Thần Yêu Lục

Chương 24: Vãng Sinh thiên – Động lòng


Đọc truyện Thần Yêu Lục – Chương 24: Vãng Sinh thiên – Động lòng

Edit: Tiểu Khánh

Vừa sáng sớm đã bị Vãng Sinh lôi tới khe núi ngàn trượng, Chung Dục có phần cạn lời – ngươi lại muốn làm gì thế?

Vãng Sinh trả lời thẳng thắn: “Dạy ngươi thuật phi thân.”

Tuy bây giờ ngươi là phàm nhân, nhưng thân thể cũng là vạn năm trọng sinh mà có được. Hiện giờ quỷ quái khắp nơi đều nhìn chằm chằm thân thể ngươi, ngươi không biết gì về pháp thuật, vô cùng nguy hiểm. Tuy thuật phi thân không thể ngăn địch, nhưng giúp ngươi chạy trốn thì vẫn được.

“Ha?” Chung Dục cười, nói: “Ngươi không sợ ta chạy trốn khỏi ngươi sao?”

Vãng Sinh thản nhiên: “Ngươi chạy được sao?”

Bị đối phương một lời nói toạc ra điểm yếu, Chung Dục trở nên mất hứng: “Được rồi, ta biết rồi.”

Hắn tìm một tảng đá lớn, ngồi lên: “Ngươi dạy ta đi.”

Sau hai canh giờ, Vãng Sinh dạy Chung Dục khẩu quyết và nội pháp thuật phi thân, còn tự mình đưa hắn từ khe núi bay lên đỉnh núi. Nhưng y đã quên Chung Dục bây giờ là con người, dù dạy rất dễ hiểu, nhưng muốn hắn ngay lập tức nắm được thuật phi thân, là chuyện không thể.

Thấy Chung Dục ở đó dùng sức cả buổi mà chân vẫn chưa rời khỏi mặt đất nửa tấc, vẻ mặt Vãng Sinh nghiêm túc hẳn lên – ngươi đang làm cho có lệ?

“Ta rất nghiêm túc được chưa?” Chung Dục cũng mất kiên nhẫn: “Bản tọa bây giờ là phàm nhân, một chút tu luyện căn bản cũng không có, không học được cũng không thể trách ta!”

Những lời này của Chung Dục đều là thật, điều này khiến Vãng Sinh càng thêm phiền muộn, y trừng Chung Dục một cái, xoay người bay lên, Chung Dục thấy hắn bỏ đi, liền ngây ra: “Ngươi đi đâu thế?”

Giọng nói của Vãng Sinh vang vọng giữa khe núi: “Tự ngươi bay lên, bằng không thì cứ ở trong khe núi luôn đi.”

“Ê!” Chung Dục kêu to: “Vãng Sinh, ngươi có sư đức xíu được không hả? Ê!”

Đáp lại hắn chỉ có tiếng vọng của chính mình vang lên từng hồi trong khe núi.

Hắn cười lạnh một tiếng – Vãng Sinh, ngươi giỏi lắm, coi như ngươi đủ tàn nhẫn.

Bản tọa giờ không có pháp lực, ngươi cứ ức hiếp ta đi, đợi sau này… hừ!

Ném Chung Dục trong khe núi ngàn trượng, Vãng Sinh đứng trên đỉnh núi. Vách núi dưới chân dốc ngược như búa bổ đao gọt, mưa bụi lất phất giữa sườn núi như sóng lớn cuồn cuộn, khiến người ta nhìn mà khiếp đảm. Vãng Sinh lại nhìn chằm chằm phía dưới, không hề nhúc nhích.

Vãng Sinh nghĩ: nói thế nào chăng nữa, kiếp trước Chung Dục cũng là ma đế, thực sự một chút pháp thuật nhỏ ấy mà cũng không học được hay sao.

Mây mù biến hóa ra muôn hình vạn trạng, thỉnh thoảng có chim từ trong đó bay ra, nhưng không hề thấy nửa bóng người. Mãi đến khi vầng mây nhuộm lên một màu đỏ nhàn nhạt, Vãng Sinh mới ngẩng đầu.

