Bạn đang đọc Thập Vạn Đại Sơn Vương – Chương 18: Theo Vết Chim Trời
Ngay sau đêm Khách Giang Hồ rơi xuống vực thẳm muôn trượng, viên tướng Thập Vạn Đại Sơn tìm không thấy xác bạn, không thấy tăm tích lão tặc Phản Tây Phàn, và cả hai cô gái họ Cầm, chàng tướng núi chợt sinh nghi, liền tạm rời Tây Bắc, về thẳng Hà Nội. Đảo qua mấy bệnh viện lớn, không gặp, chợt nhớ có lần Phượng Kiều nhắc đến nhà riêng tại khu Hàng Cỏ, chàng tìm đến, lân la hỏi thăm những người bán hàng quanh đấy, biết được biệt thự Phượng Kiều, cả mừng cải dạng làm một khách trú lần tới. Đến nơi, thấy mấy viên cảnh sát từ trong nhà bước ra, chàng liền đứng lại bên kia đường chờ bọn người nhà nước bảo hộ đi khỏi mới tiến đến trước cổng. Nhìn vào trong, không thấy ai, chợt nghe tiếng gió sau lưng, viên tướng núi vội hụp luôn, đồng thời, xoáy ngoặt mình lại nhanh như cắt. Một bóng vạm vỡ từ trên cây chụp xuống, bị hụt đà, chưa kịp gượng, đã bị chàng tướng núi quài tay ghì chặt lấy, dằn giọng:
– Mi là ai? Sao dám đánh lén? Muốn sống nói ngay.
Gã vạm vỡ toan cất tiếng kêu đã bị chàng điểm huyệt kéo đến bên gốc cây, trừng mắt toan hỏi nữa, chợt nghe gã ú ớ:
– Cô Ba… cô Ba…
Chàng vội giải huyệt cau có:
– Mi là người của cô Ba? Thế cô Ba đâu?
Người đàn ông ngơ ngác ngó chàng tuổi trẻ trong lốt khách trú, bất ngờ bật lên khẽ:
– Đại Sơn Vương? Trời… ông về chậm quá… cô Ba vừa bị chúng bắt đi mất rồi.
Đại Sơn Vương giật mình, lay mạnh vai tên gia nhân:
– Sao? Cô Ba bị bắt? Bao giờ?
Tên gia nhân vội kể sơ qua chuyện nữ chủ bị bắt đoạn lễ phép mời chàng vào nhà. Ngay lúc đó, xe Hai Cao vừa về. Thấy viên tướng Thập Vạn Đại Sơn, người tùy tướng của Phượng Kiều đã giậm chân tiếc hận:
– Trời… ông chỉ về sớm mấy giờ, cô Ba đã không mắc nạn. Bọn chúng đã đưa cô Ba về phía Hải Dương rồi!
Tướng núi nhếch miệng cười khan rồi ngoắt mình đi ngay. Ra đến ngoài, chàng trai trẻ đến thẳng ga Hàng Cỏ. Còn lâu mới có chuyến tàu. Lòng như lửa đốt, chàng tìm vào một quán nước gần ga, ngồi suy nghĩ. Qua lời Hai Cao kể, chàng không tìm được một tia sáng nhỏ nào rọi vào bức màn bí mật bao trùm vụ bắt cóc. Nghĩ nát óc không thể đoán nổi bọn lạ là ai, chợt một ý tưởng thình lình hiện ra trong óc, chàng liền ra ga. Tới Hải Phòng, phố xá đã lên đèn. Đi quanh thành phố đến nửa đêm, Đại Sơn Vương cho xe ra thẳng Đồ Sơn, tìm đến nhà thủ hạ của Voòng Lầu báo tin cho các bộ hạ dọc duyên hải biển Trung Hoa, xong quay lại Cảng luôn. Ở lại mấy hôm liền không lần ra chút manh mối, chàng liền lên miền sơn cước cưỡi Hắc Phong Câu đi tìm khắp chốn, vẫn tuyệt tăm tích người yêu. Sực nhớ tới gã trẻ tuổi đã bắt cóc Phượng Kiều, chàng tướng núi bèn đi tìm “Suối Bạc Đầu”. Một buổi, Đại Sơn Vương tới một thị trấn nhỏ miền biên giới, trời đã sang thu, khí núi lạnh ngắt, bèn tìm vào một quán rượu mua vài ly đổ cho con Hắc Phong Câu, nhân tiện nghỉ chân chốc lất. Chàng vừa ngồi vào bàn đã thấy hai gã lạ mặt dừng ngựa trước quán, bước vào, đập bàn gọi rượu thịt, và ngồi nhỏ to có vẻ khác thường. Chợt nghe thấy người mới vào thoáng nói đến hai tiếng “Bạc Đầu” rồi lại “Si Pan”, chàng giật mìmh, cả mừng liền cạn xong ly rượu, đứng lên trả tiền ra ngay, lên Hắc Phong Câu vào chỗ khuất đứng đợi.
Chừng mười lăm phút sau, chợt thấy mấy tên cưỡi ngựa từ đâu tiến thẳng đến trước quán rượu, rồi có nhiều tiếng súng nổ vọng ra, chớp mắt đã thấy ba tên đến trước từ trong phóng lên mình ngựa chạy. Đại Sơn Vương lập tức phóng ngựa theo. Ngay lúc đó chợt từ phía rừng trước vài bóng người ngựa nữa xuất hiện, cản đường ba gã trước. Thình lình bị vây chặt, ba tên vội rẽ ngang. Đại Sơn Vương liền thúc Hắc Phong Câu vọt lên, nháy mắt đã đụng đầu ngựa ba tên đang chạy. Chàng phất tay, lớn tiếng:
– Cứ chạy thẳng. Để ta cản lối chúng cho.
Dứt lời, chàng bay ngựa đến gần mấy tên rượt đuổi, nã súng liên hồi. Thấy ba tên trước đã quất ngựa vào cánh rừng khá rậm. Sợ mất dấu, Đại Sơn Vương liền phóng ngựa ra nhử cho địch rời khỏi chỗ nấp, bắn vãi luôn vài phát nữa, đoạn thúc ngựa Hắc Phong vọt đi. Chớp mắt đã gần kề ngựa trước, chàng tướng núi gọi lớn:
– Chúng chạy xa rồi! Hãy chậm lại, ta có điều muốn hỏi.
Không nghe thấy chàng gọi bọn lạ vẫn rạp mình ra roi. Đại Sơn Vương liền quất Hắc Phong Câu vượt lên, quay ngang chắn đầu ngựa ba tên. Cả ba tên đành dừng lại, giương mắt ngạc nhiên ngó chàng. Đại Sơn Vương cắm súng vào bao, mỉm cười:
– Các chú người Suối Bạc Đầu? Đi đâu lại để giặc Si Pan theo hại?
Vẻ ngạc nhiên hiện rõ trên mặt ba gã lạ, một tên mở to mắt:
– Thưa tướng quân… có biết anh em chúng tôi!
Đại Sơn Vương mừng thầm, gật đầu thân mật:
– Là ta đoán thế! Ta có việc muốn gặp chúa đảng các chú!
– Nhưng tướng quân là ai?
– Đại Sơn Vương.
Ba tên cùng tái mặt, nhớn nhác ngó nhau:
– Người… Chính là Chúa Tướng trên Thập Vạn Đại Sơn?
Đại Sơn Vương phất nhẹ tay, giọng như truyền lệnh:
– Đưa ta tới suối Bạc Đầu! Và biết điều đừng để súng ta ra khỏi bao.
Cùng lúc, cả ba tay cương giật mạnh. Ba con ngựa vọt đi. Vó ngựa đã giẫm trên hàng cỏ phân mao. Ngẩng lên, thấy một ngọn núi ngút trời, mây giăng trắng xóa, xa trông, thấy rõ một vệt nước vắt lưng trở như dải lụa bạch căng dưới trời Tây Bắc chếch. Tên đầu bọn trỏ tay lên núi:
– Thưa… đã tới suối Bạc Đầu, ngọn thác kia đổ xuống miền doanh trại.
– Đây tới đó còn bao xa?
– Qua khỏi mấy ngọn đồi, vào chân núi đá là tới trạm đầu tiên.
Đại Sơn Vương dưa mắt quan sát kắp vùng thấy có vẻ hiểm trở khác thường, suy nghĩ mấy khắc, đoạn phất nhẹ tay:
– Đưa ta vào thẳng sơn trại!
Bọn lạ tần ngần, vẫn đứng im. Biết chúng sợ mệnh chúa đảng, chàng cau mày, trừng mắt:
– Cứ tiến lên. Đến gần, ta sẽ cho về báo trước.
Bốn con ngựa lại chạy nước kiệu băng quanh co một lát, tới một hẻm núi, thình lình ba con ngựa trước chồm ngoặt ngay sau hẻm. Đại Sơn Vương cả giận vội vỗ Hắc Phong Câu vọt lên, vừa lúc cả ba tên chĩa súng tại. Chàng tướng núi đã nhảy vụt xuống, chân vừa chấm đất, một tay đã vay về phía trước.
Liền hai tên nhào luôn xuống đất, tay chưa kịp lảy cò. Tên thứ ba vừa kịp nã một phát. Hắc Phong Câu đã kề bên như gió, Đại Sơn Vương xoè tay chặt một nhát ngang cần cổ, gã nhào xuống theo. Chàng tướng núi nắm ngực áo hắn lôi dậy, quắc mắt.
– Sức chúng bay được bao nhiêu mà dám định lừa hại ta! Ta không nể tình, mạng chúng mi còn đâu?
Dứt lời, chàng thu hết đạn, bắt cả bọn bị thương lên ngựa trói thành một dây, đoạn quất mạnh cho ngựa lồng lên.
– Về báo với chúa tướng có Đại Sơn Vương thăm sơn trại.
Chờ cho ngựa trước đi khá lâu, chàng tướng núi mới cho ngựa tiến lên. Đi được nửa dặm ngàn, hết thung lũng tới con đường mòn chạy vào hẻm, hai bên núi dựng như thành. Còn đang đảo mắt quan sát đã nghe từ trên cao, từng hồi cồng đổ dồn vang truyền khắp vùng núi thẳm, dư âm vang như man dại ngân nga trong buổi chiều tà. Rồi tứ phía, tiếng tù và rúc lên như đáp ứng, nghe âm vang như tiếng gió lùa ống bương đêm đông. Thoáng cái, tiếng cồng, tiếng tù và đã im bặt, trả lại cảnh lắng sâu cho cánh rừng biên giới. Và giữa vùng không gian thăm thẳm, bất ngờ, từ trên ngọn núi chênh vênh, tiếng địch bổng chìm rót xuống, thanh âm theo trận gió chiều thu vút lên cao tít mơ hồ xa xôi, rồi thình lình đổ xuống, chờn vờn quanh bờm ngựa. Chàng tướng trẻ nghiêng đầu lắng tai nghe tiếng địch lộng thổi non cao, như muốn ru hồn khách dọc ngang vào mộng ảo. Chợt tiếng địch lạ lùng chuyển khúc, âm thanh rúc rích như tiếng cười bên tai. Viên tướng lạc thảo cả giận, ngửa mặt nhìn lên núi cao.
– Tên này ngạo nghễ, dám đón ta bằng tiếng địch trêu ngươi.
Đoạn tướng núi thúc ngựa tiến vào hẻm núi. Qua hẻm, nghe tiếng nước đổ ầm ầm, một con suối rộng lồng lộn chắn đường, bọt nước tung trắng xóa. Ngay bờ, có cắm tấm bảng đề “độc đạo.” Bên kia bờ suối, con đường mòn chạy vòng vèo tới chân núi, ngay đầu đường, đứng sừng sững đến mấy chục kỵ sĩ súng gươm tua tủa dàn thành hàng ngang, sát khí đằng đằng, ẩn hiện sau cây lá, có những chòi canh dựng theo thế liên hành. Hình như cả bọn ky sĩ đứng chờ “khách” qua suối. Tướng núi ghìm cương, lượng chiều rộng suối. Tám thước có dư. Tình cờ, ngó lại sau lưng đã có một đám kỵ sĩ nữa dàn hàng bít cửa hẻm. Chàng tướng lạc thảo nhẹ tay vuốt bờm ngựa quý:
– Hắc Phong Câu, mi đã giúp ta nuốt bao dặm đường xa tìm nữ chủ! Nay suối độc cản đường, mau trổ lực thần, đưa ta qua thác lũ!
Dứt lời, chàng tướng núi thúc ngựa chạy dọc theo bờ suối vòng ra xa một chút, trỏ roi lên khúc nguy hiểm nhất vì có một thạch bàn ngầm đội hẳn nước lên, và thúc mạnh gót chân vào hông tuấn mã. Hắc Phong Câu hếch mõm hí một tràng dài, dứt tiếng, tuấn mã sải vó như gió cuốn, đến bờ suối, con vật tung mình hẳn lên cao, lao trên ngọn thạch bàn, đã bay qua suối rộng êm không.
Hắc Phong Câu vẫn thủng thỉnh bước một, tướng lạc thảo ngồi trên lưng ngựa như pho tượng thép, thân mình hơi lắc lư theo nhịp vó câu và lạnh lùng vào giữa hàng súng chĩa. Cặp mắt Đại Sơn Vương vẫn nhìn thẳng, nhưng nếu tinh ý sẽ thấy tướng núi đã kín đáo đề phòng bất trắc. Nhưng khắp hai hàng kỹ sĩ lạ vẫn ngồi im trên ngựa, bàn tay như đã dính vào súng.
Ngựa cứ chậm bước vào gần chân núi. Sau lưng Đại Sơn Vương vẫn nghe có tiếng vó ngựa nhẹ khua, biết có kẻ theo sau nhưng cứ thản nhiên như không, vừa tiến vừa đưa mắt quan sát từ bụi cây ngọn cỏ. Đi tới sát chân núi, thấy một điếm canh ngay bên cánh cổng lớn, chàng dừng ngựa, nhìn vào trong, thấy lố nhố dao súng lởm chởm, một gã chạy ra lẳng lặng mở rộng cánh cổng và cúi đầu đứng sang một bên. Viên tướng núi cho ngựa đến trước căn nhà chính giữa. Một hồi cồng nổi lên, vang truyền khắp sườn núi.
Tướng lạc thảo Thập Vạn Đại Sơn chậm chạp quay cương đầu yên, nhẹ thúc ngựa tiến thẳng đến trước thềm, hai tay chàng tướng núi buông thõng bên sườn, cặp mắt trông thẳng vào phía trong sẵn sàng chờ. Bên trong, vẫn chưa ai nhúc nhích.
Chợt từ phía chính giữa, một người đứng lên, cặp súng trễ bên sườn. Đại Sơn Vương vừa trông thấy hắn, đã nhận ra ngay nhưng vẫn ngồi im chờ đợi. Gã tuổi trẻ tiến ra, cách Đại Sơn Vương chừng mươi bước, ngừng lại. Vừa tầm súng, cả hai chòng chọc nhìn nhau. Đại Sơn Vương dõng đạc:
– Phải chăng ông là Chúa Thác Bạc Đầu?
Chàng trai trẻ hơi nhếch miệng cười:
– Ông đến thình lình, chúng tôi không kịp nghênh đón. Dám hỏi ông có điều chi dạy bàn?
Đại Sơn Vương cau mày, cười lạt:
– Hồng Lĩnh này dường xa dặm thẳm mới tìm được suối Bạc Đầu, khi nào chịu về không. Xin trao trả Phượng Kiều cho súng khỏi ra bao.
Chàng trai trẻ nhíu hẳn lông mày, đăm đăm nhìn khuôn mặt ngầu sát khí của Đại Sơn Vương:
– Chính trước đây tôi đã dụng ý bắt cóc Phượng Kiều để mời ông đến núi thác. Nhưng sau lần bắt hụt, tôi chưa hề hạ sơn. Quả có nghe tin Phượng Kiều bị bắt, nhưng cũng chưa rõ kẻ nào chủ mưu!
– Lời ông nói, chẳng dám không tin. Vậy xin có lời cáo biệt.
Đại Sơn Vương đi khỏi vùng đại sảnh đã nghe tiếng cồng chuyển khắp núi rừng và có nhiều tiếng tù và lại rúc lên. Xuống tới chân thác, đi đến bờ suối ngoài vẫn không gặp chi cản trở. Ngồi trên lưng ngựa, viên tướng núi đưa mắt quan sát kỹ càng địa hình địa vật, đoạn cho ngựa vượt qua suối rời sơn trại. Chờ mấy giây, Đại Sơn Vương liền nương sương đêm tiến đến, áp hẳn má xuống mắt nhìn ngược lên, thấy hai bóng đen nhỏ nhắn đang chụm đầu vào nhau, nhỏ to, giây lâu đoạn men theo bờ thác, lên cao, có vẻ đã quen thuộc đường lối lắm. Đại Sơn Vương theo sát, chỉ cách chừng mươi bước. Chợt có tiếng chân giẫm trên lá rụng, nghe rào nhẹ như tiếng chồn cáo đi đêm. Hai bóng đàn ông cao lớn xách súng từ trên đi xuống, bước một thận trọng như người săn đêm, lưng dựa vào nhau súng chĩa hai bên. Thình lình một tia đèn bấm loé lên, rê thẳng vào chỗ hai cái bóng trước ẩn. Đại Sơn Vương vừa thấy ánh đèn dừng lại đã nghe liền hai tiếng bịch khô khan. Ánh đèn tắt phụt. Nhìn ngược lên, chàng đã thấy hai cái bóng nhỏ nhắn đứng kề hai bóng quân tuần núi, nhẹ nhàng đỡ hai bóng lớn vừa đổ xuống như hai cây chuối.
Đại Sơn Vương lách mình nhận được là hai bóng thiếu nữ mặc toàn đồ đen chẽn, bên mình có giắt đoản đao, súng ngắn. Nhưng trời mờ tối lại thêm khuất bóng núi, nên chàng không trông rõ mặt cặp thiếu nữ. Chợt mọt bóng khẽ thì thào:
– Đây lên trại còn mấy chặng quân tuần nữa, tính sao cho tiện!
– Cứ lên thẳng! Hạ chúng hết là hay hơn cả. Một giờ nữa chúng đổi gác mới biết được.
Nghe giọng nói quen quen nhưng chưa đoán được, Đại Sơn Vương còn lắng tai nghe thì hai thiếu nữ đã thoăn thoắt leo lên. Chàng tướng núi lẳng lặng theo sau. Quả nhiên bản lãnh hai cô gái rất cao, vượt suối từ chân thác tới khu trại trên, hai nàng đã hạ êm thêm ba cặp quân tuần nữa, vô tình mở đường cho chàng tướng núi. Tò mò, Đại Sơn Vương cũng tiến theo sát. Lạ thay, hai cô gái như không chú ý gì đến vùng sảnh trại, cứ vượt qua hẳn mấy dãy nhà, đến một vùng núi ăn vùng vào trong, có vẻ quạnh vắng, hai nàng mới dừng lại, như chờ đợi ai. Khá lâu sau, một nàng thì thào:
– Sao lâu thế? Mãi chưa có ám hiệu…
– Hắn sắp ra, chị cứ yên tâm. Thế nào ta cũng ra tay trước Đại Sơn Vương mà!
Chàng tướng núi nghe rõ hai nàng thì thầm nhắc đến tên mình, không khỏi thêm ngạc nhiên, vừa may hai nàng cùng quay ra.
– Nữ tặc Phản Tây Phàn! Hai con giặc cái này đột nhập nơi này có việc chi đây? Phải chăng…
Chợt từ phía sảnh, có bóng người xách súng đi ra, tiến thẳng đến chỗ hai cô gái họ Cầm:
– Sao? Chủ soái ngươi đêm nay ở đâu?
– Ở trong hang ngầm. Người vừa rời căn sảnh lúc đầu canh hai. Giờ này chắc đã nghỉ rồi.
– Trong hang có bao nhiêu người?
– Bẩm… thường chỉ vài viên cận tướng. Nhưng đêm nay cận tướng ở cả trại ngoài trại trong.
Đại Sơn Vương đang nấp rình hai nữ tặc xem họ đang làm gì, chợt nghe bọn nữ tặc cất tiếng hú. Còn đang ngạc nhiên không rõ nữ tặc hú hiệu chi, chỉ thoáng chốc đã thấy nhiều bụi cây xao động nhẹ rồi có nhiều bước giẫm trên lá rụng êm như tiếng cáo chạy. Chợt một hơi gió thoảng phào phả vào mũi chàng một mùi tanh khẳm muốn lộn mửa. Rồi từ phía sau núi, hai ba con báo gấm bước ra, lừ lừ tiến thẳng đến trước cặp nữ tặc họ Cầm. Đang mải quan sát mấy con thú dữ, lại nghe sau lưng có tiếng xào xạc tới gần, viên tướng lạc thảo lập tức nương bóng tối lách ra xa chút, đã thấy có mấy con báo nữa hiện ra, đi qua ngay chỗ chàng vừa nấp, đến phục trước Nữ Thủy Thần Hồ Ba Bể. Nữ tặc ghé sát xuống như nói gì với đàn thú dữ. Lập tức, từng con một lui ra trấn mỗi con một góc, chỉ còn một đôi đứng lại. Cặp nữ tặc liền tiến đến bên vách núi, hai con báo theo sau. Có vẻ đã quen biết cơ quan bí mật, hai cô gái họ Cầm tiến đến, trong nháy mắt đã mở được cửa hang ngầm lách vào mất dạng.
Chàng tướng núi muốn vào theo, lại vướng đàn báo dữ canh ngoài, nếu hạ được, thế nào cũng gây tiếng động mạnh vang về sơn trại, nên đành cứ đứng nguyên định chờ cho hai cô gái trở ra.
Chợt lại thấy bóng một người đàn ông vừa rón rén bước tới, nghe ngóng giây lát, lại quay ra. Đại Sơn Vương nẩy luôn ý định, liền bước theo gã đàn ông. Đi lên gần khu sơn trại lại thấy một bóng nữa từ trong tiến ra thì thầm:
– Sao?
– Thưa, hai nữ tặc đã nhập hang ngầm rồi. Bên ngoài có đàn báo dữ canh phòng.
– Chà! Nữ tặc Tây Phàn gớm lắm, nhưng địch sao nổi kế chủ tướng ta… Thôi! Chú cứ lảng vảng đây chờ nữ tặc sa hố, ta đi yết kiến chủ tướng ngay mới được.
Đại Sơn Vương biết nữ tặc Tây Phàn đã mắc mưu viên tướng suối Bạc Đầu, bèn theo sát gót tên đầu mục không chậm một giây. Tên đầu mục lùi lũi đi qua khu sảnh, tiến về phía ngọn thác, noi theo con đường mòn chạy xuống chân núi bắt đầu vào một hầm nút cuốn tò vò đen tối như một đường hầm tàu qua núi. Nhưng dưới chân, mặt đá lại ít gập ghềnh. Đề phòng hẻm núi có quân canh, chàng men sát vào vách đá, thỉnh thoảng lại áp tai nghe ngóng rồi mới tiếp tục lần theo.
