Bạn đang đọc Thái Hoàn Khúc – Chương 19: Vào Vòng Thị Phi
Liễu Hạc Đình đứng lên, nhưng không biết dùng lời lẽ gì để an ủi lão. Trong lòng chàng chỉ nghĩ thầm:
“Hóa ra Tây Môn Tiếu Âu chính là cháu của người này. Xem ra dòng họ Tây Môn này cũng là dòng họ võ lâm thế gia.” Liễu Hạc Đình vừa bước chân vào giang hồ chưa được bao lâu, nên chưa từng nghe qua “Hổ Khẩu Song Phi, Cô Tô Song Hùng, Đông Phương Tây Môn oai chấn quan trung”, bốn câu truyền tụng trong giang hồ. Chàng càng không biết hai chữ Tây Môn trong câu truyền tụng kia chính là nói Tô Châu Hổ Khẩu Phi Hạc Sơn Trang và cũng chính là ý muốn nói thị tộc của Tây Môn Âu.
Nhưng ngược lại chàng biết giữa Tây Môn Âu và huynh trưởng của lão nhất định không hòa thuận với nhau. Liễu Hạc Đình vừa định đem sự việc của Tây Môn Âu ra hỏi, đột nhiên chàng thấy thanh y thiếu nữ chầm chậm đứng lên, từ từ bước đến bên Tây Môn Âu đưa tay lau nước mắt khẽ nói:
– Phụ thân, đại bá tuy ngoài mặt nhìn thấy không đối xử tốt với người, nhưng thật ra trong lòng vẫn quan tâm đến…
Tây Môn Âu nhíu mày, trừng mắt quát:
– Ngươi hiểu gì chứ?
Đột nhiên thở dài một tiếng, Tây Môn Âu đưa tay vỗ nhẹ bờ vai thiếu nữ, ánh mắt lão bỗng nhiên trở nên hiền từ, giọng nói nhỏ nhẹ:
– Yến nhi, con hiểu gì chứ…?
Hai câu “hiểu gì chứ” hoàn toàn giống nhau, nhưng ngữ khí lại hoàn toàn khác nhau.
Chỉ trong giây lát, Liễu Hạc Đình cảm thấy tình thương của Tây Môn Âu dành cho tiểu nữ vô cùng vô tận, làm ấm áp cả căn phòng. Bất giác chàng nghĩ đến thân thế mình mà không khỏi buôn bã. Buông một tiếng thở dài, Liễu Hạc Đình bước ra ngoài cất giọng gọi lớn:
– Mang rượu! Mang rượu!
Lúc này mặt trời đã lên khá cao, nhưng vẫn còn nằm ở phía đông. Bầu trời mùa thu trong xanh vô tận.
Cho đến khi mặt trời đã ngả về tây, Liễu Hạc Đình cùng Tây Môn Âu vẫn còn ngồi đối diện nhau uống rượu, với bao điều phiền muộn trong lòng.
Gần cửa sổ, thanh y thiếu nữ ngồi lặng yên nhìn chăm chăm không nháy mắt vào hai chân mình như tượng gỗ.
Gian phòng phía trong cửa được đóng chặt. Đào Thuần Thuần làm gì ở bên trong chẳng ai biết cả, Liễu Hạc Đình đã nhiều lần muốn mở cánh cửa đóng chặt kia. Chàng đã nhiều lần đứng lên nhưng lại ngồi xuống và cứ thế tiếp tục uống cạn hết chung này đến chung kia.
Thế rồi chàng bắt đầu phát hiện ra rằng, rượu là một thứ vô cùng kỳ diệu, nó có thể khiến cho tất cả bao nhiêu phiền muộn trong lòng chàng tạm thời quên đi hết.
Chàng không biết phải chăng mình đã say, chỉ cảm thấy trong lòng lân lân dễ chịu và dường như tất cả mọi chuyện trên đời này đã cách chàng rất xa.
Tây Môn Âu nói từ những chuyện danh sơn trong thiên hạ, cho đến những sự kiện trọng đại trong võ lâm… Cuối cùng thì đèn cũng được thắp lên.
Màn đêm đã bao trùm khắp nơi!
