Đọc truyện Tế Thế – Chương 33: Phần II: Tận thế – Kiếp nạn chưa từng có 1
Lúc gặp lại Lữ Hằng, y đang thuê âu phục ở tiệm áo cưới. Âu phục màu đen thẳng thớm, vai rộng eo thon, chân dài mông cong, diện mạo nom từ xa rất bất phàm, nhìn gần lại cảm thấy tao nhã, dáng vẻ tự tin hơn một chút so với lúc mới gặp.
Ôn Cố đang định vào thì trông thấy một thanh niên khác ra khỏi phòng thử đồ, dung mạo thanh tú xinh đẹp như tranh vẽ. So với người này, quần áo lộng lẫy trưng bày khắp nơi chỉ như nhà tranh vách lá, duy nhất mình hắn tỏa sáng.
Thanh niên cũng mặc âu phục đen cùng kiểu dáng, nhưng có thêm đường viền chỉ bạc trên cổ và tay áo, càng làm tôn thêm vẻ sang trọng.
Hai người dựa đầu vào nhau khẽ thì thầm. Khi nói chuyện, thanh niên thích nghiêng đầu quan sát vẻ mặt của Lữ Hằng, mỗi lúc như thế, Lữ Hằng sẽ cúi đầu, nghiêng tai lắng nghe, mãi tới khi thanh niên dời ánh mắt mới ngửa đầu nhìn hắn. Ôn Cố không hiểu ánh mắt ấy, chỉ biết từng bắt gặp trong mắt Trọng Thế Hoàng.
Lữ Hằng đưa Thịnh Văn Chiêu lên xe, vừa ngoảnh lại thì trông thấy Ôn Cố đứng cách đó không xa đang mỉm cười nhìn y.
“Ôn tiên hữu!” Lữ Hằng mừng rỡ.
Ôn Cố quýnh lên: “Ta tự là Tri Tân, nếu ngươi không chê, cứ gọi ta Tri Tân được rồi.”
Lữ Hằng nói: “Ta không có tên tự, chỉ có một đạo hiệu là Vĩnh Tâm.”
“Đạo hiệu của ta là Ký Tế.”
Lữ Hằng nói: “Lấy quẻ tượng làm hiệu cũng rất độc đáo.”
Ôn Cố: “Nước đầy thì tràn, trăng tròn ắt khuyết. Sư phụ sợ ta tự cho mình có công rồi kiêu ngạo.”
Lữ Hằng nói: “Quẻ Ký Tế, thượng khảm hạ ly. Khảm là nước, ly là lửa. Lửa nấu nước sôi, nấu nướng đã chín. Lửa cháy lan ra có nước dập, tai họa đã diệt. Mặc dù quẻ này mang hàm ý nhắc nhở, cảnh báo về những biến cố phải lo lắng và nhiều gian nan khổ cực hơn trong tương lai, nhưng Tri Tân làm người ổn trọng, làm việc cẩn thận, không cần thiết phức tạp lên làm gì.”
Ôn Cố nhớ tới câu “Hôm nay gieo gió, ngày khác gặt bão” của Bạch Tu Đại Tiên, không khỏi cười khổ.
Hai người mới quen mà đã như thân thiết lắm, mới một lát đã chẳng khác gì bạn bè lâu năm.
Ôn Cố thuận miệng hỏi về thanh niên nọ, vẻ mặt Lữ Hằng trở nên khác thường, sau một lúc mới đáp: “Hắn tên là Thịnh Văn Chiêu, là tiểu sư đệ của ta chuyển thế. Ngày mai hắn kết hôn, ta là phù rể.”
Rõ ràng y vừa nói vừa cười nhưng Ôn Cố nghe lại thấy khó chịu.
Lữ Hằng trở lại tiệm áo cưới, đeo cái túi to tám tấc, cẩn thận xách tây trang của chú rể và phù rể lên, vừa lục tìm chìa khóa trong túi quần vừa đi đến bãi đậu xe lấy xe.