Bóng tối chợt lùi lại phía sau, Đại Sơn Vương chợt thấy mình đứng trước cửa hầm, cách mấy thước vách núi dựng như thành và con đường đột nhiên bị núi cắt cụt hẳn. Đảo mắt tìm kiếm cũng không thấy bóng viên đầu mục đâu nữa. Ngạc nhiên, chàng bước đến sát vách núi ngửa mặt trông lên. Phía trên, ngọn núi như hình hoa sen, chợt có một hình người lơ lửng vắt vẻo như con khỉ thoáng in hình mơ giữa nền trời tối nhạt, kế phía tả vách thành. Đại Sơn Vương chạy lại phía dưới chân, cả mừng nhận ra hình người đang leo dây, đầu dây buông thõng còn giẫy giụa ngay dưới tầm tay chàng, chiếu thẳng xuống vực thẳm.
Trên đỉnh núi, bóng đen đã khuất dạng. Chờ thêm mấy khắc không thấy chi lạ, Đại Sơn Vương liền nắm đầu dây, dùng thuật kinh thân leo lên vùn vụt như con mối, thoáng cái đã tới ngọn. Buông dây, nhìn quanh, viên tướng núi suýt bật lên một tiếng kêu ngạc nhiên vì một vùng đất khá rộng vừa hiện ra như một cánh thung nhỏ, nhà cửa cây cối nằm bằn bặt dưới ánh trăng khuya. Đại Sơn Vương hướng thẳng về phía có nhà cửa, nhận ngay được hình dáng viên đầu mục vừa lên, tiến thẳng đến trước căn nhà lớn nhất. Không chậm trễ, chàng tướng Thập Vạn Đại Sơn Vương cũng tiến tới quan sát khắp nơi.
Trong nhà, nhựa tràm thắp sáng choang. Viên chúa thác Bạc Đầu đang ngồi trầm ngâm thìn thoi lửa trám vật vờ, như đang suy nghĩ điều chi. Hai viên cận tướng đứng tại góc nhà túc trực chờ lệnh. Gã đầu mục từ ngoài vào kính cẩn cúi đầu:
– Thưa chủ soái, lệnh chủ soái truyền chúng tôi đã thi hành xong. Hai con nữ tặc Si Pan đã lọt hang ngầm và giờ này có lẽ đã sa lưới.
Viên Chúa Thác Bạc Đầu vẫn đăm đăm nhìn ánh lửa vật vờ:
– Thế còn… Đại Sơn Vương? Tướng tuần núi vừa trình đội quân canh dọc đường đến thác đều bị hạ ném vào bụi rậm. Có lẽ Đại Sơn Vương đã vào sơn trại.
Viên đầu mục mỉm cười tự tin:
– Thưa, khắp nơi sơn trại quân ta vẫn canh phòng cẩn
mật, Đại Sơn Vương có cánh cũng khó lọt mắt quân canh. Xin chủ soái cho lệnh về… hai nữ tặc Si Pan. Và hiện đội báo gấm của nữ tặc còn đang trấn ngoài cửa.
Viên tướng Thác Bạc Đầu nheo mắt ngẫm nghĩ và đứng phắt lên, phất nhẹ tay một cái, tiến ra. Hai gã tùy tướng túc trực bên cửa chờ lệnh.
– Hai ngươi phải canh phòng cẩn mật. Nếu được tông tích Đại Sơn Vương phải phi báo ta ngay. Và nhất là không nên rời mật thất này. Ta đi bắt hai con nữ tặc Si Pan, sẽ trở về ngay. Chúa Thác Bạc Đầu cùng gã đầu mục rời mật thất, đi về phía sườn núi.
Chờ cho hai thầy trò chúa thác đi chừng mươi lăm phút. Đại Sơn Vương bèn đi một vòng quan sát, rồi trở lại mật thất. Bọn tùy tướng tay dao tay súng kẻ ngồi trấn cửa, người đi tuần sát chung quanh, không rời một khắc. Chàng tướng Thập Vạn Đại Sơn phục sau nhà chờ đợi. Hai viên tùy tướng Thác Bạc Đầu vẫn xách súng tuần hành cẩn mật, trong thế hỗ tương.
Vùng đỉnh núi Hoa Sen càng lúc càng chìm sau trong im lìm. Vài tiếng kêu khắc khoải rã rời. Viên tùy tướng cao lớn đứng lên tiến ra cửa.
– Khuya lắm rồi sao vẫn không nghe khu sơn trại có tiếng súng nổ? Quái lạ! Chẳng lẽ bắt bọn Si Pan xong rồi sao?
Viên tùy tướng lùn hơn chống súng, nhìn quanh gật đầu có dáng suy nghĩ, chợt khẽ hỏi đồng bạn:
– Mà sao cũng chẳng thấy tăm hơi Đại Sơn Vương nữa?
Chủ soái đoán chắc thế nào hắn cũng lần tới mà?
Viên tùy tướng cao suỵt một cái, vẻ bí mật:
– Có gì phải báo ngay mới được.
Viên tùy tướng lùn xách súng đi về phía dãy nhà bên tả. Chờ cho hắn khuất hẳn, Đại Sơn Vương liền tiến về phía cửa tiền. Viên tùy tướng vẫn cầm súng trấn cửa, rất tỉnh táo, chỉ một tiếng động nhẹ, hắn đã phục luôn vào bóng tối, chĩa súng ra ngay. Đại Sơn Vương chờ mãi không thấy hắn xoay ngang hang, liền rút trong mình ra một sợi dây thừng, đoạn nhặt một hòn sỏi ném vào bụi cây phía tả. Nấp phía hữu, chàng thấy rõ hắn hơi giật mình một cái, nhưng vẫn trông thẳng, nhè nhẹ bước giật lùi lại sát thềm. Biết hắn là tay quen thuật hạ canh, chàng liền nhặt hòn sỏi, ném luôn ngay trước mặt mình. Quả nhiên, lần này gã tùy tướng mắc mưu. Vừa nghe tiếng động bên phải, thay vì quay súng súng nẻo đó như thường tình, hắn chĩa ngay ngọn súng về bên trái, lưng xoay về phía Đại Sơn Vương.
Vút! Sợi dây thừng bay vút ra như một con trăn gió, nút dây tóm cổ chó chẹn luôn yết hầu hắn, chàng tướng núi giật mạnh tay thừng, kéo cả thân mình vạm vỡ của hắn, êm như kéo một đứa bé. Thình lình bị thừng xiết cổ, hắn chưa kịp kêu một tiếng, đã ngã chúi đi, bị luôn một đòn điểm huyệt bất tỉnh.
Lột nhanh chiếc áo khoác ngoài mặc lên mình, Đại Sơn Vương nấp hẳn vào xó tối đoạn chụp mũ dạ lên đầu, chàng chống súng đứng đợi. Chỉ mấy phút sau đã thấy gã tùy tướng lùn trở lại, thì bàn tay Đại Sơn Vương đã thúc vụt vào huyệt nách hắn. Gã đầu lĩnh mềm oặt người ra, buông rơi ngọn súng. Rất gọn ghẽ, Đại Sơn Vương vác bổng hắn vào nhà, khép hờ cửa lại. Ném hắn vào ghế, Đại Sơn Vương đảo mắt nhìn quanh, thấy cuối nhà, có căn buồng nhỏ khóa trái, đoán là buồng viên Chúa Thác Bạc Đầu, liền dùng thuật “phản phong” phất tay đánh tắt mấy ngọn đèn lớn, chỉ để một ngọn nhỏ, đoạn cúi xuống giải huyệt cho gã đầu lĩnh.
– Mi là cận tướng, tất biết nhiều điều. Hãy cho ta hay.
Gã tùy tướng chớp mắt, thở dốc, ngó chàng tướng lạ, phều phào mệt mỏi:
– Đại Sơn Vương? Phải ông…
Chàng tướng núi nghiêm mặt:
– Vật báu để nơi nào?
Gã tùy tướng lắc dầu:
– Cô gái họ Trần làm gì có mặt nơi đây! Chủ soái tôi không giấu ông đâu.
Đại Sơn Vương nhếch miệng cười nhạt:
– Thầy trò mi định đánh lạc ta sao? Bộ chúng mi tưởng ta chỉ đi tìm nàng không ư? Vật đó để đâu?
Cặp mắt gã tùy tướng chợt sáng lên, khuôn mặt thoáng vẻ gan góc lạ. Hắn toan nhếch miệng cười gằn, thì Đại Sơn Vương đã điểm cho một đòn huyệt hiểm, đoạn ghì chặt hai vai hắn, hai mắt viên tướng núi vụt lóe lên như bốc cháy. Toàn thân gã đầu lĩnh run lên bần bật như dây thép bị bão tố.
– Trời… cặp mắt lửa… lửa… chủ soái ơi! Chủ soái…
– Vật báu! Hãy tuân mệnh lệnh ta! Chỉ nơi giấu vật báu! Và cạm bẫy bao quanh vùng!
Tay viên tướng núi “phản phong” đánh tắt nốt ngọn đèn từ xa, trong bóng tối chỉ còn cặp mắt đỏ như hai đốm than hồng và giọng nói yếu ớt của gã đầu lĩnh lạc hồn. Thoáng cái viên tướng núi đã đứng lên, ánh đèn bấm trên tay lóe lên, tiến đến trước cửa buồng. Giơ tay giật mạnh chiếc khóa sắt, cánh cửa vừa hé mở, chàng đã ngồi thụp xuống, chiếu ngược đèn bấm lên. Vút, vút, vút!… Từng loạt tên từ trong bay ra vèo vèo, loang loáng giữa vệt sáng đèn, gió tạt cả xuống đầu. Dứt trận loạn tiễn, tướng lạc thảo đứng lên, mở rộng cánh cửa, lia đèn vào trong quan sát mươi khắc, đoạn bước chân vào. Nhưng chân vừa qua ngưỡng cửa đặt xuống nền, tướng núi đã co nhanh lại đứng ép vào bên cửa ngoài.
Vù… vù… luồng gió từ trong bay thốc ra như có chong chóng quay, chàng vội chiếu đèn bấm coi, thấy hai vệt sáng quắc chém lia theo hình cánh sẻ, từ hai bên cửa trong phạt chếch dọc từ trên xuống, xả nhanh như máy chém, liền mấy chục nhát mới ngừng. Dưới ánh đèn bấm, hai thanh đao to bản, gác chéo vào nhau, như chỉ lăm lăm chém nữa. Nhìn cặp dao sắc như nước, tướng núi lẩm bẩm:
– Chà! Tên nho sinh này cũng tinh hiểm lắm Chỉ truyền cho cận tướng một nửa bí mật ở sào huyệt.
Tướng núi thận trọng bước vào. Phòng chứa toàn khí giới. Dò bước tiến đến bên vách mới hay những tấm thiếp thô sơ, đều có bọc thép cả. Góc ngay đầu giường, có kê một chiếc tủ sắt. Đứng nép vào một góc phòng, chàng rút một ngọn giáo đâm mạnh ổ khóa. Chỉ nghe “tách” một cái, đã thấy những dãy súng, áo giáp, cung nỏ quanh tường vụt chuyển động quay chiều, chĩa cả ngọn chỗ tủ sắt, thành một hàng rào thép kín mít. Nhưng lạ nhất là súng ống, cung tên giương sẵn lại không bắn, chỉ quay vây chặt tủ sắt. Viên tướng núi còn đang ngạc nhiên, đã nghe đánh sịch một cái, cánh cửa tủ gỗ gần đấy mở toang ra, rồi giữa vệt đèn bấm xanh lè, một người cao lớn dị thường mặc giáp sắt từ từ bước ra, hai tay cầm hai quả trùy gai to như trái bí ngô.
Đại Sơn Vương đứng dán mình vào vách sắt, tay vẫn chiếu đèn, còn tay kia đã đánh vụt xuống sườn, chỉ suýt nữa đã rút súng ra khỏi bao, nếu chưa nhận rõ dáng đi của người cao lớn: Mới biết hắn là người máy. Hắn chập chững bước một tiến đến gần tủ, lập tức vung cặp chùy gai đánh liên hồi vào khoảng không giữa vòng rào thép vù vù. Chừng mười lăm nhát, trùy dừng hẳn, hắn đứng yên không hề nhúc nhích. Chàng bèn tiến đến trước tủ sắt, mở, chiếu đèn coi nhưng lòng tủ sắt… trống rỗng! Lay hoay mãi mới lật được một lần thép và một cuốn sách bìa cứng nhỏ bằng bàn tay hiện ra dưới ánh đèn. Cả mừng, viên tướng núi lật vội ra coi. Nhưng thất vọng ngay, vì bên trong chỉ dán một mảnh giấy gấp tư, loại giấy bản trên có những hàng chữ thảo Hán tự nét sắc như cắt.
Cái văn: phụ tác tử thừa thử chi vị kê, bất cải ư phụ chi đạo
khả vị hiếu bĩ.
Bỉ quốc tặc dụng thiên phương bách kế cưỡng đoạt Việt nam chi bảo vật…
Bức thư lưu truyền của tôn tộc hắn… Nhưng sao… Đại Sơn Vương cúi đọc vội đoạn dưới, dáng điệu trở nên bâng khuâng.
Một lát sau, chợt tướng núi đặt lá thư vào chỗ cũ.
– Quái lạ! Sao không thấy vật đó, chắc hắn chỉ để quanh đây.
Tình cờ, chàng chiếu đèn xuống chân tủ, chợt nẩy ý nghĩ lạ, vụt xuống trung bình tấn, nắm hai bên thành tủ, nhấc bổng lên, đặt sang bên. Một cửa hang bí mật hiện ra, đen ngòm. Không chậm trễ, viên tướng núi đu mình xuống luôn. Đại Sơn Vương đã phải ngạc nhiên vì từ ánh sáng vàng vọt, thấy hầm có hai lối chạy sang bên và cả hai bên đều có tia sáng rọi tới. Không lưỡng lự, chàng lần ngay theo lối tay mặt đi mãi, chừng hai chục bước, đụng vách đất, trên tường có ngọn đèn dầu leo lét. Lập tức, chàng lộn lại ngay ngách trái. Vào sâu độ mươi thước, chàng dừng phắt lại vì có trận gió mang theo một mùi hôi quen thuộc của thú rừng… Viên tướng núi thận trọng lần từng bước, càng đi càng thấy vách hầm mở rộng ra, cho tới lúc đặt chân tận lòng hang, mùi hôi tanh càng phả vào mũi nồng nặc.
Dựa vào vách đất, có chiếc bàn độc sơn son kiểu lạ. Trên bàn, hai dĩa dầu Nam leo lét cháy, ánh sáng huyền ảo. Và mùi hôi tanh từ gầm bàn độc xông ra. Đại Sơn Vương tiến lại gần, chiếu luôn đèn bấm vào gầm bàn. Một con hổ vằn nằm như vẽ, cặp mắt tía đỏ ké mở to trừng nhìn như chờ đợi. Rất nhanh, Đại Sơn Vương nã luôn hai phát. Con hổ vẫn nằm yên không nhúc nhích, coi lại mới rõ chỉ là một xác hổ nhồi rất khéo, cặp mắt có nạm hai viên hồng ngọc. Như chợt nghĩ ra, chàng tướng núi thình lình lăn tròn một vòng, một mãnh thú lao xuống toan chụp luôn lấy vai chàng. Đại Sơn Vương kịp thời dựa lưng vào vách, nã luôn một phát giữa tam tinh, con thú chỉ kịp rống lên một tràng, giãy giụa rồi lịm chết. Tướng núi đứng lên đá xác thú sang ben, phủi đất bụi qua loa trên tay áo, đoạn nhanh nhẹn tiến vụt đến trước bàn độc. Một chiếc hộp kẽm nhỏ đặt ngay dưới thoi hồng lạp. Nhếch nụ cười gân guốc, tướng Thập Vạn Đại Sơn vội rút khăn bọc tay cầm chiếc hộp mở ra. Cặp mắt tướng núi sáng quắc dưới ánh hồng lạp chập chờn. Lận vội hộp kẽm vào mình, chàng tuổi trẻ bước nhanh ra, đu lên khỏi hầm, ôm chiếc tủ sắt để nguyên chỗ cũ, đoạn xốc lại cổ áo, chàng ung dung bước khỏi căn phòng mật.
– Đại Sơn Vương!
Vừa ló đầu ra khỏi cửa phòng, viên tướng núi chợt đứng phắt lại, vì có tiếng nghiêm trầm bất ngờ nổi lên, ngay phía nhà ngoài. Nhưng phía ngoài vẫn tối om. Còn đang nghe ngóng, chợt tiếng nói lại nổi lên:
– Ta về hơi chậm để ông giết mất linh vật giữ bàn thờ! Lần cuối cùng ta cho lời tối hậu: Trả ta bảo vật, sẽ được tự do rời mật thất.
Nghe rõ tiếng viên Chúa Thác Bạc Đầu, Đại Sơn Vương cố định thần, nhưng không đoán được chỗ hắn đứng ở đâu. Đoán chắc quân địch dã vây kín bốn bề, chàng đứng yên, óc đảo cơ mưu. Trong khắc vạn nan, chàng vẫn bình tĩnh không ngại địch bắn nhầu vào, vì chàng biết rõ căn phòng mật đều bọc sắt bốn bên. Nhưng còn lối thoát thân?
– Đại Sơn Vương! Ta hẹn cho mười phút nữa! Nếu không để bảo vật lại, đi ra, ta sẽ cho quân tướng xung kích vào lập tức. Ông có là tay thần xạ, ta đánh cận chiến cũng chỉ hy sinh đến vài chục mạng là nhiều. Và chúng ta sẵn sàng hy sinh tất cả! Anh em hãy chuẩn bị sau mười phút, giáp chiến.
Đại Sơn Vương không khỏi phục địch thủ tinh khôn, chàng nẩy ra một kế, liền cất tiếng cười khanh khách:
– Này chú nho sinh Chúa Thác! Ta sẵn sàng trả báu vật nếu chú đáng mặt giữ vật quí của trăm họ xứ này! Có giỏi hãy cùng ta đấu sức, nếu giữ nổi thế hòa bằng ta, ta sẵn lòng trả ngay báu vật, và cũng không hẹp gì tặng thêm cho một món nữa. Nếu không đêm nay phải nhiều kẻ không hòng thấy ánh mặt trời sớm mai!
Tiếng chàng tướng núi sang sảng như chuông đồng hắt ra, dụ ngay tướng địch vào chân tường. Mươi khắc sau, thình lình tiếng viên Chúa Thác Bạc Đầu bật lên, gằn giọng:
– Đại Sơn Vương! Khá khen ngươi đã quỷ quái buộc nổi ta, kẻ thắng thế, phải nhận lời thách đấu cùng ngươi! Anh em tướng sĩ! Bật hồng lên mau! Ta nhận lời thách chiến của Đại Sơn Vương!
Chúa Thác trẻ tuổi dứt lời, tiếng reo hò đã nổi lên vang động, phút chốc, hồng đuốc bật sáng trưng như ban ngày quanh mật thất.
– Đại Sơn Vương! Còn đợi chi nữa!
Nghe tiếng đàn bà quát gọi, viên tướng Thập Vạn Đại Sơn vùng trông ra, thấy tướng sĩ Thác Bạc Đầu trùng trùng điệp điệp có hơn dư trăm, cơ nào đội nấy phủ vây kín mít, súng gươm lởm chởm, trong ánh lửa bập bùng. Thoáng trông qua chàng đã đoán được, đó là đội binh tinh nhuệ, thủ túc của gã nho sinh. Nếu làm loạn chiến, chàng khó lòng ra khỏi vòng vây quân địch, chàng tướng núi nheo mày, suy nghĩ mươi giây đoạn lớn tiếng vọng ra:
– Nho sinh! Hay lắm! Ta có lời khen các ngươi đó. Nhưng ta cũng có vài điều kiện nhỏ, chẳng hiểu ngươi dám nhận không?
Điều thứ nhất: Các ngươi hãy tạm triệt vây, đứng cả về một phía lưng dựa vào khu dinh trại. Trường đấu trông ra vực thẳm. Khi đấu, phải có hai người giám trận và tướng sĩ trên dưới phải có bổn phận bảo vệ cho cuộc đấu được ngay thẳng. Thứ hai: Nếu ta thắng, ta sẽ đi tự do, nếu ta hại, nộp cả bảo vật và tính mạng. Và các người chớ quên điều này ta vừa đổ một thứ thuốc riêng vào báu vật, chỉ trong một giờ, vật đó sẽ tan thành bụi nước, nhưng trước một giờ, ta lại có thuốc tẩy riêng. Nếu các ngươi manh tâm, báu vật sẽ tan tành, nếu cuộc đấu chiến ngay thẳng, ta nguyền sẽ trao báu vật nguyên vẹn. Trả lời đi, ta sẽ ra ngay.
Đám đông Thác Bạc Đầu đứng im, bất động. Từ viên Chúa Thác đến tay thủ túc khôn ngoan đều cảm thấy rõ đã bị Đại Sơn Vương dụ đến một vùng, và cả trăm tay súng chợt thành vô dụng vì báu vật vô giá sẽ tiêu cùng tính mệnh tướng địch? Mà chúa Thác Bạc Đầu cần báu vật hơn cần lấy tính mệnh người mang báu vật. Cả bọn cau mày suy nghĩ, và cùng đưa mắt nhìn viên chủ tướng. Thình lình bị đẩy tới tình thế trớ trêu, chỉ còn một cách “chiến đấu ngay thẳng” mới hy vọng đoạt lại vật báu vô song, chàng nho sinh mím chật vành môi, đảo mắt ngó đám quân gia, cặp mắt quắc lên, muốn nẩy lửa.
– Tướng sĩ quân gia! Khá giãn vòng vây. Cuộc đấu chiến sẽ hoàn toàn ngay thẳng, ta nhận tất cả điều kiện của Đại Sơn Vương.
Tinh thần thượng võ vùng nổi dậy, hầu hết quân vây reo hò hoan nghênh chủ soái, rùng rùng tuân lệnh kéo giạt cả về phía sân rộng, đứng quay lưng cả về dãy nhà gần đấy. Chờ cho đám đông đã giải vây hẳn, Đại Sơn Vương mới vác ngọn giáo, tiến ra. Đám đông đứng dàn hàng rất có trật tự, trên cùng, viên Chúa Thác nho sinh đứng bên một cô gái trẻ đẹp và một người đàn ông cao tuổi hơn nho sinh một chút, mặt có vẻ dữ tợn vì một cái sẹo chạy gần mép khá lớn.
– Nho sinh! Cho ngươi chọn trước, muốn đấu thứ chi tùy ý.
Chúa Thác Bạc Đầu tiến lên một bước:
– Hãy khoan! Ta còn điều kiện chưa ra! Một điều thôi!
Đại Sơn Vương cau mày:
– Cứ nói.