Ánh sáng yếu ớt phát ra từ ngọn đèn, rọi lên trên mặt hai thiếu nữ bị điểm huyệt bất động. Tây Môn Âu đột nhiên nhíu mày trầm giọng nói:
– Mấy mươi năm qua, những việc lão phu gặp phải lão phu chưa hề chịu thúc thủ bao giờ.
Liễu lão đệ, nếu như lão đệ an tâm giao hai vị cô nương này cho lão phu. Sau ba tháng lão phu sẽ đến nơi này gặp lão đệ. Đến lúc đó lão phu nhất định có thể nói cho lão đệ biết loại độc dược kia là gì? Và cách giải độc như thế nào.
Liễu Hạc Đình hơi nhíu mày suy nghĩ giây lát, sau đó chàng mỉm cười nói:
– Cứ theo ý lão tiền bối vậy!
Tây Môn Âu đưa tay vuốt râu cười nói:
– Cả đời lão phu kính phục những bậc trượng phu quang minh lỗi lạc, mến yêu những kẻ kỳ tài thông minh. Còn đối với những tên ngu xuẩn ti tiện, dù có quì trước mặt lão phu ba ngày ba đêm, lão phu cũng không thèm nói đến nửa câu. Hôm nay lão phu cùng lão đệ có thể nói là bình thủy tương phùng, nhưng lão phu có lời muốn khuyên…
Thanh y thiếu nữ đột nhiên đứng lên bước đến trước mặt Liễu Hạc Đình, khẽ nói:
– Vừa rồi các hạ nói người kia kiếm pháp tuyệt cao, không biết các hạ có biết người đó hiện giờ ở đâu không?
Khi nói chuyện, thanh y thiếu nữ không màng đến người khác đang làm gì, cũng như nói gì, mà chỉ cần trong lòng mình nghĩ sao là nói vậy, không hề suy nghĩ cặn kẽ. Đối với những qui tắc đạo đức và nhân tình thế thái dường như thiếu nữ chẳng hiểu gì cả và cũng không thèm để ý đến.
Liễu Hạc Đình chau mày cười nói:
– Phải chăng cô nương định đi tìm y chăng?
Thanh y thiếu nữ đứng lên chăm chú nhìn vào chung rượu trong tay Liễu Hạc Đình, nàng không nói “phải” đồng thời cũng không nói “không”.
Liễu Hạc Đình cười ha ha nói:
– Bạch y nhân kia tuy tại hạ không biết hiện giờ y ở đâu, nhưng đám người này hành tung không mấy khó tìm. Nếu cô nương muốn tìm y, tại hạ nghĩ rằng việc này hoàn toàn có thể.
Tây Môn Âu đột nhiên “hừ” một tiếng đẩy bàn đứng dậy. Mắt nhìn trừng trừng ái nữ, sau đó lão xoay người lại nói:
– Rượu đã uống hết, bây giờ lão phu đi đây.
Nói đoạn lão bước đến bế lấy Phong Nhi đặt vào trong tay thanh y thiếu nữ đang đứng yên như tượng gỗ. Sau đó lão quay sang bế lấy Diệp Nhi bước ra khỏi sảnh đường. Đột nhiên lão dừng bước quay người lại cất giọng nói lớn:
– Liễu lão đệ, bình sinh lão phu chỉ có duy nhất một chỗ đáng tự hào, vậy ngươi có biết là gì không?
Liễu Hạc Đình chống tay xuống bàn, từ đứng lên:
– Rượu còn chưa uống hết, tại sao lão tiền bối đã nói muốn đi.
Đột nhiên chàng cất giọng cười lớn:
– Điểm yếu nhất trong đời của tại hạ chính là không biết phán đoán tâm sự của người khác. Trong lòng lão tiền bối đang nghĩ gì, tại hạ hoàn toàn không thể nào nói ra.
Tây Môn Âu chau mày nói:
– Mấy mươi năm qua, Tây Môn thế gia đều sản sinh ra những cao thủ xuất chúng, nhưng ngược lại lão phu là một người thấp nhất trong hạng người thấp nhất. Cả đời không thể trở thành cao thủ cao nhất, nhưng có thể trở thành cao thủ thấp nhất. Như vậy lão phu xem ra cũng không uổng đời này.