Ôn Cố nhìn y, từ ngoại hình không thấy y khác người phàm chỗ nào: “Sao không bỏ vào túi Càn Khôn?”
Lữ Hằng cười rộ lên: “Người phàm thì lấy đâu ra túi Càn Khôn?”
Trong lòng Ôn Cố hơi dao động, chợt dừng cước bộ.
Lữ Hằng đi được ba bốn bước thì dừng lại nhìn cậu: “Tri Tân?”
Ôn Cố nhớ lại những ngày từng trải qua với Trọng Thế Hoàng, không một ngày nào cậu thoát khỏi thân phận thần tiên, bỗng dưng thấy xấu hổ. “Ta không bằng ngươi.”
Lữ Hằng cười nói: “Ngươi gia nhập thương thiên nha mới bao lâu, còn ta thì bao lâu rồi? Lần đầu tiên nhận nhiệm vụ ta cũng luống cuống hết cả lên, gây ra đủ chuyện hài hước, chắc chắn không được như ngươi.”
Ôn Cố nghĩ thầm: Cho dù có một ngày, mình cũng có thể thản nhiên ứng đối tại phàm thế giống Lữ Hằng thì người đối diện cũng không phải Trọng Thế Hoàng.
Hai người đến bãi đậu xe.
Lữ Hằng đi lướt qua từng chiếc xe sang trọng, dừng trước một chiếc xe tải màu trắng rỉ sét bị lõm ở một bên đuôi xe, thoáng cái biến thành tài xế nhân loại: “Đây là xe của công ty ta, ta là người giao hàng đường dài.”
Ôn Cố: “…” Nghe ra tự hào trong lời y, Ôn Cố cảm thấy mình nhất định đang nằm mơ.
Lữ Hằng giúp cậu mở rồi đóng cửa xe, sau đó bước lên khởi động, lại hỏi: “Có nóng không? Mở điều hòa nhé.”
Tuy trời nắng rất gắt, nhưng… họ là thần tiên mà ta?
Ôn Cố chưa kịp trả lời, Lữ Hằng đã mở điều hòa, tiếng vù vù vang lên như quạt gió.
Lữ Hằng vỗ vỗ bảng điều khiển điều hòa: “Tiếng điều hòa hơi ồn, lúc về ta phải báo với công ty cho họ sửa lại, không thì không chịu nổi đến mùa hè.”
Ôn Cố kinh ngạc: “Nghe đại tiên nói, ngươi chỉ còn một bước nữa là hoàn thành nhiệm vụ à?”
Lữ Hằng ngẩn người, cười ngượng ngùng: “Nói cũng phải, nếu sư đệ có thể cùng Tưởng cô nương nối lại lương duyên, ta cũng cảm thấy mỹ mãn.”
…
Ôn Cố hổ thẹn: “Ta là đại đệ tử của sư phụ, trước khi gặp ngươi, luôn tự nhủ phải cần cù chăm chỉ, cũng xem như khá xứng chức. Nhưng so với ngươi, ta quả thực không đáng một đồng.”
Tay vặn chìa khóa của Lữ Hằng chợt ngừng lại, tiếng máy xe ầm ĩ át đi tiếng thở dài nhỏ tới mức không thể nghe thấy: “Là ta nợ hắn.”
Xe chạy đến trước một nhà hàng ba sao, Lữ Hằng lên lầu xác minh lần cuối về bữa tiệc ngày mai với quản lý nhà hàng. Ôn Cố ngồi đợi dưới lầu, một tiếng sau mới thấy y xách hai cái cà mèn đi xuống, lúc lên xe đưa một cái cho Ôn Cố.
Lữ Hằng nói: “Cơm chiên ba màu (1) ở đây ăn ngon lắm. Nếm thử xem!”
Không nỡ chối từ ý tốt, Ôn Cố xúc hai miếng.
Lữ Hằng thấy cậu chưa ăn hết, hai ba miếng dứt khoát ăn sạch chỗ còn dư lại, ăn xong thì lau miệng, nói: “Ngon thật, đúng là tiền nào của nấy.”
