Tay súng cuối cùng

Chương 04- P01


Bạn đang đọc Tay súng cuối cùng: Chương 04- P01


 Vẫn mặc nguyên bộ quần áo bệnh nhân màu xanh của bệnh viện. Web xách túi đồ cá nhân của mình và ngước nhìn bầu trời đầy nắng rực rỡ tràn ngập cửa sổ buồng bệnh. Những lớp gạc quanh bàn tay bị thương của anh thật vướng víu và khó chịu; anh có cảm giác như đang mang một chiếc găng tay quyền Anh ngoại cỡ.
Anh đang chuẩn bị bước tới mở cửa để ra ngoài thì cánh cửa tự bật mở; ít nhất đó cũng là điều Web nghĩ cho đến khi có một người đàn ông xuất hiện.
“Cậu làm gì ở đây, Romano?” Web thốt lên ngạc nhiên.
Người đàn ông không nhận ra ngay Web. Anh ta chỉ cao khoảng lm80, vóc người lực lưỡng. Anh chàng tóc đen xoăn tít này mặc một chiếc áo khoác da cũ kỹ, quần jeans, và đội một chiếc mũ lưỡi trai của đội bóng chày Yankees trên đầu. Tấm phù hiệu FBI được cài ở thắt lưng; báng một khẩu súng ngắn thò ra khỏi bao kẹp ở nách.
Romano nhìn Web từ đầu xuống chân, ánh mắt anh ta dừng lại ở bàn tay bị thương của Web. Anh ta chỉ vào vết thương. “Đấy à? Vết thương khốn kiếp của cậu đấy à?” Web nhìn tay mình rồi nhìn lại Romano. “Chẳng lẽ cậu sẽ hạnh phúc hơn nếu vết đạn này nằm ở đầu tớ sao?”
Paul Romano cũng là một thành viên đội đột kích Hotel. Anh chàng là một trong những người mạnh mẽ, liều lĩnh nhất và bao giờ bạn cũng biết mình đang ở một nơi nguy hiểm không hứa hẹn điều gì tốt lành nếu thấy anh ta có mặt. Romano và Web chưa bao giờ thực sự thân thiết mà theo Web thì chủ yếu là vì Web đã bị thương nhiều hơn anh ta, và Romano rất lấy làm cay cú với ý nghĩ rằng Web anh hùng và dũng cảm hơn anh ta.
“Tôi chỉ hỏi cậu một lần thôi, Web, và tôi muốn hỏi toạc móng heo. Cậu mà nói dối thì biết tay tôi đấy.”
Web cúi xuống nhìn Romano và bước lại gần anh ta thêm một chút chỉ để nhấn mạnh thêm sự chênh lệch chiều cao giữa hai người. Anh biết chắc làm như thế càng khiến Romano tức tối thêm. “Được rồi. Paulie – cậu mang kẹo và hoa ình đấy à?”
“Hãy nói thật với tôi xem nào Web.” Anh ta ngập ngừng một lát tôi nói tiếp, “Anh đã bỏ chạy à?”
“Ừ, Paulie ạ, mấy khẩu súng đó bắn rát rạt luôn.”
“Tôi biết rồi. Ý tôi muốn nói là trước đó kia. Khi đội Charlie ngã xuống ấy. Anh không lao lên cùng với họ. Tại sao?”
Web cảm thấy mặt nóng ran và anh căm ghét bản thân vì điều đó. Thường thì chẳng mấy khi Romano làm anh bận tâm. Nhưng sự thật là Web không biết phải trả lời anh ta như thế nào.