Đoạn lão ngửa mặt cười lớn, bước ra ngoài. Liễu Hạc Đình ngẩn người hồi lâu, chân loạng choạng bước về phía trước, đột nhiên chàng cười lớn nói:
– Tuyệt! Tuyệt, Tây Môn huynh… Tây Môn tiền bối, với câu nói vừa rồi tiểu đệ phải uống với tiền bối một chung… Tây Môn huynh, huynh đi đâu vậy?… Tây Môn tiền bối, tiền bối đi đâu vậy, này tiền bối đi đâu vậy?…
Hai chân mềm nhũn, lảo đảo sang bên mấy bước, Liễu Hạc Đình ngồi bịch xuống ghế.
Một cơn gió thổi qua, vạn vật trên đời đều biến thành một khối màu đen trong mắt chàng. Mũi chàng dường như ngửi thấy một mùi thơm nhẹ. Tai chàng dường như nghe thấy tiếng cười khúc khích và mặt chàng cơ hồ cũng hơi nhìn thấy một chiếc bóng yểu điệu…
Mùi thơm, tiếng cười, chiếc bóng. Chiếc bóng, tiếng cười, mùi thơm…
Hỗn loạn, đam mê!
* * * Nửa đêm!
Tất cả bốn bề đều im lặng. Xa xa có một điểm sáng đèn lấp lóe tựa hồ như muốn cùng tranh sáng với trăng sao. Gần đâu đây có một tiếng thở dài. Tuy tiếng thở dài rất khẽ nhưng nghe rất não nùng và cũng chỉ trong phút chốc tiếng thở dài kia đã tan vào trong ngọn gió.
Thế rồi ánh trăng cũng ngả về tây, sao trên trời cũng đã thưa dần.
Bình minh cuối cùng cũng ló dạng, bắt đầu một ngày mới.
Ngày thứ hai, trong Tây Khoa viện gần như không có bất kỳ một âm thanh nào. Những lữ khách bước vào trong trang viện gần như không có một ai, mãi cho đến tận hoàng hôn…
Lại là hoàng hôn.
Đào Thuần Thuần từ từ bước ra bên ngoài trang viện, từ từ bước lên ngựa đã được tên tiểu nhị đã chuẩn bị sẵn bên ngoài cửa viện.
Liễu Hạc Đình đầu hơi cúi thấp bước ra theo sau Đào Thuần Thuần. Chàng chẳng mở miệng nói nửa câu mà chỉ vút mạnh ngọn roi vào hư không, nhưng vẫn không sao xua đuổi được sự hổ thẹn áy náy.
Cả hai con ngựa một trước, một sau chầm chậm cất bước trong đêm khuya. Chỉ một lát sau, thành Nghi Thủy đã lùi lại phía sau lưng họ, trăng từ từ ló dạng lên khỏi đầu những ngọn cây.
Đào Thuần Thuần bỗng nhiên quay đầu lại, khẽ gọi:
– Này…
Liễu Hạc Đình ngẩng đầu lên, thúc ngựa tiến nhanh về phía trên đưa mắt nhìn Đào Thuần Thuần. Nhưng Đào Thuần Thuần ngược lại im lặng, không nói gì. Đưa bàn tay ngọc lên vuốt nhẹ mái tóc, cuối cùng Đào Thuần Thuần cũng thấp giọng nói:
– Chàng…
Chỉ nói được có một tiếng, rồi nàng lại im bặt.
Chỉ với hai chữ “này” và “chàng” rất đơn giản, nhưng bao hàm biết bao tinh ý phức tạp bên trong. Ngoài Liễu Hạc Đình ra còn ai có thể lãnh hội được những ý vị này chứ?
Liễu Hạc Đình đưa tay vuốt bờm ngựa, cúi đầu hơi thấp nói:
– Tại hạ… tại hạ… Ánh trăng đêm nay dường như so với đêm qua…
– Đêm qua?…
Đào Thuần Thuần đột nhiên tra roi quất ngựa chạy lên phía trên. Liễu Hạc Đình ngơ ngác nhìn theo bóng dáng yểu điệu của nàng, trong lòng vừa cảm thấy thương yêu lại vừa cảm thấy khó chịu.
Cảnh phía trước không xa dưới ánh trăng tỏa sáng ẩn hiện một ngôi miếu hoang nằm cạnh bên đường. Con đường dẫn đến ngôi miếu là những bậc thang phủ đầy rêu xanh.