– Nếu ta thắng ngươi có sẵn lòng trao ta thêm bảo vật của ngươi? Hai bảo vật cũng giống với bảo vật của ta.
Đại Sơn Vương hơi chột dạ, đăm đăm nhìn nho sinh, không khỏi ngạc nhiên vì tài thám sát của hắn.
– Từ Thập Vạn Đại Sơn, ngươi sang đây bí mật tìm báu vật nhưng chớ hòng giấu khỏi mắt ta! Nay đã cùng đường, ta không nỡ lấy đông hiếp ít, tưởng ngươi cũng không xử như phường tiểu tặc. Thuận chăng?
– Vật bất ly thân! Ta để trong mình, nếu hạ được ta, ngươi cũng đáng tay coi giữ báu vật cho dòng giống Việt Nam! Đấu thứ chi?
– Đấu súng! Hai phó tướng đứng ra giám sát Đại Sơn Vương!
Dứt lời, chàng nho sinh tiến vụt lên, bước một, mắt chiếu thẳng vào Đại Sơn Vương.
Cô gái cùng gã đàn ông sẹo mặt cũng vội đứng giạt ra hai bên giám trận. Viên tướng Thập Vạn Đại Sơn vẫn đứng im bên ngọn giáo, khuôn mặt người đàn ông giang hồ lão luyện thoáng vẻ bối rối. Nhưng nho sinh vẫn tiến tới, khuôn mặt chàng trẻ hơi nhấp nhô theo nhịp bước đi. Bước đi đã gần, khắc quyết liệt đã điểm. Không lâu sau, tự nhiên viên tướng núi thấy trong mình xúc động lạ lùng, bàn tay buông thõng bên sườn như muốn dại hẳn đi, hình ảnh chiếc bàn thờ sơn son, rồi những hàng chữ thảo để trong tủ sắt miệng hầm hiện lên, nhảy múa trong óc tướng Thần Xạ:
Cái văn: phụ tác tử thừa, thử chi vị kế, bất cải ư phụ chi đạo khả vị hiếu hĩ…
Thường nghe… không đổi đạo cha ấy là hiếu…
– Cảm động lúc sắp bắn là… chết!
Lời tôn sư chợt vang lên như lời cảnh tỉnh, Đại Sơn Vương vùng quát lớn:
– Nho sinh hãy đứng lại! Tiến lên mất mạng bây giờ!
Quai hàm tướng núi bạnh ra, mắt như nẩy lửa, xúc cảm lạ lùng vụt tiêu tan theo tiếng quát xuất thần, Đại Sơn Vương vẫn đứng im như pho tượng thép lạnh lùng. Mặc Nho Sinh vẫn tiến lên. Vừa tầm súng. Khuôn mặt chàng trai trẻ vẫn dập dờn trước mặt Đại Sơn Vương, và xuất kỳ bất ý giữa lúc tay đang ve vẩy, chàng ta đã đánh vụt vào hai bên sườn.
Hai tay đánh nhanh đến nỗi mọi người thấy dính vào báng súng rồi mà Đại Sơn Vương vẫn đứng như ngây dại. Nhưng… mọi người cùng chớp mắt kinh ngạc bật lên một tiếng kêu “Trời”, vì chỉ thấy bờ vai tướng Thập Vạn Đại Sơn hơi động đậy, cặp súng bên sườn đã ra khỏi vỏ từ lúc nào, mũi súng đen ngòm chĩa thẳng vào nho sinh. Và Chúa Thác Bạc Đầu đã giật nảy mình như bị điện giật, hai tay chết dí trên báng súng vì sức rút quá nhanh của tay Thần Xạ. Nho sinh ngơ ngác, buông tay chờ viên đạn cuối cùng. Nhưng giữa lúc mọi ngườí nghẹn thở, tướng núi đã chậm chạp cắm súng vào bao, cặp mắt nhìn địch thủ thoảng như có mây mờ kéo qua, và nếu ai đứng gần Đại Sơn Vương sẽ thấy rõ những giọt mồ hôi lấm tấm xuất hiện trên vầng trán phong trần của chàng.
– Nho sinh! Hãy quay về cùng chư tướng! Tài ngươi tuy khá nhưng chưa đủ giữ tròn báu vật vô song!
– Anh em, chớ để Đại Sơn Vương chạy thoát!
Tiếng gã phó đảng mặt sẹo vừa bật lên, cô gái giám trận đã trợn tròn khóe hạnh:
– Không được! Cuộc chiến đã định phải ngay thẳng! Ai phạm luật sẽ bị nghiêm trị!
Súng nổ liên hồi. Giữa làn mưa đạn, tướng Thập Vạn Đại Sơn thấy còn một phía đèo có cây lớn, liền phục xuống quát lớn.
– Nho sinh! Nếu còn muốn giao đấu hãy cùng ta đến chỗ cuối đèo kia. Nho sinh lẳng lặng gật đầu, đoạn hai người lao mình tới khu cây rậm. Nho sinh tỏ ra là tay diệu kiếm, đánh những đòn tuyệt kỹ khác thường. Hết kiểu Tàu, Ta lại đến kiếm Thổ, thấy nho sinh đều thông thạo, Đại Sơn Vương liền chuyển sang lối đánh “kendo,” thình lình chộp cả hai tay, quát lên một tiếng vang âm, phát tung luôn kiếm nho sinh lên trời. Nho sinh vừa giận vừa thẹn ngửa mặt ngó lên, nhưng lạ thay, thanh kiếm vút lên ngọn cây, mất dạng.
Còn đang sững sờ đã nghe trên lùm cây cao một chuỗi cườI khanh khách dội xuống.
– Voòng Chí Plan! Trời! Cô nương!
Nghiêng mình chào lễ phép, Nữ chúa Hoàng Su Phì nhẹ ném trả thanh kiếm cho nho sinh, chưa kịp lên tiếng đã nghe đạn réo trên đầu, rồi một cánh quân Si Pan ập tới, đuốc bật sáng trưng. Như cái máy, tướng núi băng mình theo Nữ chúa họ Voòng, Chúa Thác Bạc Đầu trừng mắt ngó theo.
Ra tới bờ vực, Chí Plan dừng lại, trông về phía sau, mỉm cười:
– Ta hãy đứng đây, xem chúng đánh nhau, lúc cần rút đi không muộn.
Cách không đầy trăm thước, nho sinh vừa mất dạng, đã nghe có tiếng nổ long trời lở đất, bụi khói bốc mù mịt một vùng lớn, rồi ánh hồng như phụt tắt giữa những tiếng thét ghê hồn. Và trận tuyến bất ngờ ngưng hẳn.
– Giặc Si Pan đã bị địa lôi phục chạy tán loạn! Ta rút thôi!
Chí Plan vừa nói vừa trỏ xuống vực thẳm, miệng nhoẻn cười tinh nghịch.
– Nhưng…
– Đếm đến ba, cùng nhảy! Nào… một… hai…
Cô gái Hoàng Su Phì vừa đếm đến ba, lập tức chuyển nhảy vọt ra… khoảng không vô tận. Như cái máy, chàng tướng núi cũng vội nhún chân nhảy vọt theo sát cánh. Giữa khoảng không, Chí Plan khẽ uốn người đã đến bên chàng tướng núi. Nàng nắm tay cùng Đại Sơn Vương cùng nhảy xuống. Thật bất ngờ, phía dưới vực thẳm có một màng lưới rộng căng đợi. Cô gái tháo lưới cuộn lại, mỉm cười trách nhẹ:
– Ông lên ngọn núi không rõ đường, lại chẳng tính lối rút khi gặp biến. May sao! Tôi lại biết rõ địa thế núi này, mới kịp chăng lưới… chờ ông.
Đại Sơn Vương đăm đăm ngó Voòng Chí Pan:
– Nhưng… sao cô nương lại biết tôi đến Thác Bạc Đầu?
Nữ Chúa H mông nhoẻn miệng cười, bí mật:
– Không những thế, tôi còn biết ông đã làm những gì từ đêm ông cùng Voòng Lầu vượt biên giới rồi lộn lại, để thiên hạ tưởng ông đã về Thập Vạn Đại Sơn, trong khi…
– Thì ra Hoàng Su Phì đã theo kẻ ngu này không rời nửa bước. Giờ, bảo vật đã nằm trong hộp kín, và quanh đây súng đã bủa vây rồi?
Nữ Chúa H mông vẫn mỉm cười tươi tắn gật đầu:
– Vâng, ông đang đứng giữa vòng vây, và hiện một con kiến cũng khó lòng ra thoát!
Dứt lời, cô gái rúc lên mấy tiếng chim đêm, lập tức có tiếng loạt soạt quanh đấy, rồi từ khắp bốn phía, từng tốp người vạm vỡ không súng hiện ra, gọn ghẽ trong những bộ quần áo miền núi.
Tướng núi lên ngựa, khẽ hỏi.
– Giờ ta đi đâu?
– Thẳng đường sang mạn Đông Bắc! Thúc phụ tôi đang đợi ông tại Hoàng Su Phì, có việc tối mật.
Đoàn kỵ sĩ H mông chia thành hai tốp mở đường, đoạn hậu, lặng lẽ đi trong đêm mờ, tiến dọc theo bờ suối. Trên núi cao, súng nổ giòn, quân Thác Bạc Đầu và quân Si Pan vẫn kéo dài cuộc chiến. Rừng khuya thăm thẳm hoang vu đầy bất trắc. Đại Sơn Vương chưa hiểu rõ cát hung, cứ lặng lẽ đi giữa đám quân H mông. Được non nửa dặm đường vòng chân núi chợt như tối hẳn lại, tiếng nước đổ ầm ầm như thác.
– Đánh ngựa xuống suối! Tới vòng vây rồi!
Tiếng dịu dàng thì thào ngay bên tai, nhìn sang, thấy Voòng Chí Plan tiến ngựa lại bên, Đại Sơn Vương chưa kịp hỏi, đã thấy bóng người ngựa Chí Plan vượt lên, rẽ luôn xuống dòng nước xiết. Dưới chân, nước chảy mạnh như thác lũ, có chỗ nước ngập tới bụng ngựa. Ngựa đi dưới những lùm cây um tùm cuốn tò vò chẳng khác vào ruột suối ngầm trong núi. Mấy phút, chợt Voòng Chí Plan dừng ngựa kê bên Đại Sơn Vương, khẽ bảo:
– Đã vào giữa trận tuyến rồi! Mũi súng chỉ cách ngựa ta mỗi bên không đầy dăm thước.
Viên tướng núi bèn đánh ngựa sát vào bờ, vạch lá trông ra, quả nhiên thấy nhiều bóng người ngựa thấp thoáng giữa đêm mờ, rõ ràng đang án binh chờ đợi hai bên bờ suối.
– Đại quân binh của tướng Roux đó!
– Chúng định đánh quét Thác Bạc Đầu!
– Không hẳn thế! Chính ra chúng định vây bắt… ông. Nếu đêm nay không gặp rạng đông chúng sẽ đánh lên núi. Ta nên đi giữa suối là hơn.
– Vượt lên bờ! Rút về phía tả!
Tiếng Voòng Chí Plan bật khẽ lên, giữa lúc hai bên tả hữu vùng nổi lên những tiếng hô quân vang động cùng tiếng chân người chạy tới, liền với tiếng súng lên đạn lách cách. Đại Sơn Vương theo Vuòng Chí Plan lao ngựa vọt lên, vừa tới bờ, đã nghe có tiếng người hô lớn. Chí Plan nhanh giọng:
– Gần qua chỗ đóng binh rồi! Nhớ theo sát tôi, không lạc rừng!
Hai con ngựa tiến lên như hai mũi tên. Thoáng hai bên lố nhố bóng người ngựa của quan binh ập tới theo ánh đèn loang. Từng loạt đạn réo bên tai. Tướng lạc thảo rạp mình trên ngựa, vẩy ngọn súng lia lịa sang hai bên. Có lúc tướng lạc thảo quỳ lên trên yên ngựa, kìm phắt HắC Phong Câu lại, nhả đạn liên tục. Voòng Chí Plan nhìn sang không thấy bóng Đại Sơn Vương, cũng ghìm nước phóng, lộn phắt lại, giật giọng:
– Đại Sơn Vương! Ouân địch đông như kiến cỏ, không nên ham đánh! Rút mau thôi! Trời…
Đang bắn, chợt nghe tiếng kêu khẽ, lướng lạc thảo quay vội sang, vừa kịp thấy Chí Plan gục trên lưng ngựa, phía sau đã thoáng thấy hai bóng quan hinh phóng ngựa tới chĩa súng bắn theo. Tướng núi cả kinh liền vẩy luôn haì ngọn súng bắn nhào cặp quan binh, và bay ngựa đến bên nàng, nhanh như cắt, quài tay ôm xốc sang ngựa mình:
– Cô nương có sao không?
Lời vừa dứt, mấy viên tướng H mông cũng đảo tới, thấy Nữ Chúa bị đạn, cả sợ giục vội:
– Trời, tướng quân mau đưa Nữ Chúa thoát vòng, Chúng xông đến kia rồi!
Không chậm trễ, Đại Sơn Vương thúc mạnh Hắc Phong Câu thần mã cuốn vó như bay, vượt rừng xuyên núi băng giữa đêm mờ, lát sau đã xa vùng Thác Bạc Đầu, không còn nghe thấy tiếng súng nữa, Đại Sơn Vương cho ngựa bước một, đoạn cúi xuống lay gọi Voòng Chí Plan:
– Cô nương bị thương chỗ nào?
Chí Plan thở dốc, mấy khắc, khẽ cựa mình, chợt mở mắt ra nhỏ nhẹ:
– Đây đến đâu rồi?
– Đây đã xa trận địa . Cô nương…
Chợt thấy vẻ nhăn nhó trên khuôn mặt thiếu nữ, Đại Sơn Vương vội dừng ngựa đỡ nàng xuống, đặt nằm trên mặt cỏ, lo lắng hỏi:
– Cô nương có đau lắm không? Để tôi coi vết thương!
Đại Sơn Vương xé vạt áo buộc tạm vết thương, đoạn ôm bổng Chí Plan lên ngựa, lần rừng tìm nơi trú tạm, Chí Plan mệt lả dựa vào ngực viên tướng núi, thở mạnh, mắt nhắm nghiền. Đi khỏi ánh rừng rậm, chợt thấy ánh lửa le lói phía trước, cả mừng bèn cho ngựa thẳng tới mới hay nơi đó có một bản thổ dân ngang núi. Vào thẳng căn nhà sàn đầu bản, đánh thức chủ nhà dậy, mới rõ nhà Xạ Phang. Không kịp tháo yên, Đại Sơn Vương buộc ngựa ngay dưới cầu thang, ôm Vòng Chí Plan lên đặt nàng vào phòng trong. Thiếu nữ vẫn mệt lả vì máu ra khá nhiều, thấy Đại Sơn Vương ngồi trên, liền gắng gượng nhoẻn miệng cười.
– Tôi chịu được đau… ông không ngại…
Thấy nàng vẫn chưa hiểu nỗi ngại ngùng của mình, Đại Sơn Vương tần ngần khẽ bảo:
– Cô nương nên nhắm mắt lại. Tôi có đồ dùng gắp đạn nhưng không có thuốc mê…
Chí Plan nhoẻn cười nhắm mắt lại. Tướng núi nhanh nhẹn sửa soạn mọi thứ cần thiết, đoạn cởi áo ngoài nàng ra. Rồi áo cánh, mảnh vải buộc tạm. Đến khi chiếc áo lụa lót hiện ra dưới ánh trăng, chợt chàng tuổi trẻ dừng tay, mặt thoáng vẻ bối rối. Trong đời chiến đấu đã nhiều lần chàng phải làm y sĩ tạm, gắp đạn cho bằng hữu, thủ hạ, nhưng đây là lần đầu gắp đạn cho một cô gái, lại bị thương nơi ngực. Nàng nằm ngửa trên sàn, chiếc “phá” lĩnh đen thủy ba sóng gợn bó lấy dáng hình, hơi xốc cao vì mệt mỏi. Khuôn mặt nàng trinh nữ như đóa phù dung, và thân trên chỉ còn mảnh lụa nhỏ quấn ngang, hai bờ vai trần màu ngà lồ lộ, chiếc ngực thanh tao chỉ còn mảnh lụa mong manh. Chợt Chí Plan mở mắt ra và tự nhiên, mặt hoa thoáng ửng hồng, thẹn thùng đặt tay lên bờ vai. Máu vẫn rỉ ra áo lót. Lấy hết can đảm, tướng núi nhẹ cầm mảnh lụa lót kéo xuống, quay mặt đi khẽ nói:
– Bất đắc dĩ xin cô nương miễn chấp…
Rất nhanh tướng núi lấy vải lau ngực cho Chí Plan. Ngực căng phồng sức sống, trên nền da trắng hồng đến sáu bảy vết máu đỏ xỉn lại quanh nhũ hoa, có một vết xước qua gò bên trái, chỉ một ly nữa sẽ đâm vào tim. Lòng xót thương trấn áp ngại ngùng, tướng núi hơ mũi kéo trên lửa, khẽ gọi:
– Đạn ghim nơi ngực huyệt…
Chí Plan quay nhìn ra, cặp mắt mệt mỏi chợt sáng lên lạ thường, cô gái cố nhếch nụ cười cam chịu. Mũi kéo cắm sâu vào nhũ hoa. Ngực cô gái phập phồng, hai chân như sắp bốc tung, khuôn mặt hiện rõ nét đau đớn khôn cùng. Mũi kéo dừng hẳn lại, tướng núi run giọng hỏi:
– Cô nương! Sợ không đủ sức…
Chí Plan thở mạnh, như sắp mê đi:
– Không… sao!
Đến lúc mũi kéo lùa trong thịt, kiếm viên đạn chì, thì cô gái vùng bật lên, thổn thức bất ngờ:
– Anh ơi! Chết bên anh… em mãn nguyện… Anh…
Vừa lúc đó, mũi kéo ngậm viên chì, rút ra, chàng tuổi trẻ nhíu cặp chân mày, đăm nhìn Chí Plan, nhớ tới thâm tình thầm kín của nàng bấy lâu, chợt óc chàng thoáng một tư tưởng táo bạo. Tướng Thập Vạn Đại Sơn cúi sát xuống, đặt tay lên mớ tóc Nữ Chúa Hoàng Su Phì vuốt nhẹ, giọng trở nên thắm thiết lạ lùng:
– Chí Plan, em đau đớn… anh không đành lòng đặt mũi kéo vào da thịt, hay cho anh làm bất tỉnh phút giây?
Cô gái sơn cước mở mắt ra, cặp mắt sâu thẳm bí ẩn như núi rừng chợt long lanh sáng lên vẻ não nùng đắm đuối gan góc lạ. Nàng quờ tay đặt nhẹ lên bàn tay chàng tướng núi giang hồ, giọng run vì xúc động mãnh liệt:
– Anh… ông.
Rồi nghẹn nào không nói được nữa. Tướng núi cầm hờ mũi kéo, nhẹ tay nắn ngực nàng, mắt sáng quắc lượng chiều đạn đi thận trọng từng ly, mới lần mũi kéo vào. Toàn thân thiếu nữ như sắp vùng lên vì sức đau nhói của mũi kéo xuyên vào da thịt ngực hoa. Nhưng chỉ thoáng qua, cả thân nàng đã bất động, hai chân duỗi thẳng, cánh tay buông thẳng bên mình, tưởng nàng đau quá ngất đi, Đại Sơn Vương vội liếc trông lên mặt mới biết nàng vẫn tỉnh, cặp mắt đăm đăm nhìn mình, hàm răng cắn chặt vào nhau, chịu đựng ghê gớm, chàng mới an tâm tiếp tục công việc. Nhờ kinh nghiệm, chỉ trong giây lát, chàng đã lấy được viên đạn cuối cùng. Gần sáng, Đại Sơn Vương vừa chợp mắt, nghe tiếng Hắc Phong Câu hí mạnh dưới sàn, tướng núi choàng tỉnh, tung chăn nhỏm dậy. Tiếng ngựa hí bật lên rồi ngừng bặt, tiếp theo có tiếng vó câu giậm thình thịch. Quơ vội dây súng choàng vào mình, chàng rón rén lần ra cầu thang. Chủ nhà đứng bên hai tên xạ phang lạ mặt đang bắt trộm Hắc Phong Câu. Tên chủ nhà vừa trùm một túi vải lớn vào đầu ngựa, còn hai tên xông lại, định lựa thế nhảy lên lưng. Hắc Phong Câu vốn nòi ngựa dữ, đá lung tung, đầu cố vùng thoát túi vải.
– Mấy tên kia, sao dám trộm ngựa ta?
Đang quần thảo với ngựa, bất thần nghe tiếng quát, cả ba tên giật mình quay phắt lại. Nhanh như cắt, đồng thời, hai tên xạ phang lạ đã đưa tay ngang sường rút súng ra. Nhưng ngọn súng chưa kịp chĩa lên, đã bị liền hai phát thần xạ bắn què tay luôn. Tên chủ nhà cả kinh, đâm đầu chạy.
– Đứng lại!
Quát dứt lời, vẫn thấy hắn lao đầu đi, tướng núi vẫy một phát trúng gót chân khuỵu liền.
– Chúng mày là thủ hạ ai? Sao biết đến trộm ngựa? Phải tên chủ nhà đã lén phi báo cho không?
Miệng hỏi, tay lại điểm luôn vào huyệt độc, hai tên rú lên, ú ớ:
– Ngộ… Đại Vương sai tới, Đại Vương còn…
– Thằng nào?
– Lưng… Lừng…!
– Còn đóng núi ngoài! Chờ trộm ngựa xong…
Tướng Thập Vạn Đại Sơn vụt nhìn ra ngõ, vung tay cho mỗi tên một báng súng vào đầu, ném cả vào một xó. Và không chậm trễ, chàng nhảy lên thang, vào phòng Voòng Chí Plan đang nằm. Thiếu nữ vẫn thiêm thiếp ngủ, chăn đắp tận cổ, bàn tay đặt trên bụng còn nắm nguyên gói đạn ghém như trẻ thơ nắm món đồ chơi trong giấc ngủ. Chàng tướng núi đăm đăm nhìn cô gái, mấy lần định gọi, lại thôi. Chợt lại có tiếng một đàn chim bay tán loạn qua, kêu ríu rít trên ngọn cây sau nhà. Tiếng chó sủa bật lên, rồi liền mấy tràng súng nổ xé rách không gian phía ngoài xa. Tiếp theo tiếng người trong bản líu lo gọi nhau giật giọng, náo động một vùng. Đại Sơn Vương đắp vội chăn lên ngực Chí Plan và lấy luôn bông đút chặt lỗ tai nàng, nói thác:
– Cô nương không nên nghe tiếng nổ lúc này. Trận tập chưa chừng khá lâu. Cô nương cứ nằm nghỉ, để tôi ra thăm xã giao Đốc bản xem hắn có giúp gì được không?
