Đọc truyện Tên Của Đóa Hồng – Chương 74
NGÀY THỨ BẢY (tt và hết)
Tác giả: Umberto Eco
– Chính Huynh lúc đó cũng sẽ lọt vào âm mưu của Quỉ. Huynh sẽ chiến đấu ở phía bên kia trong trận thư hùng Armageddon, nơi diễn ra trận chiến đấu cuối cùng. Nhưng đến ngày đó thì giáo hội hẳn có đủ khả năng áp đặt một lần nữa giáo luật lên cuộc chiến. Chúng tôi không sợ những lời báng bổ, vì ngay cả trong những lời chưởi Chúa, chúng tôi cũng nhận ra được hình ảnh biến dạng của Jehovah nổi giận, người đã chưởi rủa bọn thiên thần nổi loạn. Chúng tôi không sợ bạo lực của những kẻ giết người chăn chiên, nhân danh cải cách hão huyền, vì đó cũng là bạo lực của các vua chúa cố tiêu diệt dân Israel. Chúng tôi không sợ sự khắc nghiệt của bọn Donatist [7], dục vọng của bọn Bogomil, sự điên cuồng tội lỗi của những sư huynh dòng Tinh thần tự do: Chúng tôi hiểu hết thảy họ và biết căn nguyên tội lỗi của họ, đó cũng là căn nguyên thánh thiện của chúng tôi. Chúng tôi không sợ, và trên hết, chúng ta biết cách tiêu diệt họ – hay tốt hơn nữa, biết cách để họ tự tiêu diệt mình. Thực ra, tôi phải nói là sự tồn tại của họ rất quí giá đối với chúng tôi, nó đã được ghi trong thiên định vì tội lỗi của họ nhắc chúng tôi đạo đức, lời nguyền rủa của họ cổ vũ cho những lời ngợi ca của chúng tôi, lối sống vô đạo của họ khiến sự thành kính của chúng tôi ngời sáng lên, cũng như cần có Sa tăng để Chúa vinh danh rạng rỡ hơn. Nhưng nếu một ngày kia – và không còn là một ngoại lệ trong giới bình dân, mà là điều phổ biến trong giới học thức đã tận tụy nghiên cứu những minh chứng không tiêu diệt được của Thánh kinh – nghệ thuật giễu cợt được chấp nhận, và trở nên cao quí, tự do, và không còn máy móc nữa; ngày kia có người nói (cho người khác nghe): “Tôi cười hiện thân của Chúa”, thì khi ấy chúng tôi sẽ không có vũ khí nào để chống lại lời báng bổ ấy cả, vì nó sẽ triệu về các thế lực đen tối trong thể xác vốn tụ lại trong phát rắm và hơi ợ chua và chúng sẽ đòi cái quyền mà chỉ duy nhất tinh thần mới có: quyền được xì ra nơi nào tùy thích!
– Lycurgus đã cho dựng một tượng ca ngợi cái cười.
– Huynh đọc điều đó trong quyển sách phỉ báng của Cloritian, người đã cố giải cho kịch câm khỏi tội vô đạo, ông kể chuyện một bệnh nhân được một bác sĩ chữa lành bệnh bằng cách giúp cho người ấy cười. Cần gì phải chữa cho hắn chứ, nếu Chúa đã định đời trần tục của hắn đã chấm dứt?
– Tôi không nghĩ bác sĩ ấy đã chữa lành cho bệnh nhân. Ông ta dạy bệnh nhân cách cười căn bệnh của mình.
– Bệnh không phải đuổi tà là hết. Nó phải được tiêu diệt.
– Cùng với cơ thể của người bệnh.
– Nếu cần thiết.
– Huynh chính là Quỉ – Thầy William bèn nói.
Jorge dường như không hiểu. Nếu lão sáng mắt, tôi dám chắc lão phải đờ mắt ra nhìn người vừa nói. Lão hỏi:
– Tôi ư?
– Phải. Họ đã nói dối Huynh. Quỉ không phải là Sa Tăng, Quỉ chính là tinh thần kiêu hãnh, là đức tin không biết mỉm cười, là sự thật chẳng hề hoài nghi. Quỉ ác vì nó biết mình đi đâu, và cũng như Quỉ, Huynh sống trong bóng tối. Nếu Huynh muốn thuyết phục tôi thì Huynh đã thất bại. Jorge, tôi căm ghét Huynh, và nếu có thể, tôi sẽ dẫn Huynh xuống lầu, băng qua sân, trần truồng, lỗ đít cắm lông gà, mặt vẽ hề, để cả tu viện cười nhạo Huynh và chẳng còn sợ Huynh nữa. Tôi muốn trét mật khắp người Huynh rồi lăn vào đám lông, và buộc dây dắt Huynh ra chợ phiên, nói với mọi người rằng: Hắn đã công bố sự thật với quí vị và bảo sự thật có vị chết chóc, và quí vị đã tin, không phải lời hắn, mà là tính tàn nhẫn của hắn. Bây giờ, tôi xin thưa với quí vị rằng, trong cơn xoáy vô biên của những điều khả thi, Chúa cũng cho phép quí vị tưởng tượng ra một thế giới trong đó người cho mình làm sáng tỏ sự thật chẳng là cái gì khác hơn là một con quạ đen vụng về, kẻ lặp lại những lời người ta đã biết tự lâu rồi.
– Huynh còn xấu hơn Quỉ nữa, tu sĩ Khất thực à – Jorge nói. – Huynh là một thằng hề, cũng như vị thánh đã khai sinh cho tất cả dòng Huynh vậy. Huynh giống như Thánh Francis của Huynh, người cất tiếng nói với tất các thân xác của mình [8], người giảng kinh mà trình diễn như một tên bán thuốc dạo, người làm bọn bần tiện kinh ngạc vì dúi vào tay chúng những đồng tiền vàng, khiến các nữ tu kính đạo xấu hổ vì không đọc kinh mà lại ngâm “Miserere. Xin thương xót chúng tôi”, người ăn xin bằng tiếng Pháp, người lấy một mẩu gỗ để bắt chước động tác của các nhạc công vĩ cầm, người giả dạng một tên lang thang để làm bẽ mặt các tu sĩ tham ăn tục uống, người ném mình trần truồng xuống tuyết, người nói chuyện với cỏ cây muông thú, biến cả huyền thoại của Chúa giáng sinh thành một cảnh làng, nhại tiếng cừu kêu be be để gọi con chiên xứ Bethlehem… Một trường phái hay đấy. Thầy dòng Diotisalvi xứ Florence ấy là tu sĩ Khất thực chứ?
– Phải – thầy William mỉm cười – Đó là người đã đến chủng viện của những người giảng đạo, và bảo sẽ không nhận thực phẩm nếu họ không đưa trước cho Người một mảnh áo của Sư huynh John để giữ làm thánh tích. Khi họ đưa mảnh áo ấy, Người bèn lấy nó chùi mông và ném vào đống phân, rồi lấy một cây gậy lăn nó quanh đống phân và la lên: “Than ôi, các sư huynh ơi, hãy giúp tôi, tôi lỡ đánh rơi thánh tích xuống nhà xí rồi!”
– Rõ ràng câu chuyện đó làm Huynh thích thú lắm! Có lẽ Huynh cũng kể tôi nghe câu chuyện về một tu sĩ Khất thực khác là Thày dòng Paul Millemosche. Một hôm thầy nằm sõng xoài trên mặt băng, khi đồng bào của thầy chế giễu thầy và một người hỏi thầy có thích nằm trên cái gì tốt hơn không, thầy bèn đáp: “Có, vợ của ngươi…”. Đó là cách Huynh và các người anh em của Huynh tìm kiếm sự thật đấy.
– Đó là cách Thánh Francis dạy con người nhìn sự vật từ một góc độ khác.