Đào Thuần Thuần đột nhiên xuống ngựa, từ từ bước lên những bậc thang vào bên trong ngôi miếu hoang. Dưới ánh trăng, bóng nàng trải dài trên đường, càng làm cho cảnh vật tiêu điều ở đây càng thêm thê lương hơn.
Liễu Hạc Đình đưa mắt nhìn theo Đào Thuần Thuần. Chàng do dự đứng trước những bậc thang. Cuối cùng chàng cũng xuống ngựa. Trong bóng đêm mông lung, Đào Thuần Thuần lúc này đang quỳ trước án tiền ngôi miếu, lưng hướng về phía chàng.
Nàng đưa tay buông tóc xuống, để tóc ôm lấy hai bờ vai. Sau đó nàng lâm râm khấn vái thật lâu, thậm chí ngay cả cử động nhẹ cũng không có.
Liễu Hạc Đình đứng ngẩn người ra nhìn nàng, trong lòng tự nhiên dâng trào một cảm xúc khó tả. Đây là một ngôi miếu hoang phế, trong miếu thờ vị thần gì Liễu Hạc Đình cũng không biết. Nhưng ngay lúc này, tại nơi đây, trong ngôi miếu hoang đổ nát dường như có mặt sụ thánh thiện khó tả, khiến cho chàng chỉ muốn quỳ xuống sám hối những ngày qua và cầu nguyện cho những ngày kế tiếp.
Trong khi trong lòng chàng đang miên man với bao ý nghĩ. Đột nhiên chàng cảm thấy trên đỉnh đầu hơi lạnh, giống như có nước đọng ở phía trên mái rơi xuống.
Chàng bất giác đưa tay lên phủi giọt nước, chỉ thấy Đào Thuần Thuần hai tay đang chắp lại, miệng lâm râm khấn vái…
“Cầu nguyện cho cả đời chàng được bình an, mọi việc đều như ý, gặp hung hóa kiết, cho dù tiểu nữ có phải chịu khổ, chịu nạn cũng không sao cả…” Những câu nói bình thường, trong ngôi miếu hoang phế, nhưng được phát ra từ miệng Đào Thuần Thuần, lọt vào tai Liễu Hạc Đình, trong giây lát tự nhiên chàng cảm thấy khắp người nóng ran lên. Lại có mấy giọt nước từ phía trên mái rơi xuống người chàng, nhưng chàng cũng không màng đưa tay lên lau, mà vội bước xuống quỳ phía sau Đào Thuần Thuần, cung kính khấu đầu lạy ba vái lớn tiếng khấn:
– Cho dù đao kiếm có chém xuống thân, Liễu Hạc Đình này cũng xin cam chịu. Chỉ cầu nguyện cho cả đời này luôn được trẻ trung, vui vẻ dẫu có phải làm khuyến mã Liễu Hạc Đình này cũng cam tâm.
Đào Thuần Thuần ngạc nhiên quay đầu lại khẽ hỏi:
– Chàng đang nói chuyện với ai vậy?
Liễu Hạc Đình ngạc nhiên đáp:
– Tại hạ đang khấn vái trước thần linh…
Đào Thuần Thuần khẽ thở dài một tiếng, chậm rãi nói:
– Thế thì chàng hà tất phải nói lớn như thế làm gì? Chẳng lẽ chàng sợ thần linh không nghe thấy sao?
Liễu Hạc Đình cảm thấy vô cùng ngạc nhiên, chỉ thấy Đào Thuần Thuần quay đầu lại, thầm khấn tiếp:
– Tiểu nữ thành tâm thành ý đều vì chàng cả. Chỉ cần chàng sống được vui vẻ, tiểu nữ cam chịu tất cả… Cho dù… cho dù có phải bắt tiểu nữ rời xa khỏi chàng, cũng… cũng…
Nàng đưa tay lên ôm lấy mặt, mà không sao nói tiếp được.
Liễu Hạc Đình lại cảm thấy toàn thân nóng ran lên, chàng không thèm để ý đến gì khác, lại lớn tiếng nói:
– Hết suốt kiếp này Liễu Hạc Đình sẽ không bao giờ rời xa khỏi nàng, cho dù đao kiếm có kề tận cổ cũng không rời khỏi nàng nửa bước. Nếu Liễu Hạc Đình này có sai lời xin trời tru đất diệt.