Ôn Cố: “…”
Lữ Hằng quăng hộp thức ăn vào thùng rác, đoạn tiện tay tiếp điện thoại, vui mừng nhướn mày: “Cám ơn lão tổng, tôi đi, đi ngay đây! Để tôi mang xe đi rửa, dạ đúng, bôi thêm một lớp sáp nữa. Dĩ nhiên không thể để ngài trả rồi, tiền quét sơn cứ để tôi lo.” Y cúp máy rồi nói tiếp, “Ông chủ đồng ý cho ta mượn xe, giờ ta đi lấy. Mai là ngày vui, không có xe đón tân nương coi sao được.”
Ôn Cố cùng y đi mở mang kiến thức về xe xịn, nhân tiện tham quan bãi đậu xe trong cao ốc của Lữ Hằng một chút. Bãi đậu xe rất tối, lúc đi vào còn ngửi thấy một mùi ẩm thấp. Xe của ông chủ Lữ Hằng đậu tuốt bên trong cùng, tại một vị trí hình tam giác rất kỳ cục.
Lữ Hằng bảo: “Chỗ đậu xe này rẻ hơn mấy chỗ khác.”
Ôn Cố cơ bản đã hiểu rõ tính cách của vị ông chủ này.
Kỹ thuật lái xe của Lữ Hằng rất bình thường, xoay ba lần mới lấy được xe ra. Ôn Cố muốn hỏi vì sao không dùng tiên thuật, lập tức cảm thấy mình suy nghĩ thế này giống y như học sinh gian lận trong kỳ thi.
Lữ Hằng lái xe ra khỏi bãi đậu, trông nó giống hệt một chú chó con mới lăn lê cả ngày trong bùn ngu ngơ ra đứng dưới ánh mặt trời — xấu đến ma chê quỷ hờn. Nhưng nó cũng có ưu điểm, tỷ như, tiếng điều hòa rất nhỏ.
Lữ Hằng đưa xe đi rửa, bôi sáp. Hơn một tiếng sau, một chiếc xe sáng long lanh xuất hiện trước mắt.
Ôn Cố thấy nó có hơi giống xe trong ga–ra của Trọng Thế Hoàng.
Lữ Hằng hào hứng gọi điện cho Thịnh Văn Chiêu, vỗ ngực cam đoan xe rước dâu ngày mai sẽ rất uy phong. Ôn Cố không biết đối phương trả lời thế nào, chỉ biết lúc Lữ Hằng cúp máy, nụ cười trở nên nhạt nhẽo hơn nhiều.
Bận rộn cả nửa ngày, Lữ Hằng nhận ra mình vẫn chưa đưa “khách” đi tham quan một cách đàng hoàng, liền bảo: “Ta dẫn ngươi đi ăn buffet rồi sau đó đi hát.”
Ôn Cố: “Đi đâu cũng được.”
Nụ cười của Lữ Hằng có phần chỉ là ngoài mặt, mỗi lần nói chuyện, Ôn Cố đều kéo y từ vai trò người phàm về vị thế thần tiên.
Buổi chiều của Lữ Hằng và Ôn Cố trôi qua rất phong phú.
Lữ Hằng chỉ vùi đầu lo ăn và ca hát, Ôn Cố đi theo y. Sau đó, Lữ Hằng uống chút rượu, say túy lúy.
Nếu một thần tiên không muốn say, thì có đổ toàn bộ rượu trên thế giới vào bụng cũng không say được. Lữ Hằng say là bởi y muốn say.
Y say rồi thì không nói gì nữa, chỉ ôm chân Ôn Cố khóc rống lên. Ôn Cố giựt chân ra mấy lần mà không được, đành mặc y.
Trận khóc này kéo dài cả đêm.
Rạng sáng, Lữ Hằng tỉnh lại, nhìn Ôn Cố đang nghiên cứu ca khúc, đột nhiên quát to: “Giờ là mấy giờ rồi?”
“5h35″.” Ôn Cố đáp.
Lữ Hằng cuống quýt bò dậy: “Phải đi đón tân nương.”
