Thần Điêu Đại Hiệp

Chương 30: Cuộc Ác Chiến Cuối Cùng Giữa Hồng-thất-công Và Âu-dương-phong.


Bạn đang đọc Thần Điêu Đại Hiệp – Chương 30: Cuộc Ác Chiến Cuối Cùng Giữa Hồng-thất-công Và Âu-dương-phong.

Dương-Qua vừa khóc vừa lắng nghe thấy người ấy cứ hả miệng cười hoài, liên miên bất tận, bỗng nổi giận gắt lớn:
– Tại sao ông cười lâu quá vậy?
Người ấy vẫn cười, hỏi lại:
– Còn chú tại sao khóc dai dữ vậy?
Dương-Qua nghe giọng nói của người ấy sang sảng như chuông ngân, âm thanh chuyển động cả màng nhĩ, biết là một bậc dị nhân nên vội vàng đổi giận làm vui, cung kính lạy hai lạy rồi thưa rằng:
– Tiểu tử Dương-Qua xin kính cẩn làm lễ tham kiến lão tiền bối.
Người ấy mỉm cười cầm cây gậy khẽ lăn trên vai Dương-Qua. Chàng có cảm tưởng hình như cả một quả núi đè trên vai, muốn đưa tay xô ra nhưng không nhắc tay lên nổi. Lật đật dùng lối chổng chân ngược đầu theo phép “Hàm mô công” của dưỡng phụ đã dạy, mới thấy trong người khoan khoái như trút được gánh nặng.
Dương-Qua cũng không ngờ đó là một lối điểm huyệt tài tình đặc biệt của dị nhân này mà tình cờ phương pháp “Hàm mô công” đã giải thoát được một cách quá ư kỳ diệu. Ngay người này cũng hết sức ngạc nhiên không ngờ một thằng bé tuổi chưa bao nhiêu mà có biệt tài như vậy nên nghĩ thầm:
– Tài nghệ tiểu-tử này, chưa chắc Lý-mạc-Thu và Khưu-xứ-Cơ đã qua mặt nổi?
Bụng khen miệng hỏi:
– Tại sao ngươi khóc?
Dương-Qua đưa mắt nhìn thấy một ông cụ đầu râu trắng xóa, áo quần rách nát tả tơi và chằm trăm mối, bên vai mang một chiếc hồ lô màu đỏ. Tuy trời đã nhá nhem nhưng vẫn nhìn rõ thần thái uy nghi, mặt mày đường bệ quắc thước, mới trông qua đã đem lòng kính phục, nên đáp rằng:
– Thưa lão bá, cháu gặp nhiều cảnh đoạn trường cay đắng, dầu có sống cũng không còn sinh thú gì nữa, chỉ muốn chết cho yên thân, nhưng không chết được, vì vậy nghĩ lại tủi thân xót phận mà khóc.
Ông cụ già nghe nói hình như có lòng thương xót, ôn tồn hỏi thêm:
– Gia đình người dâu, kẻ nào cả gan khinh thường hiếp đáp, ngươi cứ nói thực ra cho ta rõ.
– Cha tôi bị giết chết từ ngày tôi còn trong bụng mẹ. Kẻ thù giết cha tôi là ai, mãi đến nay vẫn chưa được rõ. Mẹ tôi nghèo khổ sống theo nghề bắt rắn nuôi tôi, sau bị rắn cắn bỏ mình, còn lại một thân một bóng, tôi sống lẻ loi, mồ côi, cô độc, không bạn bè thân thuộc. Cuộc đời tôi cơ cực, đầy cả chuyện đau buồn!
Ông cụ chép miệng thở dài và gật gù nói:
– Đời ngươi quả thật đáng thương! Sư phụ của ngươi là ai. Tên họ chi?
Dương-Qua nghĩ bụng:
– Nếu cứ theo danh nghĩa mà nói thì Quách Bá mẫu nhận làm sư phụ đầu tiên của ta nhưng người có daỵ cho ta được đường quyền miếng võ nào đâu? Bọn đạo sĩ Toàn-Chân phái toàn là những kẻ ác nghiệt đáng ghét, đáng thù đâu thể gọi là sư phụ. Người có công nâng niu chỉ dạy ta tận tình là Tiểu-long-Nữ cô nương, nhưng điều này không thể tiết lộ ra cho kẻ khác hay biết được. Ngoài ra những kẻ đã lưu lại kinh sách, lý thuyết võ thuật trong Cổ-Mộ như Lâm-triều-Anh, Vương-trùng-Dương cũng có thể xem như sư-phụ được. Tính ra thì thật nhiều, nhưng không hẳn ai là sư phụ một cách công nhiên.
Nghĩ suy lui tới một hồi, chàng thấy cõi lòng rào rạt buồn buồn tủi tủi nên buông mặt khóc nữa rồi nói qua giọng nức nở:
– Thưa, tôi không… không có sư phụ.
Ông cụ già bảo:
– Thôi, nếu ngươi thấy không tiện nói ra cũng được, chẳng sao.
Dương-Qua vừa khóc vừa phân trần:
– Không phải cháu không chịu nói. Nhưng thật ra là cháu không có ai là sư phụ chính thức hết.
Ông cụ lắc đầu nói:
– Điều đó không có gì quan hệ cả. Nhưng tại sao ngươi cứ khóc hoài như vậy. Sở dĩ nơi đây núi rừng hoang tịnh, ngươi đến làm chi, nếu không phải là bè đảng của bọn “ngũ quỷ” giết người cướp của. Nếu không phải ta sẽ kết nạp ngươi làm đồ đệ.
Nguyên ông cụ ăn mặc rách rưới này không ai xa lạ, chính là Cửu-chỉ Thần-cái Hồng-thất-Công, cùng vai vế với các vị khét tiếng trong võ lâm là Đông tà, Tây-độc và Nam-đế, biệt danh của cụ là Bắc-cái. Từ ngày nhường chức Bang-chủ ăn mày lại cho Hoàng-Dung, Hồng-thất-Công xếp bỏ mọi việc đi ngao du khắp thiên hạ, thưởng thức những cảnh đẹp và các món ngon vật quý.
Khi đi đến tỉnh Quảng-Đông thấy thời tiết ôn nhuần, cảnh vật xinh tươi, ông rất hài lòng nên ở mãi nơi đây trên mười năm không trở về Trung-Nguyên nữa. Bao nhiêu bạn bè và các người trong bang Khất Cái cứ đinh ninh rằng ông đã lớn tuổi nên qua đời rồi.
Thật không ai có thể ngờ rằng đến nay ông vẫn ung dung sống vùng này, ngày ngày bắt rắn rết, ếch chuột để ăn độ nhật không thèm tiếp xúc với đời.