– Nhưng chúng tôi đã buộc họ vào kỷ cương. Hôm qua Huynh đã nhìn thấy các anh em của mình đấy. Họ đã gia nhập hàng ngũ của chúng tôi và không còn nói như những người phàm tục nữa. Những người phàm tục không được phép nói. Quyển sách này sẽ biện minh cho tư tưởng ngôn ngữ của người phàm tục là phương tiện của sự thông thái. Phải ngăn chặn điều này, và tôi đã làm. Huynh bảo tôi là Quỉ, nhưng không đúng thế. Tôi là cánh tay của Chúa.
– Tay của Chúa sáng tạo, chứ không che giấu.
– Có những giới hạn không được vượt qua. Chúa ban lệnh rằng một số giấy tờ nhất định phải mang dòng chữ “đây là sư tử”.
– Chúa cũng tạo ra quái vật. Và Huynh nữa. Và Ngài muốn mọi điều đều được nói đến.
Jorge giờ đôi tay run rẩy ra kéo quyển sách về phía mình, lão mở nó ra nhưng xoay lại, để thầy William vẫn có thể thấy nó thuận chiều. Lão bảo:
– Thế tại sao Ngài lại để bản viết này lạc mất hàng bao thế kỷ, chỉ còn sót lại một bản sao duy nhất, và bản sao của cái bản viết chỉ có Chúa biết đã trôi dạt đến đâu, lại bị chôn vùi hàng nhiều năm trong tay của một tên vô thần không biết tiếng Hy Lạp, rồi bị bỏ quên chẳng ai ngó ngàng đến trong một góc bí mật của một thư viện cũ kỹ, nơi chính tôi, chứ không phải Huynh, được Thượng đế gọi phải tìm nó và giấu nó đi thêm nhiều năm nữa? Tôi biết, tôi biết như thể đã đọc được nó ghi bằng những dòng chữ sắt đá, với đôi mắt có thể nhìn thấy được những điều Huynh không thấy. Tôi biết đây là ý Chúa, và tôi đã hành động để minh giảng nó. Nhân danh Cha, và Con và Thánh thần.
Chú thích:
[1] Chỉ Aristotle.
[2] Chính khách và triết gia La Mã (480?-524? sau Công Nguyên).
[3] Genesis. Quyển đầu của Kinh Cựu ước.
[4] Triết gia và nhà vật lý Hồi giáo, (1126-1198). Điểm chính trong triết lý của ông là linh hồn có thể bị tiêu diệt.
[5] Theo huyền thoại Hy Lạp, Prometheus đã trộm lửa trên trời đem xuống dạy cho con người cách sử dụng. Ông bị Zeus phạt xiềng vào một viên đá, mỗi ngày bị diều hâu đến ăn dần mòn lá gan, nhưng đến đêm nó lại hóa nguyên lành như cũ.
[6] Miền đất tưởng tượng có cuộc sống an nhàn, xa hoa.
[7] Một giáo phái thuộc đạo Thiên Chúa, được thành lập ở Bắc Phi thế kỷ IV sau Công nguyên.
[8] de toto corpore fecerat linguam
ĐÊM
Tác giả: Umberto Eco
Hỏa tai xảy ra,
vì đạo đức quá độ,
nên thế lực của địa ngục đã thắng thế
Lão già im lặng. Lão xòe cả hai tay đặt lên quyển sách, tựa như mơn trớn các trang giấy, vuốt chúng thẳng ra để đọc, hay như muốn bảo vệ nó khỏi móng vuốt của một loài chim ăn thịt.
Thầy William bảo Jorge:
– Dẫu sao, tất cả đều hoài công. Bây giờ mọi việc đã xong. Tôi đã tìm thấy Huynh, tìm thấy quyển sách, và những người kia đã chết vô ích.
– Không vô ích đâu. Có lẽ đã có quá nhiều người chết quá. Và nếu Huynh cần có bằng chứng rằng quyển sách này là bạc mệnh thì Huynh đã giữ nó rồi. Và để chắc rằng họ đã không chết vô ích, thì thêm một cái chết nữa cũng chẳng có nhiều nhặng gì.
Vừa nói, lão vừa đưa ngón tay xương xẩu trong mờ lên, chậm chạp xé những trang giấy mỏng manh của quyển sách thành từng mảnh nhỏ, tọng chúng vào miệng, và từ từ nuốt xuống, tựa như lão đang ăn bánh thánh và muốn biến nó thành xác thịt của mình.
Thầy William bàng hoàng nhìn lão, dường như chưa hiểu được điều đang xảy ra. Rồi thầy bình tâm lại và chúi về phía trước hét lên: – Huynh làm gì thế? – Jorge mỉm cười, giơ hai cái lợi trắng dã ra, một chất nhầy vàng vàng từ đôi môi tái nhợt của lão ứa ra, nhỏ giọt xuống mấy sợi râu trắng lưa thưa dưới cằm.
– Huynh đang đợi hồi kèn thứ bảy, phải không? Giờ hãy lắng nghe tiếng kèn lên tiếng đây: “Hãy niêm kín những điều bảy sấm truyền đã nói, và chớ viết nó ra, hãy nuốt nó đi, nó sẽ làm ruột ngươi đắng ngắt, nhưng trên môi ngươi nó sẽ ngọt như mật”. Huynh thấy chưa? Bây giờ tôi đã niêm kín điều không được nói, trong nấm mồ chôn tôi.
Lão cười, trời, lão Jorge cười. Lần đầu tiên tôi mới nghe lão cười… Lão cười từ trong cổ họng, mặc dù môi lão không tươi và trông lão dường như gần khóc.
– Huynh không ngờ được một chung cuộc như thế này, phải không William? Lão già này nhờ ơn huệ của Chúa, một lần nữa lại thắng phải không nào? – Khi thầy William định giật lấy quyển sách thì Jorge nghe tiếng gió đoán được bèn lùi lại, tay trái ôm chặt quyển sách vào ngực, còn tay phải tiếp tục xé các trang giấy và nhồi chúng vào miệng.
Lão ở phía bên kia bàn, thầy William không với tới được bèn cố đứng phắt dậy chạy quanh chướng ngại vật đó. Nhưng thầy làm đổ ghế và vướng áo vào đó, thế nên Jorge đã hiểu được mưu định. Lão già lại phá lên cười, lần này còn to hơn nữa, và thật nhanh không ngờ, lão vung tay phải ra quờ quạng tìm ngọn đèn. Theo sức nhiệt tỏa ra lão chộp lấy ngọn lửa và chẳng sợ đau, đè mạnh tay lên đó. Đèn tắt phụt. Căn phòng tối đen, và lần cuối cùng, chúng tôi nghe tiếng cười của Jorge, lão nói: – Giờ tìm ta đi! Bây giờ ta là người nhìn rõ nhất. – Rồi lão lặng thinh và không hề tạo ra một tiếng động nào khác, lão di chuyển với những bước chân lặng lẽ, vốn khiến lão luôn xuất hiện thật bất ngờ. Chúng tôi chỉ còn nghe được đâu đó trong căn phòng, chốc chốc lại phát ra tiếng xé sách.
– o, – thầy William la lên. – Chận ngay cửa. Đừng để lão lọt ra ngoài.
Nhưng thầy nói muộn quá, vì nãy giờ tôi chỉ muốn nhào vào chụp lấy lão già, nên khi phòng sụp tối, tôi đã lao tới, cố chạy vòng theo nửa vòng bàn ngược hướng với thầy. Tôi nhận ra quá muộn là tôi đã giúp Jorge chiếm được cửa, vì lão già có thể di chuyển trong bóng tối một cách tự tin lạ thường. Chúng tôi nghe sau lưng tiếng xé giấy – hơi lùng bùng, vì phát ra từ phòng bên cạnh, và cùng lúc đó, chúng tôi nghe một âm thanh khác, tiếng kèn kẹt khô khốc chạy tới, tiếng bản lề kêu ken két.
Thầy William la lên: – Tấm gương! Lão định nhốt chúng ta ở trong này! – Theo hướng tiếng động phát ra, cả hai thầy trò tôi đều lao về phía cửa. Tôi ngã nhào lên một cái ghế và bầm cả chân, nhưng chẳng thèm để ý, vì tôi vụt nhận ra rằng nếu Jorge nhốt chúng tôi trong này thì chúng tôi muôn đời chẳng ra được: trong bóng đêm, chúng tôi sẽ chẳng bao giờ tìm được cách mở cửa, vì không biết cách và không biết điều khiển máy nào ở phía bên này.