Ôn Cố: “Ta đi với ngươi.”
Lữ Hằng lau mặt, uống một hơi hết ly nước chanh trên bàn: “Không cần, ngươi ngủ một lát nữa đi, đến trưa tổ chức tiệc ta tới đón ngươi sau.”
Ôn Cố vẫn tràn đầy sức sống: “…”
Lữ Hằng ra tới cửa, chợt nói: “Hay để ta cho ngươi biết địa chỉ, đến giờ ngươi tự gọi xe tới?”
Ôn Cố gật đầu.
Lữ Hằng viết địa chỉ cho cậu.
Ôn Cố nhớ kỹ trong đầu.
Lữ Hằng vừa đi khỏi, ghế lô trở nên vô cùng yên tĩnh.
Ôn Cố không có việc gì làm, cũng không hứng thú với bài hát, bỗng dưng thấy hâm mộ Lữ Hằng luôn bận rộn. Người cũng tốt, thần tiên cũng tốt, có mục tiêu thì cuộc sống mới phong phú được. Cứ trông Lữ Hằng hiện tại thì biết, so với Lữ Hằng lúc mới gặp lần đầu, quả thực là hai người khác nhau. Y lúc ấy kín đáo, ngượng ngùng; hiện tại lại nhiệt tình, sáng sủa. Cậu cảm thấy đối với Lữ Hằng, có lẽ nhân gian còn có ý nghĩa hơn tiên giới, có thể càng buông thả bản thân và tận hưởng nhiều niềm vui hơn.
Lúc này, cậu không khỏi nhớ tới Trọng Thế Hoàng.
Không biết sau khi thành tiên, Trọng Thế Hoàng có giống Lữ Hằng thích nhân gian hơn hay không?
Cậu dựa vào sô pha chợp mắt một lát, gần giữa trưa mới ra ngoài tính tiền thì được biết bạn cậu đã trả tiền rồi.
Ra khỏi KTV, cậu gọi xe đến nhà hàng, vừa vào cửa thì trông thấy Lữ Hằng đứng sau Thịnh Văn Chiêu như theo đuôi. Trên bảng giới thiệu viết tên cô dâu là Tưởng Vũ Hinh, một cô gái xinh đẹp khả ái. Nhưng Ôn Cố cảm thấy cô có điểm gì đó không đúng, ánh mắt rất đờ đẫn, thiếu sức sống.
Lữ Hằng thấy cậu tới thì vui vẻ chạy qua chào hỏi.
Tầm mắt Thịnh Văn Chiêu bám theo bóng dáng y lại khiến Ôn Cố không thoải mái lắm.
Lữ Hằng vỗ vai Ôn Cố, dè dặt ghé sát vào tai cậu.
Ôn Cố cho rằng y muốn nói chuyện quan trọng gì, tức khắc bày thế trận chờ quân địch.
Y nói: “Ta cố ý để phần cho ngươi nửa chén cơm chiên ba màu đó.”
Ôn Cố: “…”
Khách khứa đến không nhiều lắm, tổng cộng chỉ có chín bàn, ba ngang ba dọc, nhưng mãi vẫn chưa ngồi đầy. Ôn Cố được dẫn tới ngồi ở giữa, mà mấy bàn chung quanh cùng lắm chỉ có ba bốn người ngồi.
Đúng 12h, cô dâu chú rể sánh vai nhau đến trước cửa sảnh tiệc, đối diện với khách mời, chậm rãi đi qua cổng vòm hình cầu.
Lữ Hằng đứng cạnh Ôn Cố vỗ tay thật lớn.
Ôn Cố ngẩng đầu, nhìn thấy thương tâm và xúc động ẩn chứa trong ánh mắt vui sướng ấy.
Bàn rượu chặn đường đi của cô dâu chú rể nên hai người đứng ngoài chỗ ngồi của khách, người chứng hôn hỏi: “Thịnh Văn Chiêu, con có bằng lòng lấy tiểu thư Tưởng Vũ Hinh làm vợ, cho dù phú quý hay nghèo hèn, khi đau yếu cũng như lúc mạnh khỏe, cũng sẽ vĩnh viễn yêu thương và tôn trọng cô ấy không?”