Mặt trời sắp xuống núi rồi…

Sao hắn còn chưa lên…

Quả thật thân thể phàm nhân, khó thành tu vi sao?

Vãng Sinh không biết, thực ra Chung Dục đã thử hơn mấy trăm lần thuật phi thân, nhưng đều không thành công lấy một lần, Hắn còn trật chân, trong lòng khổ mà không có chỗ trút, liền dứt khoát từ bỏ.

Nước sông trong veo, thật khiến người ta thích thú!

Thế là cảnh tượng Vãng Sinh nhìn thấy khi bay xuống khe núi chính là Chung Dục ngâm mình trong nước sông, hắn đang tắm.

“Ra là đang lười biếng!”

Nghe thấy giọng của Vãng Sinh, Chung Dục xoay người lại. Hắn không biết Vãng Sinh hơi tức giận, cười hô lên: “Rốt cuộc ngươi tới rồi!”

Đi đến bờ sông, Vãng Sinh từ trên cao nhìn xuống Chung Dục, nghiêm túc lại lạnh lùng nói: “Ngươi thoải mái tự tại quá.”

Vãng Sinh đứng khuất bóng, Chung Dục không nhìn thấy rõ vẻ mặt y, hắn nói: “Nước sông này rất mát mẻ, ngươi có muốn xuống không?”

Vãng Sinh không nói gì.

Chung Dục cho rằng Vãng Sinh ngại ngùng, liền trêu chọc: “Vãng Sinh này, ngươi không ăn cơm thì cũng thôi, nhưng không phải ngay cả tắm cũng không đấy chứ?”

“Đi lên.”


Vừa định xoay người, Vãng Sinh lại đột nhiên cảm thấy bắp chân bị một lực mạnh kéo đi. Chung Dục thừa lúc y không chú ý túm lấy vạt áo y, khéo léo kéo y vào trong nước.

“Ngươi xuống đây đi!”

Nhất thời nước bắn khắp nơi, một thân bạch y ướt sũng, nước sông lạnh lẽo bao quanh toàn thân, khiến Vãng Sinh không khỏi rùng mình.

Y mờ mịt nhìn Chung Dục, liền thấy người nọ đang cười rất vui vẻ ở đối diện mình.

“Thế nào Vãng Sinh, có phải rất mát mẻ không?”

“Ngươi!” Nhất thời không biết trong lòng có mùi vị gì, Vãng Sinh giơ tay lên muốn niệm vô thanh chú. Chung Dục vội vàng nói: “Một ý nghĩ giận dữ, trăm vạn chắn cửa mở, tu Phật không thể phạm sân giới!”

Tay của Vãng Sinh lúng túng dừng giữa không trung. Chung Dục lại dám dùng Kinh Nghiêm Hoa bắt y không được giận dữ.

Thấy Vãng Sinh dừng lại, Chung Dục lập tức cười nói: “Ta chỉ đùa với ngươi thôi, ngươi đừng tức giận nhé.”

Tất cả lời trách cứ đều bị chặn ở ngực, Vãng Sinh trừng hắn.

Bả vai bị họa bì quỷ gây thương tích lúc trước, tuy vết thương đã khép miệng, nhưng vẫn để lại vết sẹo vừa to vừa dài, nằm trên da thịt trắng ngần, càng vô cùng dữ tợn.

Thấy vết thương kia, Vãng Sinh bình tĩnh lại rất nhiều. Y thả tay xuống, có phần bất đắc dĩ.

“Làm càn.” Y nói: “Theo ta về.”

Chung Dục lại không phản đối, hắn mặc quần áo vào, thoải mái đi theo Vãng Sinh trở lại nhà nhỏ trong rừng trúc.