“Có chuyện gì đó đã xảy ra trong đầu tớ! Paulie ạ. Tớ cũng không biết chính xác là điều gì nữa. Nhưng tớ chẳng liên quan gì đến vụ phục kích này hết, trong trường hợp cậu đã phát điên và đang nghi ngờ tớ.”
Romano lắc đầu. “Tôi không nghĩ cậu đã trở thành kẻ phản bội, Web ạ, nhưng cậu đã trở nên hèn nhát.”
“Nếu như cậu đến chỉ để nói với tớ chuyện đó thì biến mẹ cậu đi cho rảnh.”
Romano lại nhìn anh từ đầu đến chân và với ánh mắt khinh bỉ của anh ta. Web lại thấy mình như không còn là người nữa. Không thèm nói một lời, Romano quay người bỏ đi. Có lẽ Web sẽ hài lòng hơn nếu trước khi đi anh ta bỏ lại một câu xúc phạm gì đó còn hơn là im lặng như vậy.
Web đứng chờ thêm vài phút cho anh ta đi hẳn rồi ra mở cửa.
“Anh đang làm gì vậy?” người gác cửa ngạc nhiên hỏi.
“Bác sĩ cho tôi ra viện rồi mà, chưa ai bảo anh à?”
“Chẳng ai nói gì với tôi cả.”
Web chìa bàn tay băng kín mít của mình lên. “Chính phủ sẽ không trả tiền thêm một đêm nữa ột bàn tay bị trầy xước qua loa thế này đâu. Và tất nhiên là tôi chẳng việc mẹ gì mà bỏ tiền túi ra làm gì.”
Web không biết người dùng gác, nhưng có vẻ như anh ta là loại người biết thông cảm với một đề nghị hợp tình hợp lý.
Không đợi anh ta trả lời. Web cứ thế bước đi. Anh biết người lính gác không có lý do gì mà ngăn trở mình. Tất cả những gì anh ta có thể làm là liên lạc với cấp trên để báo cáo về động thái này. Gì chứ việc ấy thì chẳng cần nhắc chắc anh ta cũng đang thực hiện rồi.
Web ra khỏi bệnh viện qua một lối đi ở bên, anh tìm một chiếc bốt điện thoại công cộng, gọi ột người bạn, và một giờ sau anh đã ở trong trang trại cũ kỹ của mình ở một khu ngoại ô yên tĩnh của Woodbridge, Virginia. Anh thay đồ jeans, đi giày, mặc một chiếc áo len chui cổ màu xanh hải quân, tháo bỏ những chiếc gạc và thay bằng một lớp băng mỏng. Anh không muốn nhận sự thương hại của bất kỳ ai, nhất là khi sáu người bạn thân nhất của anh giờ đang nằm trong nhà xác.
Anh kiểm tra tin nhắn. Không có gì nghiêm trọng, nhưng anh biết điều đó sẽ thay đổi sớm thôi. Anh mở một chiếc hộp trên mặt lò sưởi lấy ra khẩu chín ly dự phòng và đút vào trong bao súng ở thắt lưng. Mặc dù về mặt kỹ thuật mà nói thì đêm qua anh không bắn ai. Nhưng đây vẫn là một vấn đề của SRB – Shooting Review Board – tức Ban Kiểm Tra Súng; vì trong thực tế là anh đã sử dụng vũ khí của mình. Họ đã tịch thu toàn bộ súng của Web, như thế khác nào chặt tay anh đi. Sau đó họ còn khuyên bảo anh về những quyền lợi của mình và đã lấy lời khai. Tất cả chỉ là thủ tục, là quy định của ngành, nhưng vẫn khiến anh có cảm giác mình đang bị coi là một tên tội phạm. Kệ xác họ, anh sẽ không đi đâu hết nếu không có đồ lận lưng. Nếu như bản chất anh đã là người hoang tưởng thì vụ thảm sát của sáu người đồng đội đêm qua càng biến anh thành một người loạn tinh thần, thậm chí chỉ cần nhìn trẻ con và đàn bà cũng thấy giật mình, cảnh giác.