Lúc bấy giờ có năm tên ăn cướp cạn dùng căn cứ bên kia đỉnh núi để cướp bóc dân chúng vùng lân cận.
Thỉnh thoảng ông có gặp đôi lứa, muốn ra tay hạ sát cho rồi nhưng lại sợ rằng, nếu giết một vài đứa sẽ động ổ làm mấy đứa khác tìm đường trốn mất. Như thế không trừ được hết mối họa cho dân lành. Vì vậy mà ông cứ nấn ná ở lại trong dãy Hoa-Sơn này chờ cơ hội, hễ có dịp gặp đủ năm tên sẽ giết luôn một lượt.
Trong lúc đi theo dõi một tên đang nấp trên chỗ này, Hồng-thất-Công tình cờ lại gặp Dương-Qua trong đêm bão tuyết ngập trời.
Trước kia Hồng-thất-Công chỉ nhận Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung làm đồ đệ. Lần này nghe Dương-Qua thuật lại thân thế thấy cũng đáng thương hại nên muốn thu nhận làm đồ đệ, ông chắc chắn thể nào Dương-Qua cũng mừng rỡ nhận ngay. Nhưng không ngờ lại khác hẳn điều dự đoán.
Vì thâm tâm lúc nào cũng tưởng nhớ Tiểu-long-Nữ mà chàng cho là vì sư phụ duy nhất của đời mình, cho nên khi nghe Hồng-thất-Công ngỏ ý muốn thu làm đệ thì nghĩ rằng:
– Tuy ông tài cao hơn sư phụ tôi thật, nhưng tôi chẳng thể nhận thêm một ông thầy thứ hai nữa.
Thế rồi chàng lắc đầu đáp:
– Xin đa tạ lão bá, thật tình chẳng thể nhận lão bá làm sư phụ được.
Hồng-thất-Công nghe nói vừa tức giận vừa ngạc nhiên, vội hỏi:
– Tại sao thế? Nếu ngươi không khứng nhận ta sẽ có cách buộc ngươi phải nhận.
(Xin lỗi bạn đọc, truyện bị thiếu 3 trang)
Dương-Qua lẽo đẽo bước theo, bụng nghĩ:
– Chẳng lẽ ông cụ này lại ăn thịt rết! Nhưng xem bộ tịch ông ấy không có vẻ gì lòe mình cả. E ông ấy ăn thịt cũng nên!
Về đến cửa hàng thấy nồi nước đã sôi lên sùng sục. Hồng-thất-Công đặt cái túi xuống, bắt từng con ném vào nồi nước. Con nào cũng quẫy một cái rồi chết luôn.
Hồng-thất-Công nói:
– Gặp nước sôi, rết bắn hết chất độc trong mình ra trước khi chết. Vì vậy nên nước trong nồi này độc không tả.
Ông bới một lỗ tuyết cạnh đó, bưng nồi nước đổ ụp vào. Không bao lâu cả nồi nước sôi cũng đong lại hết.
Đoạn, ông thò tay vào bọc rút ra một con dao nhỏ, bắt đầu từng con rết, chặt đuôi rồi bóc vỏ ra, bày thịt trắng hồng hồng như thịt tôm trông rất ngon lành.
Dương-Qua nhìn thịt rết nghĩ bụng:
– Xem bộ ngon lành quá, có lẽ ăn được thật đấy.
Hồng-thất-Công lại bóc tuyết bỏ vào nồi cho tan ra, bỏ đống thịt rết vào rửa đi rửa lại mấy lần thật sạch rồi mở bao rút ra một gói nhỏ bày trên tuyết. Nào là hành, tiêu, tương, ớt, gia vị đủ thứ. Ông bỏ hết vào nồi, cho thêm tý muối, xào lên, mùi thơm bốc ra ngạt mũi.
Nghe mùi thơm xông lên, Dương-Qua thấy cái hạch nước miếng căng lên, bụng cồn cào, thèm lắm, nhưng vẫn e dè suy nghĩ:
– Thịt có vẻ ngon lành lắm nhưng không rõ còn độc hay không?
Chàng bỗng nực cười cho tính háo đói của mình, ngồi nhìn mãi.
Hồng-thất-Công trộn đi chiên lại, tiếng kêu xèo xèo, khói bốc lên thơm ngát. Một chập sau gia vị thấm vào, miếng thịt oăn lại, vàng khè trông ngon lành quá. Ông bốc một miếng đưa vào mồm nhai rau ráu, chắp chắp mấy cái, đôi mắt lim dim để tận hưởng tất cả những cái ngon thơm của món thịt rết!

Thấy đã vừa ăn rồi, ông bê nồi đặt giữa hai người và bảo Dương-Qua:
– Cứ ăn tự nhiên, đừng ngại ngùng khách sáo gì hết.
Dương-Qua lắc đầu đáp:
– Tôi ăn không được.
Hồng-thất-Công ngước mặt cười lớn:
– Ăn đi, không hề gì cả. Biết bao anh hùng hảo hán, võ nghệ đầy mình, giết người không gớm tay thế mà không có gan cùng ta nếm miếng thịt rết! Chú mi nếu không có gan thì cũng không nên ăn làm gì.
Dương-Qua nghĩ bụng:
– Ông ấy ăn được tại sao mình lại sợ? Dầu có độc cũng rán nuốt một vài miếng kẻo người ta khinh, chịu không nổi.
Hồng-thất-Công thấy sắc diện chàng đã đoán được ý nên dặn thêm cho vững bụng:
– Có sợ cứ nhắm mắt mà nuốt mau. Đừng có ngập ngừng ngậm trong miệng rồi chập sau e ngại nhổ ra, làm trôi mất thanh danh anh hùng hảo hán đấy nhé.
Dương-Qua cười nhạt và nói:
– Thưa lão bá, chẳng lẽ chỉ ăn được thịt rết độc mới là hảo hán anh hùng sao?
Hồng-thất-Công nói:
– Lắm kẻ tự xưng hảo hán anh hùng, nhưng đến khi nếm một miếng thịt rết lại rùng mình sợ chết rồi tìm mọi cách để tự bào chữa mà không biết xấu. Lão muốn nhắc cho ngươi để ý đến cái hèn kém của bọn ấy mà thôi.
Dương-Qua suy nghĩ:
– Cứ ăn đại vào, tới đâu hay đó. Nghĩ xong chàng gắp một miếng bỏ vào mồm, nhai ngấu nghiến và nuốt luôn.
Vừa nhai và nuốt xong, chàng cảm thấy cả hàm răng như được thắm mùi ngon của chất mỡ béo, nước miếng chảy ra, và một hương vị vừa thơm vừa ngọt xông lên ngát mũi.
Chàng ngẫm nghĩ:
– ồ, ngon thật, từ bé chưa hề ăn món nào ngon bằng thứ “ngô công” xào này.