Thịnh Văn Chiêu không trả lời ngay mà nhìn về phía Lữ Hằng.
Lữ Hằng chờ mong tiến lên nửa bước, dùng khẩu hình nói “Con bằng lòng”.
Thịnh Văn Chiêu bỗng nở nụ cười, sắc mặt âm trầm như giăng đầy mây đen: “Sư huynh…”
Lữ Hằng chấn động cả người.
“Ngươi cho rằng kiếp này ta thuận lợi kết hôn là có thể xóa bỏ tội ác kiếp trước của ngươi sao?” Thịnh Văn Chiêu vừa dứt lời, khung cảnh trong bữa tiệc liền thay đổi.
Ôn Cố và Lữ Hằng bị nhốt trong Cửu Cung trận!
Trong trận mịt mù tăm tối, tràn đầy ma khí.
Thịnh Văn Chiêu và Tưởng Vũ Hinh đứng ngoài trận, một người mặt như sương lạnh, người kia không chút biểu cảm.
Lữ Hằng thay đổi sắc mặt: “Ngươi không uống canh Mạnh Bà?”
Thịnh Văn Chiêu nói: “Uống nửa chén. Từ nhỏ ta đã bị đủ loại mộng cảnh khốn nhiễu, có mộng đẹp, mơ thấy hình ảnh sư huynh trước kia chăm sóc quý trọng ta, cũng có ác mộng, sư huynh muốn biết ác mộng của ta là gì không?”
Lữ Hằng thấp giọng nói: “Xin lỗi.”
“Một câu xin lỗi là có thể xóa bỏ ác nghiệp năm đó của ngươi sao? Ngươi có nhớ đã ra tay tàn sát thế nào trong tiệc cưới của ta hay không, giết thê tử của ta, giết khách khứa? Còn giết cả ta?!” Hắn gào lên.
Lữ Hằng đau đớn cúi đầu.
Ôn Cố độ một đạo tiên khí cho y, giúp y ổn định tâm thần.
“Ác nhân như ngươi sao lại có tư cách thành tiên?” Sắc mặt Thịnh Văn Chiêu hơi vặn vẹo, “Cái này gọi là thiên đạo sao? Ta thấy căn bản là nói hưu nói vượn! Nếu thiên đạo không thu ngươi, hôm nay để ta đến thu ngươi.”
Tám ô xung quanh Cửu Cung trận đột nhiên chuyển động cực kỳ nhanh, mang theo gió mạnh như dao sắc!
Lữ Hằng thất thần, đưa người về lưỡi dao.
Ôn Cố đành phải một tay giữ chặt y, tay kia rút Mộ Hải Thương Nguyệt Kiếm ra, lạnh lùng nhìn về hướng Thịnh Văn Chiêu, bay vút lên cao rồi đánh xuống!
Một chiêu kiếm tiên, lay động Cửu Châu.
Cả mặt đất như bị một đường kiếm quang hung hãn chia làm hai nửa.
Cửu Cung trận bị phá trong nháy mắt, bọn họ trở lại sảnh tiệc. Khách khứa vẫn ở đó, nhưng y như tượng gỗ không hề nhúc nhích.
Thịnh Văn Chiêu ngẩn người, mạnh mẽ bảo vệ Tưởng Vũ Hinh trong lòng, dùng lưng che chắn.
“Không cần!” Lữ Hằng còn nhanh hơn hắn. Y mở rộng hai tay, che trước mặt Thịnh Văn Chiêu.
Ôn Cố thu kiếm, đang muốn nói chuyện thì nghe Lữ Hằng thét lớn một tiếng, một thanh chủy thủ đâm xuyên qua ngực y. Lữ Hằng bị đâm nhưng không giận, ngược lại còn xoay người đẩy Thịnh Văn Chiêu: “Đi mau!”
Thịnh Văn Chiêu kinh ngạc nhìn y. Trước mắt xẹt qua tình cảnh gần ngàn năm.