Tôi tin thầy William cũng bổ tới thục mạng như tôi vậy, vì tôi cảm thấy thầy bên cạnh tôi khi cả hai thầy trò đến được ngưỡng cửa và ép sát mình vào lưng tấm kính đang khép lại về phía chúng tôi. Chúng tôi đến kịp lúc cánh cửa ngừng lại, rồi hé mở ra. Rõ ràng Jorge thấy trận chiến không cân sức nên bỏ đi. Chúng tôi ra khỏi căn phòng kinh khủng đó, nhưng giờ đây chẳng biết lão già đang đi đâu, và bóng tôi vẫn còn dày đặc.
Đột nhiên, tôi nhớ ra: – Thầy ơi! Con vẫn giữ cục đá lửa!
– Thế còn đợi cái gì nữa? – Thầy William la lên – Tìm cây đèn và châm lửa đi! – Tôi lao trở lại “finis Africae” tối tăm để tìm cây đèn. Nhờ phép lạ, tôi tìm thấy nó ngay bèn lần theo áo dòng lấy ra cục đá lửa. Tay tôi run lẩy bẩy, và đánh lửa hai ba lần chưa châm được đèn, còn thầy William thì đứng ở cửa gọi hổn hển. – Nhanh lên, nhanh lên! – Cuối cùng tôi đánh được lửa.
Thầy William lại giục: – Nhanh lên! Nếu không lão già sẽ ăn sạch Aristotle!
– Và chết! – Tôi đau đớn thốt lên, vượt lên trước thầy và cùng thầy tìm kiếm.
– Thầy không thèm biết lão chết hay sống, đồ quái vật đó! – Thầy William la lên, chạy lại chỗ này chỗ kia, chõ mắt nhìn khắp mọi nơi – Với số giấy nuốt được đó, mạng lão đã tuyệt rồi. Nhưng thầy muốn có quyển sách.
Đoạn thầy ngừng lại, bình tĩnh hơn, tiếp: – Khoan đã. Nếu tiếp tục thể này thì chúng ta sẽ chẳng bao giờ tìm thấy lão. Im lặng, chúng ta sẽ đứng yên một lúc, – Chúng tôi gồng cứng mình, nín thinh, và trong yên lặng, chúng tôi nghe, cách không xa lắm, tiếng thân người đụng mạnh vào kệ sách, và tiếng vài quyển sách đổ ầm xuống đất – Hướng đó! – Cả hai chúng tôi đồng thanh hét lên.
Chúng tôi chạy về hướng phát ra tiếng động, nhưng chẳng bao lâu phải chậm bước lại. Thực ra, bên ngoài “finis Africae”, Thư viện đêm nay đầy những luồng khí rên rĩ rít lên, tương ứng với con gió mạnh ngoài trời. Tốc độ chạy của chúng tôi khiến luồng gió càng mạnh hơn, và đe dọa sẽ dập tắt ngọn đèn, mà châm lại rất vất vả. Vì chúng tôi không thể đi nhanh hơn, chúng tôi buộc phải làm Jorge đi chậm lại. Nhưng thầy William lại nảy lên một ý trái ngược, bèn hét lên:
– Chúng tôi bắt được Huynh rồi, lão già ạ, chúng tôi đã có đèn! – Thật là một quyết định khôn ngoan, vì lời tiết lộ ấy có lẽ đã khiến lão hoảng, lão bèn đi nhanh hơn, và tự làm tổn hại đến khả năng mẫn cảm nhiệm màu và tài nhìn trong bóng tối của mình. Ít lâu sau, chúng tôi nghe một tiếng động khác, theo hướng đó, chúng tôi bước vào phòng Y của YSPANIA, và thấy lão nằm trên mặt đất, tay vẫn giữ quyển sách, cố đứng dậy giữa đống sách ngổn ngang mà lão đã đụng vào bàn làm đổ nhào xuống. Lão đang gắng đứng dậy, nhưng vẫn tiếp tục xé sách, quyết nuốt hết con mồi càng nhanh càng tốt.
Khi chúng tôi chạy đến thì lão đã đứng thẳng, nghe biết chúng tôi đã tới, lão lùi lại, đối mặt với chúng tôi. Dưới ánh đèn sáng đỏ, gương mặt lão bây giờ trông thật khủng khiếp: các đường nét đã méo mó, một dòng mồ hôi thâm hiểm chảy ròng ròng xuống mày, xuống má lão, đôi mắt thường vẫn trắng dã chết chóc của lão giờ đỏ như máu, từ miệng lão rơi ra những mẩu giấy, lão trông hệt một con thú đen như quạ đã nhồi đầy bụng mình và không còn nuốt nổi thức ăn nữa. Người co rúm vì hoảng loạn, vì sự tàn phá của thuốc độc giờ đang chạy rần rần khắp thân thể, vì mưu đồ quái quỉ quyết thực hiện cho bằng được, thân hình quắc thước của lão già bây giờ trông ghê tởm và cục mịch. Vào lúc khác thì hình ảnh đó có thể làm người ta cười, nhưng chúng tôi giờ cũng mệt rã rượi như chó rình mồi.
Lẽ ra bình tĩnh bắt lão, chúng tôi lại nhào vào tấn công lão mãnh liệt. Lão quằn quại nhưng tay vẫn ôm ghì trước lồng ngực, quyết giữ quyển sách. Tay trái tôi nắm lấy lão còn tay phải thì cố giơ cao ngọn đèn, nhưng ngọn lửa táp vào mặt lão, lão nóng quá bèn nghẹn ngào la gần như rống lên, những mẩu giấy trong miệng văng ra, tay phải lão liền buông quyển sách, vồ lấy ngọn đèn, bất thần giật nó khỏi tay tôi và ném đi xa…
Ngọn đèn rơi ngay trên đống sách mở ngỏ bị hất nhào từ trên bàn xuống. Dầu đổ tung tóe, ngọn lửa liền táp lấy một trang giấy mỏng manh, và nó cháy bùng lên như một bó củi khô. Tất cả xảy ra trong khoảnh khắc, tựa như bao thế kỷ nay, những trang giấy cổ ấy đã trông chờ một cuộc hỏa hoạn, và giờ đang thích thú, đột nhiên được thỏa mãn khát vọng triền miên được bùng cháy. Thấy nguy hiểm thầy William buông lão già ra. Biết đã thoát, lão lùi lại vài bước, thầy William do dự một thoáng, mà có lẽ là quá lâu, phân vân không biết nên tóm lão Jorge lại, hay nên dập tắt ngay ngọn lửa nhỏ. Một quyển sách cũ nhất bốc cháy ngay, bùng lên một ngon lửa.
Những luồng gió nhẹ, có thể thổi tắt ánh đèn lung linh, thì lại giúp cho ngọn lửa lớn cháy rực hơn, chúng còn thổi tàn bay đi tung tóe.
Thầy William la: – Dập lửa ngay! Nhanh lên! Cháy hết bây giờ!
Tôi chạy về phía đống lửa, rồi ngừng lại vì không biết phải làm gì. Thầy William lại chạy đến giúp tôi. Chúng tôi đưa tay ra, mắt tìm kiếm vật gì đó để dập lửa. Óc tôi lóe lên một ý: tôi tuột áo qua khỏi đầu và cố ném nó vào giữa đống lửa. Nhưng bây giờ ngọn lửa đã quá cao, nó nuốt luôn áo của tôi và được nuôi lớn thêm. Giật đôi tay cháy sém của mình lại, tôi quay sang thầy William và trông thấy Jorge đang tiến đến ngay sau lưng thầy. Bây giờ hơi nóng tỏa ra rất mạnh nên lão có thể nhận ra rất dễ dàng, do đó lão biết chắc chắn ngọn lửa ở đâu. Lão bèn ném quyển sách của Aristotle vào lửa.