Thế rồi không còn e dè nữa, chàng gắp hết miếng này sang miếng nọ, vừa nhai vừa trầm trồ “ngon, ngon tuyệt”!
Hồng-thất-Công thấy Dương-Qua đã thưởng thức được món ăn đặc biệt do mình đã tìm ra và nếu lấy thì khoái chí lắm.
Thế rồi cứ bác một miếng, cháu một miếng, thi tài gắp một loáng, nồi thịt rết đã hết trơn. Còn tý nước Hồng-thất-Công cũng húp luôn.
Dương-Qua đề nghị:
– Để tôi đem con gà lên chôn lại, câu thêm mớ rết nữa, xào bữa khác.
Hồng-thất-Công lắc đầu nói:
– Không được đâu. Con gà này đã hết cả hơi ngọt, hơn nữa bao nhiêu rết lớn vùng này mình đã tóm hết rồi còn đâu nữa mà câu.
Nói xong ông há miệng ngáp, uốn mình mấy cái rồi nói:
– Suốt bảy tám ngày đêm nay ta chưa ngủ được, nay được bữa thịt rất no nê rồi, cần phải ngủ luôn một giấc ba ngày liên tiếp mới đã sức. Trong lúc ta đang ngủ, ngươi đừng gọi ta nhé.
Nói xong ông đưa tay gạt tuyết qua một bên, đặt lưng xuống, ngáy liền.
Dương-Qua nghĩ bụng:
– Ông già này có nhiều hành vi thật quái gở. Ngủ gì một hơi những ba ngày đêm! Hiện nay ta cũng không biết đi đâu nữa. Thôi, nán lại đây ít ngày, chờ ông ta thức dậy sẽ hay.
Thịt tuy rất ngon nhưng tánh hàn.
Dương-Qua ăn xong thấy lạnh bụng, vội vàng tìm một hóc đá kín đáo ngồi núp gió cho ấm.
Ngồi dựa lưng vào vách đá, Dương-Qua nhìn ngoài trời thấy tuyết rơi trắng xóa khắp nơi, như đám bụi lông thiên nga rải rát đầy cả. Không bao lâu khắp mình Hồng-thất-Công, đều bị tuyết phủ một lớp tựa hồ như có một tấm lụa trắng đắp lên, chỉ trừ có cái mặt không hề có tuyết.
Dương-Qua ngạc nhiên nhưng suy nghĩ một chặp đã hiểu, sở dĩ lúc ngủ, ông già đã vận dụng nội công, dồn hết sức nóng trong người lên mặt khiến cho tuyết không thể đông nổi. Công lực như thế này tưởng đã tột bực rồi, ngay như Vương-trùng-Dương tái sanh cũng chưa chắc hơn nổi.
Dương-Qua ngồi yên thả hồn về dĩ vãng. Chàng nhớ lại mấy mươi năm xưa Hồng-thất-Công và Vương-trùng-Dương đã cùng nhau so kiếm trên đỉnh Hoa-Sơn, tuy Vương-trùng-Dương thắng, nhưng không bao lâu ông đã qua đời. Từ ấy đến nay trải thêm bao nhiêu luyện tập, mức tiến bộ của Hồng-thất-Công ngày nay thế nào cũng phải vượt cao hơn Vương-trùng-Dương hồi đó nhiều.
Mải suy nghĩ vẩn vơ mà trời đã sáng từ lúc nào không biết. Chàng nhìn lại chỗ Hồng-thất-Công nằm ngủ thấy tuyết phủ kín mít mới trông như một nấm mộ bằng bông, không có một mình áo hay sợi tóc.
Đưa mắt nhìn khắp nơi, bầu trời cũng chỉ toàn một màu trắng xóa, gió lộng từ hồi, thật là ảm đạm.
Thình lình có chân ai đang bước mau từ phía Đông-Bắc tiến lại.
Chàng định thần nhìn kỹ thấy đàng xa có năm bóng người thoăn thoắt đi trên tuyết thật mau, chứng tỏ người nào cũng có bản lãnh khá cao.
Dương-Qua nghĩ bụng:
– Không biết đây có phải bọn ngũ quỷ mà Hồng-thất-Công có nói ngày hôm qua đó chăng! Nếu quả thật bọn ấy thì hay biết mấy.
Chàng vội tìm một kẽ đá ẩn thân và lén theo dõi hành động chúng.
Không bao lâu cả năm người đã đến trước hang đá, ngó láo liên một chốc, cùng ồ lên một tiếng, một đứa nói:
– Lão ăn mày ở đây rồi. Đồ đạc của hắn đây chắc hắn cũng ẩn nấp trong hang hóc nào gần đây chứ không xa.
Cả năm đứa lộ vẻ sợ hãi, kéo nhau ra phía ngoài, xúm đầu lại bàn tán thầm thì rồi phan tán đi tứ phía để tìm kiếm.
Vì đường núi chật hẹp nên chẳng bao lâu một đứa trong bọn đạp trúng chỗ nằm của Hồng-thất-Công.
Nghe có vật gì mềm bập bềnh dưới chân, tên đó vội cúi xuống bới tuyết ra xem. Bốn đứa kia cũng xúm lại xem.
Chúng thấy Hồng-thất-Công nằm ngửa trong tuyết, chân cẳng cứng đờ hình như đã chết từ mấy hôm rồi.
Cả bọn hớn hở reo vang. Một tên lấy tay sờ trên ngực và đặt trên mũi, thấy toàn thân lạnh buốt như băng, chẳng còn chút hơi thở nào nữa.
Một đứa nói:
– Lão già ăn mày đã chết rồi. Ai khiến mi cứ mò mẫm theo chân chúng ta làm gì đến nỗi bỏ thây trong tuyết như vầy.
Một tên khác thận trọng hơn nói:
– Lão này võ nghệ tuyệt luân, tài ba xuất chúng, không dễ gì chết được đâu, không khéo mình trúng kế của hắn thì nguy lắm.
Tên khác ra mặt thạo đời cãi lại:
– Có lý nào võ giỏi cứ lột da sống hoài không chết được sao? Theo tôi đoán có lẽ hắn đã quá già, gặp lạnh bị cóng, máu đông rồi chết như thế này.

Mấy đứa kia cùng tán thành nói:
– Thật quả là may. Nếu thiên tào không dũ số nó đi thì bà con mình cũng phải điêu đứng mãi với hắn.
Tên gặp đầu tiên đưa ý kiến:
– Bây giờ anh em chúng ta đâm hắn mỗi người một nhát để cho hắn mang danh đệ nhất cao thủ võ lâm mà chết chẳng toàn thây.