Thay một bộ quần áo sạch, Vãng Sinh lấy mõ ra ngồi trước nhà, nhắm mắt lại, vừa gõ vừa niệm thầm Kinh Niết Bàn. Chung Dục liền tìm một chỗ ngồi xuống, hắn nhìn Vãng Sinh một hồi, nghĩ tới điều gì, liền nhặt một phiến lá trúc dưới đất lên, đặt bên môi, bỗng nhiên tiếng kèn lá vang lên.

Tiếng kèn kia giống như dòng suối róc rách uốn lượn, véo von uyển chuyển, lúc lọt vào tai tâm thần nhất thời tĩnh lặng lại, Vãng Sinh không khỏi mở mắt ra.

Lọn tóc trên trán bị thổi bay, gương mặt Chung Dục trong ánh hoàng hôn càng thêm góc cạnh rõ ràng, đôi mắt sáng ngời thấu triệt ngậm ý cười nhàn nhạt, ngón tay thon dài đặt bên môi.

Vãng Sinh nhìn mà có chút ngây người, mi mục như họa, hẳn là thế này.

Hết một khúc, Chung Dục cười nói với Vãng Sinh: “Khúc này có tên là ‘Tương Tư’, ngươi thấy hay không?”

Vãng Sinh lại hỏi một đằng đáp một nẻo: “Chung Dục, quả là một cái tên hay.”

Chung linh dục tú*, sợ là thế gian này, không có thứ gì có thể đẹp hơn.

(*Chung linh dục tú: đất thiêng nảy sinh hiền tài.)

“Sao ngươi lại đột nhiên nói đến cái đó?” Chung Dục bật cười: “Ngươi đang khen ta à?”

“Cứ coi là vậy đi.” Y nói: “Khúc này rất hay.”

“Ngươi thích không?”

Thích thì lần sau ta sẽ dạy ngươi.

“Dạy ta?” Vãng Sinh lắc đầu nói: “Thế gian nào có đạo lý đồ đệ dạy sư phụ.”

Chung Dục nghe thấy vậy, cười ha hả: “Vãng Sinh này, ngươi nói ngươi có nhiều năm tu vi như thế, sao vẫn chưa sửa được cái đầu gỗ vậy?”

Vãng Sinh lập tức dạy bảo: “Lễ nghi không chu toàn, phải phạt.”

“Được được, ta không nói nữa.” Đưa tay che miệng mình, Chung Dục chỉ có thể lầm bầm ra tiếng. Hắn mở to hai mắt ý bảo Vãng Sinh – ngươi xem, ta nghe lời ngươi này.

Trưng ra vẻ mặt tức cười, Chung Dục tinh nghịch y như đứa trẻ. Vãng Sinh mềm lòng, không khỏi bật cười.

Nụ cười nhạt như chuồn chuồn lướt nước, nhưng vẫn đập vào tầm mắt Chung Dục. Ngũ quan Vãng Sinh vốn đã thanh tú, vừa cười lên khóe miệng bên phải có một má lúm đồng tiền. Chung Dục không khỏi thốt lên: “Vãng Sinh, ngươi cười lên đẹp lắm.”

Ngươi ấy, nên cười nhiều chút. Cả ngày vác khuôn mặt cứng nhắc, không vui không giận, chẳng khác gì người gỗ, sống còn có nghĩa gì chứ?


Ý thức được mình sơ xuất, trong nháy mắt Vãng Sinh lấy lại vẻ mặt lãnh đạm. Y nhìn Chung Dục, giọng nói trong trẻo nhưng lạnh lùng: “Hôm nay ngươi chưa học được thuật phi thân, phạt ngươi quét dọn sạch sẽ trước nhà.”

Chung Dục không vội, thản nhiên nói: “Vậy ngươi kéo ta dậy trước đã.”

“Sao?”

“Ôi, ngươi cũng có quan tâm ta lắm đâu! Không thấy là ta khập khiễng trở về sao?”

Vãng Sinh sửng sốt, đi tới trước mặt Chung Dục ngồi xổm xuống, đưa tay sờ lên mắt cá chân hắn, chỗ đó sưng lên một cục lớn.

“Sao ngươi không nói với ta?”