ĐÊM (tt)
Tác giả: Umberto Eco
Điên tiết lên, thầy William bèn đẩy lão một cái thật mạnh. Jorge ngã sầm vào một kệ sách, đầu đập mạnh vào một góc. Lão gục xuống đất… Nhưng thầy William, tôi nghĩ thầy đã bật ra một lời nguyền rủa đáng sợ, chẳng thèm ngó ngàng chi đến lão. Thầy quay sang mấy quyển sách. Muộn mất rồi. Tác phẩm của Aristotle, hay phần còn lại sau bữa ăn ngấu nghiến của lão già đã bị thiêu rụi.
Trong khi đó, vài tàn lửa đã bay về phía tường, và các quyển sách trong một kệ khác đang co rúm lại dưới ngọn lửa giận dữ. Bây giờ, trong phòng không phải có một mà đến hai đống lửa đang cháy.
Thầy William nhận thấy chúng tôi không thể dùng tay để dập lửa được, bèn quyết định lấy sách để cứu sách. Thầy nắm lấy một quyển mà thầy nghĩ chắc chắn và dày dặn hơn các quyển khác, cố dùng nó như một vũ khí để đàn áp kẻ thù hung hãn. Nhưng đập quyển sách bìa đóng nẹp đinh lên các quyển đang cháy chỉ khêu thêm nhiều đóm lửa khác. Thầy cố lấy chân rải chúng ra thì tác dụng lại ngược lại: những mẩu giấy cháy dở bay lên chấp chới như cánh dơi, thổi chúng đi nhóm thêm những ngọn lửa mới trên các trang giấy khác.
Rủi thay, đó là căn phòng bừa bãi nhất trong Mê Cung. Bản thảo cuộn tròn treo trên kệ, những quyển sách khác thì tả tơi, ruột long khỏi bìa, trông như những cái lưỡi bằng da bê khô héo vì thời gian lè ra khỏi cái miệng há hốc, trên bàn chất đầy những bản viết mà Malachi đã quên không cất đúng chỗ. Thế nên căn phòng, sau khi bị Jorge làm đổ nháo nhào, ngổn ngang những bản da chỉ chờ đợi biến ra tro.
Căn phòng phút chốc đã biến thành một lò than, một lùm cây bốc cháy. Cả những kệ sách cũng dự vào cuộc hiến tế này, chúng bắt đầu kêu răng rắc. Tôi nhận ra toàn Mê cung giờ chỉ là một giàn hỏa tế khổng lồ, hết thảy chuẩn bị đợi mồi lửa đầu tiên.
– Nước. Ta cần nước! – Thầy William nói, rồi tiếp. – Nhưng làm sao tìm được nước trong hỏa ngục này.
– Dưới bếp, xuống dưới bếp, – Tôi la lên.
Thầy William sững sờ nhìn tôi, mặt thầy đỏ gay trong ánh lửa bừng bừng. – Đúng, nhưng khi chúng ta xuống và lên trở lại thì… Bà hỏa đã ngốn hết! – Rồi thầy hét lên – Dẫu sao, căn phòng này đã tiêu rồi, và có lẽ phòng kế bên cũng thế. Chúng ta hãy xuống ngay, thầy tìm nước, còn con phóng ra ngoài báo động. Ta cần nhiều người!
Chúng tôi tìm đường đến cầu thang, ngọn lửa cũng bắt sang những phòng kế cận, nhưng càng xa càng mờ, thế nên chúng tôi gần như mò mẫm băng qua hai phòng cuối. Bên dưới, ánh trăng lờ mờ soi vào phòng thư tịch, và từ đây chúng tôi đi xuống nhà ăn. Thầy William phóng vào nhà bếp, tôi lao lên cửa nhà ăn, loay hoay mở nó từ phía trong mãi mới được, vì lo lắng làm chân tay tôi vụng về luống cuống. Tôi bước ra sân cỏ và chạy về hướng nhà nghỉ, rồi chợt nghĩ mình không thể đánh thức từng tu sĩ một được. Đầu tôi nảy lên một ý: tôi chạy đến nhà thờ, tìm cách leo lên tháp chuông. Khi leo đến nơi, tôi nắm tất cả dây giật chuông báo động. Tôi kéo thật mạnh, và sợi dây chuông chính, khi rút lên, kéo tôi theo lên luôn. Trong thư viện, mu bàn tay tôi đã cháy sém, còn lòng bàn tay vẫn còn nguyên lành. Nhưng bây giờ chúng cũng phồng giộp cả lên, tôi bám theo dây thừng tuột xuống cho đến khi tay đổ máu mới buông ra.
Tuy nhiên đến lúc ấy tiếng chuông tôi đã khua động lên rồi. Tôi chạy ra ngoài, vừa kịp thấy các tu sĩ đầu tiên từ trong nhà nghỉ ra, và nghe từ đằng xa tiếng tôi tớ lao nhao trước cửa nhà họ. Tôi không thể trình bày rõ ý mình vì chẳng còn sức để cất tiếng, và những từ đầu tiên thoát ra khỏi miệng bằng tiếng Đức mẹ đẻ. Tôi đưa bàn tay máu chảy ròng ròng chỉ lên cửa sổ ở cánh nam của Đại Dinh, bệ thạch cao tuyết hoa của chúng đang rực sáng lạ thường. Căn cứ theo cường độ sáng đó tôi biết trong khi tôi trở xuống rung chuông thì ngọn lửa đã lan sang các phòng khác. Tất cả cửa sổ của “Châu Phi” và toàn bộ tiền diện giữa nó và ngọn tháp phía đông, bây giờ bập bùng những ánh lửa bất thường.
– Nước! Mang nước! – Tôi hét lên.
Thoạt tiên chẳng ai hiểu gì hết. Các tu sĩ quá quen xem Thư viện là một nơi linh thiêng bất khả xâm phạm, nên họ không hiểu sao nó lại bị đe dọa bởi một tai ương tầm thường vốn có thể xảy đến cho một túp lều nhà nông. Những người đầu tiên nhìn lên cửa sổ làm dấu thánh giá và lầm thầm sợ hãi, tôi biết họ đang nghĩ lại thêm ma quỉ hiện hình đây. Tôi nắm áo họ cố nài nỉ cho họ hiểu, cho đến khi có người chuyển tiếng khóc của tôi thành lời.
Đó là Nicholas xứ Morimondo, Huynh nói: – Thư viện đang cháy!
– Vâng, đúng như vậy. – Tôi thều thào, ngã xuống đất, lả đi.
Nicolas xông xáo truyền lệnh cho các tôi tớ và chỉ cho các tu sĩ đứng xung quanh, bảo người này đi mở các cửa khác trong Đại dinh, bảo người kia kiếm nước và các loại xô chậu. Huynh chỉ cho những người có mặt ra các giếng và hồ nước trong thư viện. Huynh gọi những người chăn bò đem la và lừa đến chuyển bình nước… Nếu một người nắm quyền ban những lệnh này, thì chắc hẳn người ta sẽ tuân theo ngay. Nhưng tôi tớ thì vẫn quen theo lệnh Remigio, các người ghi chép thì theo Malachi, và tất cả thì theo Tu viện trưởng. Nhưng than ôi, cả ba người này chẳng còn ai hiện diện. Tu sĩ nhìn quanh tìm Tu viện trưởng để chờ nghe những lời chỉ thị trấn an, nhưng chẳng thấy Cha đâu. Chỉ mình tôi biết lúc đó Cha đã chết hay đang hấp hối trong một lối đi kín bưng ngột ngạt, bây giờ đang biến thành một lò thiêu.
Nicholas đẩy những người chăn bò đi hướng này, thì vài tu sĩ tốt bụng lại đẩy họ đi hướng khác. Vài sư huynh rõ ràng đã mất bình tĩnh, còn các huynh khác thì vẫn ngái ngủ. Vì giờ tôi đã tỉnh, nên tôi cố dùng lời lẽ để giải thích, nhưng nên nhớ rằng sau khi đã ném áo dòng vào ngọn lửa, tôi gần như trần truồng, và hình ảnh của một cậu bé mặt lọ lem, tay chảy máu, người kỳ cục không lông, tê cóng vì lạnh, chắc chắn không làm người ta tin lắm.