Chàng vừa mới dứt lời, chỉ nghe một âm thanh dịu dàng, hơi run khẽ nói bên tai mình:
– Chàng thật sự có lòng như vậy… Ai! Chỉ cần chàng có lòng như thế, thiếp… thiếp không còn mong muốn gì nữa!
Liễu Hạc Đình đột nhiên đưa tay nắm lấy tay Đào Thuần Thuần. Trong bóng tối, cả hai người nắm chặt lấy tay nhau và gần như quên mất nơi này là đâu.
Một hồi lâu sau, Đào Thuần Thuần khẽ thở dài một tiếng, nói với giọng buồn buồn:
– Sư phụ của chàng… Ai! Chàng nhất thiết không cần phải vì thiếp mà khó xử. Chỉ cần chàng sống được vui vẻ, cho dù thiếp có thế nào cũng không sao?
Liễu Hạc Đình không nói gì, chỉ ngầm thở dài một tiếng. Lại một hồi lâu sau, đột nhiên chàng đứng lên, rồi nhẹ nhàng dìu Đào Thuần Thuần đứng dậy, khẽ nói:
– Bất luận ra sao ta cũng…
Đào Thuần Thuần liền vội tiếp lời:
– Tâm ý của chàng không cần nói ra thiếp cũng đã biết… Ai! Không biết hiện giờ đã canh hai chưa? Nơi đây thật vô cùng yên tĩnh, chúng ta tại sao không nghỉ thêm giây lát chứ?
Liễu Hạc Đình ôm lấy bờ vai nàng, gục đầu nói:
– Không hiểu sao ta vẫn cảm thấy nơi đây vô cùng âm u, hơn nữa phía trên mái lại có nước tích tụ…
Chàng vẫn chưa dứt lời, lại một giọt nước từ trên rơi xuống trúng ngay vào vai chàng.
Liễu Hạc Đình đưa tay lên vai phủi, bỗng nhiên miệng chàng kêu “ý” lên một tiếng. Đào Thuần Thuần chau mày ngạc nhiên hỏi:
– Có chuyện gì vậy?
Liễu Hạc Đình trong lòng nghi hoặc liền bước ra bên ngoài ngửa bàn tay ra xem…
Dưới ánh trăng, chỉ thấy bàn tay Liễu Hạc Đình có nhiều vết máu.
Giữa đêm khuya hoang vắng. Trên mái ngói miếu hoang kia tại sao lại có máu nhỏ giọt xuống?
Liễu Hạc Đình tự nhiên cảm thấy trong lòng ớn lạnh. Hai con tuấn mã đứng bên đường nhìn thấy chủ nhân bước ra, liền cất giọng hí vang.
Tiếng hí vẫn chưa kịp dứt!
Đột nhiên có ánh đèn từ xa bay vụt đến. Liễu Hạc Đình liền cất giọng quát:
– Ai?
Ánh đèn lóe sáng lên rồi tắt lịm. Bốn bề trở lại tối đen.
Liễu Hạc Đình thối lui ra sau ba bước, trầm giọng nói:
– Thuần Thuần! Nàng mau ra đây!
Chàng vừa mới dứt lời, đột nhiên có một ánh sáng từ phía cánh rừng bay thẳng lên không. Sau khi lóe sáng giữa màn đêm, ánh sáng kia liền tắt lịm.
Chỉ trong nháy mắt, đã nghe thấy có tiếng người cùng tiếng y phục sột soạt đang từ xa tiến đến gần. Liễu Hạc Đình đưa tay nắm lấy cổ tay Đào Thuần Thuần, ánh mắt chàng quét ngang khắp nơi một lượt. Trong bóng đêm mập mờ như có quỷ mị từ tứ phía sắp bổ nhào vô phía hai người.
“Xoạt” một tiếng, một bóng đen lướt nhanh lên mái ngôi miếu hoang. Lại “xoạt” một tiếng, một bóng đen rơi xuống phía sau cánh rừng rậm. Hai con tuấn mã bỗng nhiên ngẩng đầu lên liên tục hí vang. Cuối cùng chúng đã bỏ chạy, nhưng vừa chạy được một đoạn ngắn, cả hai con tuấn mã lập tức ngã ngang xuống đất.
