Bạn đang đọc Thập Vạn Đại Sơn Vương – Chương 4: Thượng Khách Của Vua H Mông
Tướng Thập Vạn Đại Sơn mở mắt ra, lúc ánh nắng chan hòa trong căn nhà sàn mênh mông. Nhìn bên cạnh không thấy Voòng thuộc hạ, người tướng lạc thảo trẻ tuổi đưa mắt ngó qua bức màn thổ cẩm và chống tay ngồi dậy. Nhà sàn vắng vẻ không một bóng người. Chàng vén màn, bước xuống sàn nứa:
– A Voòng! A Voòng!
Có tiếng chân bước nhanh lên thang gác và Voòng Lầu ló dạng:
– Thầy đã thức.
Hồng Lĩnh hỏi:
– Sao nhà vắng thế? Chủ nhân đâu?
– Dạ, ông ta đi sắm ngựa. Tôi đã nhờ ông lúc sớm như lời thầy dặn.
Hồng Lĩnh hơi gật đầu, đoạn đưa mắt nhìn ánh nắng ngoài khung cửa:
– Mấy giờ rồi nhỉ?
Voòng Lầu nhìn ra bóng nắng:
– Có lẽ đã tới mười giờ.
Vừa nói, Voòng vừa lấy trong túi ngực ra chiếc đồng hồ quả quít cũ liếc mắt qua, tiếp luôn:
– Đúng mười giờ kém ba phút thôi!
Hồng Lĩnh đưa cao mày.
– Thế ra ta đã ngủ một giấc dài quá nhỉ? Bao giờ có ngựa?
– Cũng ngay bây giờ thôi, thầy? Tôi đã dặn kỹ lắm.
Miệng nói, chân bước đến bên giường, Voòng nhanh nhẹn lục sắc, lấy khăn mặt, xà phòng, bàn chải đánh răng mang ra đặt bên thau nước đã múc sẵn. Hồng Lĩnh rửa mặt, thay y phục, lát sau đã gọn ghẽ trong bộ quần áo Chàm sẫm, đầu chít khăn chữ “nhân” trông hệt một chàng trai quý tộc Thổ.
– À này Voòng! Từ nay nên buộc súng đạn dưới yên ngựa. Chỉ giữ trong mình mỗi người một khẩu. Ta sẻ xuôi qua nhiều phố phường để về được Hà Nội.
Voòng mở to mắt, có vẻ ngạc nhiên khẽ hỏi:
– Bẩm thế còn…
Như đã thấu cả ý nghĩ Voòng, Đại Sơn Vương nói:
– Được! Việc Trần Tắc ta đã tính cả rồi. Voòng hãy đi lo ngựa, chúng ta còn lên đường.
– Dạ, ngay bây giờ?
Đại Sơn Vương khẽ gật đâu, nhìn ra xa, mặt trở nên bâng khuâng, lẩm bẩm một câu gần như vô nghĩa. Voòng Lầu đã bước đi, nghe chủ lẩm bẩm nhắc đến dã nhân có vẻ bí ẩn lạ lùng. Voòng đứng lại, ngoảnh nhìn chủ, nét ngạc nhiên hiện rõ trên khuôn mặt người đàn ông đứng tuổi. Voòng định hỏi chủ nhưng có lẽ đã quen thuộc với những việc bất thường khác lạ của Đại Sơn Vương nên lại lẳng lặng quay đi.
Voòng vừa xuống cầu thang sàn, đã thấy chủ nhà cùng hai gã gia nhân từ ngoài cưỡi ngựa về. Thấy Voòng, chủ – người chức địch tối qua – xuống yên, chỉ vào hai con ngựa gia nhân cưỡi về, nói luôn:
– Cái quan đã dậy chưa? Để mời cái quan ra xem ngựa!
Voòng tiến đến bên cặp ngựa, vỗ mạnh lên mông và vừa vuốt bờm vừa ngắm nghía, đoạn quay bảo người chức dịch Thổ:
– Ngựa khá đó! Nước Hai hả?
Chủ nhà nhìn khách có vẻ hơi ngạc nhiên:
– Dạ dạ, cặp ngựa nước hai đó! Sao cái thầy tinh mắt thế?
Voòng hơi nhếch cười khô khan, lạnh lùng:
– Cao Bằng có tiếng ngựa nước hai mà!
Đoạn Voòng chỉ tay về phía gốc cây rợp nắng, bảo hai gã gia nhân kia:
– Buộc tạm vào đó!
Và như đã thông thạo nhân tâm. Voòng liền móc túi lấy bạc xòe đưa biếu thêm tớ thầy người chức dịch xong lên nhà. Chỉ mấy phút sau, hai thầy trò Đại Sơn Vương đã từ giã bản Thổ, bằng ngựa nước hai trên đường mòn đi về thị trấn Cao Bằng.
Quá trưa, vó câu đã đặt trên đường thị trấn. Gặp đúng ngày phiên chợ tỉnh, nên thổ dân khắp các bản gần xa đổ về mua bán rất đông, ngựa thồ đi từng đoàn tấp nập. Hai thầy trò tướng Thập Vạn Đại Sơn đi giữa đám thổ dân, ngồi trên yên chỉ trỏ chuyện trò, trông đúng là một cặp tớ thầy của chàng trai Thổ giòng quí tộc.
Nhưng hình như vẻ mặt quắc thước đẹp ngang tàng của Đại Sơn Vương Hồng Lĩnh đi tới đâu cũng nổi bật hẳn lên giữa những bộ mặt thổ dân chất phác, nên thường bị kẻ qua người lại lưu ý ngắm nhìn.
Nhất là các cô sơn nữ. Nhiều nàng ngồi trên lưng ngựa thồ liếc mắt ngây nhìn :chàng trai Thổ” chít khăn chữ nhân duyên dáng nghiêm trang, đến nỗi quên cả tay cương. Không những các cô sơn nữ, Cả tới cáC cô người Kinh buôn bán dọc phố cũng vậy. Ngựa thầy trò Hồng Lĩnh cao lớn,vạm vỡ khiến các cô nàng phải chú ý ngay, không thể ngờ lại có chàng thổ dân đẹp trai xuất sắc đến thế.
Cử chỉ của các cô khiến Voòng bực bội lắm. Trước Voòng còn làm lơ cứ nghiêm mặt nhìn thẳng, sau thấy lắm cô ngó sát sạt chủ mình, Voòng nhiều lần phải lừ lừ mắt nhìn thẳng vào các cô cho đỡ bực.
Thấy cặp mắt diều hâu của Voòng, các cô cũng chẳng coi ra gì cứ tiếp tục ngó như thường khiến Voòng đành phải quay mặt đi. Nhân lúc ngựa đi kề, Voòng liền bảo Hồng Lĩnh:
– Thầy à! Phố phường hôm nay đông lắm, nhưng thầy trò ta vẫn bị chú ý nhiều, phiền nhất là các ả…
Hồng Lĩnh mỉm cười:
– Các nàng hả? Ờ! Mặc họ chứ? Ở tỉnh nhỏ, họ chú ý tới khách lạ là thường mà…
Voòng đưa mắt nhìn quanh, và chợt bảo Hồng Lĩnh:
– Thầy đã thấy đói chưa, kia có quán ăn coi sạch sẽ lắm.
– Ờ! Trông được đó? Voòng đói chưa? – Chàng cười – Uống rượu chớ?
Voòng lắc đầu:
– Dạ đâu dám…
Đại Sơn Vương gật đầu:
– Ta cùng uống cho vui mà! Voòng nhịn đã lâu rồi?
Miệng nói, tay rẽ phắt cương, Hồng Lĩnh đưa Voòng thẳng tới trước một quán rượu ngay kế chợ. Buộc ngựa vào gốc cây gian đó, hai thầy trò Đại Sơn Vương vào thẳng quán. Ngước mắt ngó qua quán, Hồng Lĩnh bảo Voòng Lầu:
– Đây có lẽ khá? Quán Khách trú, a Voòng! Chắc phải có rượu ngon.
Hai thầy trò ung dung bước vào, dừng lại bên cửa, đưa mắtnhìn qua bên trong, kiếm chỗ ngồi. Quán rượu đông người, thực khách ngồi chật phòng, ăn uống truyện trò ồn ào. Hai thầy trò còn đang tìm chỗ, đã thấy một chú tửu bảo chạy ra, lễ phép:
– Mời hai ông vàọ.. Đây còn bàn tốt.
Nhìn theo ngón tay trỏ của tửu bảo, hai thầy trò Hồng Lĩnh thấy tại góc phòng bên mặt, còn hai bàn trống, khuất sau mấy dãy bàn thực khách. Hồng Lĩnh tần ngần đưa mắt ngó về phía thang lầu khẽ hất làm hỏi tửu quán:
– Trên gác sao?
Tửu bảo cười, ấp úng:
– Dạ dạ…. còn rộng nhưng…
Tửu bảo không muốn để “khách rừng” lên thượng lầu, Voòng hơi trừng mắt:
– Sao? Còn chỗ mà chúng ta không được lên sao.
Tửu bảo ngó cặp mắt diều hâu của Voòng, có vẻ sợ hãi:
– Dạ…. Vì hiện có khách dữ lắm! Nhà hàng không dám để khách nào lên…
Hai thầy trò Đại Sơn Vương đưa mắt nhìn nhau. Hồng Lĩnh khẽ hất đầu, đoạn hai thầy trò ung dung tiến thẳng về phía cầu thang, lên gác. Gã tửu bảo muốn chạy theo gọi lại, nhưng có lẽ thấy dáng diệu điềm nhiên của hai “khách rừng”, nhất là thân hình to lớn của Voòng Lầu, nên lại thôi ngay, chạy vội đi tìm chủ quán.
Hai thầy trò Đại Sơn Vương lên tới gác trên và không cần nhìn trước, cứ bước thẳng vào phòng. Phòng tuy rộng, nhưng chỉ chừng mười lăm thực khách đang ăn uống quanh hai cái bàn tròn. Hai thầy trò nhìn thoáng qua, thấy lố nhố vừa quần áo Tây, Ta, lẫn lộn, song không lưu ý mấy, cứ khoan thai tiến thẳng về góc phòng một bàn trống kế bên cửa sổ. Thấy có tiếng chân người bước vào, mấy người đàn ông đang ăn vội ngẩng nhìn lên và khẽ bảo đồng bọn. Lúc thầy trò Hồng Lĩnh kéo ghế ngồi thì cả hai bàn thực khách đều đưa mắt nhìn hai người có vẻ bực tức vì có người lạ lên ngồi lẫn cùng phòng.
Lúc thực khách nhìn, hai thầy trò Đại Sơn Vương còn đang lúi húi kéo ghế, và hình như cũng muốn nhìn qua để biết mặt đám “khách dữ” thế nào mà nhà hàng sợ không muốn để ai lên, nên hai thầy trò có ý ngồi nghiêng đối diện nhau và cùng đưa mắt về phía bọn khách dữ, đúng lúc bọn khách dữ ngừng đũa, trừng nhìn hai người, hình như cả hai phía đều như bị điện giật. Đám khách dữ vừa ngó hai thầy trò Hồng Lĩnh, đã thấy mấy người mặc quần áo xạ phang đưa mắt cho nhau rất nhanh, qua mấy khắc sửng sốt, cả bọn lại quay xuống ăn uống tự nhiên như không có chuyện chi lạ. Và Voòng Lầu giọng nhanh, thấp, bảo Hồng Lĩnh:
– Thầy à! Bọn Thoòng Mềnh!
Đại Sơn Vương thản nhiên:
– Ta đã thấy! Thoòng Mềnh cùng bộ hạ ngồi với mấy người chắc viên chức chi ở hạt này! Thoòng ngồi quay mặt về phía này.
Tửu bảo đã chạy lên, có dáng hốt hoảng, nhưng thấy hai đám vẫn ngồi nguyên bình thản, hắn ta mừng ra mặt, tiến thẳng tới chỗ đám khách dữ, kính cẩn:
– Bẩm… Quí ngài có cần chi nữa để…
Nhưng hắn vội lấm lét chớp mắt luôn mấy cái, vì một người râu xồm, dữ tợn nhất bọn đã lừ mắt một cái, lẩm bẩm trong miệng, chỉ có đồng bọn cùng tửu bảo là nghe rõ, vì giọng lơ lớ khó nghe:
– Cần cái đầu của mi!
Gã tửu bảo thấy rợn gáy cuống lên, đành tiến đến trước hai ông khách rừng:
– Bẩm quí khách dùng chi xin…
Đang nói hắn ngưng ngay, hoảng lên vì Voòng Lầu đã quắc mắt diều hâu nhìn tửu bảo, giọng trầm như không ra khỏi họng:
– Chỉ sợ bọn kia thôi hả?
Và như muốn trút hết cái bực tức, đồng thời cũng muốn lên tiếng trước, Voòng Lầu đấm mạnh tay xuống mặt bàn:
– Đem rượu và thịt nướng lên mau! Chúng tao đói rồi!
Tiếng Voòng quát giọng Quan Hỏa nghe vang âm như tiếng chuông, khiến không gian như đảo lộn lên, tửu bảo giật nẩy mình, vừa định thần ngó, chỉ thấy bàn tay ông khách rừng thu về, để lại trên mặt bàn, một lỗ hổng như cái bát! Lạ nữa là cái bàn ăn chỉ khẽ động đậy khiến gã tửu bảo phải xanh mặt vì sức nội công ghê gớm của ông khách rừng. Hắn nhớn nhác nhìn hai người và chạy biến xuống dưới nhà, thoáng cái đã đem rượu thịt lên.
Từ nãy giờ, chàng tướng trẻ miền Thập Vạn Đại Sơn chỉ ngồi mỉm cười, thản nhiên như không lưu ý tới quanh mình, nhưng người tướng lạc thảo giang hồ đã quan sát địa hình địa vật kỹ càng. Chỗ ngồi rất thuận, trông qua song sắt, thấy cả cặp ngựa buộc dưới cây bên kia đường. Chỉ ba thước là tới cửa, thông ra hàng hiên thượng lầu, cách mặt đất chỉ bốn năm thước Tây. Nên khi rượu thịt lên, chàng ung dung ăn uống cùng Voòng Lầu, thỉnh thoảng đưa mắt về phía bọn Thoòng vẫn thì thầm lo nhỏ với mấy người kia, lát sau thấy một tên cao lớn trong bọn Thoòng đứng lên, cùng một người mặc âu phục. Cả hai điềm nhiên xuống lầu, Đại Sơn Vương đưa mắt cho Voòng:
– Nội bất xuất, ngoại bất nhập! Để ta ăn xong đã!
Vừa dứt lời, Voòng Lầu buông phắt đũa, đứng lên, như đã quá hiểu ngầm ý chủ. Người đàn ông giang hồ đưa mắt một vòng qua dãy bàn ăn Thoòng Mềnh và bước theo hai người xuống trước, nhanh và êm như lướt sàn. Thấy Voòng Lầu xuống theo, cả bọn cũng đưa mắt nhìn Thoòng Mềnh cùng người đàn ông mặc âu phục. Pạc Hoọc Đại Vương vẫn ngồi khoanh tay trên bàn, lừ mắt nhìn theo Vòng và chậm chạp quay nhìn sang bàn Hồng Lĩnh, cặp mắt cú vọ không hề chớp, khuôn mặt của viên tướng thổ phỉ rắn lại, sau mấy giây suy nghĩ.
Thấy Thoòng tướng ngồi im, cả bọn cũng ngồi không nhúc nhích, đợi chờ, và có vẻ tin tưởng lắm. Nhất là Thoòng, vị tướng thổ phỉ đã hiểu hơn ai hết về tài lực của hai viên cận tướng vừa xuống thang.