Cuối cùng Nicholas kéo được vài sư huynh và mấy người khác vào bếp, mà ai đó đã mở cửa. Một tu sĩ khác lanh trí cầm thêm vài cây đuốc. Chúng tôi thấy nhà bếp bừa bãi, hỗn độn, và tôi biết thầy William hẳn đã xáo tung nó lên để tìm nước và chậu xách.
Lúc ấy tôi thấy thầy William hiện ra ở cửa nhà ăn, mặt thầy cháy nám, áo bốc khói. Tay thầy cầm một cái bình lớn, đó là hình ảnh đau thương của sự bất lực, tôi tội nghiệp thầy quá. Tôi biết dẫu thầy có mang được một xô nước nguyên vẹn lên tầng hai, hay nhiều hơn nữa, thì cũng chẳng giúp được mấy. Tôi nhớ lại câu chuyện của Augustine khi Ngài trông thấy một thằng bé dùng muỗng múc nước biển: cậu bé là một thiên thần, cậu làm thế để trêu ông thánh, người muốn thông hiểu những lẽ nhiệm mầu của thiên nhiên. Và cũng như thiên thần đó, thầy William mệt lả, dựa vào rầm cửa, nói với tôi: – Tuyệt vọng rồi. Dù tất cả tu sĩ trong tu viện có hiệp lực lại thì cũng đành bó tay thôi. Thư viện tiêu tan rồi. – Nhưng khác thiên thần ấy, thầy William nức nở khóc.
Tôi ôm ghì lấy thầy, thầy giật tấm khăn bàn để quấn lấy người tôi. Chúng tôi sải tay đầu hàng, và quan sát diễn biến chung quanh.
Thật là một quang cảnh hỗn loạn. Người ta chạy tay không lên cầu thang trôn ốc, đụng đầu những người tay không khác đã lên lầu vì hiếu kỳ, bây giờ đang chạy xuống để kiếm chậu. Những người lanh trí khác thì lập tức đi lùng xô chậu, nhưng lại phát giác trong nhà bếp không có đủ nước. Đột nhiên những con la chở các vại nước to tràn vào gian phòng lớn, các người chăn chúng giở vại xuống và định xách nước lên. Nhưng họ không biết cách lên phòng thư tịch, phải mất một hồi lâu sau mấy người ghi chép mới chỉ cho họ, khi họ đi lên thì tông vào những người hoảng hốt đang chạy xuống. Vại vỡ, nước bắn tung tóe xuống đất, thế nhưng các vại kia vẫn được những người sốt sắng chuyển lên cầu thang. Tôi theo đám người ấy vào phòng thư tịch. Từ cửa Thư viện tuôn ra làn khói dày đặc. Những người cuối cùng cố lên tháp phía đông vừa đi xuống, họ ho sặc sụa, mắt đỏ ngầu, và cho biết không thể nào đi vào hỏa ngục đó nữa.
Rồi tôi gặp Benno, tay xách một xô nước khổng lồ từ dưới lên, mặt mày méo xẹo. Huynh nghe những người đi xuống nói như vậy bèn mắng: – Hỏa ngục sẽ nuốt hết các người, đồ hèn nhát! – Như muốn tìm người hỗ trợ, Huynh quay lại thì gặp tôi, và la lên, – o ơi, Thư viện… Thư viện… Thư viện… – Không đợi tôi trả lời, Huynh chạy đến chân cầu thang và liều lĩnh lao vào đám khói. Đó là lần cuối cùng tôi gặp Benno.
Tôi nghe phía trên có tiếng răng rắc. Gạch đá, vôi vữa rớt từ trên phòng Thư tịch xuống. Viên đá ở đỉnh vòm, chạm hình một bông hoa, long ra và gần suýt rơi xuống đầu tôi. Nền của Mê cung đang sụp xuống.
Tôi lao xuống, chạy ra ngoài trời. Vài tôi tớ sốt sắng đem thang cố lao vào các tầng trên để đưa nước lên. Nhưng thang cao nhất chỉ vừa chạm đến cửa sổ phòng thư tịch, những người đã leo lên không thể từ ngoài mở cửa sổ được. Họ gọi với xuống, bảo người vào trong mở, nhưng đến lúc này thì chẳng ai dám lên đó nữa.
Tôi ngước nhìn các cửa sổ ở tầng thượng. Toàn thư viện bây giờ đã biến thành một hỏa lò ngút khói, lửa túa từ phòng này sang phòng khác, cháy tràn qua hàng ngàn quyển sách khô giòn. Mọi cửa sổ đều rực lửa, mái Đại Dinh bốc khói đen ngòm: lửa đã lan đến các sà nhà. Tòa Đại Dinh, bên ngoài trông hùng dũng, bên trong thì rạn nứt, mục rã, đá thì nát bấy để cho lửa táp vào bất cứ chỗ nào có gỗ.
ĐÊM (tt và hết)
Tác giả: Umberto Eco
Đột nhiên tựa như vì một lực bên trong ép xuống, vài cửa sổ vỡ nát, các tàn lửa bay lên không trung, điểm những đốm sáng chấp chới lên màn đêm. Cơn cuồng phong đã dịu hơn, đó là một điều bất hạnh, vì nếu mạnh, nó có thể dập tắt các đốm lửa, nhưng vì gió nhẹ nên nó thổi chúng bùng lên, rồi mang đi, cuốn theo các mảnh giấy da bay lên trời. Một tiếng nổ vang lên: sàn của Mê cung ở đâu đó sụp xuống nền nhà dưới. Bây giờ tôi trông thấy các ngọn lửa lóe lên từ phòng thư tịch, nơi cũng đầy ắp sách, kệ, giấy rời trên bàn giấy, những thứ sẵn sàng đón nhận tàn lửa. Tôi nghe những người ghi chép đau khổ kêu lên, họ bứt tóc bứt tai, còn toan đánh liều leo lên để cứu những bản da thân yêu. Vô ích! Nhà bếp và nhà ăn bây giờ đông nghẹt những kẻ mất hồn, họ chạy lung tung tứ tán, người này cản trở người kia, họ va vào nhau, té nhào, kẻ xách chậu thì làm đổ nước quí, la dẫn vào nhà bếp đánh hơi thấy lửa bèn nhảy dựng lên, lao ra cửa, đá văng người ta, và cả những người chăn dắt hoảng hốt của chúng nữa. Dẫu sao rõ ràng là đám ô hợp những tên nông nô và những người tuy thông thái ngoan đạo nhưng vụng về, không người điều khiển này đang ngăn cản mọi sự tiếp tay còn lại.
*
* *
Toàn thư viện lâm vào cơn dầu sôi lửa bỏng, nhưng đó mới là phần đầu của thảm kịch. Từ mái nhà và cửa sổ Đại dinh, đám tàn lửa đắc thắng được gió nuôi dưỡng đang từ muôn phía lao xuống mái giáo đường. Ai cũng biết các giáo đường đẹp nhất đều rất kỵ hỏa. Nhà của Chúa trông đẹp và kiên cố như chính đất thánh Jerusalem là nhờ mặt tiền bằng đá phô ra ngoài, còn trần và tường đều dựa theo một cấu trúc bằng gỗ nhẹ và đẹp, và nếu nhà thờ bằng đá với những cột vươn cao thẳng chắc như cây sồi gợi ta nghĩ đến những khu rừng đáng kính nhất, thì gần giáp vòm mái, các cột này thường độn ruột trong bằng gỗ sồi – nhiều đồ đạc trang trí nội thất trong nhà thờ cũng bằng gỗ: bàn thờ, khu hát kinh, ván sơn lát tường, bàn ghế, bục, chân đèn. Trong nhà thờ của Tu viện trưởng, nơi có cánh cửa đã quyến rũ tôi hôm đầu tiên, cũng vậy. Giáo đường phút chốc bén lửa ngay. Các tu sĩ và tất cả mọi người bây giờ đều hiểu sự sinh tồn của tu viện đang lâm nguy, nên hết thảy bèn thục mạng chạy tới, để chống đỡ một hiểm họa mới, cảnh càng hỗn loạn hơn nữa.