“Còn không phải ta sợ ngươi lo lắng à?” Chung Dục tặc lưỡi: “Nếu biết ngươi lạnh lùng với ta như thế, thì ta cứ làm ầm trước mắt ngươi, để ngươi chú ý đến ta.”

“…”

Ngươi còn chưa đủ ầm ĩ ư?

Cảm thấy bất đắc dĩ, Vãng Sinh nâng Chung Dục dậy: “Vào phòng đi, ta chữa trị cho ngươi.”

“Ha ha.” Chung Dục tựa lên người Vãng Sinh, trong lòng đắc ý không chịu được, tuy không có pháp lực, nhưng cũng không cho ngươi lần nào cũng chiếm thế thượng phong.

Lần này ngươi chấp nhận thua ta đi!

Một phiến lá trúc bay xuống đất, lặng yên không tiếng động.

Đang là tháng mười, đã cuối mùa thu, nhưng Thanh Nguyên Sơn vẫn trăm hoa như gấm, nơi này là đất phương nam, bốn mùa như xuân.

Trong thời gian này Chung Dục rất chịu khó nghe lời, ngày ngày đều tới khe núi ngàn trượng học thuật phi thân. Buổi trưa hôm nay, hắn tới Hoa Đào Nham, hô lên về phía thác nước tím: “Ta học được thuật phi thân rồi!”

Hắn chờ Vãng Sinh ở phía sau thác nước trả lời hắn, nhưng cả buổi không thấy tiếng động nào.

Biết người nọ chắc chắn lại đang tu Phật, Chung Dục đành phải đợi ở bên ngoài.

Bầu trời như một dải lụa trong suốt, một vài đám mây nhỏ như hoa lan bạch ngọc đính lên trên. Một con chim yến tước màu đen lướt qua không trung, đỗ lên một cái cây cách đó không xa. Chung Dục nhìn chằm chằm hắc yến một lát, đột nhiên nở nụ cười.

“Sao ngươi lại tới đây?”

Nghe thấy giọng của Vãng Sinh, Chung Dục quay đầu lại. Hắn đắc ý nói: “Ta học được thuật phi thân rồi, chạy tới nói cho ngươi biết!”

“Ừm.” Vãng Sinh xoay người muốn đi.

Bắt lại tay của Vãng Sinh, Chung Dục cảm thấy hòa thượng này thật sự lạnh lùng: “Ta mất rất nhiều công sức mới học được, ngươi không thể khen ta một câu sao?”

Rút tay về, Vãng Sinh nói: “Kiêu căng chỉ khiến tâm thần mê muội, nếu ngươi muốn tu Phật, tâm phải lặng như nước.”

Chung Dục nhếch nhếch môi, nghĩ bụng: ta không thèm tu Phật đâu!

“Vậy ngươi không khen ta thì dù sao cũng phải thưởng cho ta chứ?”

Ta nghe nói hôm nay ở trấn Lô Bồ có họp chợ, lần trước chúng ta đến đó hành y cũng không được du ngoạn, lần này chúng ta cùng tới xem đi.

“Việc này…” Vãng Sinh thoáng chần chừ, y thấy cả mặt Chung Dục toàn vẻ mong đợi.

“…Thôi được rồi, nhưng ngươi phải đi theo ta.”

Chung Dục lập tức bật cười, nói: “Được được, ta tuyệt đối không chạy lung tung!”

Dưới núi dân cư đông đúc, náo nhiệt hơn rất nhiều so với Thanh Nguyên Sơn. Ánh mặt trời nhàn nhạt chiếu lên mái lầu cong cong gạch đỏ ngói xanh, hai bên phố cửa hàng san sát, ở giữa người đến kẻ đi, tiếng người rao hàng lẫn tiếng vó ngựa chạy qua, càng thêm vài phần sức sống. Đây chính là phiên chợ lớn một năm mới có một lần ở trấn Lô Bồ, nghệ nhân tạp kỹ đều tới làm nóng sân khấu. Trên quầy hàng bày đồ sứ tượng đất, đồ cổ tranh chữ, đều là những món đồ hiếm lạ đủ hình đủ dạng, rực rỡ muôn màu.