Một Voòng dầu thiện nghệ cũng không sánh được cặp thủ hạ dũng mãnh đó, dầu Thoòng đã thấy tài sức Voòng đã giải cứu thiếu nữ Phượng Kiều. Hơi đưa mắt thấy bọn Thoòng Mềnh bất động ngồi im, Hồng Lĩnh thản nhiên cầm ly rượu đầy đưa lên miệng, nhấm nháp từng ngụm nhỏ, phong thái vẫn ung dung như một khách bàng quang vô sự. Chàng tuổi trẻ ngồi nghiêng sườn về phía Thoòng, thỉnh thoảng hơi liếc mắt bâng khuâng nhìn xuống đường như ngắm cảnh phố rừng tấp nập.
Tuy ngồi im, nhưng bọn Thoòng Mềnh vẫn không ngừng quan sát Hồng Lĩnh, thỉnh thoảng lại rì rầm bàn nhỏ với nhau, hình như muốn tìm hiểu xem chàng trai Thổ trẻ tuổi có dáng thư sinh đó là ai? Riêng Thoảng Mình có vẻ thắc mắc nhiều, hình như đang tưởng nhớ đến ông già bí mật có dị tài đã cùng Voòng Lầu phục đánh hàng trăm quân hắn đêm nào. Hắn chỉ nhận rõ được Voòng và vẫn còn ngờ ngợ về Hồng Lĩnh. Thấy chàng ngồi ung dung uống rượu, Thoòng tướng có vẻ bực bội, nhưng dè dặt, cố nén. Sự im lặng của hai bên, khiến căn phòng trở nên ngột ngạt, căng thẳng. Năm phút đợi chờ kéo dàị..
nặng trịch… Thình lình, từ ngoài đường vọng lên những tiếng dân gian kêu la hỗn độn, lẫn tiếng chân người chạy ngược xuôi nhốn nháo.
Thập Vạn Đại Sơn Vương hơi nhếch miệng cười và điềm nhiên nâng ly rượu lên môi. Đám thủ hạ Thoòng Mềnh dáo dác nhìn xuống đường, có một hai tên nhổm mông toan đứng dậy, nhưng Pạc Hoọc Đại Vương đã mím chặt vành môi hở mắt nhìn thủ hạ và cả bọn lại theo chủ tướng ngồi im, cũng đảo mắt về phía Hồng Lĩnh. Chàng trai trẻ vẫn ngồi nhắp từng ngụm rượu một, dáng ung dung như không biết có chuyện xảy ra dưới đường. Ở nhà dưới, có tiếng khách khứa nổi lên, ồn ào, tiếng chủ quán vọng lên, nghe rõ mồm một:
– Piết trước mà! Khổ tui! Khổ tui!
Giọng người khách trí hoảng than lên tiếng Việt lơ lớ khiến Hồng Lĩnh bất giác nhếch miệng cười. Riêng Pạc Hoọc Đại Vương, chẳng hiểu sao, cũng chợt mỉm cười, tay giơ vuốt chòm râu quai nón. Tiếng ồn ào chuyển mau về phía cầu thang, rồi có nhiều tiếng chân bước thình thịch lên cầu thang. Và Voòng Lầu hiện ra chậm chạp, sừng sững ngay ngoài khung cửa thượng phòng, mỗi tay nắm một ngực áo hai đầu mục lực lưỡng của Thoòng Mềnh, lôi sềnh sệch, theo sau lố nhố nhiều người. Voòng quẳng mạnh hai thân hình to lớn nằm sóng xoài bên bàn bọn Thoòng Mềnh, giọng thản nhiên:
– Không biết bảo chúng nó à! Xuống định trộm ngựa, lại còn định giết người. Hà ! Mỗi thằng một dao một súng này!
Dứt lời, Vương rút ném xuống sàn, cặp dao, súng lăn xoảng vào ngay chân Thoòng Mềnh. Cả bọn biến sắc mặt, chưa biết tính sao thì Pạc Hoọc Đại Vương đã đứng vụt lên đá tung cả dao súng về một góc phòng, thuận chân xúc luôn một gã đầu mụt. nam dưới sàn, hất bổng thẳng về phía Voòng Lầu, và thình lình, rút phắt súng ra, vẩy theo.
Đoàng… Đoàng…
Liền hai tiếng nổ dội lên, Voòng Lầu vừa kịp vật mình xoài bên khung cửa, mọi người chỉ kịp chớp mắt một cái nhìn ra đã thấy khẩu súng trên tay Thoòng Mềnh rơi bắn xuống sàn, tay Pạc Hoặc Đại Vương còn xòe ra chưa kịp thu vào, và chàng tuổi trẻ Hồng Lĩnh đang quay khẩu súng trên ngón tay vẫn ngồi trên gác, mỉm cười, giọng trầm trầm, chậm rãi:
– Sức chúng địch sao nổi sức Voòng Lầu Đa Sát Hải Sơn Vương Bắc Hải.
Không hiểu sao, lời Hồng Lĩnh vừa buông ra, cả bọn Thoòng đều nhìn dồn cả về phía Voòng Lầu, và Pạc Hoọc Đại Vương Thoòng từ từ tiến tới trước Voòng, hàm răng viên tướng thổ phỉ cắn chặt vào nhau quai hàm bạnh ra, khiến bộ râu quai nón khẽ rung rung theo hơi gió quạt trần.
Voòng đã đứng dậy, thấy Thoòng Mềnh tiến đến, người đàn ông giang hồ vẫn đứng im như pho tượng, chỉ cặp mắt diều hâu trừng nhìn Thoòng, như chờ đợi một hành động rửa hận của viên tướng thổ phỉ dữ tợn. Mọi người cũng nín thở ngó theo. Nhưng bất ngờ, Thoòng Mềnh đã giơ bàn tay hộ pháp vỗ mạnh lên vai Voòng Lầu một cái, và nhìn Voòng không chớp, giọng Thoòng đượm ngạc nhiên:
– Đa Sát Hải Sơn Vương miền Nam Hải Quảng Tây dó ư? Chính Voòng?
Voòng hơi nhếch miệng:
– Vậy Thoòng muốn chi?
Pạc Hoọc Đại Vương gật gù:
– Thảo nào tài sức khác người, đấm thủng gỗ mà không sụp bàn?
Nhưng còn…
Viên tướng thổ phỉ ngừng lại chút, hơi đưa mắt về phía chàng tuổi trẻ Hồng Lĩnh như muốn hỏi.
Voòng hơi nheo mắt, đoạn lạnh lùng:
– Thầy ta đó!
Trong lúc Pạc Hoọc Đại Vương đưa cao lông mày đầy vẻ ngạc nhiên, Đa Sát Hải Sơn Vương, Thoòng điềm nhiên:
– Thần Xạ Đại Sơn Vương! Thoòng chưa nhận ra hùm thiêng.
Thập Vạn Đại Sơn, thầy ta, thầy các tướng giặc cỏ đó sao?
Thoòng Mềnh quay phắt về phía Hồng Lĩnh, vẻ mặt không giấu được nét kinh ngạc:
– Trách nào bắn rơi nổi súng ta!
Thoòng lim dim mắt, dáng suy nghĩ và khẽ đưa cao mày ra hiệu cho bộ hạ, đoạn viên tướng thổ phỉ tiến đến trước Hồng Lĩnh. Viên tướng thổ phỉ chậm bước, thân hình vạm vỡ dồn xuống bước chân, khiến sàn gỗ khẽ rung, không khí phòng ăn trở nên nặng trịch thêm, và mọi người ngồi im, ngó theo hồi hộp chưa biết Thoòng tướng xử trí ra sao? Cả Voòng Lầu cũng đứng im ngoài khung cửa, lừ cặp mắt diều hâu nhìn theo Thoòng địch tướng đang đến trước Hồng Lĩnh. Tướng thổ phỉ đến cách Hồng Lĩnh chừng một với tay dừng lại, mắt vọ nhìn thảng vào chàng tuổi trẻ, hai đầu mép hơi cúp xuống chòm râu rung khẽ theo hai cánh mũi phập phồng. Chàng tuổi trẻ vẫn ngồi yên, mấy ngón tay lơ đãng quay khẩu súng, thấy Thoòng Mềnh tới, từ từ nhìn chếch lên, cặp mắt sáng quắc hơi nheo lại.
– Thần Xạ Đại Sơn Vương! Lâu nay vẫn nghe tiếng tiên sinh ngang dọc một miền Thập Vạn Đại Sơn, dưới tướng có nhiều thuộc hạ!
Lại đã thu phục được cả Đa Sát miền Bắc Hảị..
Hồng Lĩnh hơi ngạc nhiên vì câu nói có vẻ văn hoa lễ độ của viên tướng vốn nổi danh dữ tợn nghịch xược, nhất là giọng Thoòng, vừa đủ nghe, chàng đang chú ý tới điểm khác thường đó, thì Thoòng đã tiếp tuôn một câu bất ngờ, tuy giọng vẫn đều đều:
– Nhưng… hùm dữ đã lìa rừng!
Vừa dứt câu,trong lúc mọi người chưa kịp nghĩ thì bất thình lình Thoòng Mềnh đã quát lên hai tiếng:
– Hây a!
Nghe vang âm thập phần dữ dội, đồng thời chuyển mình, tay trái khua ngang mặt Hồng Lĩnh, và tay phải xòe ra chém mạnh xuống ngang cần cổ chàng tuổi trẻ Việt một nhát, với tất cả sức vận công của tay thượng võ điểm truyền và cái nhanh vút của cái tài nghệ mấy chục năm giang hồ chém giết dồn lại. Nhát đòn tấn công bất kỳ xuất ý của Pạc Hoọc Đại Vương nhanh đến nỗi chính đám thủ hạ thổ phỉ cũng không ngờ được, chỉ còn ngồi im kịp chớp mắt một cái và hầu hết đều thoáng nghĩ ngay tới sự gục ngã của chàng trai. Nhưng người tướng lạc thảo Thập Vạn Đại Sơn vẫn ngồi im, thân thể như đã dính vào ghế, khi bàn tay dịch thủ chém xuống, chỉ thấy cánh tay chàng vụt hất lên nhanh như một cần máy. Cả bọn định thần nhìn, đã thấy cánh tay Thoòng Mềnh bật ngược lại, và thân hình cao lớn cũng theo đà bật lảo đảo về sau vì sức mạnh của cái hất tay.
– Chà! Cao cường quá!
– Cao cường quá!
Liền mấy miệng người bật kêu lên sửng sốt, trong lúc Pạc Hoọc Đại Vương Thoòng bị hất đòn, đã lấy ngay lại thế, và chuyển hết sức, lao mình vào Hồng Lĩnh. Nhưng chưa kịp lao tới Thoòng Đại Vương đã dừng phắt lại, vì chợt có một bàn tay người đặt mạnh vào vài, phía sau, và ghìm lại như một kìm sắt nguội. Đại Vương Thoòng phải hụp vội người xuống, đồng thời nhảy xả một bước quay phắt lại. Voòng Lầu đã đứng đó, nhếch miệng cười khan dằn giọng:
– Thoòng Mềnhl Hãy thử gặp Đa Sát Hải Sơn Vương đã, sao vội hỗn với thầy ta!
Giọng khinh ngạo của Voòng khiến tướng thổ phỉ bừng giận, quắc mắt nhìn Voòng như sắp bốc cháy. Mấy khắc im lặng, nặng nề…
Thoòng Đại Vương đưa mắt nhìn Hồng Lĩnh, và thừa biết Voòng không khi nào chịu để thầy bị tấn công, nên Thoòng Đại Vương từ từ tiến nhích lại trước Voòng rất chậm. Voòng vẫn đứng im như pho tượng, tay trái chống nạnh bên sườn, tay phải nhè nhẹ vuốt hàm râu quai nón xồm xoàm, mắt hơi nheo lại nhìn Thoòng Thoòng chậm bước, một tay buông thõng, bàn tay xòe ra, một tay cũng khẽ mân mê bộ râu quai nón, mắt cũng nheo lại. Cả hai viên tướng như muốn quan sát cân lượng tài lực nhau, và chỉ nhìn qua hai người đàn ông vạm võ gân guốc gan lì, cũng râu xồm, mắt diều hâu, sẹo mặt, mọi người cũng đã đoán ngay được đôi bên địch thủ kỳ phùng. Đám bộ hạ Thoòng nín thở, mấy người mặc âu phục nhíu mày lại, còn đám thực khách đều thụt lùi lại, ló đầu ngó vào sợ sệt như đã đoán được trận chiến nẩy lửa sắp diễn ra. Sát khí như trùm khắp gian phòng. Vụt cái, đúng lúc Thoòng tiến đến cách Voòng non thước Tây, hai người đàn ông thình lình cùng quát lên một tiếng nghe vang âm rờn rợn như muốn đoạt khí nhau và cùng lúc chuyển mình, lao vào nhau như hai con mãnh hổ vồ mồi. Hai tiếng quát khởi thế công của hai viên tướng giặc khiến hầu hết thực khách giật nẩy mình, khách vừa định thần đã thấy đôi bên địch thủ, lộn đầu xuống, lăn mình trên sàn như hai quả cầu, cách nhau đến hai, ba thước chẳng ai đánh trúng ai. Mọi người đứng ngây nhìn, không hiểu sao, chỉ thấy chàng tướng trẻ Thập Vạn Đại Sơn chợt bật lên một lời khen khá lớn:
– Khá lắm!
Thì ra, cùng một khắc, hai người đàn ông đã khởi tiến công, nhưng đến khắc thứ hai, cả hai tay lão luyện đều chuyển thế, vờn lộn sang một bén để lợi dụng sức trượt đòn, đá tung lại, nếu một trong hai người vẫn theo thế tấn công hụt, thì sẽ bị miếng đá chân truyền đó, nhưng cả hai đều chuyển thế, nên đều đá vào không khí và lăn tròn trên sàn. Chỉ có tay thượng võ mới hiểu ngay được sức chuyển thế công lão luyện của Thoòng, Voòng.
Hai người đã đứng vọt lên, lừ mắy nhìn nhau, như bắt đầu lượng rõ tài sức nhau sau miếng đòn giống nhau đó. Cả hai tiến lại trước mặt nhau, cách non thước. Thoòng giậm mạnh một chân xuống sàn, miệng lại quát lên một tiếng “Hầy”, mình chuyển tấn công nhưng lại thôi ngay. Nhưng hình như Voòng đã đoán được, nên Thoòng vừa chuyển mình đánh dữ, thì Voòng cũng quát lên một tiếng, giậm chân nhảy chéo sang bên sườn địch thủ, đồng thời phát ngang bàn tay trái vào cổ Thoòng, chân phải vừa chấm sàn đã giậm luôn một cái, bật người lại, tay phải quật vòng lại. Thoòng thụp rút đầu xuống tránh cái phạt trái, vừa xong, đã thấy tay mặt địch thủ quật vòng lại. Thoòng hất mạnh tay trái lên, thuận đà xoáy nửa vòng len vào bụng Voòng, đánh ngược lên một cùi tay. Nhưng Voòng đã kịp thời gập thót bụng lại, tay trái hất ngược lên ngang nách Thoòng. Thoòng giật mạnh cúi xuống, và nhảy lui lại tránh luôn một đòn tay phải của Vòng. Thấy Thoòng lui lại, Vòng cũng thu ngay về thế “Đồng tử bồng ngân bình” chờ đợi.