Đoạn vuốt nhẹ mép chăn, chàng tướng lạc thảo quay ngoắt ra luôn. vừa tới thang gác, đã nghe Hắc Phong Câu hí mạnh dưới thềm. Tướng lạc thảo biên thuỳ nhảy phốc lên lưng ngựa, vọt ra ngõ ngoài. Cánh quân từ hẻm núi tiến thẳng về phía bản, toàn quân cỡi ngựa, hết lớp nọ đến lớp kia, ngựa phi đến trước bản, dừng lại. Đi đầu là Đại Vương Lừng, ngựa có cắm ngọn hiệu kỳ nhỏ. Tướng thổ phỉ chiếu ống dòm quan sát mấy giây, tay trỏ thẳng vào căn nhà đầu bản, đoạn phất tay cho quân gia tiến lên theo, bước một. Đại Sơn Vương rời ngọn tiểu sơn, đánh ngựa ra đứng sững giữa đường mòn. Lừng Đại Vương cũng lập tức ghìm cương.
– Đại Sơn Vương ! Ngươi bị vây rồi, nếu loạn chiến, ngộ sẽ làm cỏ cả bản, đốt cháy luôn cô gái Voòng! Biết điều thất thế, mau xuống ngựa theo ngộ về sơn trại.
Tướng Thập Vạn Đại Sơn vẫn ngồi im trên lưng ngựa, quắc mắt mắng tướng xạ phang:
– Voòng cô nương đang nằm dưỡng bệnh, nên ta chưa thể rời chân. Biết điều hãy lui quân cho tròn hoà khí! Ta trấn ngọn tiểu sơn này, mi có đủ máu rải trên đường tiến quân không?
Lừng cười lớn:
– Chớ khá điên rồ! Ngộ nói thiệt! Sau bản đã có quân bọc hậu. Ngươi có tài thần xạ cũng không thoát nổi phen này. Biết điều nên xuống ngựa là hơn. Nếu ngươi kháng cự, ngộ hạ lệnh đốt cháy căn nhà kia ngay!
– Biết điều mày hãy lui binh! Làm kinh động nơi cô nương Voòng dưỡng bệnh, tao bắn nát óc! Mày chớ lầm tưởng cho quân đánh nhầu lên tao chỉ kịp bắn mười hai phát đạn!
Dứt lời, chàng tướng núi với tay xuống tận mắt cá, kéo soẹt hai tiếng mạnh. “Phéc-mơ-tuya” vụt mở từ mép quần tới ngang sường, để lộ hai hàng súng buộc dây tua tủa sát ống chân. Đại Vương Lừng chột dạ, đưa mắt trông địa thế và lẳng lặng giật cương quay ngựa tức thì. Lối chừng mấy thước, bất thần, hắn lộn phắt ngựa lại, phất tay về phía Đại Sơn Vương hô lớn:
– Bắn!
Lời hô vừa dứt, Đạt Sơn Vương đã đánh tay xuống sườn, bắn luôn hai phát, một gãy phăng lá hiệu kỳ thổ phỉ, một trúng luôn bả vai tướng giặc trước khi từng loạt đạn thổ phỉ bắn lên. Bắn xong, lập tức chàng tướng núi nhào luôn xuống tránh đạn, đồng thời kéo cả Hắc Phong Câu ẩn sau ngọn tiểu sơn. Bị đạn xói vai vì không kịp nghiêng mình, tướng thổ phỉ vừa kinh vừa tức, hô quân nhất loạt đến đánh. Đạn nổ vang trờí. Đội tiền phong của Lừng tướng tốc ngựa lên cách hòn tiểu sơn bảy tám thước, đã bị bắn nhào. Đại Sơn Vương vừa đánh vừa quan sát tứ phía, cố tìm tướng địch bắn hạ cho vỡ cánh quân, nhưng hình như đã biết tài Thần Xạ, Lừng đã ẩn đâu mất, chỉ nghe tiếng hô quân của hắn. Chợt cánh quân thổ phỉ chia hai cánh tiến vòng ra xa, cùng cánh thứ ba nhất tề đánh kẹp vào hòn tiểu sơn.
Chàng tướng núi vừa bắn nhào được mấy tên nữa, chợt thấy cánh quân phía tả có một đội tách ra, xông thẳng đến căn nhà Chí Plan. Ba bốn bề thụ địch, tiểu sơn chỉ chắn được một hai phía, biết tình thế hiểm nghèo, Đại Sơn Vương liền nhảy phắt lên lưng ngựa, rời hòn tiểu sơn, bay chếch ngang chặn đánh toán quân xông đến căn nhà đầu bản. Đến gần mới nhận ra chính tướng Lừng chỉ huy toán quân đó, chàng liền vỗ ngựa xông thẳng tới, thét lớn, giọng run lên vì căm giận:
– Thằng thổ phỉ! Coi tao bắn nát óc mày đây!
Lừng ngoắt sau một thân cây cổ thụ vừa bắn, vừa hô lớn:
– Đại Sơn Vương, ngươi liều thân vô ích! Hãy ngó lại xem!
Tướng núi cũng ẩn sau một cây lớn, đảo mắt trông lại, quả nhiên thấy quân thổ phỉ từ mấy ngả đang xốc tới, và có một đám đã đến gần căn nhà Chí Plan. Tướng núi mím chặt vành môi, bay ngựa ra, lộn lại phía sàn, vừa bắn vừa tiến giữa làn mưa đạn. Bọn giặc nhất tề reo hò bắn vãi, nhưng hình như vẫn muốn bắt sống, nên chúng chỉ nhè ngựa bắn què. Chàmg tướng núi xông tới đâu chỗ đó lại giạt ra, rồi lại khép vào. Một tốp đã tới sát căn nhà sàn. Biết tình thế thập phần nguy hiểm, nhất là bệnh tình Chí Plan. Đại Sơn Vương không chút chậm trễ, mở luôn một đường máu tiến về nhà sàn.
Bất ngờ, phía nhà sàn, rõ ràng có tiếng súng nổ vang, còn đang định thần nhìn kỹ, đã thấy mặt sau thấp thoáng bóng người ngựa hiện ra.
– Đại Vương Lầm đã tới!
Đám quân Lừng reo hò vang dội, chưa kịp tiến lên, đã thấy tốp quân đến bên nhà sàn thình lình có mấy tên lộn nhào xuống chân ngựa. Ngạc nhiên Đại Sơn Vương phóng nhanh đến đánh giạt mấy tên còn lại, xốc thẳng đến cầu thang, đã nghe có tiếng Chí Plan hắt ra:
– Đại Sơn Vương… ông nên rời mau…
Đang nói, chợt nàng run tay súng bắn luôn hai phát. Đại Sơn Vương nhìn ra thấy hai tên nhào ngay xuống ngựa ngay bên ngoài.
– Ông thoát mau đi! Cứ để em lại! Chúng chỉ cốt săn ông thôi mà!
Đại Sơn Vương nhếch miệng cười, dịu dàng giật lấy súng trên tay nàng. Thổ phỉ hô vang, xốc ngựa tới. Đại Sơn Vương giật Hắc Phong Cau nằm xuống, tay súng vẩy liên hồi. Bốn bên chỗ nào cũng có địch xông đến nhất loạt. Nhưng lâm trận mới càng rõ tài vô địch tướng quân, Đại Sơn Vương quay ngược quay xuôi, xông tả, ngoắt hữu, bắn súng như chày máy, mỗi phát nhào một tên, trong chớp mắt đã ngót hai mươi tên quị quanh pháo đài gần nhà sàn.
– Bắn tên lửa mau.
Lừng Đại Vương thấy Đại Sơn Vương hung hãn quá, không dám khinh suất, giật luôn một cây cung lớn, đốt lửa, bắn vụt vào căn nhà sàn. Và quân gia hai gã Lâm, Lừng cũng nhất tề thi nhau bắn lửa khắp mái trên, vách dưới. Trong phút chốc, lửa bốc rần rần, căn nhà sàn thành mồi đuốc khổng lồ, tre bùng nổ liên hồi như trống lệnh, khói bốc lên mờ mịt một vùng.
Voòng Chí Plan cố chống tay ngồi dậy quơ luôn khẩu súng bên mình, nhanh giọng:
– Nguy đến nơi rồi. Căn nhà sắp sụp, ông phải lên ngựa thoát mau mới kịp!
Đại Sơn Vương đảo mắt nhìn lửa ngụt khói un, khẽ hỏi:
– Còn cô nương?
– Em ở lại! Thôi đành… Nếu bịn rịn, cả hai đều chết vô ích…
– Kìa… cô nương
– Ông… phải thoát mau! Mặc em… mới được!
Chàng tướng trẻ đỡ ngang mình Chí Plan, giọng sầu thảm:
– Cô nương chớ nói điều bất nhẫn! Tôi quyết bảo vệ cô nương tới cùng. Thử lên ngựa xem! May ra…
Miệng nói, tay xốc nàng lên, thấy nàng quá kiệt sức, liền ôm phắt thân hình cô gái, nhảy lên lưng Hắc Phong Câu, vọt ra khỏi tử địa. Con vật lập tức cất vó lao mình đi như một mũi tên đen. Đám quân thổ phỉ đang chống súng nhìn cả vào căn nhà đầy khói lửa mịt mùng, không còn nhận được hình thù người vật nữa. Chợt thấy giữa làn khói trắng, nhà sụp, một bóng người ngựa vọt ra, cả bọn chưa kịp động thủ, thì tuấn mã đã bay tới, súng phun đạn nhanh như gió cuốn ập đến sát vòng vây. Cả trăm ngọn súng chĩa theo nổ rền, bất ngờ năm sáu tên thổ phỉ đã nhào xuống ngựa, Hắc Phong Câu cất mình nhảy vọt qua đầu chúng, như một cái cầu, vừa chạm đất đã cuốn gió bay giữa hàng cổ thụ um tùm. Đạn thổ phỉ bắn vãi theo như rắc đậu.
Đại Sơn Vương ghì chặt lấy Voòng Chí Plan, một tay quay vẩy súng lại sau. Chợt thiếu nữ bật lên một tiếng kêu “Trời” thân hình mềm nhũn ra, hai tay buông rời… Tướng núi cúi xuống đã thấy nàng ngất đi, mặt còn in rõ nét đau đớn khôn cùng, máu từ vết thương đã ứa ra đỏ lòm. Biết vết thương trong đã nứt vỡ vì động quá mạnh, chàng cả kinh, không dám chạy ngựa nữa, vội phóng ngay sau ngọn tiểu sơn ban nãy, bế luôn nàng xuống, đặt nằm êm trên cỏ. Đạn vẫn vãi quanh mình, dội vào tiểu sơn, bốc bụi đá mờ. Vó ngựa thổ phỉ vẫn rầm rập cuốn tới.
– Chí Plan? Plan!
Cô gái Hoàng Su Phì vẫn nằm bằn bặt, mặt tái nhợt hẳn đi.
– Plan cô nương…
Cô gái mê man, máu ra ướt cả áo ngoài. Sóng gió cuồn cuộn trong lòng tướng lạc thảo giang hồ trước hoạn nạn vạn nan của cô gái đã xả thân cứu chàng. Cắn chặt hàm răng, tướng núi ngang tàng hé mắt trông ra. Vó ngựa thổ phỉ đã phóng nhầu đến cách hòn thổ sơn không đầy chục thước và chợt chia thành mấy cánh bọc lấy hòn tiểu sơn.
– Thôi đành!
Và đứng phắt dậy, giơ cao ngọn súng… ngậm ngùi chúc đầu xuống đất. Nhưng…
– Đại Sơn Vương! Xin hãy yên lòng! Có Thoòng tới đây!
Đại Sơn Vương vừa nhận ra được tướng lạ, không giấu được ngạc nhiên, khẽ lẩm bẩm:
– À! Pạc Hoọc Đại Vương Thoòng! Tình cờ sao lại gặp ngươi đây!
Lầm, Lừng đã kịp nhận ra tướng thổ phỉ miền giáp Cao Bằng, trỏ mặt Thoòng mắng lớn:
– Việc sắp thành, một tay mi phá vỡ! Ta nguyền sống chết với mi! Ba quân! Chiến!
Thổ phỉ nhất loạt xông lên, Thoòng Mềnh cũng phất ngọn súng liền. Hai bên đánh nhau giữa vùng bản rộng, không bên nào xuống ngựa. Đại Sơn Vương kèm Chí Plan rút đi, lát sau đến một vùng núi hiểm trở, đám tùy tướng Thoòng liền hạ võng lễ phép bảo chàng.
– Bẩm… cô nương mệt thiếp, phải xem lại vết thương mới tiếp tục đi được!
Tướng Thập Vạn Đại Sơn đảo mắt một vòng núi và quay bảo viên đầu lĩnh:
– Chú đủ sức chỉ huy quân gia chứ? Ta muốn lộn lại giúp Đại Vương chú một tay!
Đại Sơn Vương thúc ngựa đi luôn tới cánh quân gần đấy, không thấy bóng Thoòng Mềnh, vừa định phóng đi, chợt thấy phía trước, cả một cánh quân địch xông lên, định chọc thủng trận thế, chàng nóng tiết, quát bảo quản Thoòng:
– Thấy hiệu ta, các chú tiến thốc lên, đánh kẹp hai đầu lại! Giờ để ta quét trước cho!
Miệng nói, chân thúc ngựa lướt lên, bay dọc bay ngang sau hàng cây cổ thụ, hai tay nã súng lên như chớp. Thoáng cái đã hàng chục tên nhào xuống ngựa, cánh quân cả sợ vội lùi phắt lại, có tiếng xạ phang quát lớn:
– Chúng bay khá cẩn thận! Thằng Đại Sơn Vương đã đến đó!
Chàng tướng núi chẳng nói chẳng ràng, cứ theo nhịp súng, bốc ngựa lên chiếm hết thân cây này tới thân cây kia làm điểm tựa đánh đốn dịch quân, tên nào ló đầu ra, vỡ mặt liền, tay súng chĩa ra chưa kịp bắn đã bị đạn què luôn. Cả cánh quân núng thế lui giạt ra, trước cánh tay thần xạ. Lập tức, Đại Sơn Vương phất tay làm hiệu, quân Thòng nhất tề thốc ngựa lên đánh dập bên sườn quân địch như vũ bão. Rất nhanh, cánh quân đó vỡ thế, vừa bắn vừa tháo chạy đến những cánh quân khác. Đại Sơn Vương đang bay ngựa giữa chiến trường, chợt gặp Thoòng Mềnh. Vừa trông thấy, Thoòng đã bật kêu lên:
– Quả không sai! Thấy chúng bị tập hậu, đã đoán có tướng quân Thần Xạ!
– Trận nó đang vỡ. Thằng Lầm, thằng Lừng đâu?
Pạc Hoọc Đại Vương Thoòng gò ngựa trông quanh. Giữa vòng trận địa nát nhầu, quân Thoòng thế mạnh đã như suối lũ, đang vây đánh địch quân, lố nhố khắp sơn khê, ngựa chạy dọc ngang rầm rập, súng nổ đì đoành gấp gáp. Chợt Thoòng trỏ tay về phía tả cạch đấy đến ba trăm thước, tít phía đầu trận:
– Ai như bóng thằng Lừng?
Miệng nói tay đặt ống nhòm lên mắt, bật lên:
– Tướng quân coi! Hình như có cả bóng thằng Lầm nữa!
Đại Sơn Vương cũng chiếu viễn kính, đoạn quay bảo Thoòng.
– Nên cho một đoàn tinh nhuệ đánh thẳng đến chỗ đó! Dập đầu, cho trận nó tan mau!
Thoòng Mềnh lập tức khoa súng trên đầu, truyền cánh quân tinh nhuệ nhứt tiến lại, đoạn cùng Đại Sơn Vương bay ngựa trước hàng quân xốc tới.
Hai tên Lừng, Lầm đang chỉ huy cánh quân quyết chiến với quân Thoòng Mềnh, chúng dẫn đầu một toán quân, nhưng ngựa chúng vừa vào tới hèm núi, thình lình thấy trước mặt một đám người ngựa từ bên kia hẻm núi ập tới. Hai viên tướng thổ phỉ giật mình, ghìm phắt ngựa, trông lên thấy Đại Sơn Vương cùng Đại Vương Thoòng ngồi sững trên lưng ngựa, cả hai kinh sợ vội ngoắt ngựa chạy lộn lại, không chậm một giây. Đại Sơn Vương trỏ ngọn súng lên, quát lớn:
– Hai thằng tặc tướng kia! Khôn hồn xuống ngựa cho mau!
Hai viên tướng thổ phỉ cứ phóng bừa như không biết có kẻ đuổi sau lưng. Quả nhiên Hắc Phong Câu đã rút vó vừa tầm súng, nhưng chàng tướng thần xạ thấy địch tướng cứ cúi đầu chạy miết, hai tay thủ kín về phía trước, chỉ còn cặp lưng nhấp nhô theo nhịp ngựa, chàng cả giận vỗ mạnh vào Hắc Phong Câu:
– Thần lực mi đâu? Đưa ta lên bắt sống chúng nó cho mau!
Phía trước, ngựa Lầm, Lừng vốn nòi ngựa Ký Châu và Mông Cổ, thoắt cái đã bỏ rơi ngựa tùy tướng. Nhưng Hắc Phong Câu vọt lên như một mũi tên, trên yên chàng Thần Xạ đã vụt xoay mình quay lưng lên phía đầu ngựa, mặt trông về phía sau, cặp mắt sáng quắc nhìn hàng tùy tướng địch, khiến cả bọn càng kinh khiếp len lén ghìm cương, không tên nào dám động thủ. Vọt khỏi khá xa, chàng tướng núi mới tung chân ngồi lại như trước. Phía trên, hai tướng thố phỉ đã ngoắt vào sườn núi, đột nhiên chạy theo hình thước thợ. Đại Sơn Vương phóng tới góc núi, chợt nghe nước chảy ầm ầm, trông ra thấy một ngọn suối khá trong chạy ngang phía trước bên cánh rừng rậm.
Ngựa vừa ló đầu khỏi góc núi, Đại Sơn Vương đã nhào luôn xuống bên ngựa tránh mấy vệt thép ác liệt bay tới. Chân vừa chấm đất, mắt kịp trông thấy hai viên tướng thổ phỉ chạy dọc bờ suối, cánh tay vua ám khí Lầm đã lợi dụng địa thế, trổ luôn ngọn sở trường điêu luyện. Ám khí Lầm vừa bay qua đầu Đại Sơn Vương, đạn Lừng cũng bay theo như chớp. Nhưng tướng Thần Xạ theo đà ngựa phi, đã vẩy ngọn súng lên, cò vừa láy xong hai phát, cả hai tên đã vùng ôm tay nhăn nhó, suýt nhào xuống ngựa. Và nhìn lên, Đại Sơn Vương đã ngồi ngay trên ngựa vọt theo như gió cuốn. Gượng đau, cả hai vội ngoắt chạy liền. Nhưng Hắc Phong Câu đã nhẩy lên, cách đuôi ngựa trước không đầy hai mươi thước.
– Chúng mày có chạy đàng trời! Khôn hồn chịu trói cho mau!
Mặc, hai gã quất ngựa lội nước chạy. Đại Sơn Vương giật phắt sợi thừng bên yên quăng vụt ra. Nghe hơi gió, hai gã cùng né tránh và không biết vô tình hay hữu ý, cả hai địch tướng lộn nhào xuống nước. Đại Sơn Vương giật luôn thừng về, tay quay dây, mắt nhìn dưới dòng nước chảy xiết ngập tới bụng ngựa, thạch bàn tung bọt trắng phau. Chợt thoáng thấy bóng người ẩn hiện lập lờ cách chỗ ngựa đứng chừng hơn thước, chàng liền tung dây chụp luôn, xiết chặt lấy. Nhưng giật mãi không lên, chàng bèn thúc Hắc Phong Câu lội xuống xem, mới biết chỉ là chiếc áo choàng vào mô đá ngầm nhọn hoắt. Chợt nhìn sang chỗ hai con ngựa Lầm, Lừng đứng, chàng cả giận, biết hai tên tướng thổ phỉ đã ẩn dưới bụng ngựa dùng kế “Thoát y” chạy trốn, liền cho Hắc Phong Câu lội xuôi dòng tìm kiếm. Nhìn hai bên thấy cây cối um tùm, núi xanh lởm chởm, quan sát bờ nước tuyệt không thấy vết người lội lên, càng lấy làm lạ, lại cho ngựa lội ngược dòng tìm kiếm, vẫn không thấy. Bực tức, chàng bèn phóng ngựa quanh bờ, chỉ thấy rừng cây quạnh vắng không vết chân người. Còn đang sục sạo chợt nghe tiếng loạt súng nổ phía xa vọng lại, quay đầu định phương hướng, rõ ràng súng nổ từ miền có Voòng Chí Plan nằm vẳng tới, chàng đành bỏ cuộc truy nã tước thổ phỉ, bắt cả cặp ngựa lên bờ.
Vừa lúc Pạc Hoọc Đại Vương Thoòng dẫn quân tới, thấy cặp ngựa vô chủ, ngạc nhiên đưa mắt nhìn quanh, hỏi:
– Còn hai thằng Lầm, Lừng bị hạ rồi chăng?
Đại Sơn Vương lắc đầu:
– Dồn chúng đến thế cùng, quăng dây trói, nhưng chúng nhào cả xuống nước lẩn đâu mất? Còn… tiếng súng phía xa?
Thoòng Mềnh nhìn quanh vòng suối, tặc lưỡi:
– Thôi hãy để hai thằng giặc đấy! Ta phải lộn về phía súng nổ ngay mới được!
Đến nơi, mới hay đám quân Thoòng hộ tống Voòng Chí Plan bị một cánh quân lạ tấn công. Quân Thoòng cứ hiểm lưng đèo tuy lợi địa nhưng chỉ có non hai mươi tay súng, nên đang bị đuối thế dần. Cánh quân giữa có một nữ tướng cưỡi ngựa tới chân đèo, đốc thúc quân xung kích có tới non trăm.
– Trại Võ Liễu Nương!
– Chà! Hậu nữ dâm tặc sao lại lần tới vùng biên thùy này làm chi?
Phía chân đèo, cả ba toán quân đang tiến đánh chực dồn cả về một phía, để hở một quãng khá rộng. Thoòng Mềnh cười nhạt:
– Nữ tặc định lừa quân trên đèo thoát xuống bắt cho dễ. Nhưng khi nào thằng Phần lại mắc lừa! Đưa cung tên đây!
Quả nhiên, trên đèo, viên đầu lĩnh Phần của Thoòng Mềnh vẫn nhất định cứ hiểm không chịu thoát xuống, có lẽ hắn đã thừa biết quỷ kế địch và không quên chủ tướng còn đánh trận quanh vùng, sớm muộn sẽ tới cứu. Thoòng Mềnh vừa đặt mũi tên lửa vào dây cung, chợt Đại Sơn Vương trỏ tay về phía tả đèo:
– A! Thoòng tướng! Cánh rừng rậm kia hình như còn có cánh quân nào nữa thì phải!