Dương-Qua nấp sau một tảng đá lớn, mắt lom lom nhìn ra, tay lăm le mũi “ngọc phun châu” và nghĩ bụng:
– Bọn nó những năm tên, chưa chắc ta đương cự nổi. Chi bằng ra tay trước, tỉa dần vài đứa. Còn mấy đứa sau sẽ tuần tự giải quyết tiếp có lẽ hay hơn.
Tuy đã dự liệu như vậy nhưng vì tuổi trẻ tánh nóng còn nhiều nông nổi không kềm hãm được lòng mình, cứ lăm le muốn xông ra. Khi nghe bọn này bàn tính mỗi đứa đâm ông một dao vào người thì Dương-Qua càng cuống quít vội vàng quát lên một tiếng, từ phía sau hòn đá phi thân nhảy vọt ra, mỗi tay cầm một khúc cây bẻ sẵn để làm vũ khí.
Vừa hạ chân xuống tuyết, Dương-Qua đã lẹ tay điểm luôn mấy huyệt vào năm người. Cũng may vì nghe tiếng thét của chàng, ngũ quỷ kịp thời phòng bị, vận nội công bế kín các huyệt vì vậy nên chàng điểm không còn hiệu nghiệm nữa. Giá không thét trước có lẽ ít nhất cũng có ba tên bị ngã với ngón đòn đầu tiên của chàng.
Mỗi tên trong ngũ quỷ đều sử dụng một thanh đao to bản sống dầy, hơn nữa nghệ thuật cùng học một thầy cho nên lúc xuất thủ rập cùng nhau một lượt, khí thế vô cùng hiểm ác.
Vừa tránh khỏi trận đòn điểm huyệt đầu tiên, ngũ ác quỷ vội quay mặt nhìn xem kẻ ấy là ai.
Khi trông thấy Dương-Qua là một thiếu niên còn nhỏ tuổi, thân hình ốm tong, tay cầm 2 nhánh cây làm binh khí thì bọn ấy đã có vẻ khinh thường không thèm quan tâm cho mấy.
Tên đầu đảng trợn mắt hét lớn:
– Thằng oắt con, mi là tay sai của lão ăn mày này phải không? Sư phụ mày đã chết ngoẻo lâu rồi, nếu mày không muốn về Tây phương chầu Phật cùng nó thì mau mau quỳ xin tạ lỗi.
Vừa nghe hắn dứt lời, Dương-Qua chắp tay cúi đầu đáp:
– Dạ, kẻ hèn xin kính chào ngũ vị.
Chàng tiến lên hai bước, hai tay gạt ngang qua theo thế “mở cửa nhìn trăng” phang hai khúc cây vào đầu năm đứa.
Thế này vô cùng lợi hại, năm tên tránh đỡ chẳng kịp nên hai đứa nhào bên tả, ba đứa ngã bên hữu.
Ba đứa bên mặt bản lãnh khá hơn, cho nên vừa nhào xuống đã tung mình đứng dậy được, rút dao xông đến chém nhau.
Đứa xông vào đầu tiên bị Dương-Qua gạt trái một gậy, tét cả hổ khẩu, thanh đao sút tay, văng đi xa lắc. Tức thì chàng hạ xuống phang mạnh vào hai ống chân, tuy chưa đến nỗi gãy xương nhưng đau đớn rên la ầm ỹ và nằm luôn không ngồi dậy nổi.
Bốn tên kia nổi nóng xông lại bủa vây tứ phía tấn công chàng dồn dập.
Bốn thanh đao to bản vung lên chém xuống xé gió ào ào muôn phần nguy hiểm. Nhưng Dương-Qua lẹ chân né tránh được hết, khi lách đông lúc ẩn tây, khiến cho bọn chúng chỉ chém vào không khí.
Một chập sau, tên bị ngã cũng thấy bớt đau, vội vàng gượng dậy, lượm lưỡi dao nhảy vào trợ chiến để trả thù ngón đánh vào giò vừa rồi.
Dương-Qua đã học được những ngón bí truyền trong Ngọc Nữ tâm kinh, hơn nữa tài khinh công chàng cao hơn năm tên này mấy bậc, nếu cần bỏ chạy thoát thân thì quá dễ dàng, nhưng chàng e rằng nếu mình chạy thoát bọn chúng sẽ đâm chém Hồng-thất-Công ngay. Vì vậy nên chàng quyết tâm ở lại đánh để bảo vệ cho ông lão còn đang nằm ngủ như chết trên mặt tuyết.
Đánh thêm một chập, Dương-Qua nảy ra một kế bèn phi thân bỏ chạy, tức thì năm đứa cùng đuổi theo, ba tên khinh thân khá hơn chạy tới trước còn hai tên kém hơn chạy chậm mãi tận sau xa.
Thừa lúc bọn chúng đang cắm cổ đuổi theo, chàng dùng thế “tia sáng xuyên rừng” lao mình như một bóng ma vụt lại phía Hồng-thất-Công đang nằm, đưa tay sờ thử vào ngực thấy toàn thân lạnh toát như băng. Chàng ngạc nhiên thầm nghĩ:
– Trời ơi, lối ngủ gì mà khác đời như thế này. Hay là ông đã chết cóng rồi cũng nên. Nếu ngủ thì nãy giờ náo động cũng phải giật mình thức để tiếp cứu cho mình chớ lý đâu cứ để mặc mình bị bọn này vây khổn như vậy.
Chàng kề miệng vào tai ông gọi lớn:
– Lão trượng tiền bối ơi! Lão tiền bối, tỉnh dậy.
Nhưng Hồng-thất-Công vẫn nằm cứng đờ như xác chết không cục cựa.
Nghe tiếng chàng kêu réo, năm tên cướp kia cũng quày lại, xúm vây xung quanh đánh nữa.
Nhưng lần này đứa nào cũng ngán tài Dương-Qua nên chỉ vây cầm chừng, đứa nào cũng lấm lét nhìn nhau chứ không dám mạo hiểm lại gần sợ lãnh đủ.
Dương-Qua bèn bỏ bọn chúng quay mình theo đường dốc chạy mãi lên cao. Cả bọn cùng hét lớn:
– Mày có chạy lên trời cũng không thoát khỏi.
Năm người hè nhau đuổi theo, nhưng cũng không dám chạy gần, thong thả đi sau cách xa hơn mấy trượng.
Dốc càng cao, đường càng hẹp, địa thế hiểm trở vô cùng, khi đến một mỏm núi cheo leo, tứ bề toàn vực thẳm, nhìn xuống sâu hun hút ngó muốn chóng mặt, bên cạnh thì vách đá đứng thẳng tắp, láng như mỡ.
Con đường hẹp băng qua mỏm đá này cheo leo như một chiếc cầu thiên tạo, chỉ đủ cho một người đi mà thôi.