Liễu Hạc Đình hai mày hơi chau lại, cất giọng nói lớn:
– Bằng hữu là ai? Ẩn thân ám toán súc vật, hành động này được xem là hảo hán sao?
Tứ bề im lặng không một tiếng đáp lại. Phía trên mái ngôi miếu hoang đột nhiên có tiếng quát lớn:
– Chiếu!
Lập tức, ánh sáng của mấy chục ngọn đèn khổng minh từ trong bốn phía cánh rừng nhất loạt cùng chiếu ra, chiếu thẳng đến người Liễu Hạc Đình. Đào Thuần Thuần nói khẽ vào tai chàng:
– Thận trọng coi chừng bọn chúng ám toán.
Liễu Hạc Đình “hừ” một tiếng, ngực ưỡn về phía trước, hai tay dang rộng, cất giọng lớn tiếng nói:
– Các hạ làm như vậy là có ý gì, xin nói rõ ra, nếu không…
Từ phía trên mái ngôi miếu hoang bỗng nhiên cất lên một tràng cười dài. Liễu Hạc Đình quay người lại nhìn về phía phát ra tiếng cười. Chỉ thấy dưới ánh trăng, trên nóc ngôi miếu hoang có một lão nhân đang đứng. Lão nhân kia mình mặc áo ngắn, râu tóc bạc phơ, hai mắt sáng quắc, lão nhân vốn có thân hình cao to, hơn nữa từ dưới nhìn lên càng cảm thấy lão nhân kia như một pho tượng thần.
Tiếng cười của lão nhân kia ngân nga như chuông đồng, làm cho Liễu Hạc Đình nghe lùng bùng cả tai. Sau khi những ngọn đèn chiếu sáng, bao quanh lấy Liễu Hạc Đình, chàng mới thấy rõ có nhiều bóng người trong tay đều có cầm binh khí, nhưng không biết số khoảng bao nhiêu. Trong tiếng cười chỉ nghe lão nhân kia nói:
– Bôn ba theo ngươi mấy trăm dặm, xem lần này ngươi còn chạy đi đâu.
Đột nhiên lão nhân ngưng cười, cất giọng quát lớn:
– Ngươi còn chưa chịu tự trói, chẳng lẽ định đợi lão phu ra tay sao?
Liễu Hạc Đình ngầm than thầm trong bụng, biết rằng lần này mình đã bị cuốn vào trong những chuyện thị phi.
Trầm ngâm hồi lâu, chàng còn đang tìm lời để đáp, bỗng nhiên phía trong ngôi miếu phát ra hai tiếng kêu kinh hãi, tiếp theo có người gọi lớn:
– Biên lão gia! Ha nhị tỷ và Mai tứ đệ, đều… đều… đều…
Người kia liên tiếp nói ba tiếng “đều”, chưa kịp dứt câu, trong đám người kia đã có tiếng quát lớn. Một gã đại hán râu tóc rối bời lập tức phóng nhanh vào bên trong ngôi miếu. Tiếp theo là một tiếng thét kinh thiên động địa, gã đại hán phóng mình trở ra, miệng mắng lớn:
– Tên súc sanh, ta sẽ thí mạng với ngươi!
Dứt lời, gã tung quyèn đánh thẳng về phía Liễu Hạc Đình. Quyền pháp của gã đại hán uy pháp quả kinh người.
Lão nhân râu tóc bạc phơ đứng trên nền ngôi miếu hơi nhíu hai mày lại, cất giọng khẽ quát:
– Tam Tư ngươi không cần phải liều mạng với hắn. Chẳng lẽ nào đêm nay hắn còn thoát được sao?