Ba vạn năm chưa từng dạo chơi nhân gian, Chung Dục cực kỳ hứng thú, nhìn chỗ này một tí, xem chỗ kia một tẹo. Vãng Sinh mặt không biểu cảm đi theo sau hắn. Một hòa thượng áo trắng đi lại giữa hồng trần thế tục, quả là khiến người ta ngạc nhiên. Người đi ngang qua y đều nhìn với ánh mắt khác thường, y lại không hề chớp mắt, nhìn chăm chăm vào người trước mặt.

Đến một quầy bán đồ trang sức, Chung Dục dừng lại, hắn cảm thấy khá hứng thú với một hàng trâm cài tóc.

Bà chủ nói chuyện khéo mồm, thấy Chung Dục ăn mặc lộng lẫy, nghĩ thầm hắn nhất định là một công tử ca, liền cầm cây trâm vàng giới thiệu cho hắn: “Công tử phong lưu phóng khoáng, cây trâm vàng này vừa khéo xứng với ngài!”

“Ồ?” Chung Dục chỉ cây trâm bạch ngọc trên đầu mình hỏi nàng: “Có đẹp hơn cây trâm của ta không?”

Cây trâm bạch ngọc của hắn được làm bằng hàn ngọc ở Côn Luân, khắc hoa văn tường vân, trong suốt nõn nà, vừa nhìn đã biết là báu vật, bà chủ nhìn đến ngây người.

Không nhịn được cười, Chung Dục xem một hồi, chọn được một cây trâm gỗ, hỏi: “Cây trâm này là gỗ gì?”

“Là gỗ du.”

Hắn đưa cây trâm cho Vãng Sinh: “Ta thấy cây trâm này rất hợp với ngươi, đúng không bà chủ?”

Bà chủ thấy hắn đưa trâm cho một hòa thượng, khó xử không biết nói thế nào cho phải: “Công tử ơi, tiểu sư phụ này không dùng được trâm cài tóc đâu.”

“Ha, bà chủ không biết rồi.” Hắn cười đùa nhìn Vãng Sinh, nói: “Thế đời biến hóa vô thường, ai biết sau này sẽ ra sao chứ! Đúng không, tiểu sư phụ?”

Liếc hắn một cái, Vãng Sinh lạnh nhạt mở miệng: “Ta tìm nơi nghỉ tạm.”

Ở cuối chợ là một đình nghỉ mát, đã có mấy người đang ngồi ở đó. Chung Dục không đi theo Vãng Sinh, Vãng Sinh liền quyết định đợi hắn ở đình nghỉ mát. Y đi vào đình, ánh mắt của mọi người không khỏi nhìn về phía y, dù sao hòa thượng cũng hiếm thấy, họ tò mò cũng chẳng lạ.

Người đàn ông ngồi đối diện mặc áo hoa màu tím, vừa nhìn đã biết là gia đình phú quý. Hắn nhìn Vãng Sinh rất lâu, lại rỉ tai gã người hầu bên cạnh mấy câu, đột nhiên cười lên. Đi tới trước mặt Vãng Sinh, hắn cung kính hỏi: “Cho hỏi có phải là đại sư của Thanh Nguyên Sơn không?”

Vãng Sinh ngẩng đầu, hơi dừng lại: “Ừm.”

Vãng Sinh trả lời lạnh lùng như vậy, nam nhân kia không những không tức giận, còn càng phấn khởi: “Trước đây Tần mỗ nhờ có đại sư cứu giúp, tìm được đường sống trong chỗ chết, còn chưa cảm ơn đại sư, hôm nay gặp được ở chỗ này, quả thật là Tần mỗ có phúc!”

Nghe hắn nói thế, Vãng Sinh mới quan sát cẩn thận người trước mắt, thì ra là gia chủ Tần gia Tần Nghệ Hiên.