Dương-Qua thấy địa thế quá hiểm trở bỗng nghĩ đến câu: “nhất phu đương quan, vạn phu mạc khai” (nghĩa là một người giữ ải, muôn người khó đánh nổi) chính chỗ này là nơi dụng võ thuận lợi nhất.
Chàng nghĩ bụng:
– Bây giờ ta cứ án ngữ tại eo đá này. Bọn chúng dầu đông nhưng không thể hùa nhau tấn công một lần được. Nếu một đứa vượt qua, ta sẽ tỉa liền. Ráng cầm cự với chúng cho qua ngày thứ tư. May ra đúng kỳ hẹn, Hồng-thất-Công tỉnh dậy sẽ ra tay hạ sát cả năm tên “ác quỷ”. Nếu rủi ông chết thật thì ta sẽ chôn ông dưới tản đá này trước khi rời đánh Hoa-Sơn.
Ngay lúc đó năm tên cướp đuổi vừa đến.
Dương-Qua đứng ngay giữa cầu ưỡn ngực quát lớn:
– Chúng bay khôn hồn dừng chân lại. Đứa nào qua đây ta sẽ đẩy xuống vực sâu làm mồi cho rắn rết hoặc đập đầu vào đá nhọn cho rồi.
Thấy con đường độc đáo quá hiểm trở, tên đi đầu phải dừng lại. Cả bọn thất kinh cũng không dám bước chân tới nữa.
Đứng bên đầu cầu trên cao, Dương-Qua đưa mắt nhìn qua bên kia sườn núi thấy tuyết đã tan dần, ánh chiều dương vừa lóe sáng chiếu vào những cây quỳnh và vô số thảo mộc kỳ lạ mọc rải rác khắp nơi. Những mảnh tuyết chưa tan hết còn dính rơi rớt trên các cành cây, phản chiếu thành những chòm lấp lánh như muôn ngàn hạt minh châu cực kỳ xinh đẹp. Cảnh rừng núi hoang vu, do bàn tay tạo hóa đã bày ra không khác nào một bức tranh thiên nhiên vĩ đại.
Nhìn cảnh chán rồi, Dương-Qua liếc xuống xem bọn cướp, thấy cả năm đứa đang xúm xít bên đầu cầu, cách xa chàng non mươi trượng, lên thì không dám, bỏ đi lại không đành. Chúng cứ ngập ngừng, bị tranh chấp giữa hai cảm giác: tiếc và sợ.
Dương-Qua thò tay vào túi lấy chiếc mặt nạ da người đeo lên mặt rồi hét lớn:
– Bọn xú quỷ, bây tuy xấu, nhưng chưa xấu bằng ta đâu nhé!
Cả năm tên trực ngó lên thấy mặt mày chàng đã đổi khác kỳ dị vô cùng thì thất kinh hồn vía đứa nào cũng tự hỏi:
– Thằng này là người hay ma mà thay hình đổi dạng lạ lùng như thế này?
Thấy dáng điệu chúng nháo nhác Dương-Qua tự bảo.
– Quân này miệng hùm gan sứa, chẳng làm nên trò trống gì đâu ta cứ thị uy cho chúng sợ, sẽ không dám bén mảng đến đây nữa.
Nghĩ rồi chàng lui ra giữa cầu, co chân mặt lên, đứng một chân trái theo thế “kim kê độc lập” tay chỉ lên trời toàn thân cứng đờ không lay động. Đứng xa nhìn vào không khác nào một thiên thần hay hộ pháp đang giữ của.
Bọn ngũ quỷ đã rung động, không dám bước tới vì nghĩ rằng:

– Bản lãnh thằng này cao siêu lắm, chỉ có thể dùng số đông áp đảo chứ nến một xáp một thì bị hắn hạ sát liền. Vì con đường quá chật hẹp, cả bọn nghĩ kế luân phiên nhau canh chừng đầu bên này. Trong một vài ngày, chờ Dương-Qua đói lả sẽ qua bắt sống.
Lập mưu xong bọn chúng sai một tên đi lấy lương thực, còn tên đứng dàn thành hình chữ nhất ám ngữ bên này đầu cầu để canh phòng.
Hai bên cứ xem chừng nhau suốt nửa ngày. Dương-Qua không thể xuống mà bọn này cũng không thể lên được.
Vừa đúng ngọ Dương-Qua đã mỏi chân không đứng theo lối kim kê độc lập nữa mà chỉ ngồi dựa bên đường để dưỡng sức.
Qua ngày thứ hai, bọn chúng mang cơm và thức ăn đem bên đầu cầu vừa ăn vừa nhem thèm Dương-Qua.
Dương-Qua đang đói cào cả gan ruột, lại hít phải mùi thơm của cơm, mùi béo của thịt nướng từ đầu cầu theo gió bay tạt vào mũi khiến chàng thấy lòng nóng như lửa đốt. Chàng liếc mắt nhìn về phía Hồng-thất-Công đang nằm, bụng nghĩ:
– Giấc ngủ gì kỳ lạ quá! Không biết ông lão ngủ thật hay đã chết cóng rồi. Nếu ông chết thì uổng công mình canh giữ nơi đây mà nhịn đói luôn mấy ngày trường. Nếu cứ tiếp tục chờ ông ấy thức dậy, bụng đói thêm còn hơi sức đâu để đánh nữa. Chi bằng mình tấn công ngay bây giờ mới mong còn đủ sức thoát thân.
Nhưng lúc sắp nhảy xuống, chàng bỗng nhớ lại:
– Trước khi ngủ, Hồng-thất-Công có dặn sẽ ngủ đúng ba ngày. Nếu lời ông nói đúng, thì cũng không còn bao lâu nữa. Ta rán chờ thêm, không nên bỏ ông ấy tội nghiệp.
Thế rồi Dương-Qua nhất quyết chịu đói, nhắm mắt không thèm dòm chúng ăn và vận nội công nín thở không ngửi mùi thơm của đồ ăn bay qua.
Qua ngày thứ ba, Hồng-thất-Công vẫn nằm yên không cục cựa. Dương-Qua thấy vậy than rằng:
– Thế là ông đã chết thật sự rồi. Nếu ta cứ chần chờ mãi, trong ngày nay khí lực kiệt quệ, dầu bọn chúng không đánh ta cũng chết đói.
Đói quá, chàng bốc một bụm nước tuyết bỏ vào mồm nhai và nuốt, cảm thấy trong lòng có phần khoan khoái dễ chịu hơn nhiều.
Chàng lẩm bẩm:
– Thôi, đã hai ngày qua, mình cũng hết lòng cùng lão tiền bối. Bây giờ phải ra tay chứ để kéo dài nguy hiểm lắm.
Nhưng Dương-Qua không thể cất bước nhảy qua cầu được vì lương tâm vẫn không cho phép.