Thoòng ngưng bắn, quay ống nhòm nhìn, chau mày, lẩm bẩm:
– Suốt một dãy rừng xanh di động! Hình như quân ngụy trang rồi! Không Đốc Bàn Vân Nam, thì quân bọn bảo hộ thôi!
– Tướng quân hãy lấy một nửa quân phá trận nữ tặc nhanh mới kịp!
– Một phần tư đủ rồi. Binh thần tốc, đông sẽ bất lợi!
Miệng nói, tay khoa ngọn súng, Đại Sơn Vương bay ngựa dọc hàng quân Thoòng, tách một đội quân tình nguyện, phóng thẳng đến phía sau trận Liễu Nương, xuất kỳ bất ý, ào đánh nhanh như chớp. Bị tập hậu, địch quân giật mình, phải quay mũi súng chống cự vội vàng, không dám xông lên đèo nữa. Đại Sơn Vương chia binh mấy ngản đánh nhầu, lùa địch quân về phía tả và tập trung đánh dồn lại phía sườn. Quân Liễu Nương cả loạn rất mau, thi nhau rút xuống chân núi, tìm ngựa. Nhưng Đại Sơn Vương đã thừa kinh nghiệm, liền bay ngựa Hắc Phong, hô quân mình bắn súng đuổi ngựa địch chạy tán loạn. Thấy quân Liễu đã dồn về một phía, cháng tướng núi lập tực thúc ngựa lên đèo, tới lưng chừng đã thấy đầu lĩnh Phần dẫn quân hộ tống cáng Voòng Chí Plan.
Cáng Chí Plan buộc giữa hai con ngựa song hành, trên phủ mảnh chăn đơn. Đại Sơn Vương cúi lật mảnh chăn, thấy cô gái vẫn nhắm mắt, nằm bằn bặt, cả lo, quay bảo viên đầu lĩnh:
– Chú khá đi liền bên cáng, cho đánh ngựa thật êm, chớ để động vết thương nguy hiểm! Đã có ta mở đường!
Đại Sơn Vương xông ngựa trước mở đường xuống gần chân đèo, thình lình nghe phía tả có tiếng súng nổi lên, biết cánh quân địch phía đó đã xung trận với Thoòng Mềnh, tình thế đã ngặt, liền phóng thật nhanh xuống hô quân đánh gấp, vừa đánh, chàng vừa đảo mắt quan sát khắp nơi, chú ý tìm Trại Võ Hậu trong đám giặc. Đang tìm, chợt tướng lạc thảo ngoái trông lại, thấy bóng Liễu Nương phóng tới, ngược lưng lại đầu ngựa, nã liền mấy phát đạn. Nữ tặc vùng ôm lấy vai, vừa dụi xuống bờm ngựa thì phát đạn thứ hai bay tới, sớt phăng luôn mảnh khăn bịt đầu. Đại Sơn Vương nã luôn một phát nữa trúng đầu ngựa, cả người, vật nhào luôn. Chàng xông lên, định bắt sống nữ tặc, nhưng thủ hạ nữ tặc đã liều mạng ùa lên bắn bừa cứu chủ. Thấy chỗ đó trống trơn, chàng phải quày ngựa ẩn sau một thân cây lớn, bắn ra. Ngay lúc đó, đầu lĩnh Phần đã hộ tống cáng Voòng Chí Plan xuống tới nơi, hàng không dám ham đánh nữa, quay luôn ngựa lại, ra hiệu cho tưóng Phần cứ cáng nàng theo nẻo đầu núi sau, còn mình cùng cánh quân Thoòng đánh cầm chừng đoạn hậu.
Đại Sơn Vương hộ tống Chí Plan đi được một quãng xa, vẫn nghe tiếng súng đì đẹt sau lưng, không rõ Thoòng Mềnh thắng bại ra sao, bèn truyền thủ hạ Thoòng cáng Chí Plan đi, còn chàng một mình một ngựa lộn lại chiến trường. Nhưng được nửa đường, đã nghe tiếng súng im hẳn, rồi thấy Pạc Hoọc Đại Vương Thoòng dẫn quân phi ngựa lại, trán băng một mảnh vải, mặt mày đầy máu.
– Chúng chạy cả rồi! Binh thằng Đốc Bàn Xường. Hình như nó mượn cả toán quân lạ nào nữa! Cáng cô nương đã đi xa chưa, tướng quân?
– Bệnh trạng Nữ Chúa thế nào? Tướng quân…
Đại Sơn Vương kéo Thoòng ra xa, giọng lo lắng:
– Đáng ngại lắm! Phải kiếm nơi để cô nương tĩnh dưỡng mới được.
– Xin thỉnh tướng quân đưa Nữ Chúa về sơn trại Thoòng! Quanh đây có bản dân nhiều nhưng toàn lọt vào vùng địch quân, e bất tiện.
Đại Sơn Vương nhìn về phía Chí Plan, tần ngần.
– Có xa không?
– Đi chậm cũng chỉ mất ba giờ ngựa là cùng! Xin tướng quân cho Thoòng được hầu tiếp tướng quân cùng Nữ Chúa, Thoòng mới an dạ.
Cả bọn lại băng ngàn vượt suối, đi sâu vào miền hoang dã. Đến nơi, đã thấy quân Thoòng dàn hàng nghênh đón. Đại Sơn Vương nổ súng đáp lễ xong, vội cho cáng Voòng Chí Plan vào phòng riêng, ngay căn dành tiếp thượng khách, Thoòng đã sai thủ hạ dọn gian bên làm chỗ nghỉ cho Đại Sơn Vương cùng một dãy phòng riêng. Thoòng lại sai hai cô gái thỏ thay phiên hầu hạ Chí lan. Nhưng qua một đêm tĩnh thương, vết thương tuy đã cầm máu nhưng nàng lại lên cơn sốt nặng mê tỉnh, chập chờn không ăn không uống. Thoòng Mềnh phải sai người đi khá xa đón thầy Tàu về tận sơn trại chữa chạy, nhưng vẫn không thuyên giảm. Chờ hết một ngày một đêm nữa vẫn thấy Chí Plan mê man, Đại Sơn Vương lòng như lửa đốt, liền cho mời Thoòng Mềnh tới:
– Bệnh tình Voòng cô nương cần có thầy hay, đủ đồ nghề mới khỏi nguy. Ta muốn về thị trấn Cao Bằng tìm bác sĩ.
– Tướng quân khỏi lo điều đó. Nhưng…
– Nội ngày nay, ta sẽ trở về! Cần nhất là để cô nương tịnh dưỡng…
Dặn xong, chàng tướng lạc thảo cưỡi Hắc Phong Câu hạ sơn, theo lối tắt, bay thẳng về miền biên giới Việt – Tàu. Quả nhiên, quá trưa đã về cùng một người bác sĩ già, cả hai quần áo đầy cát bụi. Nhưng Đại Sơn Vương ngạc nhiên thấy ngay vẻ nhộn nhịp khác thường bao phủ khắp sơn trại. Hỏi đầu lĩnh Phần, hắn chỉ lễ phép cho biết chỉ là cuộc bố phòng đặc biệt một chút vì có thượng khách ở sơn trại. Chàng lặng thinh đưa viên bác sĩ vào phòng Chí Plan và nghiêm mặt bảo:
– Nàng bị thương nơi ngực, quanh miền này không có thầy thuốc hay, miễn cưỡng phải qua biên giới “mời” bác sĩ, xin ông miễn trách cho.
Viên thầy thuốc già nhún vai, cười:
– Không sao! Từ ngày tôi về Cao Bằng, đây là lần thứ ba, tôi phải vượt biên thùy không giấy không hành! Chính tôi định cám ơn ông đã cho tôi một ngày hồi hộp.
Vừa nói, người thầy thuốc vừa cúi xuống, lật tấm chăn lên, ngó qua bệnh nhân, chợt ngẩng lên hỏi:
– Phụ nữ sao? Trông quen mặt quá, hình như…
Thầy thuốc già gõ gõ ngón tay vào trán, nheo mày cố nhớ:
– Hình như… đã gặp ở đâu? Biên giới? Hoàng Su Phì! Chà! Phải rồi!
– Cháu gái Vua H mông Voòng Chí Sinh!
– Trời! Trách nào được? Tôi đã có dịp chữa bệnh cho nhà họ Voòng.
Tiêm thuốc, rửa sạch vết thương, băng bó xong, Chí Plan có bề tỉnh táo, hình như nhận được mặt quen chớp mắt muốn gượng chào hỏi. Người thầy thuốc dịu dàng:
– Nữ chúa Su Phì cứ nằm yên. Chớ bao giờ cử động mạnh mới chóng lành được.
Đại Sơn Vương ngẫm nghĩ mấy giây, hỏi:
– Nếu ông có thể lưu lại hai ba hôm, chúng tôi mới yên dạ
Thầy thuốc già gật gật đầu:
– Tôi rất mến Nữ Chúa Voòng, nhưng còn nhiều bệnh nhân ở Cao Bằng. Nếu có thể được, tôi để lại thuốc men, cứ thế điều trị được rồi.
Đại Sơn Vương đưa thầy thuốc ra nhà ngoài, thấy đám thủ hạ Thoòng chạy ngược xuôi, quát gọi líu lo, ngó xuống chân núi, thấy bóng Thoòng Mềnh đi trước, theo sau cả trăm thủ hạ dao súng tua tủa, vó câu rầm rập, trông đầy vẻ hạ sơn tác chiến. Đại Sơn Vương gọi đầu lĩnh Phần đưa thầy thuốc đến trại thương binh chữa cho đám thủ hạ Thoòng và lưu lại nghỉ đêm, sớm mai tặng ngựa tốt, cho thủ hạ Thoòng dẫn về Cao Bằng. Thầy thuốc xuống núi một lát, Thoòng Mềnh dẫn binh về quần áo tơi tả, máu me đầy người, ngót hai mươi thủ hạ bị thương, năm sáu xác thù trên lưng ngựa. Hỏi, Thoòng chỉ cho biết đánh trận ngòai ba mươi dặm vẻ nhưng bị hụt “Món hàng “! Xong Thoòng thay áo xường xám lên vấn an Chí Plan trò chuyện giây lát và cáo lui về phòng riêng luôn.
Đại Sơn Vương lặng lẽ theo sau tiến đến cửa vờ hỏi quân canh:
– Chủ tướng đã ngủ chưa?
– Bẩm còn thức. Nhưng chủ tướng tôi vừa ra ngoài kia..
Miệng nói, tay trỏ về phía chếch hồi nhà chỗ lùm cây rậm. Đại Sơn Vương lững thững bước ra, ung dung như người vừa ngoạn cảnh đêm. Chợt chàng thấy ánh lửa le lói trong bụi, tiến sâu vào, ngửi rõ mùi hương trầm thoang thoảng trong hơi gió lẫn cả hương hoa nở đêm. Đưa mắt ngó quanh, thấy một túp lều nhỏ trông như miếu sơn thần. Chàng liền nhẹ bước, vạch lá tiến lại. Và 1 cảnh tượng lạ lùng ghê rợn, đập mạnh vào nhãn quang, khiến viên tướng núi đứng phắt lại, xúc động khôn cùng. Trên bệ thờ, khói hương mờ tỏa, ánh nến chập chờn hắt từng vùng ánh sáng hư ảo khắp lòng miếu, rải loang trên một chiếc giá sơn son thiếp vàng có ghép hình 1 cặp vợ chồng Tàu và ba đứa con. Giữa vùng ánh sáng nến, khói hương, hình bóng tướng thổ phỉ quỳ trước bệ mờ mờ như 1 hình tượng nổi, câm nín
Và ngay trên bệ, xế trước mặt Thoòng, hai hình thù đàn bà khỏa thân bị trói quỳ chặt bên hai cái cột hương, đầu tóc tả tơi, nét kinh sợ khắc rõ trên khuôn mặt đẹp não nề, hỏang hốt. Đầu hai người đàn bà hơi gục xuống, thỉnh thoảng ngẩn lên, nhìn trộm tướng thổ phỉ rồi lại liếc nhìn chiếc roi da đặt bên tướng lục lâm, sợ sệt quay mặt đi. Chợt Pạc Hoọac Đại Vương Thoòng đứng vụt lên chụp luôn lấy ngọn roi da. lừ lừ tiến lại trứơc hai người đàn bà vùng giơ cao ngọn roi da. Hai ngừơi đàn bà rú lên cựa quậy, như rướn hẳn mình lên, vì kinh khiếp.
– Trăm lạy Đại Vương…
– Đại Vương đóai thương… Chúng tôi chân yếu tay mềm , làm chi nên tội …
Lời van thê thảm khiến ngọn roi da ngừng trên cao khá lâu, Thoòng buông roi da, quơ ngọn nến, tiến sát lại trước cặp đàn bà, chòng chọc nhìn, đặt ngọn nến về chỗ cũ và từ từ quỳ trước bệ, ngước mắt trừng nhìn lên tấm ảnh trên giá mờ khói sương. Chợt Thoòng Mềnh vùng ôm mặt khóc, nghẹn ngào như 1 đứa trẻ thơ:
– Có khôn thiêng phù hộ trả được mối cừu nhà Thoàng. Xin cho tay súng nhanh như ánh chớp, linh nghiệm hơn quân thù.
Viên tướng xạ phang gục mặt, hai vai rung lên, tâm hồn sắt đá như không còn nữa. Thoòng chìm sâu trong xúc động khôn cùng hình như thường ngày cố nén đã nhiều. Đại Sơn Vương đứng sau lưng tướng xạ phang, bỗng dưng ngậm ngùi, khẽ gọi:
– Thoòng Mềnh!
Tứơng xạ phang giật mình quay phắt lại
– Thoòng bỏ lỗi cho ta, tình cờ đã tới. Phải đêm Thoòng đã tiến quân báo thù nhà nhưng địch thủ lợi hại năm bảy lần xung trận không xong?
Rất lâu, cặp mắt tướng Xạ Phang nhìn Đại Sơn Vương chòng chọc, chợt Thoòng thở dài, im lặng quay lên nhìn bàn thờ, mãi mới lẩm bẩm:
– Kẻ đại thù đã giết cả nhà Thoòng.Nó trước làm bộ tướng cho Tướng Tôn Nhân, theo tướng quân phiệt làm nhiều điều tàn nhẫn. Coi nó như bạn vong niên mở lời khuyên can, cha Thoòng lúc đó làm Đốc Bàn, nhân tiệc đông, nó thách đấu sung. Nó bắn giỏi nhất miền Hoa Bắc, Hoa Trung, cha tôi võ giỏi hơn nó nhưng bắn thua. Nó bắn què hai tay, bắn từng bộ phận, cho đến chết, trước bàn tiệc. Rồi nhân đêm, nó kéo quân giả làm thổ phỉ, đến nhà Thoòng bắn chết anh Thoòng, bắt mẹ Thoòng , em gái Thoòng hãm hiếp. Được hung tin, ThoÒng vội ở xa về thì mẹ, em vừa tự tử, để lại phong thư. Đang ma chay thằng giặc đó lại kéo tới thình lình, Thoòng phục sau quan tài, thấy nó bắn vào quan tài, Thoòng sợ nát thây mẹ, chạy ra, bị nó bắn trúng mặt, đem về hành hạ hai hôm liền, sắp giết, may đươợ c người lập mưu cứu thoát. Từ đó, Thoòng phiêu bạt phương xa, luyện nghề võ, đi làm giặc cỏ chờ dịp báo thù. Thoònng đã có đêm một trình lần tận sào huyệt nó.
Nó bắn súng nhanh như cắt, sức Thoòng mới hạ nổi thằng em nó thôi!
Đại Sơn Vương đăm đăm nhìn Thoòng Mềnh và tiến lại,
đặt nhẹ tay lên vai viên tướng thổ phỉ Tàu, dịu dàng:
– Mai Thoòng khá hạ chiến thư, thách thằng Trụ Vương đấu súng, cho vợ con nó về. Trong chiến thư, nói rõ thù nhà,, chỉ muốn thanh toán tay đôi với nó, vì không muốn quân gia đôi bên chết oan vì thù riêng chủ tướng. Và nếu Thoòng bại tử, sẽ cho không nó cả dãy núi Mã Đầu. Đồng thời, cho bắn tin lên sơn trại nó, để quân gia nó biết.
Thoòng Mềnh ngạc nhiên, khẽ hỏi:
– Nhưng nó là một tay súng vô địch Miền Hoa Bắc, Thoòng này tự lượng sức…
Đại Sơn Vương mỉm cười gật đầu:
– Chính vì thế nó sẽ vui thích nhận lời thách chiến và Thoòng sẽ tự tay rửa được hận cừu, lại lời thêm hai dãy núi lớn cùng sĩ tốt chúng nó nữa! Ta đã có kế giúp Thoòng rồi.
Dứt lời, để mặc Pạc Hoọc Đại Vương đứng lại tần ngần ngơ ngác viên tướng Thập Vạn Đại Sơn bước luôn ra ngoài, về thẳng phòng riêng. Đại Sơn Vương thấy Chí Plan tỉnh nhiều, cả mừng, an ủi:
– Cô nương cứ an lòng nằm nghỉ. Mười lăm ngày cũng chẳng bao lâu.
Chí Plan đăm đăm suy nghĩ:
– Phải về Su Phì ngay mới được. Em có học được môn thuốc lá gia truyền đắp thương tích rất mau lành, mà rừng đây cũng có.
Đại Sơn Vương nhíu chân mày:
– Phải… thứ thuốc đắp cho ngựa, một đêm có thể ăn da
non không? Nhưng vết thương nơi hiểm huyệt, cô nương chịu sao nổi sức nóng gớm ghê? Thôi ! Cô nương cứ bình tâm, việc gì cũng hoãn lại.
Chí Plan lắc đầu:
– Không! Thứ thuốc dấu toàn bằng rễ cây rừng. Đắp mát
da mà!
Giữa lúc đó, Thoòng Mềnh mặc áo xường xám bước vào, tay cầm một bao thơ. Tướng Thoòng cúì chào Chí Plan vấn an xong, cùng Đại Sơn Vương ra ngoài.
– Y lời tướng quân, Thoòng này đã viết chiến thơ đây! Và
vợ con Trụ Vương đang chờ tại sảnh đường.
Đại Sơn Vương bảo Thoòng:
– Giờ sai quân đi bắn chiến thư, trước khi vợ con nó về đến nơi! Và Thoòng cũng cho luôn người thân tín cáng Voòng cô nương xuống rừng dưới hái thuốc trị vết thương xem sao!
Trưa hôm sau, quả nhiên như lời Đại Sơn Vương dự tính, anh em Kiệt Trụ sai thủ hạ đưa thơ tới nhận lời thách chiến, thêm khoản đấu cung tên trên ngựa với Trụ, và đánh mã tấu, khiên với Kiệt trước khi đấu súng. Xem thơ, mặt Thoòng thoáng vẻ lo âu.
– Hai thằng giặc xảo quyệt khôn lường. Chúng biết
Thoòng không thạo nghề bắn cung đánh khiên, lại muốn quần thảo cho tay dại cứng đi, cho nó dễ hạ độc thủ mà! Năm ngày nữa! Đủ thì giờ để chúng viện thêm quân tức khắc! Tướng quân nghĩ sao?
– Năm hôm, với kẻ tài nghệ như Thoòng cũng đủ để luyện thêm những bí thuật chân truyền. Cứ viết thơ đáp nhận. Ta sẽ truyền cho Thoòng phép tác xạ đánh khiên!
Ngay chiều đó, hai người bí rnật xuống rừng dưới, Đại Sơn Vương đem tài thuật truyền luyện cho Thoòng Mềnh Thoòng Mềnh cúi đầu thọ giáo. Suối ba ngày liền rèn tập, đêm tham thiền nhập định. Đại Sơn Vương khổ công dạy bí thuật cho Thoòng, sang ngày thứ tư, dạy thêm thuật bắn cung, đánh khiên lăn cuồn cuộn như con giải xanh trên mặt nước. Buổi tối, về sơn trại, chàng không khỏi ngạc nhiên thấy Voòng Chí Plan đang đi tản bộ ngoài hiên, dáng uyển chuyển như trước.
Chàng tướng núi cả mừng:
– Không ngờ thuốc thần diệu đến thế! Nhưng cô nương vẫn phảỉ tĩnh dưỡng như thường.
Chí Lan nghiêm mặt:
– Thì giờ gấp lắm phải từ biệt Mã Đầu Sơn, về Hoàng Su Phì ngay mới đượcl Em đã đi ngựa được rồi.
Đại Sơn Vương thở dài:
– Ít nhất phải hai ba ngày nữa, còn cái ơn cứu tử của Thoòng Mềnh phải trả trước khi lên đường.
Nói xong chàng lui ra ngay. Hai hôm sau Pạc Hoọc Đại Vương Thoòng nhóm hết chúng đầu lĩnh, lâu la làm lễ tế cha mẹ anh em oan thác. Viên tướng thổ phỉ phục trước di ảnh ngườì thân, khóc rất thảm thiết, đọan thay quần áo trận, kéo quân xuống núi khỏi sơn trại hơn năm dặm, đã thấy thám mã về phi báo anh em Kiệt, Trụ cũng đang tiến binh đến đấu trường và suốt một vùng biên giới không có một cánh quân lạ nào. Quân Thoòng cũng chia ra hai cánh, xuống thung lũng dàn hàng đối diện địch quân. Quân đội bèn reo hò ầm ỉ, múa súng như điên. Vừa trông thấy mặt cừu nhân, lông mày Pạc Hoọc Đại Vương đã dựng ngược, mắt trợn trừng như muốn nhảy xuống nuốt tươi. Đại Sơn Vương vội giơ tay cản lại:
– Thoòng! Buồn vui yêu ghét làm run tay súng, xúc động thình lình làm tê dại ngũ quan, sức phản ứng nhanh mười còn một. Hãy đứng lại cho lòng thôi huyên náo! Dồn thất tình xuống đáy tim đen! Thoòng hãy coi anh em Kiệt, Trụ, từ lúc thấy Thoòng xuất hiện, cả người lẫn ngựa nó đứng im. Hai ngựa đứng kề nhau, rất nhanh vẻ lạnh lùng của viên tướng Việt như truyền sang mặt tướng Tàu. Bên kia đỉnh đồi, bọn Trụ Vương vẫn đứng không nhúc nhích. Đôi bên địch tướng đều biến thành hình đá tạc trơ trơ.
Đại Sơn Vương trầm giọng:
– Chúng nó chờ Thoòng đó. Đã tới lúc rửa thù.
Thoòng Mềnh rút phắt lá cờ hiệu cắm bên yên, phất luôn
mấy cái. Bên kia, Trụ Vương cũng lập tức phất cờ. Pạc Hoọc Đại Vương xuống đồi vượt giữa hàng quân, tiến ra đấu trường, dừng cách đầu ngựa Trụ Vuơng non trăm thước, Thoòng Mềnh trỏ cừu nhân, quát lớn:
– Ta với mày thù nhà chẳng đội trời chung, muốn chết tốt, thách máy dám đấu chiến cùng tao.