Thấy địch thủ trổ thế võ “Quý Châu”, Thoòng cũng thủ thế, đợi chờ, không xông ngay, Voòng thấy thế, xông tới luôn, và hai địch thủ xoắn vào nhau trổ hết thế võ chân truyền, phóng ra những đòn dữ nhất, từ Hầu Quyền, Hạc Quyền, tới Thái Cực, võ Thổ, vố Mường…
của mấy mươi năm lăn lộn giang hồ. Kẻ trúng đòn nọ kẻ trả lại đòn kia ngay, đôi bên kỳ phùng địch thủ đánh chỉ trúng nhau những đòn thường, không sao hạ nổi nhau, đến mười mấy hiệp vẫn tỏ ra ngang sức. Đám bộ hạ của Thoòng cùng thực khách, tửu bảo trước còn đứng im, sau cũng múa chân, múa tay, reo hò vang dội, như đang xem một cuộc lôi dài. Thay đã kéo dài khá lâu, Thoòng, Voòng đều nóng ruột càng dồn hết tài lực mong kết liễu trận đánh cho mau. Thoòng nghiến răng:
– Ta không hạ ngươi, quyết không về cố quận.
Voòng trợn mắt:
– Ta không quật ngã ngươi, quyết không nhìn núi đồi !
Hai người lao mình vào nhau, lần này không dụng võ đánh, mà khóa tay nhau bằng võ Nhật. Nhưng đúng lúc Pạc Hoọc Đại Vương và Đa Sát Hải Sơn Vương vừa khóa lấy nhau thì có tiếng quát thình lình:
– Thôi! Được rồi!
Và hai viên tướng giặc thấy một người nhảy vụt vào, hai tay gạt hai người ra, khiến cả hai đều cảm rõ như vừa chạm phải cánh tay thép nguội lùi giật ra hai bên:
Thần Xạ Đại Sơn Vương. Chàng tướng Thập Vạn Đại Sơn nhìn hai người, miệng mỉm cười:
– Quả là một cặp địch thủ kỳ phùng. Đấu nữa chỉ thêm mệt sức!
Và chàng bảo Thòng:
– Sẽ có nhiều phen gặp gỡ! Giờ ta có chút việc bận, xin cáo biệt…
Pạc Hoọc Đại Vương Thoòng.
Dứt lời, Thần Xạ Đại Sơn Vương, khẽ hất hàm ra hiệu cho Đa Sát Hải Sơn Vương, đoạn hai thầy trò tướng lạc thảo Thập Vạn Đại Sơn từ tốn nghiêng mình chào Thoòng Mềnh cùng đồng bọn và ung dung bước về phía cầu thang. Bỗng Thoòng hét lớn:
– Thần Xạ! Đa Sát!
Hai thầy trò Hồng Lĩnh đã tới cầu thang, bỗng xoay lại bọn Thoòng. Đang bước khoan thai thình lình, thầy trò quay phắt lại, đúng lúc đó, Thoòng Đại Vương chĩa hai ngọn pạc hoọc vào hai người, và bóp cò. Đoàng! Đoàng! Hai tiếng nổ chát chúa, vang cả thượng lầu.
Đồng bọn Thoòng Mềnh đưa mắt ngó ra, đã thấy hai thầy trò tướng lạc thảo Thập Vạn Đại Sơn đứng như hai pho tượng tháp bên nhau, một người một tay súng chĩa vào Thoòng Mềnh và Pạc Hoặc Đại Vương đang xòe hai tay chới với giữa không gian, hai khẩu Pạc Hoọc bách chiến đã tung qua vai, nằm quay trên sàn. Tưởng chủ tướng bị hạ, đồng bọn Thoòng lập lức thọc tay vào ngực áo, rút phắt súng ra.
Nhưng qua mấy khắc ngơ ngác, Thoòng Đại Vương đã cử động, hai tay tê chồn và kịp thời nhận ra chủ ý của hai địch thủ ngang tàng, độ lượng. Hai viên đạn chỉ xói vào ngọn pạc hoọc còn tay Thoòng chỉ bị tê thôi. Địch thủ nếu có ác ý thì hai viên đạn nổ trước khi Thoòng bóp cò nửa khắc, đã đủ thời giờ hạ Thoòng vào tim, vào trán… hay nhẹ ra cũng phải xói vào bàn tay để tước súng đi.
Vừa lúc đồng bọn rút súng ra, Thoòng Mềnh đã khoát tay, đưa mắt cản và từ từ tiến lại trước hai thầy trò Hồng Lĩnh. Nhìn thẳng vào mặt địch thủ, tướng thổ phỉ trầm giọng có vẻ bình tĩnh lạ lùng:
– Không ngờ còn hai kẻ rút súng nhanh hơn Thoòng Mềnh! Danh lớn Pạc Hoọc Đại Vương đã hai phen lu mờ vì rút súng chậm hơn nửa khắc! Mối nhục này ta nguyện rửa và cái ơn không hạ độc thủ ta bữa nay, sẽ có phen ta đền đáp! Thần Xạ, Đa Sát hãy ra khỏi nơi này!
Thoòng nói một hơi, chậm rãi, giọng đều đều, cặp mắt đầy lửa hận, đượm vẻ ngang tàng. Hai thầy trò đứng im, nhìn vào mặt Thoòng, và hơi đưa mắt nhìn nhau, miệng Thần Xạ Đại Sơn Vương hơi nhếch cười, đoạn hai thầy trò lẳng lặng cho súng vào ngực áo, bước xuống thẳng cầu thang. Voòng rút ví lấy tiền ném cho chủ quán, và hai thầy trò tướng lạc thảo bước ra, trước những cặp mắt khiếp phục của mấy hàng thực khách.
Ra tới cửa, Voòng Lầu chợt kéo tay chủ tướng đứng lại. Người thuộc hạ giang hồ từng trải, hé cửa nhìn sang bên kia đường chỗ buộc ngựa, và ngửa mặt nhìn lên hàng hiên thượng lầu:
– Thầy à! Dầu sao nên cẩn thận là hơn! Thằng Thoòng hiểm lắm, nhất là thủ hạ nó giờ lại đông, có mấy viên chức bản hạt này hỗ trợ!
Hồng Lĩnh hơi gật đầu, đảo mắt quan sát một vòng ngoài, đoạn nhìn lại phía cầu thang. Vừa dứt lời, không để Hồng Lĩnh kịp nói chi, Voòng cởi phắt áo ngoài, ngoái lại quơ một chiếc ghế, khoác áo vào, và nhanh nhẹn đểy tung cửa, ném mạnh “ghế trùm áo” ra ngoài đường mé bên trái, đồng thời, lao mình vụt ra, về phía tay phải, được mấy bước, mới nhào mình xuống đường, lăn vèo mấy vòng như quả cầu.
Đoàng… Đoàng… Đoàng…
Từ trên thượng lầu liền mấy tiếng súng phát ra thình lình, ngay lúc “ghế áo” từ trong vụt ra. Và lúc ngọn súng nã áo ghế bên trái, kịp thời quay chĩa về bên mặt nhả đạn, thì Voòng Lầu đã lăn vèo qua đường, nhỏm phắt dậy ẩn sau một trụ đèn xi măng. Khách bộ hành tới đó, chợt nghe tiếng súng, chẳng hiểu chuyện chi, nhớn nhác nhìn quanh, thấy ghế áo, người lên, họ kinh hoảng chạy tứ tán như vỡ chợ.
Thần Xạ Đại Sơn Vương đứng trong cửa tửu quán nhìn theo Voòng, thấy Voòng đã thoát, nấp sau trụ đèn, Thấn Xạ liền quay bảo thực khách:
– Cứ ngồi nguyên trong này! Chạy ra chết uổng đó!
Dứt lời chàng hất rộng cửa, toan phóng mình ra, chợt đứng ngay lại, vì Voòng đã khoa tay làm hiệu và đang vẩy ngọn súng lên trên lầu. Liền hai ba người từ trên đổ xuống giãy đành đạch trên đường, ngay trước mặt Hồng Lĩnh. Lẫn với tiếng đóng cửa rầm rầm, tiếng thét gọi nhau hốt hoảng của dân hàng quanh tửu lầu, chàng nghe rõ có tiếng quát tháo trên lầu thượng, tiếng Pạc Hoọc Đại Vương quát mắng thủ hạ. Tiếng súng chợt im bặt. Rồi có tiếng Thoòng Mềnh vọng xuống:
– Thần Xạ cứ ra, ta đã trị bọn thủ hạ làm liều rồi đó!
Hồng Lĩnh nheo mắt nhìn sang bên kia đường. Voòng Lầu vẫn đứng sau trụ đèn xi măng, ngọn súng chĩa lên thượng lầu. một tay giơ lên làm hiệu cản thầy. Trên lầu thượng, tiếng Thoòng Mềnh lại vọng xuống, lần này lớn hơn:
– Thần Xạ! Hãy ra khỏi đây ngay! Tiếng súng đã khua động thị trấn, quân tuần có thể tới ngay.
Nghe Thoòng nhắc tới quân tuần, Thần Xạ nhíu mày, vụt nhớ tới “đạo quan binh”, chàng đảo mắt nhìn theo dọc hai bên đường phố, phút chốc đã vắng teo. Còn đang tính toán, chợt bên kia trụ đèn, Voòng Lầu vẫy nhẹ liền mấy cái. Hồng Lĩnh không chậm một giây, tung cửa chạy vụt qua đường. Quả nhiên, không một tiếng súng bắn theo. Nấp sau trụ đèn, Hồng Lĩnh nhìn lên lầu thượng vẫn thấy Thoòng cùng đồng bọn đứng im cả ngoài hiên, nhìn hai thầy trò địch thủ.
– Tôi chỉ hạ có hai đứa. Chắc Thoòng giết một. Nhưng… vẫn phải cẩn thận, vì nó có thể thí một tên bộ hạ thường.
Voòng vừa dứt lời, Đại Sơn Vương Thần Xạ chợt hất đầu:
– Thôi ta đi!
Và rời trụ đèn, tiến thẳng tới chỗ buộc ngựa. Voòng cũng bước theo nhưng không chịu rời tay súng dè chừng bất trắc. Trên hiên thượng lầu, bọn Thoòng vẫn đứng nhìn theo không một cử động khác thường. Hai thầy trò đưa mắt nhìn quanh, chỉ thấy một vài con ngựa thồ thạp bé của thổ dân, tuyệt không thấy bóng ngựa trận của bọn Thoòng.
– Quái! Chẳng lẽ chúng đi bộ tới quán?
– Chúng về Cao Bằng làm chi? Trông có vẻ ung dung lắm, chắc mấy tên âu phục đi bên, có thể chúng ở đây lắm?
Thầy trò Hồng Lĩnh tháo dây cương buộc, nhảy phắt lên lưng ngựa. Nhưng hai thầy trò chưa kịp giật tay cương, đã nghe thấy tiếng vó câu phóng rầm rập trên mặt đường nhựa từ phía chợ chuyển nhanh tới. Hai thầy trò đảo mắt về phía có tiếng ngựa, vừa lúc có tiếng Thoòng Mềnh lừ trên thượng lầu hắt xuống:
– Quân tuần thị trấn! Mau chạy về phía tả? Đã có ta cản đường cho!
Hai thầy trò đưa nhanh mắt nhìn nhau, không giấu được vẻ ngạc nhiên nghi kỵ, nhưng tiếng chân ngựa đã tới gần, và có tiếng dân phố reo lên:
– Quân tuần! Quân tuần!
Rất nhanh, bốn gót chân giang hồ thúc mạnh hông ngựa và tay cương giật gấp. Hai con vật chồm lên, lao thẳng. Nhưng sau lưng lố nhố đầu ngựa đã vụt tới. Dọc phố lúc đó vắng teo, dân làng đã nấp giạt vào hai bên hè. Hình như phía sau đoàn kỵ mã trông rõ hút ngựa phía trước, vì hai thầy trò Hồng Lĩh chợt nghe tiếng súng nổ phía sau lưng. Thầy trò Đại Sơn Vương cúi rạp xuống bờm ngựa, tay vỗ vào hông ngựa chạy như máy. Vừa may tới ngã tư, ngựa quặt luôn. Hai bên hàng phố ló đầu ngó ra nhìn theo hai người, chỉ trỏ bàn tán, cả các cô nàng đều nhận ra ngay hai thầy trò chàng trai Thổ vừa đi qua.
Ngựa quặt được chừng mấy chục thước, chợt phía sau, nhiều tiếng súng nổ dội hẳn trong gió thoảng, còn phân biệt rõ cả tiếng Pạc Hoọc quen tai của vùng lạc thảo biên thùy. Voòng Lầu đánh ngựa sát bên Hồng Lĩnh:
– Thầy à! Không phải tiếng súng bên đuổi ta!
– Bọn Thoòng Mềnh dám đứng trên lầu thượng chạm súng với quân tuần ư?
Hai thầy trò không bảo nhau, đều cùng dừng phắt ngựa lại. Ngoái lại phía sau, quả nhiên không thấy bóng quân tuần đuổi theo. Hai thầy trò đánh sát ngựa vào bên đường, cho bước một dưới bóng cây.
– Thầy à! Bọn Thoòng mười mấy tên ở trong một cái túi dám cản quân tuần ngay bên “đạo quân binh”! Lạ thật! Bị quân đông tiếp viện tới, chúng rút sao thoát được?
Hồng Lĩnh có dáng suy nghĩ, cặp chân mày hơi nhíu lại.
– Chính ta cũng thấy lạ!
Chàng đưa mắt nhìn quanh, có dáng nghĩ ngợi. Phía tửu lầu, súng vẫn nổ giòn tan, kinh động cả thị trấn. Thiên hạ chạy giạt tứ tán, như có tai biến, thấy hai thầy trò ngồi trên lưng ngựa, đều len lén lánh xa.
Ngựa tới một ngã ba, có một con đường nhỏ đâm ra. Hồng Lĩnh, Vòng Lầu rẽ phắt tay cương, cho ngựa vào đường nhỏ. Tiếng súng nghe thật gần, lẫn cả tiếng quát tháo đốc chiến vọng tới. Hồng Lĩnh ngửa mặt quan sát địa thế mới rõ con đường nhỏ chạy sóng hàng với con đường trước tửu lầu cách nhau mấy lớp nhà ngói. Ngựa vào ngang tiếng súng, đưa mắt nhìn quanh. Hồng Lĩnh chợt bật Lên:
– Có thế chứ! Coi kìa, Voòng?
Ngay đó, sau một cánh cổng mở vào vườn hậu một ngôi nhà gạch, dưới gốc cây, mười mấy con ngựa lực lưỡng đã yên cương đứng vẫy đuôi, thở phì. Hai thầy trò dừng hẳn ngựa, đưa mắt nhìn khu vườn hậu, thấy một gã xạ phang ngồi dựa một gốc cây khuất sau ngựa, đang lim dim ngủ gật, thỉnh thoảng lại choàng mắt ngơ ngác nhìn quanh mỗi khi có tiếng súng dội tới.
– Thầy à! Chắc bọn Thoòng cũng rút ra lối này đây! Hèn chi chúng dám chạm súng với quân tuần phía trước.
Hai thầy trò ngồi im, nghiêng đầu nghe ngóng. Phía tửu lầu, tiếng súng nổ giòn tan. Chàng tướng lạc thảo Thập Vạn Đại Sơn hơi cau mày, lẩm bẩm như nói một mình:
– Quái! Cũng đến hàng mấy phút lrồi, sao chúng chưa rút hậu?
Định chờ quân binh đổ tới vây gọn chắc?
Vòng cũng nheo mắt, hướng về tiếng súng:
– Thoòng vốn thiện chiến, khi nào dám kéo dài trận chiến giữa một thị trấn đầy quan binh? Hay có chuyện chi đây?