Chàng tự nhủ lòng mình:
– Ta không thể thi thố chữ trung với nước và không giữ được tận hiếu với mẹ cha, cũng không có anh em bà con ruột thịt để vẹn tình “hiếu dễ”. Lẽ nào chỉ một chữ “tín” mà cũng không giữ được hay sao? Làm trai như vậy đâu đáng mặt làm trai nữa.
Ngày xưa chàng Vỹ-Sinh ước hẹn cùng tình nương sẽ gặp nhau dưới chân cầu. Khi người tình chưa đến mà nước thủy triều đã dâng lên. Vỹ-Sinh đã cam lòng ôm lấy cột cầu, nước lên ngập đầu chết đuối, cho vẹn chữ tình cùng bạn lòng. ở đời đối xử với thiên hạ, ai cũng lấy chữ tình ra để đo lường chân giá trị của con người.
Dương-Qua, mày sinh ra đã bị người đời ghét bỏ khinh khi, nếu ngày nay mày còn thất ước bỏ người cho kẻ khác sát hại, thì còn mặt mũi nào nhìn thiên hạ nữa. Thôi, dầu phải chết đói, ta cũng quyết giữ trọn lời hứa, chờ đủ ba ngày như Hồng lão tiền bối đã dặn trước.
Nghĩ vậy chàng kiên gan nhịn đói luôn một ngày một đêm nữa.
Sáng ngày thứ tư, Dương-Qua thấy không có gì thay đổi, Hồng-thất-Công vẫn nằm cứng đờ trên tuyết. Chàng chắp tay hướng về xác của Hồng-thất-Công lâm dâm khấn vái:
– Kính lão tiền bối, đã ba ngày ròng rã, tiểu niên cố chịu đựng với lạnh lẽo đói khát để giữ vẹn lời tiền bối đã dặn. Tiếc vì lão tiền bối đã vô phần nhắm mắt lìa trần nên đệ tử không thể nào chịu đựng hơn nữa được. Đệ tử xin đem thi hài tiền bối táng vào thạch động để khỏi bị lũ quân gian ác ra tay phũ phàng.
Lão tiền bối có linh thiêng xin chứng minh và phò hộ!
Khấn xong chàng lìa vị trí chạy qua cầu xuống phía dưới.
Vừa thấy Dương- Qua chạy xuống năm tên xú-quỷ đoán chàng không chịu nổi đói khát định đến cướp thực phẩm đỡ lòng nên cùng đứng dậy và đưa mắt ra hiệu cùng nhau để chận lại.
Tên đầu đảng nói lớn:
Dẫu mạnh khỏe như voi mà nhịn đói luôn ba ngày đêm cũng không còn hơi sức nữa huống chi thằng này. Chúng ta cứ ra tay bao vây để bắt sống hắn. Kẻ nào để hắn chạy thoát phải thế mạng vào đấy nhé.
Hắn vừa nói dứt câu, thình lình phía sau có tiếng cười ha hả và một giọng nói vang lên rang rảng:
Chà! ngủ một giấc đã quá! ủa mà bọn bây làm thứ gì vậy?
Dương-Qua nghe rõ ràng là tiếng nói của Cửu chỉ Thần Cái Hồng-thất-Công nên trong lòng mừng không thể tả.
Năm tên xú-quỹ thất kinh hồn vía, mặt mày tái mét vì quá sợ, muốn tìm đường chạy trốn nhưng hai chân đã quýnh lại như không còn một tý gân sức nào nữa, rồi đầu óc tối xầm, cả năm đều ngã quay trên tuyết bò lê bò càng xem rất thảm hại.
Dương-Qua hết sức ngạc nhiên không ngờ chưởng lực của ông này lại quá ư kỳ diệu, vì chàng thấy ông ta chỉ khẽ phất tay có một tý mà năm tên xú quỷ đã ra tình trạng như thế này. Thật đáng khiếp đáng phục.
Hồng-thất-Công đưa tay điểm mặt bọn xú quỷ nạt lớn:
Năm tên ác quỷ, quân bây đã gây bao nhiêu tội ác cho dân lương thiện vùng này hôm nay gặp phải tay ta, đâu phải bỏ mạng cũng không có gì oán trách nữa.
Bọn ngũ quỷ vừa sợ vừa tức, lồm cồm ngồi dậy, đứa muốn bỏ chạy, đứa muốn liều mạng xông vào tấn công, nhưng vì đã bị ảnh hưởng của “giáng long thập bát chưởng” gân cốt rũ riệt, không thể ngồi dạy được. Năm tên chỉ lăn qua lộn lại bò lê bò càng trên mặt đất, hơi thở hào hễn như năm con trâu vừa mới kéo cày xong.
Ngay lúc ấy có tiếng động lao xao trên tuyết, và một bóng người đầu chổng xuống đất, chân dựng lên trời, đi tới mau như tên bắn.
Người ấy quả là Âu-dương-Phong Tây-Độc.
Dương-Qua mừng quá gọi lớn:
Cha, cha ơi… Dưỡng phụ!
Âu-dương-Phong làm lơ không đáp, cứ di chuyển ngay về phía ngũ quỷ, dùng chân khẽ đá vào lưng mỗi đứa một cái, tức thì cả năm tên xú quỷ đã trở lại bình thường, mà sức mạnh còn dồi dào hơn trước.
Hồng-thất-Công đang ngạc nhiên vì sự xuất hiện quá đột ngột của Âu-dương-Phong, lại nghe Dương-Qua gọi bằng dưỡng phụ càng thêm lạ lùng hơn nữa. Ông tự hỏi:
Té ra hai đứa này là cha con với nhau sao? Thật là một chuyện không thể ngờ được.
Nghĩ xong, ông hỏi lớn:
Tôi thấy năm tên xú quỷ này đã làm nhiều tội ác, hãm hại lương dân nên định trừng trị chúng. Tại sao đạo huynh đi giải cứu cho chúng?
Âu-dương-Phong cười ha hả đáp:
Hễ ác lai thì ác báo, chúng giết người sẽ phải đền tội, nhưng trước khi hành hình cũng nên giáo hóa chúng đã. Được rồi, ta xin trả chúng lại với tình trạng như trước.
Nói xong y dùng chân trái, khẽ điểm vào lưng mỗi đứa.
Bị áp lực giữa chưởng lực của hai cao thủ, tên nào cũng cảm thấy toàn thân đau đớn như dần, chợt tỉnh chợt mê, khi lạnh khi nóng, lăn lộn trên tuyết trông rất thảm thương.
Từ ngày luận kiếm Hoa Sơn lần thứ nhì đến nay đã quá mười năm chẵn, Âu-dương-Phong và Hồng-thất-Công chưa có dịp gặp nhau lần nào. Trong thời gian này, Âu-dương-Phong cố sức luyện theo Cửu âm chân kinh nên bản lãnh có phần tiến bộ hơn trước.