Bản thân năm tuổi nhập môn, thỉnh thoảng đái dầm, sáng sớm xấu hổ trốn trong ổ chăn khóc, là nam nhân sau này giết mình và thê tử lén lút giúp mình giặt sàng đan.
Thiên phú của mình không đủ, không học được pháp thuật, là nam nhân sau này giết mình và thê tử hi sinh thời gian giúp mình tu luyện, cầm tay chỉ bảo mình.
Mình bị đồng môn khi dễ, lại là nam nhân sau này giết mình và thê tử ra mặt giáo huấn những kẻ khác một trận.
…
Bọn họ có nhiều kỷ niệm đẹp đến thế, vì sao cuối cùng lại biến thành như vậy.
“Đi đi!” Lữ Hằng thấy hắn bất động, dứt khoát dùng mây tống hắn và Tưởng Vũ Hinh ra ngoài. Y nhìn theo hướng hai người bỏ đi, mãi tới khi không thấy nữa mới chậm rãi thở hổn hển, quỳ rạp xuống đất.
Nếu Lữ Hằng đưa hắn đi, Ôn Cố tất nhiên sẽ không truy đuổi, thở dài ngồi xổm bên cạnh y: “Cần gì phải thế?”
“Ta nợ hắn.”
“… Ý ta là, ngươi là thần tiên, thương tích này nọ chắc không ảnh hưởng gì đâu nhỉ?”
Lữ Hằng nâng mắt, cười khổ: “Không, rất ảnh hưởng. Ta cảm giác như bị… ma khí xâm nhập.”
“Cái gì?” Ôn Cố hoảng hốt.
Cậu giải trừ trạng thái định thân cho khách mời và người chứng hôn, nâng Lữ Hằng dậy, nhảy lên mây mù bay về Thiên cung.
Thiên cung vắng lặng, dọc đường đi, nửa bóng tiên cũng không thấy. Mắt thấy Lữ Hằng ngày càng suy yếu, cậu sốt ruột đến độ bốc hỏa trong lòng. Hiện tại ngẫm lại, Bạch Tu Đại Tiên nhất định là đã tính đến khả năng Lữ Hằng gặp nguy hiểm, nên mới bảo mình đi đón y, nhưng không ngờ lại không thể gánh nổi kết quả.
Cậu có chút ảo não, sớm biết vậy thì không nên vì Lữ Hằng dành tình cảm đặc biệt cho Thịnh Văn Chiêu mà thủ hạ lưu tình với hắn.
Bọn họ đến chỗ Đổng Hi ở Tiên điện, nhưng chỉ tìm thấy một tờ giấy vẽ đường đi tới nơi nào đó trong Thiên cung. Ôn Cố cầm bản đồ mà không có chút ý tưởng nào, cõng Lữ Hằng đã hôn mê chạy vội đi.
Đến nơi, hóa ra là một suối tiên đang tỏa hơi nóng. Phân thân của Bạch Tu Đại Tiên cười mỉm đứng bên bờ suối, thấy họ còn vẫy vẫy tay: “Đây là suối Minh Kính có thể gột rửa ma khí, tu dưỡng tiên thể.”
Ôn Cố không nói hai lời, ném người vào.
Phân thân của Bạch Tu Đại Tiên: “… Tốt xấu gì cũng cho hắn thở một hơi đã chứ.”
Ôn Cố cũng nhảy xuống vớt Lữ Hằng lên, đỡ đầu y.
Bạch Tu Đại Tiên nói: “Ngươi cũng tĩnh dưỡng ở đây đi.”
Ôn Cố kinh ngạc: “Sao ngài biết ta cũng bị tâm ma quấy nhiễu?”
Bạch Tu Đại Tiên nghi hoặc: “Ngươi bị tâm ma quấy nhiễu?”
Ôn Cố do dự một lát, cảm thấy không nên giấu bệnh sợ thầy, liền kể lại ngày ấy Trọng Thế Hoàng nói ghê tởm mình.