Đại Sơn Vương nghe tiếng súng vang dội, đảo mắt nhìn quanh mình một vòng, và chợt bảo thuộc hạ:
– Voòng à! Để ta theo lối hậu này, tới xem sao.
Dứt lời chàng nhảy phắt xuống ngựa. Voòng Lầu nhanh giọng:
– Thầy à? Ta nên…
Nhưng Đại Sơn Vương đã đoán được ý nghĩ thuộc hạ chàng ném mạnh tay cương cho Voòng:
– Thoòng Mềnh dám cản đường quân tuần cho ta rút. Thầy trò ta hãy trở lại ngay! Đây là dịp tốt nhất!
Nói xong, chàng rảo bước tới cổng trống, lao mình vào vườn cây, thoáng cái, đã khuất dạng. Đã quá quen với tính chủ, người thuộc hạ chỉ ngó theo đoạn tắc lưỡi một cái, dắt ngựa chủ đến bên dưới bóng cây, chờ đợi.
Vào vườn hậu, Thần Xạ Đại Sơn Vương băng qua vườn cây, tới cuối vườn gặp một tường gạch dựng đứng cao tới hai thước có cổng đóng chặt. Chàng đảo nhìn địa thế, và nhảy vọt lên nắm lấy một cành cây rủ bên tường nhà, hai tay thoăn thoắt lần ngược lên cao tung mạnh thân qua ngọn tường, lá cây chỉ khẽ rào một cái, hai chân người đàn ông giang hồ đã đặt trên một mái ngói thấp. Quan sát một lượt nữa và chuyền qua mái hết lớp nhà nọ tới nhà kia, chỉ trong nháy mắt đã lần tới căn nhà trông thẳng sang tửu lầu.
Vừa tung mình lên một sân thượng có cành lá rủ um tùm, Hồng Lĩnh vội ẩn mình ngay, vì chợt thấy lố nhố những bóng người hai bên tả hữu phía trước. Định thần nhìn kỹ, mới biết là bóng quân binh đã leo mái chặn hậu, kẹp lấy khu tửu lâu. Ngó về hậu tửu lầu chỉ có một cửa gác hẹp trông xuống một sân thượng, thành thử ngọn súng quan binh hai bên chĩa cả vào đó, cứ thấy ai ló dạng là bắn luôn. Phía trước tửu lầu, tiếng súng trường vẫn nổ dồn, có vẻ như quân binh cố đánh thốc vào. Vừa ngó qua, Hồng Lĩnh đã hiểu ngay, nếu tình thế kéo dài thêm chỉ mười lăm hai mươi phút, quân lính thị trấn tiếp viện tới vây, bọn Thoòng Mềnh sẽ như cá bị dồn vào giỏ. Đại Sơn Vương Thần Xạ rút phắt ra một chiếc “mùi xoa” huyết dụ, ló đầu về phía cửa hậu tửu lầu gọi lớn:
– Pạc Hoọc Đại vương Thoòng!
– Pạc Hoọc Thoòng!
Vừa gọi, chàng vừa phất nhẹ “mùi xoa”. Phía cửa hậu, liền mấy đầu người ló ra thụt vào, rồi khuôn mặt tướng thổ phỉ râu xồm hiện ra. Súng quan binh bắn thốc vào luôn khiến khuôn mặt Thoòng ẩn vội, còn hơi hé một phần nhỏ. Hồng Lĩnh nấp sau tường, cây rậm, phất mạnh khăn lớn tiếng:
– Rút ngay, không bị vây chết đó! Cứ ta phất khăn là phải phóng xuống sân thượng từng người một!
– Đoàng!
Từ phía quan binh một viên đạn bay vèo tới, réo trên đầu Hồng Lĩnh. Chỗ chàng đứng rất thuận lợi, có thể quan sát cả ba bề bốn bên, lại có cây và một bờ tường khá cao chắn trước. Một bóng lính nhô lên nóc nhà bên tả. Thần Xạ liền nhô lên, vẫy ngọn súng sang. Bóng lính đổ xuống. Lại một bóng trên nóc nhà hữu, cánh tay viên tướng lạc thảo lại vẫy súng. Thêm một bóng người tung lộn như trái cầu. Khăn huyết dụ phất mạnh. Từ cửa hậu, một bóng giặc phóng xuống sân thượng. Cứ thế đến mấy lần. Trước còn tay bắn tay vẫy, sau Hồng Lĩnh buộc luôn khăn đỏ vào cổ tay, cứ thế đảo mắt vẫy tay mấy phía nhanh như chày máy đến nỗi quan binh thấy luôn mấy lính bị hạ vì tay súng chỗ lùm cây rậm, nhưng động nhô lên, vừa chĩa súng vào đã thấy cánh tay đỏ khoa lên giữa hàng lá xanh, và một viên đạn xối vào giữa trán, nên đám còn lại phát kinh sợ, không dám khinh thường.
Đám quân binh phục hai bên sườn hậu tửu lầu cả loạn, nhanh theo hai cánh tay Thần Xạ hoạt động. Nhưng phía trước tửu lầu, tiếng súng trường của quân binh vẫn nổ giòn, dầu áp lực hai bên sườn đã rút hẳn. Còn tiếng súng ngắn thưa hẳn, thỉnh thoảng mới nghe một vài tiếng pạc hoọc bật lên. Đạt Sơn Vương Thần Xạ rung mạnh cánh tay buộc khăn đỏ, hô lớn:
– Thoát mau! Chậm trễ phía trước, quân binh sẽ ập vào!
Tiếng hô vừa dứt, đã thấy từ cửa hữu tửu lầu, liên tiếp những bóng quân Thoòng phóng ra nhanh vun vút. Sau cùng, về phía trước vừa dứt tiếng pạc hoọc, cửa sau xuất hiện dáng dấp cao lớn của Pạc Hoọc Đại Vương, hai cánh tay vẫy ra tả hữu liền mấy phát trước khi phóng xuống sân thượng. Nhìn qua kẽ lá thấy lố nhố bóng giặc Thoòng chạy thoăn thoắt trên nóc nhà, ngọn tường, rút về nẻo vườn buộc ngựa, Hồng Lĩnh liền bắn luôn mấy phát nữa và cũng băng mình khỏi chỗ nấp, thỉnh thoảng bắn lại mấy phát.
Dư biết đã đến lúc thập phần nguy hiểm vì quân binh có thể luồn đón đường rút, Hồng Lĩnh vượt tường lướt mãi nhanh như mèo, thoáng cái, đã bíu cành cây tung mình xuống vườn buộc ngựa, vừa lúc Pạc Hoọc Đại Vương cũng kịp tháo tới. Thần Xạ Đại Sơn Vương giơ cánh tay còn buộc khăn đỏ:
– Nên dẫn thủ hạ thoát mau, không, bị cản đường. Thôi ta có lời chào Thoòng, sẽ có ngày hội ngộ.
Miệng dứt lời, chân đã phóng qua cửa, không để Thoòng Mềnh kịp cất lời. Vòng Lầu đang ngồi trên ngựa, tay nắm sẵn cương chờ đợi, băn khoăn… Chợt thấy bóng chủ phóng ra. Voòng tươi hẳn mặt, đánh ngựa vọt tới, nắm luôn cương cho chủ. Thần Xạ Đại Sơn Vương đỡ luôn cương thót lên lưng ngựa, nhanh giọng:
– Ta đi thôi! A Voòng! Quan binh sắp đuổi tới rồi.
Hai con ngựa nước hai chồm lên, vọt đi. Ngoảnh nhìn ra ngã ba đã thấy đầu ngựa quan binh lấp ló, vừa lúc Thoòng Mềnh cũng phóng ngựa trong vườn ra. Ngựa hai thầy trò phi tới đầu đường, Hồng Lĩnh ngó lại thấy Thoòng Mềnh đang cùng mấy thủ hạ bắn cản quân binh, còn đám sau tiếp tục thoát ra. Chàng tuổi trẻ hất hàm bảo Voòng:
– Quân binh thận trọng dừng bước ngựa. Pạc Hoọc Thoòng chắc đủ sức còn cho bộ hạ thoát. Mình đi thôi!
Hai con ngựa lao đi, phóng trên đường vắng ngắt, xa mau vùng súng nổ. Qua hết phố nọ tới phố kia, chỉ loáng mắt, tám vó câu kiêu đại đã đặt tới khu bìa thị trấn. Phía sau, vẫn còn thưa thớt tiếng súng, trước đầu ngựa đã là đồi núi điệp trùng. Hai thầy trò tế ngựa nhắm thẳng rặng núi trước mắt, bỏ đường lớn, băng ngang, đi theo đường mòn, đi được mười lăm phút, nhìn lại không còn thấy mái nhà thị trấn, và chợt thấy bóng ngựa nhấp nhô trong nắng loé. Nhìn kỹ nhận ra quân Thoòng. Không hiểu Thoòng theo ngựa thầy trò hay tình cờ, Đại Sơn Vương nhíu mày bảo người thuộc hạ:
– A Voòng! Bọn Thoòng chạy cùng đường với ta? Phải đánh lạc hướng chúng.
– Dạ! Tất quan binh đang đuổi theo chúng?
Hai thầy trò ngó thấy bên tả có rừng rậm, liền phóng tới, chạy một đỗi đến một thung lũng, vừa chớm ló ngựa ra đường mòn đã vội rẽ phắt ra phía hữu. Trước đầu ngựa, thình lình một toán người ngựa vụt nhô ra, ngay trên đường mòn, ập tới. Thoạt nhìn đã nhận ra ngay người cỡi ngựa đầu là Trần Tắc, kế tới Hai Cao, tay khoa súng theo đà phi ngựa. Họ Trần cũng đã nhận ra viên tướng lạc thảo miền Thập Vạn Đại Sơn, tay trái giơ lên làm hiệu, tay phải nã luôn một phát súng về phía Hồng Lĩnh, miệng Trần hô lớn, tay ngoắt cương, cho thuộc hạ tiến lên.
– Hắn kia! Bắn!
Đám thuộc hạ, và gia nhân vừa lính dõng phóng ngựa lên tay súng bóp cò luôn một loạt. Nhưng hai thầy trò Hồng Lĩnh đã kịp băng ngang. Đạn vèo bên tai, hai thầy trò cúi rạp xuống bờm ngựa. Chàng tướng lạc thảo ngang tàng đây kinh nghiệm không nao núng trước sự việc quá bất ngờ. Óc lóe lên cơ mưu, ĐạI Sơn Vương thấp giọng bảo thuộc hạ:
– Phóng ngược lại, dẫn bọn này tới đầu ngựa quân Thòng, rồi rẽ ngang.
Hai con ngựa chạy ngoằn ngoèo giữa những tàng cây, không xa bọn quân Trần Tắc vì Hồng Lĩnh có ý để cho quân địch đuổi theo. Cứ vài mươi thước hai thầy trò mới bắn lại một phát, hai phát, dụ địch.
Mãi tới khi thấy loáng thoáng bóng ngựa Thoòng phóng lại, Hồng Lĩnh mới cùng Voòng Lầu rẽ cương ngang, phi đại vào khu rừng bên phải.
Quả nhiên trên đường mòn, đám quân Trần Tắc chạm trán với quân Thoòng, vì hai thầy trò Đại Sơn Vương rẽ ngang chừng hơn trăm thước, đã thấy tiếng súng nổ lên loạn xạ lẫn tiếng ngựa hí, người hò. Đại Sơn Vương ngó lại phía sau, trên khuôn mặt rắn đanh, thoáng nở một nụ cười nửa miệng:
– Tội cho Thoòng, nó bi kẹp giữa hai cánh quân đông! Nhưng chắc nó đã mưu thoát hiểm!
Voòng ngồi trên yên chỉ ngoái lại sau, và theo thầy thúc mạnh gót giày vào hông ngựa. Hai thầy trò xa dần tiếng súng và cứ thẳng trước mặt tiến tới. Thấy đã khá xa, hai thầy trò ngoái lại sau, tuyệt không thấy bóng ngựa theo, liền hạ nước phóng đại xuống kiệu băm.
Phía trước, rừng thưa dần, thung tráng địa mở rộng, theo bước ngựa đi. Chợt gió mát phía trước thoảng tới. Đại Sơn Vương liền cho ngựa đi bước một, mặt nhìn lên cao, hít một hơi dài, đoạn bảo thuộc hạ:
– Quái a Voòng! Trong gió thoảng có hơi nước mát! Sắp mưa chăng?
Người thuộc hạ cũng ngửa mặt nhìn trời, mũi hơi nghiêng trước ngọn gió. Hai thầy trò còn đang thắc mắc, thì ngựa đã vượt khỏi lùm cây rậm và đột nhiên gió mát hẳn lên, phần phật thổi vào quần áo.
Và trước mặt hai thầy trò Đại Sơn Vương, dòng sông rộng chợt hiện ra, loáng bạc như dải lụa loang nắng uốn mình giữa núi đồi xanh ngắt.
– Bằng Giang!
Chàng tuổi trẻ khẽ bật lên mấy tiếng và quay bảo thuộc hạ:
– Sông rộng chắn đường rồi! A Voòng!
Hai thầy trò nhổm lên nhìn suốt vùng Bằng Giang quạnh vắng, không một bóng thuyền bè. Tít phía chân trời, khắc vào nền mây xanh úa, một vài mái nhà gạch ẩn hiện giữa những vùng cây trên những ngọn đồi cao quanh thị trấn. Gió từ dưới sông lên, phả vào mặt mũi hai người đàn ông giang hồ một thứ hơi lành lạnh của nước nguồn.
Hai người rút khăn lau những giọt mồ hôi lấm tấm trên khuôn mặt phong trần, và cùng ngồi im trên lưng ngựa nghe tiếng súng vẫn nổ đì đẹt phía sau, cặp mắt sáng quắc vụt trở nên âm u, bâng khuâng như vừa ám hơi sương chiều, khói nước đang chầm chậm dâng lên kéo giăng mỏng manh trên mặt Bằng Giang. Một túc khá lâu, Voòng Lầu với tay về phía sau yên lấy bình nước đưa cho Hồng Lĩnh, giọng Voòng rất thấp như không dám khua động bầu không khí im lặng bao tỏa quanh mình chủ tướng:
– Thầy a! Ta đi dọc bờ sông… may có thuyền sang ngang. Đứng đây mãi ẹ.. bất lợi!
Đại Sơn Vương lặng lẽ đỡ lấy bình nước, ngửa cổ uống mấy ngụm, đoạn trao lại cho Voòng và lặng lẽ giật tay cương… Hai con ngựa chậm bước men ngược dòng sông đi mãi. Một quãng khá xa vẫn không một bóng thuyền bè. Hình như tuồng súng nổ thình lình tại thị trấn đã đuổi giạt thuyền bè vào bờ, neo lại nghe ngóng động tĩnh, không thuyền nào dám đi vội khi chưa rõ biến động ra sao.
Đến một chỗ có dãy đồi trọc chạy ra sát bờ nước, hai thầy trò Đại Sơn Vương liền cho ngựa lên một ngọn đồi khá cao, quan sát khắp vùng sông nước. Chợt thấy một con thuyền buôn, đậu khuất giữa lùm cây rậm bên kia bờ, Voòng Lầu khẽ reo lên.
– Kìa có thuyền.