Tần Nghệ Hiên vẫn luôn nhớ đến ân nhân cứu mạng của mình, đáng tiếc hôm ấy hắn hôn mê bất tỉnh, vẫn chưa được nhìn thấy gương mặt của Vãng Sinh. Hôm nay được người hầu nhắc nhở, hắn mới nhận ra người đối diện.

“Tần mỗ còn nói đợi ngày lành sẽ đến Thanh Nguyên Sơn tự mình tới cửa cảm tạ, hôm nay gặp được đại sư, để cho Tần mỗ báo ân huệ trước vậy.” Hắn nói với Vãng Sinh: “Ta đã cho phủ chuẩn bị đồ chay, đại sư có thể tới phủ của ta gặp gỡ một chút được không?”

“Bần tăng đang đợi người, không làm phiền Tần gia chủ.”

“Ôi, đại sư đừng nói vậy.” Tần Nghệ Hiên vô cùng nhiệt tình: “Đại sư đợi ai? Ta cho gia nô trông ở chỗ này, đợi dẫn hắn tới phủ.”

“Việc này không thỏa…”

“Vãng Sinh, ta tìm được ngươi rồi!” Chung Dục xuất hiện đúng lúc, từ xa hắn đã thấy Vãng Sinh ở cạnh một đám người xa lạ, liền lập tức tâm phiền ý loạn, chạy đến trước mặt Vãng Sinh.

Vãng Sinh thấy hắn tới, vẻ mặt thoáng dịu đi: “Sao đi lâu vậy?”

Chung Dục không đáp, chỉ nheo mắt nhìn Tần Nghệ Hiên, sau đó đột nhiên nói: “Thì ra là Tần gia chủ bị quỷ mị quấn thân.”

Gần đây, ngươi không trêu chọc nữ quỷ nữa chứ?

Khẽ gọi tên Chung Dục, Vãng Sinh ý bảo hắn đừng nói bậy. Y nói tiếng xin lỗi với Tần Nghệ Hiên: “Vị này là đồ đệ Chung Dục của bần tăng, hắn không biết giữ mồm miệng, xin gia chủ thứ lỗi.”

Tần Nghệ Hiên bị lời này của Chung Dục làm cho xấu hổ, biết hắn là đồ đệ của Vãng Sinh, tuy rằng nghi ngờ nhưng cũng không dám đắc tội: “Ha ha… đại sư Chung Dục quả là người thẳng thắn…”

“Cái danh đại sư này ta kham không nổi.” Hắn miệng lưỡi sắc bén, bắt được chỗ yếu của Tần Nghệ Hiên liền đẩy ngay vào chỗ chết: “Ngươi bớt gây phiền phức cho Vãng Sinh nhà ta là được rồi.”

Mặt mũi biến sắc, Tần Nghệ Hiên chỉ đành cười khan gật đầu.

Biết tính tình Chung Dục vẫn luôn như thế, Vãng Sinh bất đắc dĩ lắc đầu, nói với hắn: “Chúng ta đi thôi.”

“Ngươi cứ thế mà đi?” Rời khỏi đình nghỉ mát, Chung Dục cảm thấy tâm trạng khoan khái, nói với Vãng Sinh: “Ngươi bỏ mặc gia chủ Tần gia ở đó, cũng không hợp lễ nghi đâu nhỉ?”

“Nếu cảm thấy không thích hợp, thì ngươi đến Tần phủ đi.”

“Há, ta thèm vào! Nếu Tần Nghệ Hiên không có chút ý nghĩ xấu xa nào trong đầu, thì sao lại bị họa bì quỷ quấn lên. Cái loại ngụy quân tử ấy, ta cũng không muốn kết giao.” Hắn nói xong liền túm lấy ống tay áo Vãng Sinh: “Vãng Sinh, sau này ngươi cũng bớt nói chuyện với mấy kẻ ấy đi. Bọn họ tâm tư không đơn thuần, chẳng tốt đẹp gì, sẽ làm lỡ việc tu Phật của ngươi!”

Làm lỡ việc tu Phật của ta?