Lâu Trụ vuốt râu cười ngất:
– Khá lắm! Tao cũng muốn tìm họ Thoòng nhổ hết rễ cho dứt hậu họa. Tao đã mời Tắc Sềnh tu quang Ngưu Đầu Sơn làm giám trận, còn mày?
Lời chưa dứt, viên thổ quan kiêm tướng giặc núi “Đầu Trâu” đã vọt ngựa lên, nghênh ngang, đảo mắt lượn ngó sang phía quân Thoòng. Chàng tướng Thập Vạn Đại Sơn cười, cất tiếng sang sảng như chuông đồng?
– Ta nhận giám trận cho họ Thoòng!
Rồi Đại Sơn Vương đã lạnh lùng quay ngựa đứng đối đầu Tắc Sềnh.
– Cuộc chiến bắt đầu! Đúng theo thứ tự thách, đôí bên hãy chuẩn bị xạ tiễn! Muốn bắn mấy phát tùy ý! Cấm dùng tên tẩm thuốc. Kẻ nào thua muốn toàn mạng cứ nhảy xuống hông ngựa!
Thoòng Mềnh, Lâu Trụ lẳng lặng tiến ngựa lên đối đầu nhau. Đại Sơn Vương phất mạnh cánh tay. Hai con ngựa lập tức ngoắt đầu chạy vào chỗ cũ.
– Bắn
Tiếng hô vừa bật, Trụ Vương đã xoay phắt lưng lại, buông luôn một mũi tên nhanh đến nỗi ba quân vừa trông thấy Trụ ngoắt mình, tên đã bay sát Pạc Hoọc Đại Vương. Nhưng Đại Vương Thoòng chỉ lắc mình nhẹ một cái tên đã bay qua khe nách, ngựa vẫn phóng đều đều, không quay lại. Trụ Vương bật luôn phát thứ hai, lần này Trụ hắn thấp hẳn đường tên, rà trên lưng ngựa. Nhưng lần thứ hai ngựa Thoòng đã thình lình rẽ ngang, tránh phát tên xẹt bên đuôi ngựa. Trụ Vương thấy trượt luôn hai phát, lập lức giương cung định bắn luôn phát thứ ba nhưng Thoòng dã quay ngựa, mắng lớn:
– Thằng Trụ! Tao cho mày bắn hai phát trước, giờ hãy coi tay cung tao!
Vó ngựa bay theo tiếng quát, lao thẳng đến phía Trụ Vương. Không chậm trể, Trụ gò cương, bắn liền. Mũi tên lướt bên cổ Thoòng. Pạc Hoọc Đại Vương dã tung chân quỳ trên yên ngựa, bật luôn đường nỏ liên châu. Dây cung vừa bật, tay đả giương liền, nhanh như máy khiến Trụ Vương tối tăm mặt mũi, tránh tên lia lịa. Nhưng Thoòng Mềnh chỉ bắn hai phát lại bật dây không, Trụ cứ thấy dây bật là né tránh ba quân cười rộ lên, và Thoòng Mềnh nói lớn:
– Lâu Trụ tao cho mày xem nghề bắn liên châu rồi giờ gửi mày phát tên báo oán!
Tiếng quát bay lên, ngựa Thoòng chỉ còn cách Lâu Trụ chừng vài chục bộ Trụ Vương vừa giận vừa thẹn, cũng thúc ngựa chồm lên, Thoòng vẫn không động thủ. Cách đầu ngựa chừng mười thước, Trụ toan bật dây cung thì tên Thoòng đã vụt ra như chớp. Phựt, dây cung Trụ đứt liền, mũi tên cắm phập vào cánh cung, Trụ cả kinh, khoa cung lia lịa, xếp mộng ngồi xuống, chân thúc mạnh vào hông ngựa. Nhưng lạ thay Thoòng vẫn không bắn ngay. Hai con ngựa đối đầu nhau, và lướt bên hông nhau, giữa tiếng quân hò vang dậy. Cả đấu trường còn đang ngạc nhiên thì thình lình, giữa lúc ngựa phi nhanh Thoòng Mềnh đã tung chân kẹp lấy cổ ngựa, ngửa lưng trên yên và bắn ngược lại một phát tên chớp nhoáng.
– Coi đây!
Nghe tiếng quát, Trụ Vương vội hụp đầu xuống tránh. Phập! Mũi tên cắm trúng bả vai trái. Trụ đeo tên, chạy thẳng về phía trận Thoòng. Thoòng Mềnh ngồi ngay lại, quày tay định bắn thêm phát nữa thì Trụ Vương đã nhào xuống hông ngựa. Lập tức, Đại Sơn Vương thúc ngựa ra giữa trận phất lá cờ ngưng đấu.
Ngay lúc đó, Lâu Kiệt đă xốc ngựa lên, thét lớn:
– Thoòng Mềnh! Mi đã thắng cung, cứ giỏi cùng ta đánh khiên mâu!
Pạc Hoọc Đại Vương chẳng nói nửa lời, lộn ngựa ra giữa trận. Đại Sơn Vương tiến ngựa đến bên Thoòng nói nhỏ:
– Anh em thằng Trụ đều mặc giáp ngầm! Lâm chiến, chớ quên huyệt nách, hạ bộ và mặt chúng. Nếu ta không lầm đầu nó cũng đội mũ sắt sau lần khăn bịt đó! Triệt luôn thằng em cho rảnh!
Đoạn chàng quay ngựa sang bên, ném lá cờ gìám trận cho Tắc Sềnh. Sềnh lập tức ra hiệu cho Lâu Kiệt, Thoòng Mềnh chụm đầu ngựa lại.
– Ai muốn ngưng thì giơ cả hai tay lên khỏi đầu! Giờ xoay ngựa! Chiến!
Dứt tiếng hô, cả hai vẫn gò cương, bất động. Thoòng Mềnh đã cao lớn vạm vỡ, Lâu Kiệt khổ người lại lớn hơn, lưng như cánh phản gân cuộn như thừng chảo, khiên thép làm mũ rộng vành đội đầu. Mặt mày hung dữ không khác Trụ Vương. Mười khắc nặng nề qua. Thoòng chầm chậm, xốc lại khiên máy, tay quay nhè nhẹ thanh mã tấu, chân thúc khẽ vào hông ngựa. Lâu Kiệt cũng lật mũ, xốc quai, tiến ngựa. Cách nhau chừng sáu, bảy thước, tám vó câu nhất tề cuộn đất, chồm tới. Ngựa Thoòng lướt bên tay mã tấu Kiệt Vương theo đà xốc tới, ánh thép trên tay Thoòng lia mạnh ngang đầu địch. Choang! Khiên thép đã xòe ra, mã tấu quật vào tóe lửa, tiếp liền, mã tấu Kiệt từ sau khiên bay ra như ánh chớp. ngựa Thoòng đã vọt đi, khiên mây trùm kín sau lưng đỡ đường thép vụt. Chỉ một đường mã tấu, đôi bên đã lượng được sức kỳ phùng.
“Gặp địch sở trường chơi khiên, Thoòng không nên ham đánh trên lưng ngựa. Đường khiên ta truyền cho đây là đường khiên vô địch của người Việt, tổ tiên ta đã vanh khiên đánh tan kỵ binh bách chiến của người Mông Cổ xưa. Phải đánh bộ mới sử dụng được hết thế tuyệt vời của đường khiên lăn!”
Lời dặn của Đại Sơn Vương vang Iên trong óc Thoáng, viên tướng vụt nghĩ ra một kế, bèn thúc ngựa bay lại, bất thần, vận hết khí lực, thét lên một tiếng to như sấm, tay chém xả mã tấu, chân đá bách sang bụng ngựa Kiệt Vương một ngọn cước thần tốc. Viên tướng giặc Kê Đầu vừa đỡ được đường thép trên, chưa kịp đánh trả, con ngựa đã rống lên, cất tung vó tiến. Chưa ghìm được ngựa mã tấu Thoòng đã chém xuống một nhát, chạy theo mặt khiên, trúng luôn bả vai Kiệt. Tướng núi Kê Đầu nhào luôn xuống ngựa. Rất nhanh Thoòng phóng luôn ra một ngọn cước nữa, khiến con vật chồm luôn về trước, Kiệt Vương ngã nhào. Chưa lấy lại thế, Thoòng đã thúc tới chém rê một nhát mã tấu nữa. Kiệt lanh mắt đã giơ khiên đỡ được, tung chân đứng dậy phạt vào chân ngựa sau của Thoòng. Nhưng Thoòng đã nhảy luôn xuống đất, lúc dó mới biết chắc địch thủ đã mặc giáp dày nếu không, bị xả làm đôi rồi. Sĩ tốt nín thở, Kiệt Vương nghiến răng, tiến đến, Pạc Hoọc Đại Vương chỉ chờ có thế, cưòi nhạt:
– Thằng Kiệt! Mày tới số rồi! Coi đây.
Miệng nói, chân nhảy vụt lại, chém lia lịa, và thình lình Thoòng gieo mình xuống mặt cỏ, gĩưa lúc mã tấu Kiệt chém nhầu.
– Thằng Thoòng thua đến nơi rồi!
Tắc Sềnh vừa bật lên, Đại Sơn Vương đã nhếch miệng cười lạnh như băng:
– Không! Chúng mày mau sắp sẵn chậu đồng mà đựng đầu thằng Kiệt!
Trên mặt cỏ, Thoòng Mềnh vừa gieo xuống đã nhanh như con giải, quấn lấy quanh mình địch thủ. Kiệt chỉ thấy loang loáng hình thù Thoòng thoáng ẩn thóang hiện sau vành khiên mây, tướng Kê Đầu chém đã nhanh nhưng chỉ vào khiên bồm bộp, mã tấu chưa kịp thu về, thép địch đã tia ra, vừa nhảy đỡ, khiên Thoòng đã xoay chỗ khác, khiến Kiệt đảo người liên miên. Bên ngoài tướng sĩ còn đang thích chí vì lối đánh khiên nhào lộn lạ mắt của họ Thoòng, bất thình lình nghe giữa trận có tiếng thét ghê hồn, toàn thể ngó ra vừa kịp thấy đôi bên địch
thủ như chấn dưới đất, hai cái khiên ưp chụp lấy hai thân hình bất động. Và một vật tròn tròn, đen đen từ chỗ hai người bay vụt ra, lăn lốc trên mặt cỏ, loang loáng như chiếc bình vôi tới bên chân ngựa Tắc Sềnh. Tướng sĩ đôi bên còn chưa nhậ rõ được vật chi thì con ngựa Sềnh vùng hí mạnh, hoảng chồm, vô tình đá tung vật tròn ra mấy thước nữa. Định thần nhìn lại, thì ra một chiếc đầu lâu. Đầu lâu Kiệt Vương núi Kê Đầu còn nóng hổi, máu phun lênh láng, mắt còn trợn trừng trắng dã răng nhởn nhc ra. như còn muốn đem oai thừa dọa hàng tướng sĩ.
– Cái đầu Kiệt Vương! Cái đầu…
Tiếng rú ghê khiếp nổi lên khắp chỗ, Trụ Vương mặt cắt không còn hạt máu, ngơ ngác ngó đầu em. Tắc Sềnh mở to mắt nhìn Đại Sơn Vương, lắp bắp:
– Không ngờ… nó chém bay đầu…
Chàng tướng Thần Xạ lắc đầu:
– Ta đã biết đầu nó rơi từ trước, nhưng không ngờ tay mã tấu họ Thoòng lại ngọt đến thế!
Đám tướng tá họ Lâu nhốn nháo định xông ra chỗ Kiệt, Thoòng, chàng tướng Việt vội rút phăng cặp súng bên sườn, quát lớn:
– Cho hai tướng ra khiêng xác Lâu Kiệt vào! Đứa nào động đậy tao bắn liền ! Bên Thoòng ra đỡ chủ tướng cho ta!
Trụ Vương lừ lừ nhìn Đại Sơn Vương và lẳng lặng tiến đến nhặt đầu Kiệt Vương trao cho thủ hạ.
– Thoòng Mềnh!
– Lâu Trụ !
Hai địch thủ nhìn nhau, nảy lưa. Vó câu thủng thỉnh bước lên. Toàn thân Pạc Hoọc Đại Vương như tê liệt hẳn đi, chỉ còn mười ngón tay ve vẩy bên báng súng. Như cái máy, Pạc Hoọc Đại Vương đánh mạnh tay vào báng súng, với tất cả sức khổ luyện chân truyền. Đoành… Đoành… Đoành… Đoành… Rõ ràng bốn ngọn súng đen ngòm chĩa thẳng vào nhau nhả bốn phát đạn. Rồi ngừng bặt. Cả đấu trường trông ra, thấy đôi bên địch thủ vẫn ngồi sững trên lưng ngựa, súng vẫn giương thẳng. Tinh mắt lắm mới thấy Trụ Vương chợt rùng mình một cái giữa lúc nhả đạn. Rồi hai ngọn súng trên tay Trụ từ từ chúc xuống rụng liền. Và mặt Trụ gan lì vụt tái như chàm đổ. Hai cánh tay bị thương của Trụ như cố với không gian. Cặp Pạc Hoọc trên tay Thoòng đã nhả liền hai phát. Phựt. Hai vành tai cừu địch đã bay vèo. Ha! Ha! Thoòng Mềnh cười như điên dại, tung cặp súng lên bắt, nhả hai phát nữa. Hai ống chân Trụ gãy phăng. Cả thân hình vạm vỡ lộn nhào xuống cỏ. Như điên, Thoòng thúc ngựa bay chếch lên, hai cánh tay vẩy liền hòi. Đạn “Pạc Hoọc” xé không gian. Trụ Vương quằn quại rồi nằm lịm. Nhìn ra, đầu tướng giặc Ô Đầu đã nát như tương. Bỗng nhiên ba bề tiếng súng vang rền, hỏa pháo vọt lên trời tới tấp. Biết quân ngoài bắt đầu đánh viện binh địch, Đại Sơn Vương thét lớn:
– Kẻ nào thuận theo hãy đứng nguyên chỗ, đứa nào ngu dại muốn đi, tao cho tùy liệu. Quân ta dang chận đánh viện binh giặc đó!
Nói xong, tướng Thập Vạn Đại Sơn thúc ngựa Hắc Phong bay về phía súng nổ. Vừa thấy bóng chàng, viên đầu lĩnh cả mừng ngừng tay súng:
– Bẩm, đấu trường sao không tiếng nổ chỉ nghe mấy phát lưa thưa. Phải chăng…
– Chủ tướng đã chém rụng đầu Kiệt Vương, bắn vỡ đầu thằng Trụ rồi! Cả trăm quân nó đã theo hàng! Đám nào dưới núi đó?
Viên đầu lĩnh thở mạnh:
– Bẩm, quân Đốc Bàn Xường! Chúng tôi trấn đèo này, không cho nó tiến về đấu trường, nó nhất định vượt, nên phải đánh liền.
Quân binh họ Lâu đông gấp ba bốn lần quân Thoòng, thấy dịch xuống núi, cả mừng, vội từ mấy phía núi đổ lại định vây đánh nhầu. Nhưng, vừa đánh tới nơi, viên đầu lĩnh đã phất cờ cho cả cánh quân rút chạy. Đợi quân Thoòng đã chạy được non trăm thước, Đại Sơn Vương mới từ chỗ nấp, xông ra bắn mấy phát vào địch quân, đoạn phóng ngựa chạy bừa. Từ sau quân lính, Đốc Bàn Xường vọt ngựa lên, múa súng, hò quân đuổi riết, Đại Sơn Vương nhào luôn xuống lưng ngựa. Viên Đốc Bàn cả mừng bắn luôn phát nữa. Đứng xa chỉ thấy thân thể chàng tướng núi chợt rướn lên, rồi phục hẳn, dụi mặt xuống bờm, hai tay buông thõng bên bụng ngựa. Cả mừng, viên Đốc Bàn vọt ngựa lên, tay lia lịa phất hiệu cho quân sau. Ngựa quan Đốc Bàn dừng phắt bên Hắc Phong Câu hắn cúi mình, nắm lấy tóc Đại Sơn Vương kéo mạnh lên coi mặt, miệng cười đắc chí:
– Thầy a! Thằng nào đây mà yếu tướng thế?
Đầu vừa kéo lên, tự nhiên cặp mắt tử tướng mở trừng, viên Đốc Bàn giật mình đến thót một cái chưa kịp buông ra, thì bàn tay tử tướng đã quơ nắm ghì lấy cổ tay Đốc Bàn đồng thời toàn thân tử tướng vùng bật dậy như chiếc lò xo, miệng cất tiếng cười khanh khách:
– Tao đây là Đại Sơn Vương chứ còn ai nữa! Phải mày là thằng Đốc Bàn đêm nào môi giới định bán sống tao cho tướng Tây không?
Đốc Bản cả kinh, vung tay định đánh tháo, nhưng chàng tướng núi đã vươn tay ôm luôn Xường sang lưng ngựa, một ngón tay ấn ngay vào huyệt nách. Xường rú lên, vừa lúc quân của hắn phóng tới nhưng Hắc Phong Câu đã chồm vó bay vào thung lũng, mang theo cả Đốc Bàn. Rồi chàng dẫn Hắc Phong Câu xuyên rừng, chiếm một chỗ cao trông xuống. Quan binh trùng trùng kéo tới thế mạnh như vũ bão.
– Chà! Tràn qua biên giới, chẳng lẽ, chỉ để đánh trận với thổ phỉ. Từ khi ta về nước, lão tướng Roux, Gilbert không ngớt săn tìm. Chẳng lẽ hắn cũng đeo đuổi vặt kia?… Nếu vậy…
Đại Sơn Vương bay ngựa tới chỗ Thoòng Mềnh, thấp giọng:
– Quân tướng Roux mượn đất Đốc Bàn đang tới bao vây, đông lắm. Mã Đầu Sơn bị giặt lén tấn công! Phải rút về Cửu Sơn trại mau!
Hai người liền phân binh làm ba, vừa bắn vừa vọt lên đồi trông xuống quan binh đã kéo tới chân núi. Đại Sơn Vương trỏ súng xuống hô lớn:
– Quân Mã Đầu Sơn. Đánh thốc xuốngcho nhanh! Đã tới lúc dùng khiên rồi đó!
Miệng quát, chân thúc ngựa Hắc Phong, tay trái xòe khiên, tay phải vãi đạn, tướng Thần Xạ bay trước đầu binh, theo sau quân gia lớp xòe khiên, phóng xuống thế như gió cuốn. Chớp mắt đầu ngựa đã đụng quân binh. Lập tức, Đại Sơn Vương dẫn quân lướt thẳng vào, khoa gươm chém xả địch quân. Không ngờ bị lâm cận chiến chớp nhoáng quân binh chưa bắn được bao phát đã thấy địch quân lèn thốc vào biến trận thế thành sôi động, bắn đã không tiện lại lố nhố lẫn lộn e bắn lầm cả đám.
Chưa xoay trở lắp kịp lưới lê, mã tấu, gươm đao đã bay tới như gió, quân Thoòng nương khiên chắn đà ngựa, chém nhầu, rẽ hẳn quan binh, trong giây khắc đã vọt qua xoay khiêng ra sau ngựa, giắt dao, quay súng bắt vãi bừa. Đại Sơn vương ra khỏi vùng đấu trường rút được chừng hai dặ,. chợt thấy phía trước một đám thổ phỉ chạy tới, vừa chạy vừa bắn lại phía sau. Xốc ngựa tới gần mới biết quân Tắc Sềnh, Liễu Nương bị quân nào đuổi riết. Thoáng thấy bóng Đại Sơn Vương, Tắc, Liễu hoảng kinh chạy rẽ ngang luôn không còn Iòng cự chiến nữa. Đạì Sơn Vương cứ cho quân đi thẳng, không đầy trăm thước thấy một toán quân Thoòng phóng tới, dẫn đầu là một cô gái mặt như hoa, rạp mình lrên ngựa, tung súng bắn lên.
– Voòng Chí Plan!
Đại Sơn Vương giật mình, vừa bật kêu khẽ thì Nữ Chúa Hoàng Su Phì đã tế ngựa kề đầu.
– Trại Võ Hậu đem binh đến cướp sơn trại! Em đánh đuổi nửa chừng lại gặp thổ phỉ nữa! Trời! Sao người ông đầy máu thế kia?
Chàng tướng núi chòng chọc nhìn Chí Plan, lắc đầu liền mấy cái:
– Việc cô nương là tĩnh dưỡng cho lành vết thương, sao đã vội xông pha, lỡ ra…
Cô gái nhoẻn miệng cười tạ lỗi, cố chống chế:
– Vết thương em đã lành hẳn rồi mà… Vả lại…
Nàng ngừng nói mấy khắc, thấp giọng:
– Thà để giặc sợ không thành kế còn hơn. Và mấy cánh quân thổ phỉ đã bị lâm chiến tại đây.
Đại Sơn Vương đưa mắt nhìn quanh điềm nhiên:
– Không, quan binh của tướng Roux đông như kiến đang đuổi phía sau – Và nhìn Chí Plan, nghiêm giọng: – Còn cô nương phải theo về ngay nằm nghỉ, vết thương nguy hiểm, chớ coi thường!
Và chờ cho ngựa nàng đã khuất hẳn, chàng mới hô binh tiến thẳng đường mòn, phục sẵn, đoạn đánh ngựa ra đón đầu quan binh. Chỉ thoáng cái tiền quân địch đã đuổi tới, thấy bóng ngựa trước liền thúc ngựa theo miết. Đại Sơn Vương nhử địch vào ổ phục kích đánh nhầu đến khi thấy địch vắt đuổi lên núi định đánh dập xuống chàng lại rút chạy. Bị luôn hai trận phục kích, quan binh chia thành hai ba cánh xuyên rừng không dám khinh suất đuổi theo yếu lộ nữa.
Đại Sơn Vương đang đánh ngựa đi chợt sau lưng có tiếng vó ngựa, chàng quay phắt lại, vừa đặt tay vào báng súng đã thấy Voòng Chí Plan một mình một ngựa chạy tới.
– Phía tiểu lộ có quân mai phục. Chúng nấp cả trên cây! Hình như khá đông thì phải
Đại Sơn Vương hơi cau mây:
– Cớ nương,,, bướng bỉnh làm! Sao không về nghỉ cho khỏe sức đã! Cô nương có biết đám quân nào mai phục kia không?
Chí Plan chiếu ống nhòm, lắc đầu:
– chúng ngụy trang kỹ lắm không nhận được hình tích!
– Quân Cầu Mây.
Không đợi Chí Plan ngạc nhiêh lâu, viên tướng núi thản nhiên tiếp:
– Chính Nguyệt Tú chỉ huy. Và cho phục cả trên cây là để chụp bắt Hồng Lĩnh
– Kìa! Ông nói sao! Nguyệt Tú mà lại… mưu bắt ông? Đâu có lẽ? Chắc…
Đại Sơn Vương mỉm cười, trỏ tay về phía núi sau.