Dứt lời, Voòng vội khum hai bàn tay gọi vọng sang bên kia sông và giơ tay vẫy lia lịa. Mãi mới thấy có bóng người từ trong khoang ló ra và thu ngay vào mất dạng, gọi vẫy mấy, thuyền đó vẫn im lìm. Có lẽ nhìn sang thấy bóng người ngựa, lại có tiếng súng nổ về phía đó, nên người trên thuyền hoảng sợ, cứ tảng lờ như không hay biết chi cả. Voòng Lầu cau mày:
– Hừ! Vừa có đứa ló dạng lại không chịu ra mặt nữa. Đa Sát Hải Sơn Vương giận dữ rút phắt súng ra, vùng vằng quay một vòng trên ngón tay, rồi nghĩ sao, lại cố nét bực dằn mạnh vào bao.
– Thầy à! Đành phải đánh ngựa qua sông thôi! Ướt hết vậy!
Hồng Lĩnh chưa kịp cất tiếng, chợt giơ tay làm hiệu cho Voòng Lầu và nghiêng đầu lắng nghe. Từ phía thượng lưu, vừa có tiếng cất lên, giọng hò trong vắt theo hơi gió vọng về:
Ai lên ngọn nước Bằng Giang, Mà xem giặc cỏ dọc ngang vẫy vùng.
Ai lên biên giới điệp trùng Mà xem giặc cỏ xưng hùng một phương.
Người tướng lạc thảo Thập Vạn Đại Sơn quay phắt nhìn Voòng thủ hạ, vừa lúc Đa Sát Hải Sơn Vương đưa nhanh mắt ngó chủ tướng, mấy ngón tay gân guốc sờ vội lên bộ râu quai nón xồm xoàm như muốn giật tung. Theo hơi gió, tiếng ngừng mấy khắc, lại cất lên lần này nghe càng gần, như chạy lướt trên mặt nước:
Cao Bằng nát cỏ biên cương, Đố ai biết Đại Sơn Vương vượt nhầu.
Chọc trời quấy nước mặc dầu, Hùm thiêng thất thế mất đầu như chơi.
Tiếng hò bốc lên cao vòi vọi, như thấu mây xanh, rồi lả lướt đổ xuống mặt Bằng Giang, truyền đi, trong vắt, và vụt tắt bất ngờ trên khói nước, dư âm bí ẩn còn ngân dài mãi trong tai hai thầy trò Đại Sơn Vương như muốn xoáy vào tận ruột gan.
Hồng Lĩnh, Voòng Lầu vội nhổm hẳn lên nhìn về phía có tiếng hò lạ lùng, chưa kịp trao đổi với nhau lời nào, đã thấy một con thuyền độc mộc từ sau một lùm cây rậm ven sông nhô ra lướt vùn vụt trên nguồn nước, trên thuyền có hai dáng người thanh nhỏ đang ngồi khua nhẹ mái chèo. Con thuyền độc mộc nhọn như thoi lướt đi về phía hai người, cứ thẳng giữa dòng, như không trông thấy hai người đàn ông phong trần đang ngồi im trên ngựa, bên bờ:
Sau lưng quân kỵ tới rồi Bằng Giang ngăn lối hết đời Đại Vương…
Giọng hát lạ lùng cất lên, như bỡn cợt nghe rõ tiếng gái Kinh, tiếng vừa tắt, thì tiếp sau đáp lời câu hò giễu cợt, tiếng súng thình lình nổ dội hẳn lên, và như sắp ập tới sau lưng hai người. Nhìn kỹ, thấy hai người trên thuyền độc mộc là hai thiếu nữ, mặc y phục miền sơn cước sặc sỡ, tuy cách đến mấy chục thước, vẫn nhận được dáng dấp thanh trẻ khác thường.
Hai thầy trò Đại Sơn Vương khẽ đưa mắt nhìn nhau, Hồng Lĩnh vừa khum tay quanh miệng, định lên tiếng gọi, chợt ngừng ngay, vì từ phía thuyền thiếu nữ, giọng hò lại cất lên, lờ lững vô tình…
Hai viên tướng lạc thảo giang hồ cùng quay phắt nhìn lại phía sau. Chỉ thấy rừng cây, đồi cỏ, lớp lớp điệp trùng… nhưng rõ ràng tiếng súng đang chuyển về phía hai người. Voòng Lầu không chậm một giây, liền vỗ ngựa xuống chân đồi, thoáng cái đã thấy ngựa vọt lên một ngọn đồi cao hơn, đứng ngó về nơi súng nổ mấy khắc, đoạn giơ tay vẫy Hồng Lĩnh. Đại Sơn Vương đánh ngựa lên theo, đớ lấy ống nhòm quan sát. Quả nhiên, cách mấy dải đồi, thấy nhiều bóng ngựa lố nhố sải vó về phía hai người, mãi xa xa lại thấp thoáng môt tốp quặt về tay hữu, theo hình cánh cung. Không bão nhau, hai thầy trò đều nhìn mặt sông. Thuyền thiếu nữ sơn cước vẫn lướt trên dòng đã tới ngang chỗ hai người.
– Sau lưng quân kỵ tới rồị..
Tiếng hát lại cất lên và con thuyền độc mộc chợt quay ngang lơ lửng giữa dòng, vì hai cô gái đã bỏ tay chèo. Hai thầy trò đưa mắt cho nhau, trao đổi một mối nghi hoặc khó hiểu.
– Men ngược thượng lưu hay sang sông?
– Sang sông?
Voòng Lầu giơ tay vẫy gọi hai cô gái trên thuyền. Nhưng thuyền vẫn lặng lẽ trôi. Phía sau tiếng súng thêm gần. Voòng Lầu trừng mắt nhìn con thuyền giữa dòng, thốt nhiên cười nhạt một mình:
– Hừ! Bằng Giang đâu rộng bằng Bắc Hải! Rồi sẽ biết tay Hải Sơn Vương! Vượt thôi thầy!
Hồng Lĩnh nheo mắt, nghĩ một khắc và tặc lưỡi:
– Đành vượt thôi!
Hai thầy trò vỗ ngựa chạy thẳng xuống đồi ra bờ sông. Lúc này hai thiếu nữ trên thuyền đã quay nhìn lên bờ, thấy một người đàn ông đã tiến ngựa sát mé sông, chợt hai nàng chỉ trỏ và cất tiếng cười vang như càng trêu chọc. Không ngần ngừ, hai thầy trò đánh luôn ngựa xuống nước. Hai con vật trù trừ mấy khắc đoạn bước xuống dòng ra xa dần. Gần hết thân ngựa chìm xuống mặt nước, chỉ có đầu cất lên, khiến thầy trò Hồng Lĩnh phải đứng khom mình trên yên cho khỏi ướt. Tiếng cười của hai cô gái càng vang lên, khiến Voòng Lầu bực tức cho ngựa bơi thẳng tới chỗ hai nàng. Nhưng hai nàng vẫn nhởn nhơ trên thuyền hình như muốn trêu chọc, nên cứ lượn thuyền phía trước.
Tới giữa dòng, chợt một cô nàng cất tiếng cười khanh khách:
– Ta vẫn nghe danh hai thầy trò tướng giặc Thập Vạn Đại Sơn giờ mới gặp! Có cần lên thuyền chạy cho nhanh, dể ta giúp một tay.
Voòng Lầu, Hồng Lĩnh càng ngạc nhiên, không ngờ có người lại thiết rõ mình đến thế? Còn đang lạ lùng đã thấy thuyền lướt tới gần, chỉ cách độ vài sải tay, và thiếu nữ trẻ hơn lại cất tiếng, tay trỏ vào Voòng Lầu:
– Người râu xồm dữ tợn này là Đại Sơn Vương ư?
Vừa nói, nàng vừa chống chèo bơi đến ngó hai thầy trò, cười tinh nghịch. Đa Sát Hai Sơn Vương thình lình vung mạnh tay về phía thiếu nữ. Chỉ thấy loáng một vệt sáng vụt sang. Phập Nhìn ra, một lưỡi dao lá liễu đã cắm phập ngang cán chèo.
Cô nương ngơ ngác nhìn dao và nhìn hai người đàn ông rồi cười ngất, mặt đỏ ửng. Cô nàng rút phắt ngay lưỡi dao, ném vụt về phía Voòng. Phập! Lưỡi dao cắm ngay vào mép yên, ngay trước chân Voòng.
– Khá đó? Cô em quả chẳng tay vừa!
Hồng Lĩnh bất giác bật lên khen, còn đang để ý nhìn thiếu nữ xinh đẹp lạ lùng trong lớp xiêm y miền núi, thì thuyền độc mộc đã lao tới, và bất thần cô gái đứng vụt lên nhún mình nhảy vọt sang đầu ngựa Voòng Lầu. Voòng vừa ngạc nhiên trước sự việc xảy ra đột ngột.
thì bóng thanh nhỏ của cô gái đã áp tới, một cánh tay gạt mạnh tay cương đồng thời bàn chân lia ngang ống cẳng Voòng nhanh như chớp.
Nhưng tuy bị đánh thật bất ngờ, Voòng đã không hổ danh Hải Sơn Vương, tay cương đã khoa nửa vòng, hai chân xuống Trảo mã tấn thật nhẹ trên yên, đỡ ngọn cước quyết liệt của thiếu nữ, thuận đà tay trái gạt luôn chân nàng. Nhưng cô gái đã kịp thời giậm chân đó xuống lưng ngựa còn chân kia đá bách ra. Bị giậm lưng, con ngựa đau vùng hí lên, chùn gân, trầm luôn cả mình và hất luôn hai người tung xuống nước.
Hồng Lĩnh đứng nhìn qua, đã lường được ngay tài võ của thiếu nữ lạ, hiểu ngay dụng ý của cô nàng, định kéo “Sơn Vương” xuống nước để thủy chiến cho dễ, chắc không biết “vua núi” lại còn là vua biển Bắc. Vì vừa rơi xuống nước, Hải Sơn Vương Voòng Lầu vụt trở lại phong độ thời xưa, chằng khác cá kình gặp nước lớn. Voòng lập tức vùng vẫy, dốc luôn ra kinh nghiệm gần hai mươi năm vẫy vòng trên biển cả.
Vừa tung mình xuống nước, Hải Sơn Vương đã lao thẳng tới chỗ thiếu nữ, vươn cả hai cánh lay lực lưỡng vồ lấy địch thủ, nhanh như một con rái cá.
Lĩnh đứng trên lưng ngựa, không khỏi ngạc nhiên, vì trước sức vươn tay tấn công của người thủ hạ vốn đã khét tiếng, cô gái sơn cước không tránh đòn mà lại nhào phăng vào, dùng một cánh tay trái gạt ngang tay địch thủ, tay phải vùng đánh mạnh xuống đầu Voòng, khiến Voòng phải hụp luôn xuống nước tránh đòn và trồi lên bên sườn cô gái. Vừa thấy Voòng nhô lên, cô gái đã lướt xoài tới đánh luôn. Hai địch thủ, một cao lớn lực lưỡng, một nhỏ nhắn mảnh mai xoắn lấy nhau. Hồng Lĩnh đứng ngoài chỉ thấy nước tung trắng xóa, hai hình dạng nửa người trồi lên hụp xuống, khiến từng đợt sóng dờn nổi lên chạy tới cả bên ngựa. Chàng hết đưa mắt quan sát trận thủy chiến tay đôi lại nhìn sang con thuyền độc mộc và khóng khỏi ngạc nhiên, vì cô gái thứ hai trên thuyền vẫn ngồi mỉm cười xem trận, không tỏ vẻ chi lo ngại cho cô gái dưới nước. Đột nhiên, cô gái sơn cước lặn mất trên mặt sông, chỉ còn Hải Sơn Vương đang vừa bơi vừa đảo mắt tìm kiếm. Chợt Voòng vùng nhô hơn nửa mình lên và đạp mạnh xuống, thoáng cái không hiểu sao, cả thân hình Hải Sơn Vương đã hụp luôn xuống, mất tăm. Trên mặt sông, trước còn thấy sóng dờn tỏ ra đang có sự giao đấu ngầm dưới nước, sau trở nên phẳng lặng như không.
Hồng Lĩnh đứng trên ngựa, tay cầm chặt cả cương ngựa Voòng Lầu, cho bơi cầm chừng, thấy hai người mất tăm khá lâu, chàng không giấu được vẻ ngạc nhiên, e ngại vội đưa mắt nhìn sang cô gái trên thuyền. Con thuyền độc mộc vẫn quay ngang lững lờ trên mặt nước, và cô gái vẫn ngồi nhìn xuống nước có vẻ bình thản, không chút lo ngại, hình như đã tin tưởng chắc chắn về tài thủy chiến của cô đồng thuyền.
Hồng Lĩnh còn đang nheo mắt suy nghĩ, đã thấy từ dưới nước một bóng người vọt lên, như cất hẳn mình lên khỏi mặt nước. Nhìn ra, cô gái miền núi. Vừa vọt lên, cô gái kỳ lạ đã xoài mình lướt trên mặt nước như một con thoi, lướt thẳng tới bên thuyền độc mộc, bíu leo lên.
Hồng Lĩnh thốt giật mình đảo mắt tìm khắp mặt sông, còn đang lo lắng vì không thấy tăm dạng Voòng Lầu thì đã thấy nước động ngay sau ngựa. Ngoái lại, thấy Hải Sơn Vương vừa từ dưới nước nhô lên, vừa thở mạnh, tay vừa vuốt mặt:
– Con nữ quái lợi hại! Không ngờ… Tay khác, đã bị nó cho uống nước dưới lòng sông rồi!
Không giấu được kinh ngạc, Hồng Lĩnh vùng đưa mắt nhìn sang thuyền hai cô gái lạ. Cô nàng vuốt tóc xòa xuống trán, cất tiếng cười khanh khách:
– Như thế đủ rồi! Xin có lời chào Đại Sơn Vương. Danh Sơn Vương quả bất hư truyền?
Dứt lời, cô nàng vỗ mạnh tay lên vai cô đồng hành và khoa một bàn tay làm hiệu cho thuyền đi. Biết cô nàng lầm Voòng Lầu là Đại Sơn Vương, Hồng Lĩnh quay sang người thủ hạ lúc đó đã leo lên hông ngựa. Thấy Voòng ướt như chuột, mặt vẫn còn hầm hầm. Chàng tướng trẻ Thập Vạn Đại Sơn bất giác phải thầm khen tài cô gái lạ. Chàng mỉm cười:
Hôm nay không ngờ lại có tay địch thủ xứng đáng tranh tài dưới nước với Hải Vương Biển Bắc! Vòng đưa mắt trứng then cun thuyền độc mộc đang xuôi dòng lướt đi, trên thuyền, cô gái vừa giao đấu nói vọng lại:
– Cứ vào bờ, sẽ có người trợ giúp! Hãy nhìn lại phía sau!
Giọng cô gái lanh lảnh vang trên sông rộng khiến hai thầy trò bất giác ngoảnh nhìn lại sau lưng, Giữa nắng vàng bên bờ nước trên ngọn đồi trọc, nhiều bóng kỵ sĩ vừa hiện ra, vó ngựa còn cất chồm về phía hai người. Lúc đó, ngựa hai thầy trò Đại Sơn Vương đã vào gần bờ bên này và con thuyền độc mộc đã lướt xuôi dòng cách ngựa đến bảy mươi sải tay. Đại Sơn Vương bảo thuộc hạ:
– Thôi để mặc hai cô gái dó! Còn phải đối phó với đám quân kia đã!
Voòng Lầu che tay ngang trán, nhìn lại toán quân trên bờ tuy cách sông nhưng cũng đoán được hình dạng quân tuần đang chỉ trỏ sang phía bên này sông. Vừa lúc đó có một toán người ngựa khác từ cánh rừng ngang phi tới bờ sông. Nhận ngay được hình dạng Trần Tắc, Hai Cao đứng yên trên một ngọn đồi trọc Voòng vội bảo chủ :
– Thầy a! Ta lên cho ngựa nhanh vào bờ! Có cả quân Trần Tắc mới tới!