Đương nhiên, dễ lọt vào và bảo vệ giáo đường hơn thư viện. Thư viện đã tận số vì chính sự bất khả xâm phạm của nó, vì cái huyền thoại bao giữ nó và vì nó ít cửa vào quá. Giáo đường, nơi mở rộng cánh cửa nhân từ đón mọi người trong giờ hành lễ, giờ mở rộng cho tất cả vào chữa cháy. Nhưng nước đã hết, hay ít ra chẳng tìm được mấy nước trữ nữa, các giếng nước dâng lên theo mức độ chậm chạp tự nhiên không đáp ứng nổi nhu cầu khẩn cấp. Mọi tu sĩ lẽ ra có thể dập tắt được ngọn lửa trong giáo đường nhưng đến lúc này chẳng ai biết làm cách nào nữa. Ngoài ra, lửa lan từ phía trên, nên rất khó đội người lên để dùng bao hay cát dập lửa. Còn khi lửa lan xuống dưới thì có ném đất cát vào cũng vô ích, vì trần nhà sập xuống đè dập nhiều người cứu hỏa.
Thế là thêm vào những tiếng kêu than thương tiếc bao của cải bị thiêu rụi và tiếng kêu đau đớn vì mặt bị phỏng, chân tay dập nát, thân chôn vùi dưới đống gạch đá từ vòm mái cao đổ sập xuống.
Gió lại giận dữ nổi lên, và càng giận dữ thốc tới thổi lan ngọn lửa hơn. Kế tiếp ngay sau giáo đường là dãy nhà kho và chuồng ngựa bắt lửa. Ngựa hoảng hốt giật bứt dây cương, đá sập cửa và chạy toán loạn, vừa chạy vừa rống vừa hí rất khủng khiếp. Tàn lửa bắn lên nhiều bờm ngựa và những con ngựa cháy đỏ đó chạy như điên trong sân như những quái thú dưới địa ngục. Chúng phóng vô định không ngừng và đạp nát mọi vật trên đường đi. Tôi thấy già Alinardo đang lang thang, ngơ ngác không hiểu chuyện gì xảy ra, bị con ngựa tuyệt đẹp Brunellus lửa cháy quanh mình đá ngã xuống đất. Già bị ngựa kéo trên đất rồi bỏ mặc ở đó, thân tan nát thật tội nghiệp. Nhưng tôi chẳng có thời gian, cũng chẳng có cách nào để cứu hay khóc thương già cả, vì những cảnh tượng tương tự như vậy đang xảy ra khắp nơi.
Những con ngựa bốc cháy đã mang lửa đến những nơi gió chưa chuyển tới kịp: bây giờ các lò rèn và khu nhà tu sinh đang bốc cháy. Từng đoàn người chạy từ đầu này sang đầu kia, dáo dác chẳng biết làm gì. Tôi gặp Nicholas đầu bị thương, áo tả tơi, giờ kiệt sức bó tay, quì xuống đất nguyền rủa. Tôi thấy Pacificus, không còn nghĩ đến chuyện cứu chữa gì nữa, mà cố tóm lấy một con la điên cuồng đang chạy qua. Khi bắt được nó, Huynh hét lên bảo tôi hãy làm như vậy đi, bảo tôi hãy thoát chạy khỏi các cảnh ghê sợ của trận thư hùng Armageddon này đi.
Tôi không biết thầy William đâu rồi và sợ thầy đã mắc kẹt dưới đống tường sập. Tìm kiếm mãi, tôi mới gặp thầy gần nhà dòng. Tay thầy cầm bọc hành lý: khi lửa lan tới khu hành hương, thầy đã chạy về phòng mình để cứu được ít ra là các vật dụng quí giá nhất của mình. Thầy cũng đã thu nhặt bọc hành lý của tôi nên tôi bèn rút áo ra mặc. Chúng tôi ngừng lại, nín thở quan sát diễn biến chung quanh.
Đến bây giờ tu viện đã tiêu vong. Gần như toàn bộ tòa nhà ít nhiều đều bị thiêu cháy. Những tòa nhà chưa bén lửa sẽ không đứng vững được lâu, vì mọi thứ, từ yếu tố thiên nhiên đến công việc chữa cháy hỗn quân hỗn quan, đều góp phần giúp ngọn lửa lan xa. Chỉ có những khu vực không nhà cửa mới an lành: vườn rau, khu vườn ngoài nhà dòng… Không có thể làm gì để cứu tòa nhà được nữa. Bỏ ý nghĩ chữa cháy đi, chúng tôi đứng ngoài trời và có thể an toàn quan sát mọi việc.
Chúng tôi nhìn giáo đường đang rụi dần, những cấu trúc vĩ đại như thế này có đặc tính là phần bằng gỗ bùng cháy rất nhanh, sau đó nó sẽ âm ỉ trong nhiều giờ, đôi khi nhiều ngày. Ngọn lửa trong Đại dinh lại khác. Ở đây, các vật không bắt lửa nhiều hơn, và bà hỏa sau khi lan khắp phòng thư tịch đang tràn xuống bếp. Còn về tầng thượng nơi xưa kia và hàng bao thế kỷ nay là Mê cung, thì nay quả thực đã bị tiêu hủy.
– Đó là thư viện lớn nhất trong xứ đạo. – Thầy William nói, và tiếp. – Bây giờ, tên Phản chúa đã thực sự sẵn sàng vì không có nền học vấn nào ngăn cản hắn nữa. Bởi lẽ đó, đêm nay chúng ta đã nhìn thấy mặt hắn.
– Mặt ai kia? – Tôi sững sờ hỏi.
– Thầy muốn nói mặt Jorge. Trong gương mặt biến dạng vì sự căm ghét triết học, lần đầu tiên thầy thấy chân dung của tên Phản chúa, hắn không đến từ bộ lạc của Judas hay từ một đất nước xa xôi nào đó, như đã được báo hiệu. Tên Phản chúa có thể thoát thai từ chính lòng kính đạo, từ lòng yêu thương Chúa trời hay yêu thương chân lý quá độ, cũng như kẻ dị giáo thoát thai từ thánh nhân, và kẻ bị ám ảnh từ nhà tiên tri vậy. o ạ, hãy sợ những nhà tiên tri, và những kẻ sẵn sàng chết cho chân lý, vì nói chung chúng làm người khác chết theo, có khi chết trước chúng, có khi chết thế chúng. Jorge đã làm điều quái quỉ vì lão yêu chân lý của lão một cách quá đê hèn đến độ lão dám làm bất kỳ điều gì để tiêu diệt sự giả trá. Jorge sợ tập hai của Aristotle có lẽ vì nó thực sự dạy làm cách nào để bóp méo gương mặt của mọi sự thật, để chúng ta khỏi trở thành nô lệ cho linh hồn của chính mình nữa. Có lẽ sứ mệnh của những người yêu nhân loại là làm con người cười vào chân lý, là làm chân lý cười lên , vì chân lý duy nhất là học cách giải thoát chúng ta khỏi sự đam mê chân lý một cách điên cuồng.
Tôi buồn bã đánh bạo nói – Nhưng, thưa thầy, bây giờ thầy nói thế vì thầy đang bị tổn thương tận đáy lòng. Tuy nhiên, có một chân lý mà đêm nay thầy đã khám phá được, cái chân lý mà thầy đạt được nhờ giải thích các mấu chốt thầy đọc trong mấy ngày qua. Jorge thắng, nhưng thầy đã hạ lão vì thầy đã vạch trần âm mưu của lão.
– Chẳng có âm mưu nào cả, thầy ngẫu nhiên khám phá ra nó thôi.