– Quan binh đã tới! Chà! Chúng tiến làm mấy ngả qua hiểm địa! Càng tốt! Ta vòng ra sau trận thì vừa!
Hai người xuống gò,. dẫn quân xuyên rừng, đến sát sau đám quân phục, buộc ngựa chỗ khuất, ngay dưới gốc cây và leo lên nấp trên ngọn cây, mỏm đá, trông xuống yếu lộ. Cách hậu quân Cầu Mây không đầy một trăm thước. Vừa xong thì đội xích hầu quan binh đã lướt tới. Viên tướng Thần xạ rút phắt cây súng dài, rẽ xuống yếu lộ, khai hỏa. Quân Thoòng lập tức nhất loạt bán ào. Quan binh giạt cả vào vách đá, chong súng bắn lên. Phía trước, quân phục cũng bắt đầu bắn xuống. Sau lưng có tiếng vó ngựa khua giòn. Đại Sơn Vương rút một hồi còi ám
hiệu, và quay nhìnVoòng Chí Plan, buông gọn:
– Trận đã mở màn, gọng kìm quan binh đang kẹp lại. Ta về thôi !
Chợt có quân thủ túc của họ Thoòng chạy ngựa về dâng thư:
Ân công nhã giám.
Thoòng phá vây quan binh, lại gặp một cánh quân lạ đón đầu, viên tướng lạ là một người trẻ tuổi, mặt đẹp, bắn súng rất hay, tước mất đúng trên tay Thoòng, có ý bắt sống.
May quân gia kịp đánh nhầu thoát được, thế ngặt phải rút về núi Ô Đầu tạm trú. Hiện nay, một miền biên giới, mấy địch thủ đóng khắp, tưởng ngọn Ô Đầu, Kê Đầu của Trụ Kiệt cũng là nơi ỷ dốc vẹn toàn cho Mã Đầu Sơn, Thoòng chuẩn bị một, hai hôm xong, xin về hầu ân công, có điều hệ trọng muốn thưa. Mong ân công cùng cô nương lưu lại đôi ba ngày. Thoòng này vạn phần nở ruột.
Vạn Kính
THOÒNG MỀNH
Xem xong, Đại Sơn Vương trao cho Voòng Chí Plan. Cô gái suy nghĩ giây lát, đoạn đăm đăm nhìn Đại Sơn Vương:
– Vết thương em đã lành, có thể lên ngựa được. Ơn họ Thoòng đã trả xong, tưởng ta nên về Hoàng Su Phì cho sớm. Vả chăng địch quân mấy phía kéo tới quyết chẳng rời ông. Lộ tung tích, ta phải mất nhiều công đối phó, sao bằng đấu vùi ngay đi! Chưa biết chừng nội hai mươi lăm giờ, Mã Đầu Sơn này sẽ bị vây hãm. Có mặt ta, Thoòng chỉ thêm mang họa!
Đại Sơn Vương gật đầu, trầm ngâm:
– Nhưng chỉ phiền Thoòng vắng mặt, vội bỏ đi, dạ chẳng dính. Vả còn điều lạ là cả quân tướng Roux, Gilbert, lẫn Nguyệt Tú, và tướng lạ mặt nào đó, vì lẽ chi, lại muốn bắt cả Thoòng? Trong thư Thoòng nói muốn gặp có điều quan hệ, tưởng hai, ba ngày nán đợi cũng không thừa!
Hai người bàn luận, phân vân mãi đành đi tắm rửa, thay y phục đã. Gần chiều, viên phó tướng vào yết kiến Đại Sơn Vương cho biết quân tuần thám báo quân tướng Roux đã rút về biên giới còn đám quân lạ cũng vào rừng sâu mất hút. Đại Sơn Vương cười bảo:
– Không thể tin được chúng bỏ đi dễ dàng như thế! Chắc phải có mưu định gì đây!
Chàng tướng núi đưa mắt nhìn quanh, còn đang ngẫm nghĩ đã nghe súng nổ dồn dưới chân núi xa, hỏa pháo, tên lửa vọt trên trời. Biết quân Mã Đầu đã chạm súng với địch, chàng bèn quay về phòng riêng. Sơn trại bừng dậy, cơ nào, đội ấy kéo xuống núi tiếp viện. Chàng sang phòng Voòng Chí Plan, thấy thiếu nữ vẫn nằm yên giấc bèn quay về phòng mình, chiếu đèn quan sát kỹ, mới hay đồ vật có nhiều thứ lộn xộn như có bàn tay bí mật nào lục lọi. Điểm lại không mất thứ gì chàng liền kéo chăn, đi nghỉ, để viên phó tướng Đô Ung đốc chiến theo kế
hoạch định sẵn.
Sớm mai, trở dậy, đã thấy Voòng Chí Plan tự tay đang sửa soạn nước sẵn đợi chàng ngoài phòng khách. Nàng nhoẻn miệng cuờì cầm ly trà ướp hoa đưa chàng.
– Đêm qua ông ngủ ngon quá.
Chàng ngồi đối diện nàng mỉm cười:
– Sao cô nương biết tôi ngủ ngon mà… cô nương định cho uống cà phê nửa sao?
– Ông dùng tạm cà phê xong thì vừa.
Thiếu nữ tinh nghịch nhìn chàng tiếp
– Ông ngủ ngon vì dêm qua có kẻ vào định khiêng đi mà không biết – Nàng nghiêm mặt, dáng suy nghĩ: – Ngườí này…lạ lắm! Hình tầm thước, mặt trắng mũi cao vải bịt mặt ngang mày, và tài cao lắm! Lần trước lúc ông vắng mặt, hắn tới đang
lục lọi, em quăng dây trói, hắn hụp tránh xong, ném lại một ngọn dao, rồi lẩn mất. Lần thứ haì, khoảng canh tư, hắn lại đột nhập phòng riêng Thoòng Mềnh lục soát chi, rồl sang phòng ông. Em định coi hắn làm gì, nhưng thấy ông ngủ mệt, sợ hắn hành thích bất ngờ, nên em phải ra mặt. Vừa chĩa súng bắn,
hắn giơ tay, thì một bóng nhỏ nhắn chụp phía sau, mải đề phòng, hắn thoát mất! Tiếc quá!
Chàng tướng núi cười, gật đầu:
– Tiếc thậtt Chỉ chậm chút là bắt sống được kẻ bí mật, nếu cô nương cứ chịu khó nấp xem thêm mấy khắc nữa thôi! Vì lúc đó trên giường chỉ là cái mũ và cuộn chăn không, tôi đã đứng sẵn trong tủ áo rồi, chỉ chờ nó cúi xuống giường là nhảy ra túm cổ.
Cả hai cùng cười. Cô gái loay hoay đỗ nước sôi vào “Phin”, không thấy chàng tướng trẻ nói gì, vội ngẩng lên, thấy chàng đăm đăm ngó mình châm nước, mặt buồn mênh mông liền cầm “Phin” cà phê đặt nhẹ trước mặt chàng khẽ nói:
– Ông nên về Hoàng Su Phì ngay, gặp thúc phụ em rồi đi tìm Phượng Kiều… cho sớm. Em sẽ theo ông đến tận chân trời góc biển tìm cho được chị ấy mới thôi! Ông Hồng Lĩnh!
Đại Sơn Vương quay lại, cảm động ngó cô gái núi biên thùy, đoạn cúi nhìn như đếm từng giọt nước đen rỏ xuống lòng ly. Bên ngoài, sương trắng giăng mờ mờ sơn trại, bóng quân thổ phỉ chạy qua lại vội vàng. Bỗng từng hồi mõ giục dập dồn..rồi từ dưới chân núi tiếng kèn đồng trống trận bất ngờ đưa thẳng lên, từng nhịp tràn thôi thúc. Và mấy tiếng đại pháo vụt nổi lên, vang động khắp vùng đồi núi. Voòng Chí Plan bước vội ra hiên, mươi khắc sau, trở vào, mắt sáng long lanh nhìn Đại Sơn Vương. Viên tướng núi vẫn ngồi nhấm nháp từng cụm cà phê, mặt vẫn không thay đổi.
– Địch quân tiến đánh sơn trại. Có lẽ là quan binh dùng đại pháo bắn lên tận trên này.
Đại Sơn Vương đặt ly cà phê xuống, gật đầu:
– Và chắc lần này chúng không dùng y phục quan binh. Có cả quân pháo thủ dự chiến, địch quân chắc đã phủ vây kín ngọn Mã Đầu Sơn và lần này tướng Roux quyết không để một con kiến thoát khỏi đây! Cô nương hãy theo tôi ra xeml
Hai người tiến ra gặp ngay phó tướng Lý Đô Ung.
– Địch quân kéo tới phủ vây đông lắm! Xin tướng quân cho lệnh!
Chàng tướng núi lẳng lặng vẫy Đô Ung cùng di ra bờ núi cao chiếu viễn kính quan sát. Dưới núi, người ngựa lố nhố khắp núi, từng đại đội trấn quanh một vùng rừng rộng, mũi súng chong lên cả Mã Đầu Sơn. Chờ cho địch đến hẳn chân núi, quân Mã Đầu mới thình lình nổ súng bắn, quăng tạc đạn tới tấp nhắm đúng những bộ phận chỉ huy vãi xuống. Địch quân phải rút ra khá xa, dùng đại pháo bắn phá. Cứ thế liền mấy giờ, cho đến lúc bóng chiếu đổ xuống trận địa mới tạm ngưng. Điểm lại, quân Mã Đầu đã chết hơn trung đội, bị thương cả đại đội.
Phó tướng Lý Đô Ung lo lắng bảo Đại Sơn Vương.
– Địch quân vây ngặt đánh dữ, đại pháo quét nhầu, hỏa lực thập phần mạnh mẽ. Không hiểu sao, quan binh biên thuỳ cố ý vây hãm Mã Đầu Sơn, giúp bọn Đốc Bàn kia?
Tướng núi mỉm cười:
– Rồi có ngày, Đô Ung sẽ hiểu!
Quân Thoòng reo hò vang dậy. Một đứa báo cáo:
– Có đến mười con ngựa đang tiến đến chân núi, hình như muốn nói điều chi.
Đại Sơn Vương cùng Chí Plan bước ra, quả nhiên thấy một tốp người ngựa đã dừng dưới núi, trông thẳng lên khu cột cờ. Chiếu kính viễn nhận ra bọn Liễu nương, Tắc Sềnh cùng mấy viên phó tướng Lầm, Lừng, cạnh có đại tá Gilbert với tùy viên.
Đai Sơn Vương, Voòng Chí Plan, Lý Đô Ung, bèn cùng mấy viên đầu lĩnh Phần, Lều Lâu… tiến ngựa xuống sườn non.
– Đại Sơn Vương! Biết điều nên nộp mình mau. Lần này có cánh cũng không hòng thoát khỏi. Chậm trễ ta sẽ huy động toàn lực phá bằng ngọn núi Mã đầu ngay!
– Các tướng sĩ Mã Đầu! Đem nộp Đại Sơn Vương vòng vây sẽ rút ngay! Chúng ta chỉ cần bắt sống Đại Sơn Vương!
Đô Ung:
– Có sức đông, cứ tiến lên, có đủ thời giờ, cứ vây hãm. Ta không khi nào chịu để các mi làm ngặt, gây điều úy tử đâu!
Cả bọn lại ngoắt ngựa lên núi, không thèm nói thêm nửa lời. Quả nhiên, từ đó đến nửa đêm, dưới núi im bặt tiếng súng. Nhưng vòng vây vẫn xiết chặt. Sớm sau, lại thấy mấy cánh quan binh tới, có cả đội sơn pháo đi theo. Chí Plan cả kinh bảo Đại Sơn Vương:
– Không ngờ tướng Roux đã mua hết được cả bọn quan Tàu, thổ phỉ rồi! Ông đã có kế gì chưa? Có lẽ chúng sắp đánh mạnh đến nơi rồi!
Đại Sơn Vương khẽ nói, cặp mắt sáng quắc:
– Chí Plan! Tôi sẽ xuống núi… một mình một ngựa. Cô nương giữ bảo vật, ở lại. Tôi có mệnh hệ nào, bảo vật vẫn có thể theo cùng cô nương thoát khỏi tay cường địch!
Cô gái họ Voòng tiến đến sát chàng tuổi trẻ, lắc đầu ngậm ngùi:
– Em có thể nhận lời ủy thác, nhưng… không chịu để ông xuống núi một mình đâu vì…
Chàng tướng núi bước ra, chỉ mười lăm phút đă trở lại:
– Thoòng Mềnh cũng bị đánh cầm chân tại núi Ô Đầu! Chắc khó lòng về cứu ứng được. Phải xuống núi đêm nay, nếu không núi này sẽ bị đại pháo tàn sát hết! Không ngờ tướng Roux huy động toàn lực chỉ để săn bắt một người! Thì ra đã có sự thỏa thuận ngầm với tướng Long Vân rồi!
Chí Plan ngồi im lặng, lát sau khẽ bảo:
– Nếu vạn bất đắc dĩ phải liều thoát vây, em sẽ theo ông cùng… sống thác
Chàng tướng núi cau mày, định nói gì lại thôi. Nhưng Chí Plan thông minh đã đoán ngay chàng đang thầm tính kế chi, từ phút đó nàng nhất định không rời chàng một bước. Cho đến tối quan binh vẫn chưa mở trận đại tấn công, có lẽ muốn cho tinh thần quân bị vây căng thẳng đến tột độ đã. Và nhất là sợ Đại Sơn Vương loạn chiến, tan cả người lẫn vật như chơi.
Xẩm tối, đột nhiên có nhiều tiếng súng nổ,quân reo. Đứng trên núi, nhờ ánh hỏa pháo, mọi người thấy cả bóng quan binh cự chiến cùng quân ngoài rất dữ dội. Chợt một mũi tên hỏa lớn như ngọn lao bay vọt cầu vồng rớt xuống sơn trại. Nhặt xem mới hay chính Pạc Hoọc Đại Vương Thoòng đã liều chết chọc vây Ô Đầu Sơn về cứu ứng. Trận đánh kéo dài, nhưng vòng vây quan binh vẫn như lưới sắt, tường đồng. Tuyệt vọng, tử khí trùm sơn trại. Mõ điểm canh ba. Ngọn nến rạp xuống, cháy xèo sau hơi gió đêm thâu.
Tướng Thập Vạn Đại Sơn đứng phắt lên, xốc lại bao súng bên sườn, cặp mắt sâu thẳm nhìn Voòng Chí Plan, giọng chìm hẳn đi:
– Đã đến giờ xuống núi! Lần này thập tử nhất sinh, nhưng… ý Hồng Lĩnh này đã quyết!
Chí Plan toan ngắt lời thì chàng đã giơ tay làm hiệu tiến lại trước mặt nàng mặt rắn như đá tạc rút trong mìmh ra một chiếc hộp nhỏ đặt vào tay nàng.
– Cô nương hãy giữ hộp này và làm theo lời trong thư căn dặn. Vạn nhất không còn ngày tái ngộ, cô nương hãy thay tôi, đừng để báu vật vào tay nghịch tặc. Chính tôi cũng chưa rõ báu vật là chi, nhưng đồ bản khai thông cắt chéo hình lục lăng, giờ đã dược ba.
Tướng lạc thảo ngừng lại, mặt thoáng bâng khuâng, vùng nắm tay tay nữ tướng biên thùy:
– Mai sau… có gặp Phượng Kiều… – Gịong chàng run hẳn lên….
Nhưng giữa khung cửa tranh tối tranh sáng, Pạc Hoọc Đại Vương Thoòng đã đứng sừng sững từ lúc nào, quần áo rách bươm, đẫm máu, cặp súng chĩa bên sườn, thoạt trông hệt một bóng oan hồn tử trận hiện về trong giấc mộng âm u.
– Trời… Thoòng kìa!
Cả hai cùng bật khẽ lên kinh ngạc, Đại Sơn Vương cau mày hỏi lớn:
– Sao Thoòng qua nổi vòng vây trùng điệp? Hay người đã oan thác, chốn trận tiền, u hồn nương mây gió về Mã Đầu Sơn chốn cũ?
Pạc Hoọc Đại Vương cất tiếng cười giòn tan, tiến vào.
– Không! Thoòng vừa “Độn thổ” về đây.
Đại Sơn Vương, Voòng Chí Plan cả mừng vẫn chưa hết ngạc nhiên:
– Hay lắm! Thoòng một mình vào được, tất có cách ra êm? Ta chưa tính được kế gì, đánh liều xuống núi cho chúng khỏi tàn phá Mã Đầu Sơn.
Thoòng Mềnh cúi đầu:
– Lần này không phải chúng chỉ định bắt riêng tướng quân mà cả Thoòng này nữa. Xin hãy an tâm. Đã tới lúc tướng quân cùng Nữ Chúa ra đi.
Cả ba nhảy phóc lên mình ngựa. Thoòng Mềnh dẫn đầu tiến về phía hậu trại ghìm cương bên ngọn Mã Đầu. Tiếng súng nổi lên, vang động canh khuya, Thoòng ngồi im trên ngựa, mấy phút sau, mới dẫn hai người vòng sau ngọn núi. Ngó xuống chân núi hậu, xa xa vẫn thấy hỏa binh ngùn ngụt, quá chừng một trăm thước là vực thẳm muôn trùng không lối xuống. Ngựa dừng bên vách đá ngọn, Thoòng Mềnh xuống ngựa, lần dọc theo vách dá, quơ trong bụi ra một ngọn thừng và thoăn thoắt leo lên. Nháy mắt, đã thấy bóng dáng viên tướng Tàu sừng sững trên ngọn núi chênh vênh, khắc vào nền trờí mờ tối như một hình thạch tượng trên mõm ngựa khổng lồ. Liền tiếp đó mấy sợi thừng buông xuống, Đại Sơn Vương quàng luôn vào bụng ngựa cho Thoòng kéo lên. Phút chốc cả ba con vật đã chui tọt vào miệng ngựa đá. Đại Sơn Vương, Voòng Chí Plan liền bám dây leo lên, tới ngọn ngạc nhiên hỏi Thoòng:
– Ngựa đâu cả rồi?
Thoòng trỏ xuống phía sau:
– Tướng quân cùng Nữ chúa hãy nhìn đường độn thổ! Thoòng đã cho chúng xuống trước rồi.
Đại Sơn Vương đảo mắt ngó quanh thấy đang đứng trước mõm ngựa đá, phía trong tối om, lúc đó mới rõ ngọn Mã Đầu trống rỗng, bên trong có một cái hang chạy từ mép núi vào sâu đến hơn hai thước. Thoòng Mềnh đi trước, lần vào “Họng” ngựa đá chiếu đèn bảo hai người:
– Tướng quân cùng Nữ Chúa chắc không ngờ là ngọn núi này lại có đường độn thổ! Dưới kia, là lối ngầm thông qua một núi đá.
Phía dưới, sâu thẳm như giếng khơi từ mép xuống đến gần ba mươi thước đá dựng đứng rêu phong thẳm dưới đáy, thấy hình thù ba con ngựa chực sẵn đó. Thoòng Mềnh nhắc mấy phiến đá lớn lấp ngoài mỏm ngựa đá, đoạn dẫn hai người bám dây xuống đáy hang. Tới nơi Thoòng lia đèn bấm dẫn lối, cả ba dắt ngựa đi theo hang thẳm dị thường. Hang ăn thông bên tả, đổ xuống mãi, xuống mãi, gập ghềnh, khúc khuỷu, đá như sát bờm ngựa, vách ép sát hai bên sườn.
Đến hơn một gìơ sau, mới thấy hang ngầm mở rộng, bên tai nghe có tiếng gió lùa, lẫn tiếng súng đì đoàng kề bên vách.
Thoòng Mềnh ngửa mặt trông lên khẽ bảo:
– Tới giữa vòng vây địch rồi. Chúng đóng ngay trên đầu ta đó! Chỉ hơn một trăm thước nữa là tới cửa hang. Phía kia có cái hốc khá rộng, ta nên chờ sáng rõ hãy ra cho chúng trông rõ mặt mới được.
Ba người lại dắt ngựa đi. Hang chạy ôm chân núi, ngay giữa vòng vây, chừng non một trăm thước, quả thấy một hốc rộng ăn vòng vào núi. Ngửa mặt trông lên thấy nóc hang có chỗ cao vút, gió ngòai trời lùa vào lành lạnh. Tiếng súng vẫn vọng vào, tiếng chân ngựa khua ngay trên đầu.
Chợt Thoòng Mềnh tiến đến bên vách, chiếu đèn soi khắp nhũ đá. Đại Sơn Vương, Chí Plan còn đang lấy làm lạ vì dáng dấp cẩn trọng của họ Thoòng, thì Thoòng đã lùa tay vào một hốc đá, lấy ra một chiếc hộp đồng nhỏ như bao diêm, tiến lại trước mặt Đại Sơn Vương. Chàng tướng núi ngạc nhiên cầm
lấy hộp, tò mò mở ra:
– Mảnh họa đồ.
– Vâng, mảnh họa đồ khiến địch quân phải huy động toàn lực biên thùy vây hãm Mã Đầu Sơn. Mảnh này ghép vào mảnh của ân nhân, nó là vật báu vô cùng trong thiên hạ. Họ Thoòng đã tốn xương máu tìm được, nhưng Thoòng tài đức gì
dám giữ vật báu của nước Nam. Xin ân công rộng tình thu nạp, nếu không Thoòng chết tại hang này.
Đại Sơn Vương đặt tay lên vai tướng Thoòng, im lặng. Rất lâu, gió đêm thu lùa qua khe đá đưa vào cả tiếng súng nổ ngựa phi.
Giọng viên tướng Thần xạ chìm hẳn đi:
– Thôi Thoòng hãy đứng lên. Hình như ngoài kia, trời rạng đông rồi thì phải
Qủa vậy, ánh sáng bên ngoài lọt vào lờ mờ màu nước hến, nhưng nền hang lại ăn ngược lên cao. Hết một khúc ngoặt, hang chợt thắt lại không đầy một thước rộng. Cửa hang ngầm chỗ đó ăn ra mộ vách núi chênh vênh dựng đứng cách mấy thước tây mới có thạch bàn ở dưới. Qua nhiều bậc đá cheo leo, mới tới rừng dưới, trông qua cũng lượng cao đến mấy chục thước. Trên nóc những phiến đá lớn nhô ra như mái hiên đầy thạch nhũ và con thác đổ từ trên xuống ngay mái hiên ầm ầm, dệt thành một bức bình phong che cửa hang trong nhìn ra được, nhưng ngoài trông vào không thấy lỗ trống, nhờ đó, cửa hang chẳng khác đã ăn dưới lòng thác bạc.
