gậy lên. Đám cưới diễn ra vào sáu tháng sau, sau một thời gian tìm hiểu thích hợp và lời hứa hôn có hơi không đúng đắn. Nhưng tôi chắc chắn sẽ không đặt bút viết về những sự kiện khiến cho lời hứa hôn thành ra không thỏa đáng.
Mẹ tôi khăng khăng cố chấp trong cuộc nói chuyện trước hôn nhân, nhưng đây là hướng dẫn cho đêm trước lễ cưới, thời gian để cung cấp thông tin không còn chính xác, nhưng tôi không giả vờ. Tuy nhiên, tôi đã ấn tượng rằng bà và cha tôi có thể cũng thấy trước được những lời thề hôn nhân. Tôi bị sốc. Sốc. Đó dường như không giống họ. Giờ đây tôi đã có kinh nghiệm về khía cạnh tự nhiên của tình yêu, chỉ là ý nghĩ về cha mẹ…
Thật quá mức chịu đựng.
Ngôi nhà của gia đình Charles ở Dorset, khá gần biển, nhưng vì cha anh sẽ còn sống rất lâu, chúng tôi rời nhà đến Somerse, ở giữa gia đình anh và gia đình tôi. Anh cũng không thích thành phố nhiều như tôi. Anh cũng không thích thành phố nhiều như tôi. Anh đang nghĩ đến việc bắt đầu một chương trình gây giống ngựa, và đó là thứ lạ lùng nhất, nhưng hiển nhiên gây giống cây trồng và gây giống thú vật không hoàn toàn khác nhau. Anh và cha tôi đã trở thành những người bạn vĩ đại, điều thật dễ thương, ngoại trừ giờ đây cha tôi đến thăm khá thường xuyên.
Nhà mới của chúng tôi không lớn, và tất cả các phòng ngủ khá gần nhau. Charles bày mưu cho một trò chơi mới mà anh gọi là, “Hãy xem Amanda có thể yên lặng đến mức nào.”
Rồi anh tiến hành tất cả phương pháp của những thứ xấu xa với tôi – tất cả trong khi cha tôi ngủ ngay đại sảnh!
Anh thật là xảo quyệt, nhưng tôi tôn thờ anh. Tôi không thể ngăn được điều đó. Đặc biệt là khi anh…
Thôi nào, khoan đã, tôi đâu cần phải đặt bút viết về những thứ này, phải không?
Chỉ cần biết rằng tôi đang cười tươi khi nhớ về nó.
Và rằng nó không nằm trong cuộc tán gẫu trước hôn nhân của mẹ tôi.
Tôi cho là tôi nên thú nhận đêm đó tôi đã thua trò chơi ấy. Sau cùng tôi đã không yên lặng.
Cha tôi không nói một lời nào. Nhưng ông rời đi khá bất ngờ vào chiều đó, viện dẫn vài trường hợp khẩn cấp về cỏ cây.
Tôi không biết cây cối cũng có những tình trạng khẩn cấp, nhưng ngay khi ông đi, Charles xem xét kỹ những bông hồng của chúng tôi vì bất cứ gì cha tôi nói đối với anh đều sai.
Ngoại trừ vì vài lý do anh muốn kiểm tra những khóm hồng là do chúng đã được cắt và cắm vào trong một cái lọ ở phòng ngủ chúng tôi.
“Chúng ta sẽ chơi một trò chơi mới.” Anh thì thầm vào tai tôi. “Hãy xem Amanda có thể ồn ào đến mức nào.”
“Làm sao để em thắng?” Tôi hỏi. “Và phần thưởng là gì?”
Tôi có thể khá cạnh trạnh, và anh cũng thế, nhưng tôi nghĩ là an toàn khi nói lần đó cả hai chúng tôi đều thắng.
Và phần thưởng vô cùng đáng yêu, thật mà.