Lời tuyên bố tự nó nghe mâu thuẫn, tôi không biết thầy William có thực muốn thế không, bèn nói: – Nhưng quả thực những dấu vết trên tuyết đã dẫn đến con ngựa Brunellus, quả thực Adelmo tự tử, Venantius đúng là chết đuối trong vại, Mê cung đúng là được xây cất theo cách thầy hình dung, người ta vào “finis Africae” nhờ chạm vào chữ “quatuor”, quả thực quyển sách bí mật là của Aristotle… Con có thể kể tiếp tất cả điều đúng mà thầy đã khám phá nhờ kiến thức…
– Thầy không bao giờ hoài nghi chân lý của các dấu hiệu, o ạ, đó là những sự vật duy nhất giúp con người tự định hướng trên đường đời. Điều thầy không hiểu là mối tương quan giữa các dấu hiệu. Thầy tìm ra Jorge nhờ cách suy luận theo sách Mặc Khải, mà ngỡ như nó làm cơ sở cho tất cả các án mạng, thế nhưng nó lại chỉ là ngẫu nhiên thôi. Thầy tìm ra Jorge trong khi truy lùng một thủ phạm gây ra mọi án mạng, nhưng lại khám phá rằng mỗi án mạng do một người khác gây ra, hoặc là không do ai gây ra cả. Thầy tìm ra Jorge trong khi đuổi theo kế hoạch của một đầu óc sa đọa nhưng duy lý, thế nhưng chẳng có một kế hoạch nào cả, hay đúng hơn, chính Jorge cũng không giữ được kế hoạch ban đầu, rồi từ đó bắt đầu một loạt các nguyên nhân và phản nguyên nhân, các nguyên nhân mâu thuẫn với nhau và tự chúng diễn tiến và tạo nên những mối tương quan không phát xuất từ một kế hoạch nào cả. Thế thì thầy có khôn ngoan gì đâu? Thầy ngoan cố theo đuổi một loại trật tự giống nhau, mà đáng lẽ thầy phải hiểu rằng trong vũ trụ này không có trật tự.
Lúc đó một góc mái nhà nghỉ đổ rầm xuống, tung lên trời một đám lửa. Vài con cừu, dê chạy thất thểu trước mặt chúng tôi kêu lên thảm thiết. Một nhóm tôi tớ chạy ngang qua, họ la hét, suýt hất chúng tôi ngã nhào.
Thầy William bảo: – Hỗn loạn quá.
Trang cuối cùng
Tác giả: Umberto Eco
Tu viện cháy trong ba ngày ba đêm, và các nỗ lực cứu chữa cuối cùng đều vô ích. Vào sáng ngày thứ bảy chúng tôi lưu lại đó, khi những người sống sót hiểu rõ rằng chẳng còn giữ nổi tòa nhà nào nữa, khi những kiến trúc đẹp nhất chỉ còn trơ lại bức tường ngoài, và giáo đường nuốt dần các ngọn tháp của nó như tự thu mình vào – ngay đến giây phút đó, ý chí chiến đấu của mọi người nhằm chống lại sự trừng phạt của Chúa đã thất bại. Nhà nguyện và các căn phòng tuyệt đẹp của Tu viện trưởng vẫn đang bốc cháy, mà việc chạy đi lấy những thùng nước cuối cùng đã chán nản rã rời. Lúc này ngọn lửa đã lan đến tận các xưởng làm việc, tôi tớ từ lâu đã cố chạy đồ đạc của họ và phóng ra làng quê để bắt lại vài súc vật đã trốn khỏi tu viện trong đêm hoảng loạn.
Tôi thấy vài tôi tớ liều lao vào phần còn lại của giáo đường, tôi chắc họ định xuống hầm kho tàng để chộp lấy vài món quí giá trước khi bỏ chạy. Tôi không biết họ có thành công không, hay hầm đã sụp xuống rồi, hay họ đã bị vùi vào lòng đất khi cố đến được kho tàng.
Trong khi đó, dân quê trong làng đã chạy đến cứu viện hay để hôi của. Các người chết phần lớn vẫn ở trong đống tàn tích còn nóng đỏ. Vào ngày thứ ba, sau khi băng bó cho các người bị thương và chôn cất những xác chết tìm thấy bên ngoài, các tu sĩ và mọi người khác thu nhặt đồ đạc của mình và rời bỏ tu viện còn ngút khói như một nơi bị nguyền rủa. Họ tản đi đến phương trời nào tôi chẳng biết.
Thầy trò tôi lên đường trên hai con ngựa chạy lạc trong rừng, trực chỉ hướng đông. Khi đến Bobbio, chúng tôi bắt đầu nghe những tin xấu về Hoàng đế. Khi đến Pomposa, chúng tôi nghe La Mã đã nổi dậy chống vua Louis khiến Ngài lui trở lại Pisa, trong khi đó các giáo sĩ đại diện John đắc thắng tiến vào thành phố Thánh.
Trong khi đó, Michael xứ Cesena biết rằng sự có mặt của mình tại Avignon sẽ chẳng mang lại kết quả nào – thực ra, Cha sợ mất mạng – nên đã bỏ trốn về Pisa với vua Louis.
Chẳng bao lâu sau, tiên đoán thời cuộc và biết Vua sẽ tiến về Munich, chúng tôi đổi hướng và quyết định sẽ đến đó trước, vì thầy William linh cảm thầy sẽ không an toàn ở Ý. Trong những năm tháng kế tiếp, các lãnh chúa Ghibelline thôi không ủng hộ vua Louis nữa.
Khi chúng tôi đến Munich, tôi nức nở tiễn biệt thầy William. Số mạng của thầy bấp bênh quá, nên gia đình muốn tôi phải quay về Melk. Sau cái đêm đau thương tại tu viện, chúng tôi như ngầm thỏa thuận với nhau không nhắc đến câu chuyện ấy nữa. Chúng tôi cũng chẳng đề cập gì đến nó khi buồn bã chia tay nhau.
Thầy ban cho tôi nhiều lời khuyên quí giá về đường học vấn tương lai, và tặng tôi cặp kính Nicholas đã làm, vì thầy đã lấy lại cặp kính cũ. Thầy bảo tôi còn trẻ, nhưng một ngày kia, nó sẽ trở nên hữu dụng (và quả thực khi viết những dòng này, tôi đang đeo kính). Rồi thầy âu yếm ôm tôi như một người cha thương yêu và bảo tôi lên đường.
Tôi chẳng bao giờ gặp lại thầy nữa. Rất lâu sau, tôi nghe nói thầy đã chết trong trận dịch lớn hoành hành khắp Âu Châu khoảng giữa thế kỷ này. Tôi luôn cầu nguyện Chúa sẽ đón nhận linh hồn thầy và tha thứ cho thầy nhiều hành động kiêu hãnh mà tính cao ngạo trí thức của thầy đã gây ra.
*
* *
Nhiều năm sau, khi đã trưởng thành, tôi có dịp được Tu viện trưởng của mình phái về Ý công cán. Tôi không cưỡng nổi cơ may này, và trên đường về tôi rẽ về thăm lại tàn tích của tu viện.
Hai ngôi làng trên sườn núi đã hoang vắng, đất bỏ hoang không ai cày cấy. Khi tôi leo lên đỉnh núi, cảnh hoang tàn chết chóc hiện ra khiến mắt tôi mờ lệ.
Những cấu trúc vĩ đại tráng lệ xưa kia mọc sừng sững nơi đây, giờ chỉ trơ lại những mảnh đổ nát, như trước đây đã xảy ra với các tượng đài của những người đa thần cổ đại ở La Mã. Dây leo quấn chằng chịt lên các mảng tường, cột còn nguyên. Cỏ dại mọc tràn lan muôn phía, chẳng còn biết vườn rau, vườn hoa xưa đâu nữa. Chỉ có nghĩa trang là còn nhận ra được, vì vài nấm mồ vẫn còn nhô cao khỏi mặt đất. Dấu hiệu duy nhất của sự sống là vài con chim ăn thịt đang săn thằn lằn và rắn, những con vật giống rắn thần đang trườn đi giữa những khe đá hay bò trên tường. Cánh cửa giáo đường chỉ còn lại vài mẩu mốc meo. Phân nửa vòm mạng trung tâm vẫn còn, và tôi liếc thấy trong đó con mắt trái của Chúa ngồi trên ngai và vài nét trên bộ mặt sư tử, chúng đã bị các yếu tố thiên nhiên làm giãn nở ra và bị địa y bao phủ.