Đại Sơn Vương nhìn lại, nhếch mép cười nửa miệng:
– Thằng Thoòng gớm thật! Nó lại dụ địch đến gặp mình, để thoát thân rồi!
Hai thầy trò đánh ngựa, cho bơi mau vào bờ. Còn cách độ mấy sải, chợt Voòng khẽ kêu lên:
– Nằm xuống, thầy! Nó bắn đấy!
Hai thầy trò vừa phục xuống lưng ngựa, đã nghe đạn réo trên đầu. Quan sát phía trước rẽ tay phải có bờ thoai thoải, hai thầy trò thúc ngựa rẽ nước theo hình chữ chi, vừa tránh đạn, vừa tiến vào, kịp khi vó câu chồm được trên bờ cỏ, ngoảnh lại sau thấy quân tuần cùng quân Trần Tắc đánh ngựa ùa cả xuống nước.
– Chúng vượt sông định đuổi ta đến cùng chắc?
Đại Sơn Vương thốt cả giận lẩm bẩm, và rút phắt súng ra, vẫy ngược lại phía sau liền hai cái. Voòng chỉ kịp thấy cánh tay chủ tướng rung lên, ngoái lại, đã thấy hai tên xông ngựa ra trước nhất, lộn trên yên và đổ liền xuống mặt sông Bằng như hai cây chuối ngã. Voòng Lầu vội đánh ngựa tới bên chủ nắm lấy tay súng:
– Thầy ạ, Ta còn nhiều dịp gặp nó. Giờ không nên nán lại nữa!
Viên tướng Thập Vạn Đại Sơn lừ mắt về phía sau lưng, ấn mạnh súng vào bao và vùng giựt mạnh tay cương cho ngựa vọt lên. Đợi cho chủ tướng lên hẳn, Voòng mới vọt theo. Hai thầy trò nằm rạp trên lưng ngựa, phía sau, đạn vẫn vãi theo, loạn xạ. Bên tay trái có cánh rừng rậm, rất gần, hai con ngựa băng lên mặt cỏ, lướt thẳng tới.
Nhưng hai thầy trò vừa tới vùng cây rậm, thình lình thấy từ trước, một toán người ngựa trong rừng chợt hiện ra, vó câu sải thẳng về phía hai thầy trò. Vì đã bắt đầu tới chỗ nhiều cây cỏ, và chỉ lưu ý tới sau lưng nên khi toán trước nhô ra, hai thầy trò vừa kịp đưa mắt làm hiệu cho nhau, thì toán trước đó đã ập trước đầu ngựa. Nhìn ra toàn người lạ mặt, mặc quần áo miền núi, đeo tên, nỏ, dao, súng loang loáng, thân hình cao lớn, khẽ dập dờn theo nhịp vó câu.
Dẫn đầu, là hai cô gái, trang phục như hai cô trên thuyền độc mộc vừa nay, và đâu có vẻ đẹp hoang dại lạ lùng. Vừa ập tới, một cô nàng khoa tay dao rừng lên, cất tiếng lanh lảnh:
– Hai ông cứ thẳng ngựa tới khu rừng trước mặt, sẽ có người đón!
Bọn đuổi theo sau lưng để mặc bọn tôi!
Lời vừa dứt, hai thiếu nữ đã vượt qua, rồi có thể đến mười lăm người nữa cứ vùn vụt đi, khiến hai thầy trò Đại Sơn Vương chỉ kịp tránh ngựa sang một bên, và đưa mắt ngó theo cho mãi tới khi đoàn ngựa lạ mất hút về nẻo Bằng Giang. Chỉ mấy phút sau đã nghe súng nổ dội hẳn lên mạn bờ sông. Đại Sơn Vương ngồi lắng tai nghe và quay nói với Voòng Lầu:
– Đi về phía nào Voòng?
Voòng nhìn chủ tướng, khuôn mặt đen sạm phong trần hiện rõ nét đăm chiêu:
– Thầy a! Hung cát khó lường, nhưng dầu sao có quân cản hậu, ta cứ thoát về nẻo có rừng rậm núi cao là hơn cả!
Đại Sơn Vương nheo mắt, có dáng nghĩ ngợi, đoạn hất đầu, buông thõng:
– Về nẻo rừng đó!
Tới cửa rừng, thấy một con đường mòn vắt ngang trước mặt, hai thầy trò liền dừng ngựa quan sát tứ phía. Xa xa, hai bên tả, hữu trên những ngọn đồi, thấp thoáng nhiều mái nhà sàn của dân sơn cước, sau lưng tuyệt không bóng người, chỉ nghe tiếng súng vẫn nổ vang rền. Phía trước, bờ bụi ngổn ngang, dây leo dã bắt đầu chằng chịt trên cả mặt cỏ.
– Bắt vào đường mòn.
Chàng tướng núi đánh ngựa rẽ ngang, cứ thế cùng thủ hạ cho ngựa tiến lên, để lại phía sau tiếng súng nổ. Con đường mòn uốn khúc giữa cánh đồng có vẻ hoang dã dần theo vó ngựa phi, vắt cả lên những đỉnh đồi cao, hai thầy trò cứ mải miết đi cho đến khi tới một vùng núi đồi cao lớn nằm bên rặng núi đá ngất mây, thì tiếng súng đã chìm hẳn nẻo sông Bằng và mặt trời sắp gục xuống bên kia đỉnh núi.
Hai viên tướng buông lỏng tay cương, đưa mắt nhìn theo những đám mây trắng xốp, nắng chiều đang lững thững trôi về nẻo trời xa. Trong cánh rừng chiều, những tiếng vó câu khua bước một trên đường mòn, đưa hai người đàn ông giang hồ, một nhịp buồn khô, quen thuộc.
Voòng Lầu nhìn sang chủ tướng, vì thấy khuôn mặt chủ phảng phất như đang ảm sương chiều nắng quái, người thuộc hạ đứng tuổi giơ tay gãi trán liền mấy cái, vùng lấy hình nước đưa cho chủ:
– Thầy dùng cho đỡ mệt !
Lời nói của thuộc hạ khiến Đại Sơn Vương lúc đó mới thấy miệng đã khát khô, vội đỡ lấy bình nước ngửa cổ uống một hơi dài, đoạn tay lau miệng, tay trao bình cho thuộc hạ.
– A Voòng! Vùng này, có vẻ quạnh vắng lắm. Không biết chân núi đá đằng kia có bản nào gần không!
Voòng nhìn xuống đường mòn, và ngẩng lên đưa mắt về phía trước.
– May ra có bản gần đây, a thầy! Đây đã xa thị trấn lắm, có thể tìm chỗ nghỉ đêm cho lại sức, thầy!
Đại Sơn Vương chưa kịp nói, chợt nghiêng phắt đầu, lắng nghe mấy khắc và ghìm luôn tay cương lại.
– Voòng à! Có nghe thấy gì không?
Voòng Lầu cũng ghìm cương, nghe ngóng và chợt nhếch miệng cười:
– Trước mặt có suối, a thầy! Tiếng nước đổ thạch bàn nghe rõ lắm.
Chắc bản thổ cũng không xa?
Đang nói, chợt Voòng im bặt, nheo mắt, nghiêng tai, đoạn lẩm bẩm như nói một mình:
– Có tiếng người phía suối. Tiếng lanh lảnh vọng đến!
– Nghe nghẹ..
Hai thầy trò đưa mắt cho nhau, Đại Sơn Vương nhẹ hất đầu, và hai thầy trò lại tiến ngựa thẳng đường mòn phía trước. Càng đi càng nghe rõ tiếng người nói lanh lảnh, hai người xuống đến chân đồi quả nhiên đã thấy một dòng suối rộng trong vắt, chạy ngang trước đường mòn. Đại Sơn Vương cho ngựa tới bên bờ nước, ngựa Voòng cách nửa thân. Tiếng cười nói từ dưới suối vẫn hắt lên, nghe rõ tiếng đàn bà con gái, thanh thanh líu lo như chim hót. Voòng thuộc hạ vừa cho ngựa tiến lên sát chủ, hai thầy trò vừa ló đầu ra khỏi một bụi cây bên đường, thình lình Voòng thấy chủ tướng như bị điện giật, vùng ghìm cương quay lại, giơ tay làm hiệu cản, mặt viên tướng lạc thảo miền Thập Vạn Đại Sơn bừng sắc đỏ.
Nhưng không kịp nữa. Voòng thủ hạ vừa giật ghìm cương, thì ngựa đã ló ra khỏi bụi rậm, và viên tướng miền Bắc Hải cũng chợt giật mình như bị kiến đốt thình lình, quay vội sang bên chủ tướng.
Vì, dưới suối trong veo, bên tay tả, một đám thiếu nữ đang vùng vẫy đùa nghịch hắt nước lên nhau và cười khanh khách, có cô đứng hẳn bên bờ, tất cả đều tắm theo lối dân miền núi, xuất hiện thình lình đã đập mạnh vào mắt hai viên tướng. Trong mấy khắc chàng tướng ngang tàng và mơ mộng chợt tưởng tới những nàng tiên tuyệt sắc, thân hình thanh khiết giữa làn nước Ngọc Tuyền. Nhưng chẳng hiểu sao, viên tướng trẻ tuổi lẳng lặng quặt luôn tay cương cho ngựa quay đầu lại và liếc mắt nhìn Voòng. Voòng vẫn ngồi thẳng trên lưng ngựa, mặt hướng về phía các “tiên nữ” nguyên trong dáng điệu khi ngựa vừa nhô khỏi bụi rậm. Nhưng… riêng cặp mắt đã nhắm nghiền lại từ lúc nào rồi, khiến Voòng giống hệt một hình tượng đang tham thiền nhập định.
– Quay ngựa lại thôi chớ! Ngồi tham thiền mãi các cô nàng tưởng… mở mắt nhìn trộm đó!
Người thuộc hạ đứng tuổi nghe chủ nói, vùng giật tay cương khiến con ngựa hơi giật mình, quay đầu lại. Hai vật vừa khuất sau bụi chợt, hai thầy trò nghe dưới suối có tiếng cô gái cất lên:
– Quái! Nghe như vừa có tiếng chân ngựa đâu đây! Có ai nghe thấy không?
Tiếng cười đùa, té nước chợt im hẳn. Rồi có tiếng lao xao:
– Có ai đâu ! Bẩm… chắc tiếng hươu nai đấy!
Tiếng cười lanh lảnh của một cô gái chợt bật lên:
– Giờ này chắc chưa tới đây được! Hôm nay anh chàng Đại Sơn Vương chạy ngựa chắc không khát nước nhỉ!
Lời chưa dứt, tiếng các cô lại phá lên cười, và lại tiếp tục đùa nghịch. Hai thầy trò Đại Sơn Vương đưa mắt nhìn nhau, Hồng Lĩnh khẽ bảo Voòng Lầu:
– Quái! Ta nghe sao đám thiếu nữ này lại biết vụ giao đấu ban nãy ở Bằng Giang? Hẳn cũng đồng bọn đây!
– Dạ…. nhưng saọ..
Hai thầy trò nhìn nhau có vẻ ngạc nhiên, suy nghĩ nhiều về mấy cô gái đẹp cùng bọn thủ hạ có hành tung bí mật nhự.. rừng thẳm biên thùy. Nhất là hai cô gái miền núi đẹp hoang dã như hoa ngàn, ngôn ngữ, cử chỉ lại có vẻ thông minh tinh nghịch duyên dáng hệt gái Kinh thượng lưu, bản lĩnh lại tỏ ra không kém điêu luyện, cao cường, tuổi đôi mươi dám tranh chiến với tướng hải khấu gần ba mươi năm vùng vẫy miền biển Bắc.
– Thầy tính sao? Chẳng lẽ nào đợi đám con gái tắm xong?
Đại Sơn Vương ngửa mặt nhìn lên cao. Mây trắng đã úa vàng, từng vùng nối nhau, lững thững trôi về nẻo cuối trời nắng nhạt. Một tiếng gà rừng chợt cất lên đâu đây, eo éo buồn tênh…
– Ta phải đến chân núi đá dựng, trước khi mặt trời lặn!
Voòng Lầu khẽ đưa mắt về phía suối. Hồng Lĩnh giật nhẹ tay cương:
– Vòng nẻo khác vậy!
Hai con ngựa nhẹ bước một, quay lưng lại dòng nước “Ngọc Tuyền”. Mới được mươi thước lại nghe tiếng cười khanh khách từ dưới suối đuổi theo, chẳng biết vô tình hay cố ý, có vẻ tinh quái lạ. Chàng tướng trẻ Thập Vạn Đại Sơn nhìn sang Voòng, và khẽ nhún vai:
– Nếu các cô nàng là gái Kinh, tinh quái dám giễu cợt cũng đáng trị bằng cách giấu xiêm y cho bõ ghệt. Tiếc thay các cô lại sơn nữ.
Thấy chủ tướng nói đùa, Voòng cũng lây vui nhẹ, quên cả bực bội, cũng nhếch mép cười. Lùi đã khá xa suối, hai thầy trò mới tìm lối đánh ngựa vùng qua cuối dòng suối, và tiến về phía núi đá dựng trước mặt. Qua dãy đồi cao, ngựa vừa xuống tới chân dốc, chợt Voòng Lầu đi phía sau, bật kêu lên:
– Thầy a!
Đang ngồi lim dim nhìn cảnh rừng chiều, thình lình nghe thủ hạ kêu lên, Hồng Lĩnh liền phục luôn xuống bờm ngựa. Một mũi tên cánh lớn từ phía lùm cây bên tả thình lình bay vụt tới chỗ Hồng Lĩnh.
Nhưng tên chỉ vút cao trên đầu và cắm phập vào một thân cây bên hữu, ngay trước đầu ngựa chàng tướng lạc thảo. Hồng Lĩnh ngẩng phắt lên, đảo mắt nhìn về phía phát ra mũi tên.
Vút!
Lại mũi thứ hai bay qua mặt, cắm phập vào một thân cây kế cây trước. Voòng Lầu đã rút luôn súng ra, chĩa vào bụi rậm gần đấy, toan lảy cò. Nhưng Hồng Lĩnh đã giơ tay cản kịp, đoạn chàng đánh ngựa đến trước thân cây, ngẩng nhìn mũi lên cắm, còn đang lay động, lại thấy một phát tên thứ ba vút tới, cắm phập vào thân cây phía trước nữa. Hai thầy trò nghển cổ nhìn theo, thì thấy một bóng người thanh nhỏ cưỡi ngựa vọt thẳng về nẻo núi đá dựng. Không chậm trễ, Đại Sơn Vương bảo Voòng Lầu:
– “Họ” đã sai người đón chúng ta! Nào theo sát, Voòng!
Hai con ngựa nước hai sải vó gấp gấp theo hút ngựa lạ trước, hết lên dốc xuống đồi, qua suối. Lúc thầy trò Hồng Lĩnh vừa băng qua thung, chợt thấy ngựa trước mất hút sau giữa vùng núi đá điệp trùng.
Hai thầy trò vội ngừng nước phóng cho ngựa đi bước một, và đưa mắt nhìn quanh. Cả một vùng núi rừng quạnh quẽ nằm im lặng dưới nắng chiều. Tứ phía không một bóng nhà thổ dân, khiến hai thầy trò có cảm giác như mình đang tới một vùng hoang vắng như sa mạc. Vó ngựa vẫn bước một thẳng về chân núi. Hai người đàn ông giang hồ lắc lư trên lưng ngựa, mất quan sát quanh mình, cố tìm một bóng nhà sàn, nhưng hoàn toàn thất vọng. Mé tay trái chỉ có một con suối chảy qua mấy cánh rừng, và có một đoạn khá dài uốn khúc dọc chân núi.