Đại Sơn Vương chiếu viễn kính mới rõ là đám sĩ quan, hình như tới ăn điểm tâm trước khi khai hỏa Cả bọn vừa ăn vừa trỏ lên núi cười nói, có vẻ đắc chí lắm. Chợt lại có một tốp ba, bốn người bay ngựa tới. Đám sĩ quan vừa giơ tay chào, Voòng Chí Plan đã nói luôn.
– Kìa ! Chính tướng Roux và đại tá Gilbert. Và hình như có cả Voòng Xám anh em nữa thì phải!
– Chẳng lẽ anh Voòng lại được thúc phụ em sai đi tìm em! Nếu đi việc này, phải anh Voòng Dắt chứ..Lạ thật.
Thoòng Mềnh đã lén ra, đứng sau lưng.
– Hay lắm! Ta phải xuống thung ngay mới đươc.
Tướng Thập Vạn Đại Sơn lập tức vỗ Hắc Phong Câu lao xuống theo “Mũi tên đen” đang bay trên mỏm đá, phía sau đã vọt ra con ngựa của Đại Vương Thoòng. Cả ba con ngựa nối nhau không đầy bốn, năm thước nhưng Thoòng kìm phắt sau lùm cây rậm cố ý chờ Đại Sơn Vương vượt quá lên, mới phóng theo.
Ngựa Hắc Phong đang vọt trên thạch bàn, bất thần, chàng tướng nghe sau lưng có tiếng Thoòng quát lớn:
– Coi chừng!
Đại Sơn Vương quay phắt lại, thấy hai ngọn súng bên hữu chĩa thẳng vào lưng, giữa lúc người ngựa đang lơ lửng giữa khoảng không, tướng núi kịp thời vẩy luôn hai phát, xác quan binh nhào liền trên mép đá.
Tiếng nổ làm kinh động cả khu hậu trận. Quan binh trấn gần đấy, nhìn ra thình lình thấy mấy con ngựa như từ trên trời sa xuống, không bảo nhau, đều bật kêu lên nhất loạt, chưa kịp lảy cò thì “Ngựa trời” đã bay kề chân núi mép thung.
Voòng Chí Plan phóng đầu, theo lời dặn, cứ nơi phía tả chạy, ngoảnh lại đã thấy Hắc Phong Câu theo sát tới ngang thung, cách chỗ lều vãi bọn tướng Roux chừng non trăm thước. Đại Sơn Vương thét lớn:
– Bọn tốt đen hỏa thực kia! Khôn hồn tránh giạt ra cho tao mượn đường đi, không bỏ mạng bây giờ.
Miệng thét tay vẩy súng lia lịa khiến đám quân binh kinh hoảng bỏ chạy giạt cả vào lều, tìm súng. Tướng Roux, Gilbert trông rõ mặt Đại Sơn Vương, vội hô lớn:
– Kỵ binh đâu! Đuổi bắt tướng giặc chớ để thoát!
Lúc đó, ngựa Đại Sơn Vương chỉ còn cách tướng Roux chừng năm, sáu chục thước. Tứ bề, đạn réo, quân reo bắn vãi theo. Roux thấy ngựa tướng Thần Xạ bay chếch tới, vội giật ngựa ẩn sau lều. Còn đang hô quân tướng ngăn đánh, thì Đại Sơn Vương cùng Chí Plan đã bay ngang tới, chui lọt qua một căn lều trống, xoay phắt lưng lại, cười lớn;
– Lão tướng biên thùy! Tiếc thay có việc bận, không còn thì giờ tiếp trận với các ông. Xin nhờ Đại Vương Thoòng tiếp giúp!
Tướng Roux cả giận chĩa súng bắn theo, nhưng Hắc Phong Câu đã vọt qua dãy lều hỏa thực thẳng tuốt vào rừng nhanh như cơn gió lốc. Vượt khỏi vòng vây, Đại Sơn Vương cùng Voòng Chí Plan cứ rạp trên lưng tuấn mã, mải miết ra roi, đi một đoạn khá xa, tới chỗ có ngã ba yếu lộ thâm u, mới dừng cương chờ Thoòng Mềnh.
– A Thoòng! Giờ đã đến khắc chia tay, Thoòng ở lại ta đi, sẽ có ngày tái ngộ!
Tướng thổ phỉ râu xồm ngậm ngùi:
– Nhưng… từ nay Thoòng sao yên dạ được, tướng quân đi
– Hãy về cùng thuộc hạ, mai này, sẽ gặp nhau. Kìa! Địch quân đã đuổi tới rồi!
Thoòng Mềnh lưu luyến chẳng muốn rời, ngoảnh lại thấy bụi bay cuối đèo đánh rạp trên đầu ngựa:
– Lối mòn bên tả đưa đến cỏ phân mao, Tướng Quân, Nữ Chúa đi cho mạnh giỏi. Thoòng đứng đây nhử lạc hướng quan binh.
Hai con tuấn mã quay đầu về nẻo biên thùy sải vó để lại phía sau một tướng thổ phỉ râu xồm bâng khuâng trong sương sớm đìu hiu. Lúc đó tám vó câu tuấn mã đã vượt cỏ phân mao, đem tướng Thập Vạn Đại Sơn cùng Nữ Chúa Hoàng Su Phì về đất Việt. Hai người buông lỏng tay cương cho ngựa bước trên một miền cây cỏ hoang sơ, xa xa lác đác mái nhà sàn tựa vách núi. Chí Plan đưa mắt trông khắp núi rừng quạnh quẽ, thở một hơi dài.
– Thoát hiểm! Giờ này quan binh thổ phỉ còn lẩn quẩn bên Tàu đuổi theo dấu ngựa mơ hồ … Ta nên tìm chỗ tạm nghỉ đã.
Đại Sơn Vương gật đầu trỏ về phía đèo cao bên thung:
– Chỗ kia cây cối um tùm lại có đồi xanh mướt cỏ, có lẽ tiện cả cho ngựa nữa.
Hai người thong dong băng qua cánh rừng thưa, tới đèo. Tới nơi, hai người tháo hành lý xuống, nới dây nịt ngựa, thả cho ăn cỏ và ngồi dưới lùm cây nghỉ ngơi, ăn uống. Đang uống cà phê chợt có từng loạt súng vọng về từ chốn xa. Viên tướng ngạc nhiên, đứng phắt lên, nheo mắt lắng tai nghe, dạ bồn chồn như lửa đốt.
– Thôi ta trở lại chỗ cũ còn lấy hành lý chứ!
Đại Sơn Vương ra mé đồi, trỏ tay về phía xa tít. Chàng vội chiếu viễn kính mới hay có một cánh quân đến dựng trại, khói bốc lên, có vẻ đang nấu nướng chi đó.
– Đám quân đó vừa đánh nhau với quân Trần Tắc và đã bắt được họ Trần rồi! Một nữ tướng cầm đầu coi dáng quen thuộc lắm. Lúc hai bên đánh nhau, em quan sát, bọn đó chủ ý bắt sống Trần Tắc và có lẽ đã truy kích từ dâu về thì phải.
Đại Sơn Vương sực nhớ tới mảnh họa đồ bí mật trong tay họ Trần, chàng ngẫm nghĩ mấy khắc, đoạn bảo Chí Plan:
– Chắc chúng chưa đi ngay? Ta về lấy hành lý cũng vừa!
Nói xong, hal người lộn về chỗ cũ.
– Nên hóa trang cho tiện! Cô nương nên cải nam trang. Chúng ta là hai bạn đường thổ dân.
– Sao không giả làm một cặp vợ chồng có hơn không? Và giấu súng đi như một cặp vợ chồng thường.
Câu đề nghị táo bạo của cô gái khiến chàng tướng núi không khỏi ngạc nhiên nhưng thấy vẻ hồn nhiên trên khuôn mặt hoa rừng chàng đành lẳng lặng làm theo. Trong giây lát cả hai đã gọn gàng trong bộ
quần áo thổ dân khá sang, mặt hóa trang khác hẳn, cả hai con ngựa cũng được xoa thuốc ngụy lông, ung dung sóng đôi, phóng thẳng đến chỗ đám quân lạ đang hạ trại.
Tới đầu thung mới cho ngựa bước một, tiến sát lại. Con đường mòn chạy ngoài bìa thung ăn chếch qua trại quân lạ, cách chỉ chừng trăm thước. Cả cánh quân lạ vội ngó ra, chĩa súng dè chừng bất trắc, tới lúc thấy rõ hai người không mang súng ống mới dựng súng về chỗ cũ. Hai bóng kỵ binh phi ra, hô lớn:
– Đi đâu? Sao lại bén mảng tới chỗ này! Đứng lại đã!
Hai người dừng ngựa, trông vào thấy bóng hai nữ binh. Chí Plan lễ phép cất tiếng miền núi hỏi.
– Vợ chồng tôi đến Cao Bằng! Cái lính đây là gi đấy?
Nữ binh hỏi mấy câu, đoạn vẫy tay bảo di, đoạn quay vào chân núi. Chí Plan, theo vào luôn, Đại Sơn Vương cất tiếng gọi, rồi cũng vào nốt đuổi thế nào cũng cứ đi, đến gần nhìn rõ mặt mới chịu dừng, nằng nặc hỏi xin thuốc Tây. Đưa mắt nhìn, thấy Trần Tắc cùng mấy thủ hạ bị bắt ngồi dựa thân cây, quân lạ vừa nam lẫn nữ, kẻ đang sửa soạn bữa ăn, người băng bó thương tích. Còn đang tìm coi chủ tướng chợt thấy hai cô gái đẹp đeo súng từ chân núi bước ra. Hai cô gái hao hao giống nhau, khuôn mặt đẹp như hoa, thoáng trông đã đoán ngay hai chị em
ruột: Nữ tướng họ Cầm, thuộc quân Si Pan. Cặp nữ tướng đang đốc quân phục kín bên yếu lộ giữa hẻm, thoáng cái đã ẩn kỹ và cô êm dặn một toán nữ binh vài chục người lộn lại chỗ vừa hạ trại, xuống ngựa, kẻ nằm người ngồi có vẻ một mỏi lắm, nhiều con ngựa đã tháo cả yên, cho gặm cỏ tự nhiên.
Đại Sơn Vương vội cùng Chí Plan kiếm chỗ ẩn, chiếm chỗ cao quan sát tỏ tường, thấy thế khẽ bảo nữ tướng Hoàng Su Phì:
– Hai cô gái này định nhử địch vào cạm bẫy đây! Nhưng không biết bọn nào sắp tới?
Chí Plan chưa lên tiếng, đã thấy xa xa cát bụi bay, một đoàn quân chĩa mũi dùi phóng tới. Dừng lại cách hơn trăm thước, ngay trên đồi cao bên kia thung, dàn hàng ngang trông sang chân đồi bên này, có vẻ đang quan sát địch tình, Đám nữ binh trông thấy địch, vội vã chạy đi bắt ngựa bố trận. Lập tức, đám quân bên đồi kia nhất tề hò reo như sấm ùa xuống, đánh luôn. Nữ tướng vội thót lên ngựa hô quân vừa bắn, vừa tháo chạy, ngựa chưa kịp thắng yên. Thình lình Nữ tướng dừng phắt ngựa, khoa tay ngang đầu thét lớn:
– Lùi lại! Quân bay! Có phục binh.
Lời vừa dứt vó ngựa vừa dừng chưa kịp tháo lui, thì từ hai bên hẻm núi, từng loạt súng nổ rền, đạn bay ra người ngựa Si Pan nhào luôn một lớp hàng chục tên. Đồng thời đám nữ binh cũng lộn ngựa, bắn xả lại như mưa, dìm Si Pan rất mau vào thế tam diện thụ địch hiểm nghèo.
– Giạt cả sang vách núi! Xuống ngựa!
Cầm Mi Yến nép sau hông ngựa, dựa lưng vào vách hẻm,vừa vẩy súng lên, vừa hô binh đánh tháo. Trên sườn dá, cứ cái đầu nào ló ra, là bị đạn Mi Yến bắn lộn xuống liền. Nhờ thế, quân Si Pan rút ra gần khỏi yếu lộ rất nhanh. Thình lình có tiếng quát lanh lảnh phía trên cao:
– Giặc cái Tây Phàn! Hay coi đây!
Cầm Lình con gái lão động chủ ngửa mặt lên, thấy nữ tướng lộ diện trên mỏm đá, liền nhô khỏi hông ngựa bắn lên, nhưng đạn nữ tướng kia đã ra khỏi nòng, xoi trúng bàn tay nữ tặc. Cầm Lình vùng nhăn nhó ôm tay, Cầm Mi Yến trông thấy liền nghiến răng vẩy luôn ngọn súng lên giữa lúc nữ tướng địch đang nhìn chếch về phía Cầm Lình. Nhưng tự nhiên tay Mi Yến chới với giữa không gian, khẩu súng đã bay đâu mất, còn đang ngửa mặt ngó tìm, thì nữ tướng phía trên đã xoay lưng lại nhả luôn một phát. May Nữ Thủy Vương Hồ Ba Bể đã kịp thời hụp đầu xuống tránh kịp.
– Tạc đạn đâu thả cho rồi!
Tiếng lanh lảnh của cô nữ tướng phía trên lại quát lên, khiến Mi Yến giật mình chưa kịp nhảy sang bắn trấn cho Cầm Lình thì liền mấy quả tạc đạn từ trên đã ném xuống. Nữ tặc vội nhào xuống chân ngựa, chỉ thấy liền mấy tiếng nổ vang, nhói một bên mình, rồi cả thân hình con ngựa đổ đè lên trên, giữa vùng khỏi tóa um còn nghe tiếng Cầm Lình gọi lớn:
– Cầm muội đâu! Cầm muội?
Nữ tặc thét lớn:
– Rút mau không khốn cả? Đánh cồng hú gọi đoàn báo tiếp cứu cho mau!
– Anh chị em! Nhảy xuống đánh giáp lá cà chớ để hai con nữ tặc chạy thoát.
Tiếng tướng thét, quân hò vẫn nổi lên vang động, khói mù bốc che yếu lộ như sương lam. Không thấy tạc đạn nổ nữa, lại nghe có tiếng người từ trên nhảy xuống. Cầm Mi Yến mới hấtlung xác ngựa phục sát vách đá, định thần quan sát, chỉ thấy lố nhố người ngựa rầm rập ngược xuôi giữa vùng khói tỏa, lại nghe phía đầu hẻm, vẫn còn tiếng súng, liền men vách lần ra. Vừa khỏi vùng khói tỏa, giật mình toan quay ngược thì bốn bề ập lại từng đoàn địch quân, gươm súng chĩa vào tua tủa trông ra không bóng quân gia, yếu lộ đã nghẹt đầy địch thủ. Nữ Thủy
Vương Hồ Ba Bể đành nghiến răng quay luôn mũi súng vào ngực, lảy cò. Nhưng một bàn tay đã gạt mạnh, đạn nổ lên trời, nữ tướng địch đã từ đâu vọt tới, cười khanh khách:
– Vội chết sao được! Bản cô nương còn có điều muốn hỏi. Chị em đâu ! Trói nữ tặc lại cho ta! Và truyền nổi hiệu thu quân mau.
Lúc đó, dưới hẻm, bọn gái lạ đang thu binh, chợt thấy Cầm Lình dẫn quân trở lại. Cầm Lình tay cầm một cây roi có tua ngũ sắc, đứng thẳng trên lưng ngựa vừa khoa lia lịa, vừa hú lên những tiếng man rợ, lạ lùng. Đoạn hô binh tiến lên, tả hữu có Nhị Cô, Tam Cô bay thẳng đến hẻm núi hình như bất chấp cả địa hình.
Trận đánh vừa mở, chợt ngựa bên phe đôi gái lạ, thi nhau hí vang, hoảng chồn, rồi có tiếng thú gầm ghê rợn. Ngạc nhiên nhìn kỹ, mới biết cánh quân đó bất ngờ bị một đoàn báo gấm từ rừng rậm xông ra tấn công chớp nhoáng vào bên sườn. Nguy nữa, là đám quân này đang bám chặt yếu lộ làm điểm tựa tác chiến, hai bên toàn cay cối, đá tai mèo, đoàn thú dữ cứ vọt ra táp cấu xé, rồi lại lẩn vào chỗ khuất, lại thêm chỗ hẹp người ngựa khó xoay trở, mặt trận đôi gái lạ này cả loạn ngay. Và như đã nắm được yếu tố thủ thắng,Cầm Lình, Nhi Cô, Tam Cô cứ dẫn binh bay ngựa ngang hẻm vừa bắn thốc vào, vừa cố ý không cho địch quân xông ra ngoài thung tráng.
Đang đốc chiến phía trước, thấy hậu quân biến loạn, cô chị vội hô binh tiến mau ra nhưng đã bị quân Si Pan chận gắt, đành lộn ngựa lại thét lớn:
– Bật hồng lên đánh xua thu dữ, hậu đổi thành tiền rút qua bên kia hẻm!
Quân gia lập tức, xuống ngụa, bật lửa, đuổi thú, nhưng thú đã được luyện quen không sợ lửa, cứ tiếp tục chồm táp người ngựa rất hăng. Đang lúng túng mới lui được vài chục thước lại nghe hậu trận nổ vang rền, Rồi một cánh quân Si Pan nữa xốc tới, đánh bừa hai đầu dồn quân nữ tướng vào giữa cho thú dữ cấu xé.
– Phải cứu hai nàng kia mới được! Ta ở ngoài vòng có thể đánh thốc sau lưng Tây Phàn!
Đại Sơn Vương đứng phắt lên, Chí Plan đã giơ tay can lại, mỉm cười.
– Bất tất phải nhọc lòng!Chỉ cần xua lui đoàn thú dữ là xong, hai nàng đó đủ sức đánh quân địch rồi! Ông đã quên em vốn sinh trưởng nơi sơn cước, đã từng nuôi hổ báo thay chó giữ nhà ư?
Nàng quay bảo nữ binh nãy giờ nằm êm kinh sợ:
– Mau xuống bảo nữ tướng nhét giẻ vào miệng cô gái Hồ Ba Bể trên này sẽ đuổi thú giúp cho!
Hai nữ binh ngạc nhiên nhìn “Cô Thổ” nhưng cũng vội vã băng xuống lộ hẻm.
Tiếng Cầm Mi Yến vụt tắt, trên ngọn đồi,Nữ chúa Hoàng Su Phì liền khum tay miệng, rú lên một tràng tiếng dị kỳ man rợ, lanh lảnh vang khắp chiến trường. Lập tức, đoàn báo gấm ngừng tấn công nhìn cả về nẻo có tiếng hú và dưới hẻm, thoáng cái đã thấy những hình vàng đốm lao vùn vụt giữa nền bụi xanh, bay hẳn lên ngọn đồi. Rồi mùi tanh hôi theo hơi gió thốc vào mũi Đại Sơn Vương, trông ra đã thấy lá cây sào sạc, báo dữ từ các nơi xông tới. Không chậm trễ,Voòng Chí Plan ra hiệu cho Đại Sơn Vương nhảy phắt lên yên ngựa lao xuống bên kia đồi, vừa phi vừa hú dụ đoàn thú băng theo.Ra khỏi vùng trận, Đại Sơn Vương ngoảnh lại thấy từng đợt “Sóng gầm” dập dồn bèn gò cương bảo Chí Plan:
– Đoàn thú rừng lợi hại vô cùng, cô nương sao không thu phục mà dùng?
Chí Plan lắc đầu:
– Muốn thu phục phải dùng ngải riêng.Phải giải ngải của Cầm Mi Yến mới được.Giờ chỉ tạm dùng tiếng hú lùa chúng theo, nếu đến gần, không có ngải quyện chúng sẽ nổi tánh rừng ngay! Thôi! Chỗ này chúng lạc dấu được rồi!
Nói xong, Chí Plan im bặt tiếng hú, cùng Đại Sơn Vương giục ngựa vào khu rừng rậm gần đấy, chạy thêm một quãng xa, mới lộn lại chiến trường. Còn đang dòm tìm vết chân ngựa, chợt thoáng thấy bóng một kỵ sĩ từ phía biên thùy tế ngựa tới thung. Đại Sơn Vương bèn cùng Chí Plan ẩn luôn vào bụi cây bên hẻm. Ky sĩ chạy đến khu trận, dừng lại, đảo mắt nhìn quanh và cho ngựa bước thẳng đến hẻm, vừa đi chăm chú quan sát từng thân cây, vách đá, mặt cỏ, có vẻ muốn tìm một dấu vết chi. Đang chăm chú ngó quanh, chợt chàng ky sĩ tiến ngựa lại sát vách đá gần đấy, ngửa mặt trông qua vù gật gù lẩm bẩm:
– Có thế chứ! Không ngờ bắt được cả Trần Tắc lẫn nữ tặc họ Cầm!
Và đảo mắt một vòng chàng ta giục ngựa đi thẳng qua bên kia hẻm. Đại Sơn Vương, Chí Plan tiến ra, ngó vách đá, thấy có mấy nét mới đục nham nhở có vẻ mật hiệu chi đó, liền cùng nhau theo hút người ky sĩ luôn. Cứ một quãng người đó lại dừng tìm mật hiệu, noi theo Tây Bắc mà đi mãi. Chừng một giờ sau ngựa, người vào một miền hoang vắng, dừng lại. Đứng trên cao nhìn xuống. Đại Sơn vương, Chí Plan thấy lố nhố người ngựa bên rừng, cả mừng nhận ra chính cánh quân của hai cô gái lạ bắt Trần Tắc đem đi ban nãy. Chàng ky sĩ kia vào thẳng giữa
chỗ trú quân, có vẻ quen thuộc lắm. Qua ống viễn kính, hai người thấy cặp nữ tướng ra đón đưa chàng vào một căn lều xinh xắn dựa vào vách núi ngay dưới lùm cây ven suối. Trần Tắc và Cầm Mi Yến đã được cởi trói ngồi gần đấy có mấy ngọn súng chĩa canh cẩn trọng.
Chờ mãi đến chiều vẫn không thấy cánh quân đó lên đường, Đại Sơn Vương bàn với Chí Plan toan lần xuống vách núi gần lều, thì vừa kịp thấy người kỵ sĩ lúc nãy lên ngựa đi, mang theo cả Trần Tắc cùng một tiểu đội vệ binh, Cả mừng Đại Sơn Vương, Chí Plan theo sát liền. Đi quanh co một lúc, như muốn phòng hờ đánh lạc dấu người lạ đổi hướng nhiều lần cuối cùng đi về nẻo thị trấn Cao Bằng. Nhưng rồi người lạ xuyên qua bản, đưa Trần Tắc ra ngọn núi cuối bản, có căn nhà dựa vách đá trông ra nương ngô. Đứng xa, thấy lát sau cả bọn đã tháo yên, dắt ngựa vào tàu, Đại Sơn Vương biết rõ bọn lạ đêm nay nghỉ tại đó, nên chàng cùng Chí Plan đi tìm quán trọ trú, chờ đêm sẽ hành động. Cuối canh hai, cả hai tìm đến nơi giam Trần Tắc, buộc ngựa cuối núi, lần đến bên căn nhà sườn núi nghe động tĩnh.