Bạch Tu Đại Tiên nghe xong, vẻ mặt cổ quái.
“Tâm ma của ta nghiêm trọng lắm à?” Cậu hỏi.
Bạch Tu Đại Tiên hồi lâu mới nói: “Có một loại cảm xúc gọi là đau lòng, cũng không có gì nghiêm trọng. Nếu khó chịu quá thì cứ khóc một trận là qua ấy mà.”
Ôn Cố: “…”
Bạch Tu Đại Tiên bảo: “Nếu Lữ Hằng tỉnh lại, ngươi cũng nói với hắn như thế.”
Ôn Cố: “Thịnh Văn Chiêu rốt cuộc là loại người nào? Vì sao hắn có thể bày bố Cửu Cung trận đả thương Lữ Hằng?” Nhìn kiểu gì cũng thấy hắn chỉ là một người phàm mà thôi.
Bạch Tu Đại Tiên đáp: “Kiếp trước Thịnh Văn Chiêu tên là Thịnh Tử Hoài, cũng là tu chân giả. Lúc đi qua cầu Nại Hà, hắn chỉ uống nửa chén canh Mạnh Bà, đến kiếp này thì dần dần nhớ lại chuyện xưa nên cũng tu luyện một ít công pháp. Không phải người bình thường.”
Ôn Cố cảm thấy ông chưa nói hết.
“Cửu Cung trận không phải hắn thiết lập, cũng không phải hắn làm bị thương Lữ Hằng mà là thanh chủy thủ kia. Thanh chủy thủ ấy tên là Lương Lục.”
Ôn Cố thầm chấn động. Cậu đương nhiên từng nghe qua Lương Lục, vô số tu chân giả đã chết dưới lưỡi kiếm của nó. Nó có hai đặc điểm, một là tốc độ cực nhanh, không thể nào trốn tránh; hai là ma khí cực thịnh, khó có thể phản kháng.
Bạch Tu Đại Tiên: “Chắc giờ ngươi đã biết hắn có thể sống là chuyện may mắn cỡ nào rồi chứ.”
Ôn Cố: “Hắn lấy được chủy thủ từ đâu? Cửu Cung trận do ai bày ra?”
Bạch Tu Đại Tiên ném cho cậu một quyển trục: “Luyên thuyên nhiều quá! Dư hơi kiêng dè người ngoài, chi bằng tự lo bản thân cho tốt đi. Ngươi mất một hồn một phách, không thể thăng cấp thành tiên hồn. Nếu một ngày bị người dùng hồn khí đối phó, chỉ sợ ngươi không chịu nổi một cú, còn không mau nhân cơ hội này tu luyện hồn pháp cho thuần thục đi.”
“Đại tiên.”
“Còn chuyện gì?”
“Tại sao tiên giới vắng vẻ vậy?”
Bạch Tu Đại Tiên nói: “Nếu ngươi muốn biết, vậy tu luyện cho tốt đi.”
Ôn Cố thấy sắc mặt ông không vui, không dám hỏi lại.
Nhưng cậu nào biết, một lần tu luyện này kéo dài suốt ba năm.
Trong ba năm này, ma khí trên người Lữ Hằng đã tẩy được bảy tám phần, hồn thuật của Ôn Cố cũng có tiến triển, hồn phách rời khỏi thân thể miễn cưỡng cũng ngăn chặn được ba mươi chiêu của Lữ Hằng.
Đến năm thứ tư, phân thân của Bạch Tu Đại Tiên xuất hiện một lần nữa, mái tóc dài óng ả phóng khoáng trở nên khô héo rối bù, không chỉ vậy, ngay cả sắc mặt cũng vô cùng u ám.
Ôn Cố giật mình: “Đại tiên, ngài không sao chứ?”
Bạch Tu Đại Tiên cười khổ: “Gặp chuyện rồi, tất cả mọi người gặp chuyện rồi.”
“Rốt cuộc là chuyện gì?”
Bạch Tu Đại Tiên trả lời: “Thế gian đang trải qua đại kiếp nạn trước nay chưa từng có.”