Lão nhân vừa dứt lời, gã đại hán râu tóc rối bời đã liên tiếp tung ra bảy quyền. Thế nhưng không có quyền nào chạm được vào áo của Liễu Hạc Đình. Những bóng người xung quanh liền phát ra người tiếng kêu vang dậy và từ từ khép chặt vòng vây lại. Mấy chục ngọn đèn khổng minh chiếu sáng cả khoảng đất trống trước ngôi miếu như ban ngày. Nhưng những bóng người đứng sau các ngọn đèn, ngược lại càng không nhìn thấy rõ. Liễu Hạc Đình trong lòng trách thầm, bọn người này chưa phân trắng đen đã vội liều mạng. Nhưng chàng cũng không muốn vô duyên vô cớ đả thương người. Vì vậy chàng chỉ né tránh quyền pháp của gã đại hán mà không hề đánh trả lại. Gã đại hán đã dốc hết toàn lực tung ra bảy quyền, nhưng không hề chạm được vào áo đối phương, trong khi đối phương chỉ tránh né mà thôi. Dường như hơi ngạc nhiên, gã đại hán bỗng nhiên quát lớn một tiếng, lao mình thẳng về phía Liễu Hạc Đình. Quả là hắn ta muốn thí mạng với chàng.
Lão nhân râu tóc bạc phơ đứng trên nóc ngôi miếu thấy vậy, liền chau mày quát:
– Dừng tay!
Gã đại hán đánh tiếp ba quyền mới chịu dừng tay lại. Gã giận dữ nghiến răng ken két.
Sau khi hít sâu vào một hơi, gã đại hán liền quay người lại nói lớn:
– Sư phụ!… Dung Nhi đã bị người ta hại chết rồi.
Hai tay ôm lấy mặt, gã đại hán khóc lớn như một đứa trẻ nít. Hai vai gã đại hán rung lên liên hồi, chứng tỏ trong lòng gã đang vô cùng đau khổ. Lão nhân râu tóc bạc phơ đưa tay vuốt râu, chân giẫm mạnh xuống. Chỉ nghe tiếng ngói vỡ lách cách, rồi rơi xuống bên dưới.
Liễu Hạc Đình hai mày nhíu lại, cung quyền nói:
– Các hạ…
Chàng chưa kịp nói hết câu, lão nhân râu tóc bạc phơ đã quát lớn một tiếng, tung người nhảy xuống đất. Từ bên trong ngôi miếu hoang có hai người cúi đầu bước ra nhìn Liễu Hạc Đình với ánh mắt căm phẫn. Trong đó có một người cất giọng nói:
– Hạ nhị tỷ cùng Mai tam đệ toàn thân mỗi người bị chém bảy vét kiếm, hiện giờ xác của họ vẫn còn bị treo trên trần nhà.
Lão nhân râu tóc bạc phơ quát lớn:
– Biết rồi!
Hai tay nắm chặt lại, lão từ từ tiến tới trước mặt Liễu Hạc Đình. Lão quan sát chàng từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên rồi cười nhạt nói:
– Xem ngươi có vẻ hỉ mũi chưa sạch, thật không ngờ thủ đoạn lại ác độc như vậy. Bọn họ thất ra có thù oán gì với ngươi, ngươi nói cho lão phu nghe thử xem?
Lão bóp chặt hai tay lại, lập tức nghe thấy những tiếng kê “rắc rắc”. Liễu Hạc Đình ngầm thở dài một tiếng, chàng nghĩ đến lão nhân cùng với Tây Môn Âu mà chàng gặp phải sáng sớm hôm qua, tính khí hoàn toàn giống nhau. Sự nóng giận của bọn họ còn hơn cả bọn thiếu niên trẻ tuổi. Miệng tuy bảo người khác không nên liều mạng, nhưng bản thân mình thì lại không phân biệt được trắng đen, tự vu khống tội cho người khác. Chàng nghĩ đến bản thân mình mấy ngày qua liên tiếp bị hiểu lầm, nhất thời không biết là nên tức giận hay nên buồn cười? Nghĩ vậy, nhưng chàng vẫn ôn tồn đáp:
– Tại hạ chỉ là vô ý đến được nơi đây, quả thật không biết ở đây đã xảy ra chuyện gì.
Những lời các hạ vừa nói, tại hạ thật sự không hiểu gì cả!
Lão nhân quắc mắt nhìn chàng, đột nhiên ngửa mặt lên trời, cười lớn:
– Rất tốt! Rất tốt! Không ngờ một tên tiểu tử như ngươi mà cũng dám dùng những lời giả dối trước mặt lão phu. Vết máu trên người ngươi vẫn còn chưa khô, trên tay ngươi vẫn còn vết máu, như vậy còn giả hay sao? Trong thành Nghi Thủy ngươi liên tiếp sát thương bảy mạng người, cộng thêm ba oan hồn ở đây. Giết người phải thường mạng, nợ máu trả bằng máu. Tiểu tử, ngươi hãy mau nộp mạng cho lão phu!