Hai thầy trò lại cho ngựa tới khúc suối, tìm chỗ quang đãng men đến bến bờ nước. Suối chảy khá mạnh, có chỗ nước xói vào ghềnh đá, nghe ào ào như thác reo.
– Quái! Chẳng lẽ ngựa trước tới chân núi, lại biến mất ư?
Đại Sơn Vương lầm bẩm, nhìn quanh trong lúc Hải Sơn Vương cúi mặt đăm đăm nhìn nước đổ. Đoạn ngẩng lên bảo chủ tướng:
– Tôi đã có lần tới một nơi như chốn này. Chưa biết chừng…
Voòng chợt ngừng, và như có sẵn chủ định rồi, Voòng bảo Hồng Lĩnh:
– Thầy à! Ta cứ men dọc theo suối xem sao.
Đại Sơn Vương gật đầu:
– Ta thường nghe miền Cao Bằng có lắm cảnh lạ! Có lẽ đây đó Voòng?
Hai thầy trò nhìn nhau cười như đã hiểu rõ dự đoán của nhau. Bờ suối có chỗ nhiều bụi rậm dây leo, hai người phải len ngựa khá chật vật mới qua được. Tới một chỗ khá quang, chợt Voòng ngừng phắt ngựa, chỉ tay xuống mặt đất, hào Hồng Lĩnh.
– Thầy coi này!
Đại Sơn Vương nhìn theo tay Voòng trỏ thấy một vùng cỏ bị giẫm nhầu, có chỗ cỏ vẫn còn ướt. Chàng tướng giặc giang hồ ngẩng lên, nhìn ra suối nước, chưa kịp quan sát thêm thì Voòng đã trỏ khúc suối ăn vòng vào chân núi khá rộng.
– Thầy coi chỗ đó nước dỗ xoáy rồi mới chảy xuôi. Chắc có ngách hang ngầm. Để tôi xuống xem.
Miệng nói, chân nhảy phắt xuống đất, rơi luôn xuống nước. Bên kia, chỗ sát chân núi có những cành lá dây leo rủ xuống sát mặt nước trông khá kín. Suối không sâu, tuy chảy khá xiết, Voòng dè dặt lội qua, Đại Sơn Vương nhìn sang, thấy Voòng vừa khuất vào bụi rậm chân núi chưa đầy mươi khắc, đã reo lên khá to:
– Đây rồi! Có thế chớ!
Và Voòng ló ra lách bụi, trở lại nhanh bên này suối.
– Thầy a! Có hang ngách ăn vào chân núi. Có cả dấu người mới qua. Chắc lối thông ngầm!
Đại Sơn Vương nheo mắt nhìn sang bên kia bờ, bâng khuâng trông rừng già đang ngả nhanh sang màu vàng úa. Và viên tướng trẻ đánh ngựa xuống suối, Voòng theo sau, hai thầy trò bì bõm lội qua nước xiết, tới bên kia bờ. Nước chảy không xiết lắm, nên ngựa qua không khó khăn. Tới sát chân núi, Voòng Lầu tiến ngựa lên trước, vén dây leo cho ngựa chủ tướng lách vào, xong, lại buông dây leo rủ xuống như cũ. Vừa lách qua cành rũ dây leo, Hồng Lĩnh đã khẽ bật lên:
– Có thế chứ! Đúng đường ngầm rồi!
Ngay chân núi có một hốc đá hình cánh cung uốn trên mặt nước, trông như một cửa tò vò. Hốc đá ăn vào lòng núi, miệng bằng nửa cái nia, từ trần tới mặt nước, khoảng gần một thước Tây.
– Thầy a! Chỗ này còn nguy hiểm hơn độc đạo Hoa Dung, lành, dữ chưa tường, e …
Đại Sơn Vương ngó xem địa hình, đầu gật gật có dáng do dự. Phía sau lưng mặt trời đã gục hẳn xuống bên kia đỉnh núi Tây, cánh rừng quạnh vằng đang chìm trong ánh hoàng hôn và vùng không gian quanh cửa tò vò bắt đầu mờ sương đục. Đại Sơn Vương cúi sát mặt nước nhìn vào hang ngầm hun hút, cặp mắt lóe nhanh một quyết định. Chàng khẽ hất đầu bảo người thuộc hạ.
– Chắc bóng ngựa trước đã vào hang này! Và ta không nên để lỡ dịp quan sát một vùng cấm địa kỳ dị của Cao Bằng! Dứt lời, viên tướng lạc thảo thúc luôn ngựa, cho tiến mở lối vào cửa hang, Voòng theo sau. Nước ngập quá bụng ngựa, đầu hai người vừa chạm trần hang. Vào độ năm sáu thước, hang rẽ ngang phía trước tối om, phía sau chỉ thấy mờ mờ, rồi cũng tối hẳn. Hai người phải lấy roi ngựa khua quanh mình, lần lối, càng váo, hang ngầm như càng thắt lại, có chỗ phải nằm rạp trên lưng ngựa cho khỏi đụng trần. Hai thầy trò Đại Sơn Vương đi một lúc khá lâu, vẫn thấy tối om, ruột hang càng thắt lại, vách đá như muốn kẹp lấy người và ngựa, khiến có lúc hai thầy trò cảm thấy mình đang tiến dần vào đường cụt và không còn tin cả dự đoán của mình nữa. Dưới chân, nước vẫn chảy róc rách.
Đang khó thở vì bị kẹp giữa hai vách đá, chợt Hồng Lĩnh thấy nhẹ hẳn người, vội khua roi quanh mình, mới biết hang ngầm đã nở phình ra. Hồng Lĩnh nghe phía trước như có gió lùa, trừng mắt nhìn, thấy như đã bớt tối, chàng liền dừng ngựa, chợt ngạc nhiên vì không thấy tiếng chân ngựa sau lưng.
– A Voòng?
Không thấy tiếng đáp, Đại Sơn Vương vội quay lại gọi lớn:
– A Voòng!
Tiếng nước đổ khá mạnh, như muốn dìm cả tiếng người đi. Gọi mấy tiếng mới nghe tiếng thưa của Voòng nhưng ở cách sau lưng, khá xa. Không chậm trễ, Đại Sơn Vương đánh ngựa quay lại ngay, trong hang tối, hai thầy trò lần tìm nhau. Kịp khi Hồng Lĩnh tới được bên Voòng Lầu, thì viên tướng giang hồ không khỏi lạ lùng vì chỗ đó nước chì ngập tới móng ngựa, chưa đầy nửa gang tay.
– A Voòng! Sao không lên tiếng!
Trong bóng tối, Voòng thở mạnh, giọng rất thấp:
– Đáng lẽ tôi chưa lên tiếng vội! Thầy! Đây có lẽ nhiều lối đi, tôi vừa lạc vào một hẻm, hình như vừa chạm phải cái gì…
– Đánh lửa lên xem! Mà đèn bấm đâu, nãy giờ cũng quên khuấy.
– Có chớ, nhưng hình như rơi ban chiều mất rồi. Để tìm xem, may còn diêm.
Voòng lần khắp hành lý, loay hoay mãi mới lục được bao diêm, lại bị ẩm, đánh mãi mới lên lửa.
Lửa vừa bùng lên, hai viên tướng giặc ngang tàng vừa đảo mắt được nửa vòng, đã vội đưa mắt nhìn nhau. Vì, chỗ đó ruột hang ăn sâu vào thành một khu rộng đến mấy chục thước vuông, có lối ăn rẽ ra mấy ngã, trần hang khá caọ.. Từ trên trên rũ xuống nhiều thạch nhũ dị dạng. Lẫn với thạch nhũ, lủng lẳng mấy bộ xương người ôm một tấm gỗ khá rộng. Dưới nền hang trong hốc đá, lại có đến mười mấy bộ xương người lẫn ngựa, chó. Không bảo nhau, hai thầy trò Đại Sơn Vương cũng tiến ngựa đến trước tấm bằng gỗ, soi lửa coi. Trên bảng có nét dao khắc sơ sài, một hình hang đá, có nét sóng dập dờn, mỗi đoạn bên cạnh ghi một số. Cạnh có con số năm sáu, bảy, và nét sóng gạch tới sát nóc. Vừa ngó tới đó, Đại Sơn Vương thốt nhiên quay hỏi Vòng Lầu:
– Xem mấy giờ rồi!
Voòng ngạc nhiên, lẩm bẩm:
– Có lẽ tới sáu giờ rồi. Lúc vào cửa hang, mặt trời đã lặn. Miệng nói, tay Vòng lần rút chiếc đồng hồ quả quít ra xem.
– Gì đó thầy?
Đại Sơn Vương đảo mắt khắp ruột hang, và quay bảo Voòng, giọng chậm rãi:
– Hang này có thể ngập nước từ năm tới bảy giờ tối. Giờ đổ mưa nước lũ dồn xuống. Nếu bên ngoài đổ mưạ..
Chàng ngừng, chỉ vào tấm gỗ:
– Đây có ghi rõ cả!
Voòng Lầu vội đưa mắt nhìn quanh, ý thức ngay có nguy cơ thình lình mưa đổ. Người đàn ông giang hồ nghiêng tai nghe gió lùa, chưa kịp cất tiếng giục đã nghe bốn bề ầm ầm chuyển động, gió thốc ruột hang hun hút như tù và đêm đông âm u, rờn rợn và trên nóc hang như có sấm động chớp lòẹ.. Cùng lúc hai viên tướng già kinh nghiệm, khẽ bật lên như lời than dài tuyệt vọng:
– Mưa nguồn rồị..
Đại Sơn Vương mím chặt vành môi:
– Trời đang trút nước vào hang ngầm?
Voòng Lầu bất giác liếc nhanh những bộ xương chết rũ, nhanh giọng:
– Ta mau thoát đi thôi, thầy!
Đại Sơn Vương soi lửa xem bờ nước và ngẩng lên bảo Voòng:
– Mưa lũ lớn lắm! Thoáng cái nước đã lên mấy phân. Chỉ mươi lăm phút là tới nóc.
– Lùi hay tiến, a thầy!
– Đều không kịp. Phía sau, lui phải gần một giờ, lối trước hình nhự.. là lối cụt. Đi vào sẽ đụng vách núi.
Giọng viên tướng Thạp Vạn Đại Sơn trầm tĩnh lạ lùng, khiến người thuộc hạ phải mín chặt vành môi để nén xúc động quá bất ngờ.
Voòng ngó bờ nuớc, đánh ngựa ngược theo lối chủ tướng vừa đi. Chỉ mấy phút sau Voòng đã quay lại.
– Suối có thông, nhưng thạch nhũ lấp hết lối. Một con vịt mới có thể lách qua.
Bờ nước đã dâng ngập tới đầu gối ngựa và dưới ánh lửa úa vàng, nước lũ trông chẳng khác con thú dữ đang lồng lộn, độc hành. Đại Sơn Vương vẫn ngồi im trên lưng ngựa. Con vật có vẻ đã phát hoảng, phải ghim chặt mới chịu đứng nguyên. Trong phút nguy nan, hai thầy trò Đại Sơn Vương trở nên bình tĩnh khác thường. Hai người đánh ngựa vòng qua mấy lối hẻm, nhưng lối nào cũng tuyệt lộ, hốc chỉ ăn vào một vài thước là tới đá dựng như bưng. Đại Sơn Vương tần ngần đến trước bảng gỗ, lơ đãng xem lại nhưng nét khắc nguệch ngoạc.
Chợt cặp mắt quắc sáng.
– A Voòng! Tìm ra lối rồi!
Người thủ hạ tiến ngay lại, ngó vào bảng gỗ. Chẳng rõ có chi, đến nửa phút sau, hai người mới ngó về lối hẻm kín mít, và đưa mắt cho nhau. Nước đã lên đến đùi ngựa. Bên ngoài, hình như vẫn chớp loè sấm động. Hai con ngựa kinh hoàng hí mạnh hình như cũng biết đang ở trong lình thế thập phần nguy hiểm. Dưới vùng lửa bập bùng đỏ khè, khuôn mặt hai người đàn ông rắn lại như đá tạc.
Đưa mắt quan sát lại khắp các ngách hang như suy tính kỹ càng, Hồng Lĩnh khẽ hất đầu ra hiệu cho Voòng Lầu, đoạn hai thầy trò tiến ngựa tới ngách hang đầu gần nhất. Đến sát vách dựng, hai người quan sát khắp trên dưới thấy một vạch rêu phong ngay góc thành. Hồng Lĩnh thấy khả nghi, liền gõ tay vào đó, cảm thấy gõ gõ vào một viên đá rời. Chàng bèn lấy sức ấn mạnh, quả nhiên viên đá lùi ngay vào vách đá, để hở một lỗ hổng, có một vòng sắt tròn nằm ngay mép.
Hồng Lĩnh cả mừng nắm luôn lấy chiếc vòng, giật mạnh. Giật tới đâu thấy tường đá lấp ngách hang từ từ nâng lên lới đó, rất nhẹ nhàng, để lộ một ngách dài thăm thẳm. Hai người vội tháo nước ùa vào.
Nhưng nước chỉ thốc vào chừng hơn thước lại giật ra, nhìn kỹ thấy nền hang ngách chạy cao hơn hang ngoài. Càng đi vào sâu, lòng hang càng rộng, nóc càng cao. Chợt một mùi hôi khắm kỳ dị thốc vào mũi hai người. Và lập tức hai con ngựa hí lên, chồm vó trước không chịu tiến nữa. Voòng Lầu soi ngọn lửa về phía trước, chợt giật thót mình, khẽ bật lên:
– Lui lại, thầy! Quái vật!
Đại Sơn Vương nhoài mình hẳn về phía đầu ngựa và mím chặt vành môi. Cách đầu ngựa chừng ba thước, trước một hốc rộng một hình thù phi nhân phi thú đứng sừng sững chạm nóc hang, cặp mắt lồi đỏ ngầu nhìn thẳng về phía hai người.
– Dã nhân đêm nọ!
Voòng Lầu rút phắt súng ra. Nhưng Hồng Lĩnh vội cản:
– Không nên giết dã nhân, bất lợi cho ta sau này.
Dứt lời chàng rút trong mình ra mấy lưỡi dao lá liễu, ném cho Voòng Lầu. Hai thầy trò ghìm ngựa, khoa dao lá liễu trước ánh lửa, đợi chờ. Nhưng dã nhân vẫn đứng im, không nhúc nhích. Chẳng hiểu vì nhận ra ánh dao đã từng cắm vào thân thể đêm nọ, hay vì lẽ khác, quái vật có vẻ chờ đợi. Bên ngoài, vẫn chuyển sấm ầm ầm. Không thể kéo dài thời gian, Đại Sơn Vương liền nhích ngựa lên trước mặt quái vật. Con ngựa hí mạnh, vùng vẫy, muốn hất người xuống đất. Phải ghì chặt, thúc hông mãi, nó mới chịu bước, đầu vẫn lắc mạnh, chỉ muốn phá lộn lại sau. Cách chừng hai thước, chợt dã nhân từ từ tiến ra, đứng sững chắn lối. Thân hình cao lớn của quái vật như muốn chụp xuống vồ cả người lẫn ngựa. Lượng địa thế quá chật hẹp, khó xoay trở với dã nhân, hai thầy trò Hồng Lĩnh đưa mắt cho nhau đánh ngựa giật lùi ra. Dã nhân chỉ đứng nhìn theo không làm dữ. Giật mạnh vòng sắt cho cửa đá sập xuống, Hồng Lĩnh bảo thuộc hạ:
– Thể xác giống này kỳ dị lắm. Năm trước ở mạn Lao Kay – Lai Châu, có nhóm thổ săn gặp một dã nhân. Nã súng tới tấp, nhưng nó lè lưỡi liếm lành ngay vết thương. Sau phải hạ nó bằng từng loạt tiểu liên.