Dừng bước lại, trong lòng Vãng Sinh liền mờ mịt. Tu hành nhiều năm như vậy, mắt từng nhìn không biết bao nhiêu thói đời lạnh lẽo, lần đầu tiên y cảm thấy vô lực.

…Rốt cuộc ai làm lỡ việc tu Phật của ta đây…

Thấy Vãng Sinh dừng bước lại, Chung Dục tưởng lời mình nói lại chọc y mất hứng, nghĩ bụng: khoảng thời gian dài sau này, chung quy vẫn phải sống cùng với y, mình bây giờ tài nghệ không bằng người, vẫn nên bớt chọc đến y thì tốt hơn. Hắn lấy một vật nhỏ từ trong vạt áo ra: “Này, mua quà cho ngươi.”


Hòa thượng nhà ngươi, lạnh tanh như thế, chưa có ai từng tặng đồ cho ngươi đúng không?

Vật kia được bọc trong một cái khăn trắng, mở ra nhìn, thì ra là cây trâm gỗ du Chung Dục nhìn trúng trên chợ phiên.

Vãng Sinh giật mình, vì sao ngươi lại tặng ta vật ấy?

“Bản tọa thích tặng ngươi.” Hắn rất thỏa mãn trước vẻ mặt kinh ngạc của Vãng Sinh: “Với cả trâm cài gỗ du phối với đầu gỗ du, thiên hạ tuyệt phối.”

Lời này rõ ràng đang trêu ghẹo Vãng Sinh, y không muốn trách cứ Chung Dục, bèn nén lửa giận trong bụng, nói: “Ta không cần trâm cài tóc, ngươi giữ đi.”

“Đừng bảo ngay cả đùa giỡn thế này ngươi cũng không làm được nhé?” Chung Dục thích nhìn bộ dạng muốn phát cáu mà không cáu được của Vãng Sinh: “Không phải ngươi còn chưa thành Phật sao? Nói không chừng ngày nào đó ngươi mọc tóc hoàn tục, có thể dùng tới cây trầm này.”

Nhắc đến chuyện tu Phật, Chung Dục là cố ý chọc giận y.

“Ngươi lại muốn bị phạt?”

Chung Dục lập tức nói: “Đừng phạt ta mà!”

Dầu gì ta cũng cầm cố chiếc trâm bạch ngọc của mình để mua cho ngươi thứ này, ngươi không chịu nhận ý tốt của ta, thì cũng đừng lấy oán báo ơn!

Vãng Sinh nhướng mày, mái tóc đen dài của Chung Dục xõa trên cần cổ, trên đầu không hề có trang sức gì.

Sao ngươi lại cầm nó?

Chung Dục khẽ cười, nói: “Tiểu sư phụ Vãng Sinh, ngươi ở trong núi quá lâu, không biết củi gạo nhân gian đắt đâu!”

Không cầm nó, đâu ra tiền mua đồ cho ngươi chứ?

“Nhưng…”

“Đừng nói thêm gì nữa, dù sao cây trâm kia cũng chẳng phải thứ quý giá gì.” Hắn đặt trâm cài tóc vào lòng bàn tay Vãng Sinh: “Bản tọa cũng không tùy tiện tặng đồ cho người khác, cây trâm này rất đắt, ngươi phải cất cẩn thận vào.”

Một ngày nào đó, ta muốn thấy ngươi đeo nó lên.

Nói lời như thế với người tu Phật, thật sự là đại nghịch bất đạo. Nhưng tính tình Vãng Sinh vốn lạnh nhạt, biết Chung Dục cầm cố cây trâm của mình vì y lại càng không tức giận được.

Ngày dần trôi, khoảng cách giữa hai người cũng dần ngắn lại. Nhưng Chung Dục thực sự quan tâm tới y, lại khiến y trở nên mông lung. Y chỉ là vì Chung Dục nhập Phật, không nên có quá nhiều dính líu.

Huống hồ ân oán thù hận của chúng ta ở kiếp trước vẫn còn.

Y không nói gì nữa, cất cây trâm vào ống tay áo, đi về phía trước.