Gã đại hán đầu tóc rối bời nắm chặt hai tay lại, toàn thân chồm về phía trước giống như chỉ mong sao sư phụ của gã một quyền đánh chết ngay Liễu Hạc Đình.
Mấy mười cặp mắt xung quanh cũng đều nhìn chàng với ánh mắt căm hờn. Ánh đèn lúc này tuy vẫn sáng như ban ngày, nhưng bóng đêm phía sau những ngọn đèn càng lạnh lùng thê lương hơn. Đào Thuần Thuần bỗng nhiên cười khúc khích, giọng nhỏ nhẹ nói:
– Biên lão gia, gần đây lão gia có khỏe không?
Lão nhân vô cùng ngạc nhiên. Lão chỉ thấy thiếu nữ trước mặt có gương mặt đẹp tưa một bông hoa, nụ cười thân thiện đầy vẻ quan tâm. Tuy trong lòng lão không muốn trả lời, nhưng miệng vẫn khe khẽ một tiếng đáp:
– Lão phu lâu nay vẫn khỏe mạnh!
Đào Thuần Thuần lại tươi cười hỏi tiếp:
– Những thuộc hạ của lão tiền bối vẫn đều tốt chứ?
Lão nhân lại không khỏi ngạc nhiên. Im lặng giây lát, lão nhân gật đầu nhè nhẹ đáp:
– Bọn chúng vẫn tốt cả, đa tạ…
Lão định nói: “Đa tạ cô nương đã quan tâm.” Nhưng vừa nói được hai tiếng đa tạ, đột nhiên lão cảm thấy có điều gì đó bất ổn nên không nói tiếp. Bọn người kia đưa mắt nhìn nhau chẳng hiểu thiếu nữ này hỏi vậy là có ý gì. Thậm chí ngay cả Liễu Hạc Đình cũng cảm thấy trong lòng nghi hoặc.
Chỉ nghe Đào Thuần Thuần giọng buồn buồn nói:
– Thế thì thật là kỳ quái!
Nói xong câu này, nàng không nói thêm gì nữa. Lão nhân kia chau hai mày lại, không nhịn được liền hỏi:
– Kỳ quái điều gì?
Đào Thuần Thuần đưa tay lên che lấy mắt, giọng khẽ nói:
– Ánh đèn quá sáng làm cho người ta thật khó chịu.
Lão nhân từ từ thả tay ra, đột nhiên xua tay nói:
– Đèn sáng quá như vậy làm gì? Chẳng lẽ lão phu bị mù hay sao chứ? Còn không mau tắt bớt vài ngọn!
Liễu Hạc Đình trong bụng cười thầm:
“Lão ta tuy tóc đã bạc đầu, nhưng tính khí rất còn trẻ nít.” Chỉ thấy lão nhân vừa dứt lời, những ngọn đèn bốn phía đã được tắt đi hơn nửa.
Lúc này Liễu Hạc Đình cùng Đào Thuần Thuần mới nhìn thấy rõ. Dưới ánh trăng là những gã đại hán lực lưỡng, tất cả như đang trong tư thế sắp lâm trận.
Đào Thuần Thuần đưa tay vuốt tóc, chẳng mở miệng nói thêm lời nào.
Lão nhân ho khẽ một tiếng, lại tiếp tục hỏi:
– Cô nương kỳ quái điều gì chứ?
Đào Thuần Thuần chầm chậm bước đến trước mặt lão, từ từ nhìn lão với ánh mắt đầy vẻ quan tâm. Cho dù là người có lòng dạ sắt đá, một khi nhìn thấy cử chỉ và thần thái của nàng như vậy cũng khó mà không động lòng. Huống hồ lão nhân này bề ngoài tuy có vẻ oai phong lẫm liệt, lời nói như sắt thép, nhưng trong lòng lại nhu hòa hiền từ. Nếu không phải là như vậy thì lúc này lão đâu thân thiết nói chuyện với Đào Thuần Thuần.