Nghe chủ tướng nói, Voòng Lầu cúi nhìn mực nước và lẳng lặng lôi ngựa tới ngách bên. Nhưng lại thấy sừng sững hình thù phi nhân phi thú đứng trước chắn lối. Cho tới ngách thứ ba cũng vậy. Trong đó nước đã dâng tới bụng ngựa, và sắp chấm nóc hang đường ngoài. Tình thế vạn nan không thể kéo dài hơn nữa, Hồng Lĩnh vội ra lệnh:
– Mở cả mấy cửa ngách ra. Ngách này ăn thông nhau như tổ ong, quái vật đều trấn giữ. Không thể tránh nó được nữa.
Nhanh nhẹn, Voòng Lầu giật tất cả cửa lên. Đại Sơn Vương ngắm ngạch thứ ba rung hơn cả, lập tức, hất đầu, giọng quyết liệt:
– Vào thôi! Nếu cần, hãy làm cho nó không thấy ngoại vật nữa.
Hai thầy trò Đại Sơn Vương khề sát nhau tiến ngựa thẳng vào ngách. Còn cách Dã nhân chừng ba thước, Voòng Lầu khoa ánh lửa như chong chóng, khiến quái vật phải đảo mắt ngó theo. Và bất kỳ xuất ý, hai người cùng lúc, phóng vụt hai lưỡi dao về phía dã nhân.
Vút! Vút! Hai lưỡi dao lá liễu loáng giữa vùng sáng úa và quái vật vùng rú lên, hai tay ôm lấy mặt. Cặp dao của hai người đã cắm phập vào mắt dã nhân. Đại Sơn Vương quát lớn:
– Lui mau!
Và không chậm một khắc, hai thầy trò đánh ngựa giật mạnh lui ra hang ngoài. Tiếng rú kinh khủng của dã nhân vang khắp lòng đá, và lúc hai thầy trò Đại Sơn Vương vừa tới cửa ngách, thì dã nhân đã vùng đuổi theo sau lưng. Nhanh như cắt, hai con ngựa chồm vào ruột hang. Hồng Lĩnh giật mạnh vòng sắt cho sập cửa lại, trong khi Voòng Lầu luồn sang đóng ngách khác. Bên ngoài quái vật gầm rú, phá cửa đá rầm rầm.
– Thoát mau thôi! Sức nó có thể nâng được một tảng đá ngàn cân!
Hai thầy trò đánh ngựa, noi theo ruột hang ngách lần ra. May, hang càng ra càng rộng, nên ngựa có thể chạy kiệu băm nhiều giai đoạn. Đi khỏi cửa ngách chừng trăm thước, hai người nghe phía sau có tiếng chuyển động như núi lở.
– Có lẽ nó phá được cửa rồi!
Tám vó câu chồm gấp gấp trên nền hang gập ghềnh, ngựa càng phóng, gió phía trước càng thổi vào thêm mạnh và lối đi càng mở rộng ra. Phía sau, là tiếng rú.
– Sắp đến cửa rồi! Nhanh lên thầy Hai con ngựa lao đầu giữa hai vách đá dựng, chuyển thình lình sang kiệu đại và bất ngờ vọt mạnh về phía trước. Ngựa đã vọt ra ngoài trời. Hai thầy trò Đại Sơn Vương cứ giữ tay cương cho ngựa phóng mình trong đêm mờ, sấm động. Ngựa băng qua cánh rừng thưa, một thung lũng rộng hiện ra trong đêm chớp. Hai thầy trò còn chưa kịp định phương hướng, chợt chớp mắt luôn mấy cái, cả hai vội co tay vuốt những giọt mưa chảy dòng trên mặt, mắt trừng nhìn phía trước.
Trong đêm rừng mưa gió, trước đầu hai người, thình lình hiện ra những ngọn lửa chập chờn.
– Thầy a! Có bọn cưỡi ngựa!
Đánh ngựa sát bên Voòng Lầu, Đại Sơn Vương nhanh giọng:
– Đến nước này cứ tiến thẳng và dè chừng bất trắc.
Hai con ngựa chồm đều. Voòng khoa đuốc lia lịa mở lối cho chủ tướng. Thoáng một cái, toán người ngựa phía trước đã ập tới trước hai viên tướng và dừng phắt lại. Hai viên tướng cũng ghìm luôn tay cương đưa mắt nhìn thẳng bọn người trước mặt. Những khuôn mặt lầm lì dàn hai bên, theo hình cung. Dẫn đầu là một cặp thiếu nữ tuyệt đẹp, vừa nhìn thấy, hai thầy trò Đại Sơn Vương đã không giấu được nét ngạc nhiên. Chính hai cô gái ngồi trên thuyền độc mộc tại Bằng Giang. Dừng ngựa, ngồi im, đưa mắt quan sát hai thầy trò Đại Sơn Vương, đoạn hai cô gái miền núi tiến ngựa lên sát đầu ngựa hai người.
Cô gái giao đấu với Voòng Lầu trước, nhoẻn miệng cười rất tươi:
– Chị em tôi có lời mừng hai ông đã vào được đây và thoát nạn lũ cuốn.
Ngừng một chút, cô gái hướng về phía Hồng Lĩnh:
– Đại Sơn Vương Thần Xạ đây, mà ban chiều tôi đã nhận lầm.
Nếu không có kẻ giữ hang thông báọ..
Sơn Vương đưa mắt nhìn Voòng Lầu. Chưa kịp nói gì, cô gái thứ hai đã tiếp:
– Vâng, lúc nào cũng có kẻ giữ hang, nhưng không được ra mặt, vì theo tục lệ ở động này.
Cô gái thứ nhất nghiêng đầu rất lễ độ:
– Từ phút này, hai ông là thượng khách của vua H Mông! Chúng tôi được lệnh về Cao Bằng đón Đại Sơn Vương, nhưng…chuyện còn nhiều ẩn khúc, đêm nay, thượng khách cần phải nghỉ ngơi.
Đoạn không đợi thượng khách nói nửa lời, cô gái tiếp:
– Ngoài này mưa to gió lớn, ta về động thôi!
Dứt tiếng truyền, mấy chục vó câu rừng cùng chuyển bước, và ngựa tùy tùng tránh dạt sang hai bên, nhường lối cho hai cô chỉ dẫn hai thượng khách qua, rồi mới lục đục theo sau. Hai thầy trò Đại Sơn Vương nhìn nhau, thở một hơi dài như muốn đuổi hết không khí gian hiểm của một ngày phong trần còn đọng trong lồng ngực. Đại Sơn Vương đi sát cạnh thuộc hạ, mấy lần Voòng có vẻ ngạc nhiên thắc mắc định lên tiếng hỏi chủ tướng nhưng thấy Hồng Lĩnh vẫn thản nhiên lại thôi. Thỉnh thoảng Vòng lại đưa mắt ngó hai thiếu nữ, lại nhìn chủ tướng. Dưới trời mưa tầm tã, đoàn người ngựa vẫn chạy kiệu băm đều, từ đó, hai cô gái đi kế bên hai thầy trò, nhưng không nói câu nào nữa.
Mưa vẫn đổ hồi. Thỉnh thoảng ánh chớp lóe lên, soi vội cảnh xung quanh, lá rừng bay tơi tả như bướm giữa những vệt mưa đan sáng loáng. Hai viên tướng nghồ im trên lưng ngựa. quan sát cảnh thung lung rừng lạ phía trước. Đi được chừng hai mươi phút, hai người đã thấy những nương ngô, sắn, rồi những dải ruộng hiện ra bên những dãy đồi rậm rạp. Vượt khỏi con đường mòn vắt qua đồi, ngựa hai cô gái Thổ hạ nước đi, thầy trò Đại Sơn Vương cũng buông lỏng tay khấu, đưa mắt nhìn quanh.
Ánh chớp soi tỏ một con suối khá rộng chảy mạnh dưới chân đồi, và dựa vào dãy đồi trước, từng lớp nhà sàn nối nhau, chạy dài, trông khá sầm uất. Cô gái lên tiếng bảo Đại Sơn Vương:
– Sắp tới rồi! Chỉ còn một dải đồng nữa.
Ngựa băng qua suối lũ, vượt lên giữa lớp sàn. Tự nhiên tiếng cồng chợt nổi lên, đổ mồ hôi gấp gấp, dư âm vương vấn mãi bên tai hai người đàn ông giang hồ. Hai người nhin suốt mấy dãy sàn, chỉ thấy thấp thoáng ánh lửa le lói sau phên nứa, tuyệt không có bóng người.
Ngựa vẫn bước đầu, cuối cùng leo ngược đường mòn vào tận đỉnh một đồi cao. Hai thiếu nữ giơ tay làm hiệu cho cả bọn dừng lại.
Từ phía sau lưng Đại Sơn Vương, ba người đàn ông sơn cước tiến ngựa vòng lên, tới trước hai thiếu nữ, người nào cũng còn cầm đuốc nhựa, có vỏ bịt như lồng đèn.
– Giờ các ngươi đưa quí khách về nhà riêng an nghỉ Chúng ta sẽ đến sau.
Cô gái thứ nhất quay sang hai thầy trò Đại Sơn Vương:
– Hai ông cứ theo họ về thay y phục còn dùng cơm, chắc cà ngày, cũng đói rồi?
Dứt lời cô nàng vẫy cô đi bên, đoạn cả hai cùng đám tùy tùng tế ngựa đi thẳng về nẻo rừng phía tả. Còn ba gã tùy tùng dẫn luôn hai thầy trò Đại Sơn Vương về phía phải. Đi độ non trăm thước đã tới một khu quang đãng có nhiều căn nhà thấp lè tè dựa ngay vào ngọn đồi. Họ dẫn Hồng Lĩnh, Voòng Lầu vào một căn nhà khá rộng, Voòng tháo yên cương, và đồ dùng ra, một gã đỡ lấy yên ngựa ném cho hai gã kia dắt đi đoạn đưa khách vào thẳng bên bếp lửa:
– Xin quý khách nghỉ ngơi thay y phục, chúng tôi đi lo cơm nước.
Hai thầy trò gật đầu cùng bước đến buồng, lần lượt thay y phục, đoạn ra ngồi bên bếp lửa. Lúc bấy giờ, cả hai mới thấy thấm mệt.
Voòng Lầu lục sắc lấy thuốc lá đưa cho chủ tướng. Lúc đó viên tướng mới chợt nhớ từ trưa chưa được thưởng thức hương vị khói thơm. Voòng biết chủ tướng đang có điều suy tính quan hệ trong lòng.
Mấy lần, Voòng định lên tiếng hỏi, lại thôi. Lát sau xôi đồ, gà luộc, thịt rừng… dọn lên cùng chai rượu cẩm ngâm mật gấu pha mật ong.
Hai thầy trò dùng xong, Đại Sơn Vương truyền Voòng Lầu cùng đi ngủ luôn. Người thủ hạ thấy chủ tướng vừa đặt lưng xuống sập đã ngủ thiếp ngay như một người vô tư lự.
Sớm mai, hai thầy trò vừa thức đã thấy người lên mời Đại Sơn Vương tới gặp hai thiếu nữ sơn cước hôm qua. Để Voòng Lầu lại nhà khách, Đại Sơn Vương theo người thổ dân xuống thang, đi sang bên kia sườn ngọn núi. Gần trưa, Voòng nhìn ra, đã thấy chủ tướng trở lại cùng người đàn ông trước. Hồng Lĩnh cười chỉ hắn, bảo Voòng:
– Đây! Voòng Sềnh! Cận tướng của vua Hoàng Su Phì! Đoạn chỉ Voòng, bảo hắn:
– Và Voòng Lầu, vốn có danh Hải Sơn Vương Bắc Hải đó!
Hai người đàn ông cùng tỏ vẻ ngạc nhiên, cúi đầu chào nhau, xong, đều có vẻ nghĩ ngợi điều chi. Đại Sơn Vương mỉm cười vỗ vai hai người:
– Cả hai cùng họ, một Hoàng Su Phì, một Bắc Hải, có thể thân thuộc nhau không? A Voòng! Chúng ta sẽ lên Hoàng Su Phì?
Có Voòng Sềnh dẫn lộ!
Voòng Lầu ngạc nhiên:
– Dạ…. thế thầy. Không xuôi Hà Nội?
– Có chớ! Ngày hẹn Hoàng Su Phì còn gần tuần lễ. Xuôi Hà Nội, rồi ngược đường Hà Giang!
Đại Sơn Vương quay bảo Voòng Sềnh:
– Hãy sửa soạn, còn lên đường.
Người đàn ông H Mông cúi đầu, lui ra để hai thầy trò Đại Sơn Vương lên thang. Thấy chủ tướng có dáng vui, Voòng Lầu thấp giọng:
– Thầy a! Còn… công việc kia, thầy định…
Không để thuộc hạ nói dứt lời, Hồng Lĩnh ngắt luôn:
– Hãy để đó đã. Ta cần đi Hoàng Su Phì, một công đôi ba việc.
Không nên bỏ lỡ dịp tới đất vua Mèo.
Chàng trầm giọng ghé sát tai người thủ túc đến nửa phút. Voòng nghe, mắt sáng lên, đầu gật lia lịa. Xong, có dáng suy nghĩ, người thuộc hạ bảo chủ tướng:
– Vậy tới Hà Nội tiện đường, tôi sẽ xuống Phòng, truyền cho bọn Bắc Hải biết lệnh thầy. Nhưng sao không thanh toán việc kia ngay?
Tôi ẹ..
Hồng Lĩnh đặt bàn tay lên vai thuộc hạ:
– Ta đã suy tính kỹ. Nên ngược Hoàng Su Phì đã! Giờ hãy sửa soạn, tối còn dự tiệc cùng nữ chúa Voòng Chí Plan!
– Dạ….
Voòng không dám hỏi thêm, vội lo thu xếp mọi thứ trong khi viên chủ tướng ngang tàng và… mơ mộng lần ra bờ suối ngoạn cảnh như một khách nhàn du.
Xẩm tối, Voòng Sềnh cận tướng vua Mèo đã tới đón hai thầy trò Đại Sơn Vương. Đoạn ba người lên lưng ngựa, hành trang chuẩn bị đầy đủ thồ sau yên, rời nhà sàn khách, tiến sang bên kia đỉnh núi, tới căn nhà nữ chúa Voòng Chí PLan. Tới trước một căn nhà sàn vô cùng rộng rẫi, trông đúng dinh thự của các tù trưởng sơn cước, ba người dừng ngựa nhìn vào, đã thấy đèn đuốc sáng rực, kẻ qua người lại đông như hội, ngựa buộc rải rác khắp sân trước vườn sau.
Voòng Sềnh đưa hai thầy trò Đại Sơn Vương qua sân, thẳng tới cầu thang. Ném cương cho mã phu túc trực sẵn, ba người lên thang.
Từ cuối sàn, Voòng Chí PLan cùng cô em tiến ra, cúi chào khách Đại Sơn Vương và đưa vào an tọa trên chiếc ghế tay ngai, ngay giữa hai chị em Voòng Chí PLan.