Đại Dinh, trừ tường phía nam bị tàn phá, dường như vẫn đứng vững với thời gian. Hai ngọn tháp trên vực đá trông như không hề suy suyển, chỉ trừ các cửa sổ bây giờ là những hố mắt trống hốc đang chảy những hàng lệ là các dây leo mục rữa. Bên trong, công trình nghệ thuật bị tàn phá nhào trộn với công trình thiên nhiên, và qua khoảng diện tích bao la của nhà bếp, mắt tôi nhìn suốt lên tận trời xanh qua vùng trống của các tầng trên và mái nhà, đã sụp xuống như các thiên thần giáng thế. Những thứ chưa xanh rêu thì vẫn ám khói đen của nhiều thập niên về trước.
Lang thang trong đống gạch vụn, tôi thỉnh thoảng lại thấy những mảnh giấy da đã bay từ phòng thư tịch và thư viện xuống, và tồn tại như những châu ngọc chôn dưới đất. Tôi nhặt nhạnh chúng, tựa như sắp khâu lại các trang giấy bị bứt rời trong một quyển sách. Rồi tôi để ý thấy trong một ngọn tháp có một cầu thang trôn ốc dẫn lên phòng thư tịch, tuy rung rinh nhưng vẫn nguyên vẹn, từ đây, leo lên một núi đá vụn, tôi đến được tầng thư viện, thế nhưng nó chỉ còn một hành lang sát với tường ngoài, nhìn xuống cảnh tan hoang khắp phía.
Dọc theo một bức tường, tôi bắt gặp một kệ sách bị nước và mối ăn mòn mà không hiểu sao đã thắng được lửa để đứng thẳng thật diệu kỳ. Trong kệ vẫn còn vài trang sách. Các trang sống sót khác tôi nhặt được nhờ lục lọi khắp trong đống đổ nát bên dưới. Tôi đã bỏ cả ngày để gặt, tuy chẳng thu được bao nhiêu, tựa như từ những hạt ký ức về Thư viện sẽ nảy lên cho tôi một thông điệp nào đó. Vài mẩu giấy da đã phai mờ, vài mảnh khác cho ta cái bóng của một hình ảnh nào đó, hay tinh anh của một hai chữ. Đôi khi tôi nhặt được những trang giấy còn nguyên cả câu, còn thường thì nhặt được các bìa còn nguyên, xưa kia được bảo vệ nhờ các đinh kim loại đầu lớn… Những quyển sách ma, xác còn nhưng hồn đã tiêu tán, tuy nhiên thỉnh thoảng tôi lại vớt được nửa trang giấy, trong đó nhận ra được tựa sách, hay chữ đầu tựa.
Tôi thhu góp mọi thánh tích nhặt được, xếp chúng đầy hai bọc hành lý và vất bỏ các dụng cụ khác để cứu lấy kho tàng bất hạnh này.
Trên đường về, và sau này tại Melk, tôi bỏ ra nhiều giờ cố đọc những mẩu giấy sót lại này. Từ một chữ hay hình ảnh, tôi thường nhận ra được nó thuộc tác phẩm nào. Về sau, khi tôi tìm được các bản sao khác của những tác phẩm đó, tôi âu yếm nghiên cứu chúng, như thể số mệnh đã để lại cho tôi di sản này. Cuối thời gian tái tạo kiên nhẫn của tôi, tôi có trước mặt một thư viện nhỏ, biểu tượng của một thư viện lớn hơn đã tan biến, một thư viện bằng các mảnh giấy, trích dẫn, câu viết dang dở và các thân thể sách què cụt.
o0o
Tôi càng đọc đi đọc lại các danh mục này thì càng tin rằng nó chỉ là một kết quả ngẫu nhiên và chẳng chứa đựng một thông điệp nào cả. Nhưng những trang sách không toàn vẹn đó đã theo tôi suốt quãng đời còn lại. Tôi thường giở chúng ra xem như một lời sấm truyền, và gần như tin rằng những gì tôi viết trên những trang giấy này mà quí vị độc giả chưa quen nào đó đang đọc, chỉ là một bài thơ chắp vá, một bài thánh ca tưởng tượng, một bài acrostic [1] bao la, mà chẳng nói lên hay nhắc lại điều gì ngoài những ý các mẩu sách đó đã gợi cho tôi. Tôi cũng không biết mình đã nói về chúng hay chúng nói qua miệng mình bao xa. Nhưng dù bất kỳ một trong hai khả năng này đúng đi nữa, tôi càng nhủ lòng câu chuyện này phát sinh từ chúng bao nhiêu, thì tôi càng không hiểu phải chăng có một mưu định vượt ra ngoài diễn biến tự nhiên của các sự kiện và các thời gian đan nối chúng với nhau hay không. Một tu sĩ già, trên ngưỡng cửa của cái chết mà không biết dòng chữ mình viết có ẩn chứa một ý nghĩa, hay hơn, hay nhiều, hay chẳng có ý nghĩa nào hết, thì quả là một điều đau lòng.
Nhưng việc tôi không có khả năng để nhận biết này có lẽ là do tác dụng của cái bóng, mà màn đen vĩ đại khi đến gần, đang phủ lên thế gian già nua.
Vinh quang của Thành Babylon nay đâu rồi? Tuyết trắng năm xưa đâu? Thế giới đang quay cuồng điệu múa của Macabré, có lúc tôi nghĩ sông Danube đang đầy nghẹt tàu bè chở đầy những kẻ ngốc đi về một miền tối tăm.
Bây giờ tôi chỉ còn biết yên lặng. Thật lành mạnh biết bao, thật vui thú và ngọt ngào biết bao được ngồi trong cô tịch và nói chuyện cùng Thiên Chúa [2].
Chẳng bao lâu nữa tôi sẽ quay về căn nguyên của mình, và tôi không còn tin đó là Chúa vinh quang mà các tu viện trường dòng tôi đã nói đến, hay là nơi hân hoan như dòng Khất thực ngày đó vẫn tin tưởng, mà có lẽ cũng chẳng phải nơi thành kính nữa… Chẳng bao lâu nữa tôi sẽ đi vào sa mạc mênh mông, bằng phẳng và vô tận, nơi trái tim thành tâm kính đạo hưởng hạnh phúc. Tôi sẽ rơi vào bóng tối thánh thiện, vào cõi thinh lặng và hợp nhất khôn tả, khi rơi xuống mọi điều bình đẳng, bất công sẽ mất hết và trong vực sâu ấy linh hồn tôi sẽ tự biến đi chẳng còn biết điều bình đẳng, bất công hay thứ gì khác nữa, và sẽ lãng quên đi mọi sự phân biệt. Tôi sẽ ngự trong một miền đơn giản, trong một hoang mạc yên lặng, không tìm thấy sự phân biệt, trong cõi riêng tư nơi không ai tìm cho mình một chỗ biệt lập. Tôi sẽ về nước Chúa thanh tịnh, yên vắng, thư nhàn, và vô ảnh.
*
* *
Phòng thư tịch lạnh quá, ngón tay tôi nhức buốt. Tôi để lại bản viết này, chẳng biết cho ai. Tôi chẳng còn biết nó viết về điều gì nữa: stat rosa pristina nomina, nomina nuda tenemus, bông hồng xa xưa còn tồn tại nhờ cái tên, và chúng tôi chỉ giữ lại mỗi một cái tên thôi.
Chú thích :
[1] Một loại bài thơ nếu ghép các mẫu tự đầu hay cuối của các dòng thơ lại sẽ có một từ hay một danh ngôn.
[2] O quam salubre, quam iucundum et suave est sedere in solitudine et tacere et loqui cum Deo.
HẾT