Chung Dục theo sau, cũng không nói gì. Trong khoảng thời gian này coi như tạo nên sự ăn ý, hắn biết Vãng Sinh đang nghĩ gì.

Nhưng thế sự nào có dễ dàng như vậy, tất cả nhân quả đều từng bước đi đến, hối hận cũng không kịp.

Ngày thứ hai quay trở lại Thanh Nguyên Sơn, Chung Dục liền sốt cao. Tuy hắn đã ăn tiên đan của Thái Thượng Lão Quân, lại tu luyện một thời gian với Vãng Sinh, nhưng thân thể vẫn còn giống phàm nhân. Lúc này sắc mặt hắn tái nhợt, môi khô nứt, sốt đến mức thần trí mê man. Vãng Sinh bắt mạch bốc thuốc cho hắn, tốn rất nhiều linh lực, nhưng không hề thấy khá lên.

Rốt cuộc là chứng bệnh gì, ngay cả ta cũng không chữa được…

Trong lúc mê man, Chung Dục cũng tỉnh lại mấy lần, hắn thấy Vãng Sinh ngồi trước giường liền nở nụ cười: “Thân thể này của ta không được phấn chấn, còn làm phiền tiểu sư phụ Vãng Sinh ngài tự mình chăm sóc cho ta.”

Lời nói giả bộ thoải mái này khiến Vãng Sinh cau mày chặt hơn: “Ngươi yên tâm, có ta ở cạnh ngươi, không chết được.”

“Ôi, chỉ là bệnh nhẹ thôi, nào có nghiêm trọng đến mức chết như thế…”

“Bệnh này của ngươi…”

“Ta biết.”

Giờ mặc dù ta chỉ là thân thể phàm nhân, nhưng cũng không ngốc. Bệnh ngay cả Tôn Giả Vãng Sinh cũng không chữa khỏi, thì chắc chắn là chứng bệnh dữ. Kiếp trước ta thua ngươi, hôm nay sa sút đến mức này, chút ốm đau tính là gì chứ.

Nhớ lại chuyện cũ, Chung Dục có vẻ thương cảm. Vãng Sinh sẽ không an ủi, giữa hai người họ, trước đây là kẻ địch, bây giờ là thầy trò, nhưng Vãng Sinh biết, trong xương cốt Chung Dục vẫn là Ma Đế ngạo nghễ cuồng thế kia. Nếu không phải lưu lạc đến cảnh này, hắn cũng không ngoan ngoãn ở bên cạnh y.

“Ngươi ở đây nghỉ ngơi, ta xuống chân núi tìm chút dược liệu.”

Chung Dục gắng gượng nặn ra vẻ mặt tươi cười, dặn y: “Tự chú ý bản thân.”

Vãng Sinh không khỏi khẽ động lòng, thân thể y hơi cứng lại, sau đó đứng dậy ra ngoài.

Bồ đề bản tự tính, khởi tâm ký thị vọng. Tịnh tâm tại vọng trung, đãn chính vô tam chướng.*

(*Tự tính là bản chất của con người. Hầu hết chúng sanh đều có căn lành tính thiện. Nhưng do vô minh huân tập che khuất tự tính lành, lại theo tà vọng lôi cuốn, hiệp với Ác Nghiệp: Tham lam, Sân nộ, Mê si mà che khuất đi Bổn Lai Diện Mục của mình. Bồ đề là tự giác, cái giác đó ở đâu? Vốn là tự tính của mình. Cái giác vốn không phải cái gì xa, mà ngay nơi tự tính của chúng ta, cho nên kiến tính là thấy Bồ đề, là giác. Khởi tâm tức là vọng. Như vậy tự tính hằng tri hằng giác là Bồ đề, vừa dấy niệm lên đó là vọng. Tâm tịnh ở trong vọng, chỉ ngay đó mà chính lại thì không có ba chướng. Ba chướng là gì? Là Nghiệp chướng, Phiền não chướng và Báo chướng. Theo tuoitrephatgiaohoahao.com)


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.