Hồng-thất-Công tuy được nghe Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung đọc lại tất cả các đoạn trong kinh này, nhưng không chịu đào luyện thế nên mức tăng tiến không vượt qua Âu-dương-Phong được.
Trong cuộc so tài ngày trước, hai người vẫn chưa phân thắng bại. Vì vậy nên lòng họ vẫn đinh ninh sẽ cùng nhau đấu lại một phen nữa để rõ tài cao thấp.
Hôm nay là lần gặp gỡ thứ ba nên thế nào cũng thi tài mới được.
Hồng-thất-Công thử đưa ra vài ngọn nặng có, nhẹ có, nhưng Âu-dương-Phong đã hòa giải được hết.
Thấy đối phương chỉ dùng chân mà tài nghệ rất lợi hại, Hồng-thất-Công nhất định thử thách đến kỳ cùng.
Ông bèn lùi ra sau mấy bước dồn công lực vào tay, định tấn công.
Năm tên xú quỷ thấy hai tay cao thủ sắp choảng nhau mà bọn mình nắm giữa để làm vật hy sinh thì thất kinh hồn vía năn nỉ khóc lóc cầu xin tha mạng.
Hồng-thất-Công nghiêm giọng bảo:
Ngũ quỷ, mạng căn chúng bay vẫn chưa đến ngày tận số, nên ta rộng lòng tha thứ cho lần chót. Phải mau mau cải tà quy chánh từ nay không được theo nghề cũ sát hại dân lành, nghe chưa?
Nói rồi ông phất tay giải huyệt.
Cả bọn vui mừng được thoát chết, sụp lại tạ ơn rồi rủ nhau xuống núi.
Từ đó về sau, nhân dân vòng này không còn nạn ngũ quỷ phá hại nữa.
Lúc ấy Âu-dương-Phong đã đứng lại trên hai chân, quét mắt nhìn Hồng-thất-Công hỏi bâng quơ:
Thằng kia xem quen quá, chẳng biết tên gì, võ nghệ ra sao, hãy nói nghe thử?
Hồng-thất-Công thấy Âu-dương-Phong cặp mắt láo liên, tâm thần bất định, khi tỉnh khi say thì biết là chứng bệnh điên điên của hắn gần mấy chục năm nay vẫn chưa dứt được.

Ông cả cười nói đùa:
Ta là Âu-dương-Phong đây, còn mi là ai?
Lúc này thần trí Âu-dương-Phong đang bấn loạn, vừa nghe ba tiếng “Âu-dương-Phong” thấy quen lắm, chưa biết tên mình hay tên ai, chỉ lắc đầu đáp:
Âu-dương-Phong à! Tên quen lắm. Còn ta, ta tên… gì… như… quên mất rồi!
Hồng-thất-Công cười ngất nói:
Chỉ có cái tên của mình mà không nhớ, thì đấu võ làm sao được, hãy về nhà suy nghĩ lại, chừng nào nhớ được sẽ trở lại đây.
Âu-dương-Phong nổi giận trừng mắt nạt:
Thế thì mi có nhớ không? Hay nói hộ cho ta nghe thử.
Hồng-thất-Công đáp:
Tên mi là “Cáp-Mô”, nhớ không?
Nghe hai chữ cáp mô, Âu-dương-Phong cũng thấy quen quen nhưng chưa dứt khoát đúng hay không đúng. Lòng cứ phân vân, chợt quên, chợt nhớ rồi đứng thừ người ra nghĩ nữa.
Nguyên Hồng-thất-Công là đối thủ số một của Âu-dương-Phong. Hai người xem nhau như kẻ tử thù. Mỗi lúc tánh ngây ngây nổi lên thì quên tất cả, nhưng hễ tỉnh trí lại, nhớ đến Hồng-thất-Công là lửa giận bốc lên muốn đánh nhau liền.
Hồng-thất-Công để ý theo dõi thấy Âu-dương-Phong đang ngơ ngơ ngác ngác, bỗng nhiên đôi mắt trừng lên lộ vẻ hung quạu thì biết y đã tỉnh lại nên thủ thế đề phòng.
Âu-dương-Phong vừa bớt cơn mê, nhớ lại kẻ thù, hét lên một tiếng, vung quyền tấn công liền.
Hồng-thất-Công liền đưa Giáng long thập bát chưởng ra chống cự, phá tan những ngón quyền của đối phương. Quyền cước vung lên vùn vụt, gió lộng ào ào. Mỗi khi chưởng lực xuất ra là tuyết rơi đá chạy, rung động cả núi rừng. Cả hai người quấn chặt vào nhau, dùng toàn những đòn bí hiểm thượng thạng, chỉ sơ ý một tý là lăn đùng xuống hang sâu vực thẳm. Chừng ấy dầu xương sắt da đồng cũng không thoát chết.
So với hai kỳ đọ kiếm tại Hoa-Sơn khi xưa, cuộc tranh tài lần này có vẻ gay go nguy hiểm hơn nhiều do địa hình quá hiểm trở và cheo leo.
Kể về võ thuật thì người nào cũng thuộc về tuổi cao tác lớn, ai cũng đến ngày gần đất xa trời cho nên công lực đã hao mòn, so với ngày còn trẻ, không thể nào bì kịp.
Trong trận này ai cũng quyết giành thắng thế nên trận đấu không còn tánh chất so tài thử sức như xưa mà lại là một trận quyết định tử sanh.
Dương-Qua đứng ngoài nhìn xem, thấy hai bên đều cố đem chưởng lực ra ăn thua chứ không đem so tài hay võ nghệ.
Dương-Qua thấy trận đấu ngày càng ác liệt hiểm nghèo. Có lúc Hồng-thất-Công suýt té nhào xuống vực sâu, cũng có lúc Âu-dương-Phong bị áp lực đẩy vào đá, chỉ trong gang tấc là tan xương nát thịt. Chàng băn khoăn lo nghĩ:
– Âu-dương-Phong là dưỡng phụ của ta, còn Hồng-thất-Công tuy mới gặp gỡ, nhưng là một nhân vật lỗi lạc, quang minh chính đại rất đáng mến phục, ai thua cũng đem lại sự đau lòng cho ta hết vì vậy cần phải làm sao chấm dứt trận đấu càng sớm càng hay.
Chàng đứng nhìn xem chăm chú, định có dịp là nhảy vào phân giải xin giảng hòa đôi bên.
Không bao lâu trận đấu đã trên hai trăm hiệp. Dương-Qua đứng nhìn say sưa thấy bên nào cũng áp dụng đúng như những từ chương của Cửu âm chơn kinh đã chỉ dạy. Vì áp dụng quá đúng cho nên họ có thể giải thoát được nhiều thế bí, tưởng nguy đến tánh mạng một cách linh điệu phi thường.
Nhiều lúc chàng không thể ngờ được chỉ có một câu quá đơn giản nhặt trong kinh mà lúc đem ra áp dụng thật là biến ảo khôn lường.
Trận đấu càng kéo dài càng gây cấn, chỉ trong nửa ngày đã hơn một ngàn hiệp. Cả hai chưa đem sử dụng hết những thế hay của mình nhưng vì tuổi cao bụng đói nên vị nào cũng có vẻ mệt lả, hơi thở dồn dập, tay chân bớt phần linh hoạt.
Nhân cơ hội này Dương-Qua gọi lớn:
– Nhị vị đánh nhau quá nửa ngày rồi. Xin khá dừng tay để ăn uống và xả hơi chút đỉnh chứ!
Nghe được hai tiếng ăn uống là Hồng-thất-Công hoan nghênh ngay nên nhảy ra ngoài vòng gật đầu nói:
– Ăn uống đã, tốt lắm!
Dương-Qua thấy bọn ngũ quỷ còn bỏ lại rất nhiều thực phẩm, nào cơm trắng thịt gà, giò heo, rượu nữa. Chàng thu góp đem lại dọn ngay trên tuyết để khoản đãi.
Hồng-thất-Công rất tự nhiên và thật tình nên vừa dừng tay la thò tay lấy một khúc gà thật bự đưa lên mồm nhay rau ráu nghe dòn tan, nuốt luôn cả xương và da.
Dương-Qua lấy một góc con gà khác đưa cho Âu-dương-Phong, miệng nói:
– Cha dùng đi. Thật không ngờ ngày nay được gặp lại cha nơi chốn này.
Âu-dương-Phong đã lấy lại sự bình tĩnh, nhìn Dương-Qua rồi dịu dàng nói:
– Mấy lúc nay cha cố ý đi tìm con. Vì vậy nên mới đến đây, thật là may mắn.
Nghe nói Dương-Qua cảm động vô cùng và suy nghĩ:
– Không ngờ ông lại thương yêu và thiết tha tới mình như vậy. Lòng ta cũng được an ủi và đỡ cô độc vì vẫn còn được người tưởng đến để vượt núi đi tìm.
Chàng lại gần nắm tay dưỡng phụ ân cần năn nỉ:
– Thưa cha, Hồng-thất-Công tiền bối quả là người rất tốt. Xin cha đừng chống đối và đánh nhau với cụ ấy nữa, cha nhé.
Âu-dương-Phong nghiêng tai nghe nói rồi quay lại điểm mặt Hồng-thất-Công hét lớn:
– Thằng kia, mày là Âu-dương-Phong đấy sao? Hạng mày là đồ xả rác, đâu đáng cùng ta so tài.
Hồng-thất-Công ngửa mặt cười ha hả rồi điểm mặt Âu-dương-Phong đáp:
– Đúng rồi! Âu-dương-Phong là đồ xả rác, đáng đánh chết vứt xác xuống hố cho rồi.
Dương-Qua thấy cha nuôi đã loạn trí trở lại, khó bề khuyên can giảng hòa gì nữa.
Khi ấy Âu-dương-Phong cứ trợn mắt đỏ ngầu, nhìn trừng trừng vào Hồng-thất-Công rồi đến Dương-Qua, thần trí bất định, như đã loạn óc trở lại rồi. Có lúc ông ngó nghiêng nghiêng hình như cố lắng tai để nghĩ lại một việc gì đã quên lãng nhưng nghĩ hoài không ra.
Dương-Qua đưa cơm, thịt cho Âu-dương-Phong xong, đến trước mặt Hồng-thất-Công chắp tay kính cẩn thưa rằng:
– Hồng lão tiền bối, ông này quả là dưỡng phụ của cháu, hiện nay đã mất trí nên tỉnh mê không biết lúc nào. Kính xin Hồng-Lão tiền bối niệm tình cháu, đừng thèm chấp nên nghĩa phụ, coi ông ấy như người đang điên rồi bệnh hoạn, bỏ qua hết mọi điều đi cho.
Hồng-thất-Công vốn người quảng đại vô cùng, nghe Dương-Qua tỏ bày các lời trung hậu chí thiết thì hài lòng lắm, đưa tay vuốt tóc chàng, mỉm cười khen:
– Cháu ít tuổi nhưng có nghĩa và biết điều lắm. Ta rất mến những kẻ ăn ở thủy chung.
Nhưng vừa lúc ấy Âu-dương-Phong, đứng dậy mắt trừng miệng quát:
– Này Âu-dương-Phong, nãy giờ quyền cước chả ăn thua. Bây giờ ta cùng mi sử dụng vũ khí xem ra sao nào?
Hồng-thất-Công nhìn Dương-Qua ái ngại lắc đầu đáp:
– Thôi, đừng đánh nhau nữa. Ta nhường cho mi thắng đấy.
Âu-dương-Phong nói:
– Không được. Mi nhường hay nhận thua ta cũng không để mi sống sót được đâu.
Nói xong đưa tay bợ một cành cây thật lớn, suốt hết lá, vung lên, nhắm Hồng-thất-Công đánh đại.
Xưa nay Âu-dương-Phong đã nổi tiếng về lối dùng gậy cho nên mặc dầu chỉ một nhánh cây, nhưng mỗi lúc lão múa lên đã lộng gió ù ù, rúng động cả một vùng rộng lớn. Dương-Qua đứng gần cũng thấy sức ép vô cùng mãnh liệt, khó thở vô cùng.
Chàng vội bước qua một bên né tránh và trong lòng lo ngại cho Hồng-thất-Công quá sức.
Nhưng Hồng-thất-Công vẫn ung dung thứ thái hình như không quan tâm đến, đưa tay bẻ một nhành cây khác, làm “đoản bổng” để chống lại.
Lối đánh bổng của Hồng-thất-Công đã chấn động giang hồ thế gian có một. Vì đã lâu ẩn tịch ít thi thố nên không còn ai nhắc lại.
Cuộc đấu quyền vừa rồi tuy dữ dội nhưng cuộc tranh tài về trượng bổng lần này càng ghê rợn hơn gấp bội.
Cây trượng múa lên như rồng thiêng uốn khúc, đoản bổng quay cuồng như rắn độc vây mình, hai món binh khí soắn tít vào nhau, như chong chóng lộng gió rít vo vo, làm chuyển động cả một vùng tuyết văng tứ hướng.
Dương-Qua đứng ngoài say sưa theo dõi mà hồn phách như dại như ngây bởi những thế võ vô cùng kỳ diệu. Chàng vừa xem mê mẩn, vừa hồi hộp lo lắng cho cả hai người.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.