Anh ra giữa, khởi động chiếc Ford Mach One đời 1978 màu đen chì và lái ra ngoài.
Web có hai chiếc xe: chiếc Mach này và một chiếc Suburban cổ lỗ sĩ nhưng nồi đồng cối đá, đã từng đưa anh và cả đội Charlie của mình đi xem những trận bóng bầu dục của đội Redskin, tới những bãi biển của Virginia và Maryland, đi bia bọt đâu đó và biết bao lần cắm trại hay dã ngoại dọc bờ biển Đông. Mỗi người trong nhóm đều có chỗ ngồi mặc định trong chiếc Suburban, căn cứ vào khả năng và tuổi tác, đúng theo cách phân chia thứ bậc trong ngành của Web. Họ đã có biết bao kỳ niệm đẹp với chiếc xe to bự đó. Giờ thì Web tự hỏi anh sẽ bán chiếc Suburban với giá thế nào cho phù hợp, vì anh không thể nào có tâm trạng ngồi vào nó được nữa.
Anh lái xe theo đường cao tốc liên bang số 95, hướng về phía bắc và cố luồn lách qua chặng đường nhọc nhằn là giao lộ Springfield. Giao điểm này có lẽ là tác phẩm của một kỹ sư cầu đường trong cơn phê thuốc. Giờ đây nó đang được nâng cấp toàn bộ, dự kiến sẽ hoàn thành trong khoảng mười năm nữa. Người nào mà vô phúc lái xe hàng ngày qua giao lộ này thì có nước là khóc đến méo mặt khi tốc độ dịch chuyển của giao thông vào buổi sáng được tính bằng cm. Web đi qua Cầu Phố 14, xuyên qua khu Tây Bắc của thành phố nơi có những công trình kỷ niệm và thắng cảnh thu hút khách du lịch chính, và cuối cùng là một khu ổ chuột nhếch nhác của thành phố.
Web là một đặc vụ FBI, nhưng trong thâm tâm anh không bao giờ nghĩ vậy. Đầu tiên và trên hết anh là một lính đặc nhiệm của đội Giải cứu con tin (HRT: Hostage Rescue Team), lực lượng phản ứng nhanh tinh nhuệ nhất của Cục. Anh không bao giờ phải mặc plet đi làm, cũng hiếm khi giao du với những đặc vụ khác ngoài HRT. Anh không xuất hiện tại hiện trường vụ án sau khi súng đã ngừng nhả đạn. Bao giờ anh cũng phải có mặt từ lúc xuất phát, tăng tốc, áp sát mục tiêu, nổ súng khống chế và nhiều khi còn phải giết người. Chỉ có tất cả 50 lính đặc nhiệm HRT cả thảy, vì quá trình chọn lọc và đào thải của công việc này vô cùng khắc nghiệt. Tuổi nghề trung bình ở HRT là năm năm. Web đã vượt quá quy định chung đó và sắp kỷ niệm tám năm công tác ở đội. Dường như đạo này HRT được huy động thường xuyên hơn, và phải có mặt ở các điểm nóng ở khắp nơi trên thế giới. Luật bất thành văn của HRT là phải có mặt ở hiện trường sau tối đa là bốn tiếng xuất phát từ Căn cứ Không quân Andrew. Có điều là tấm rèm sân khấu đã khép lại, vai diễn của Web trong vở này đã xong. Giờ thì anh chỉ còn bơ vơ một mình.
Web chưa bao giờ nghĩ rằng anh sẽ là người cuối cùng còn sống sót trong bất kỳ trường hợp nào. Điều đó có vẻ không phù hợp với bản chất của anh. Cả đội đều đã nói đùa về chuyện này, thậm chí còn đánh cuộc xem ai sẽ là người chết trước trong một đêm không trăng tối thui. Lúc nào Web cũng là người đứng đầu trong danh sách, bởi vì anh luôn là người đầu tiên đương đầu với mọi hiểm nguy. Giờ thì điều đó đang giày vò Web, anh vẫn không hiểu điều gì đã ngăn cản anh không nằm trong chiếc quan tài thứ bảy. Và tệ hơn cả cảm giác cắn rứt là nỗi nhục nhã.
Anh quặt chiếc Mach tấp vào lề đường và bước xuống xe chỗ có dải băng cấm đánh dấu hiện trường. Anh xuất trình chứng minh thư của mình cho những người lính gác, họ không giấu được vẻ sững sờ khi nhìn thấy anh. Web cúi đầu lặng lẽ bước nhanh vào con hẻm trước khi một biển phóng viên đông nghịt kịp vây chặt lấy anh. Sau khi vụ thảm sát xảy ra các đài truyền hình đã đóng quân tại khu vực này và truyền tin trực tiếp bằng những chiếc xe chuyên dụng có ăng ten vệ tinh cao vút. Web cũng đã nghe qua vài bài phản ánh khi còn trong bệnh viện. Thực ra giới truyền thông cũng chỉ nhai đi nhai lại với những sự kiện cũ rích, sứ dụng mấy hình ảnh và sơ đồ vô thưởng vô phạt với giọng điệu chắc như đinh đóng cột kiểu như “Đó là tất cả những gì chúng tôi biết tại thời điểm này. Nhưng hãy theo dõi sát sao chương trình, cam đoan là chúng tôi sẽ sớm có thêm thông tin giá trị, dù có phải dựa hoàn toàn vào sự phỏng đoán của mình. Hẹn gặp lại các bạn, phóng viên Sue phản ánh từ hiện trường”.
Web lặng lẽ đi về cuối hẻm.
Cơn bão đêm qua đã tan sâu vào Đại Tây Dương. Không khí sau bão trở nên mát mẻ hơn đôi chút. Vốn được xây dựng trên một đầm lầy, thủ đô Washington ứng phó với với điều kiện nóng ẩm tốt hơn là với giá lạnh và bão tuyết. Mỗi khi tuyết rơi thì đừng có mơ đến chuyện nhìn thấy một con đường nào được dọn tuyết chu đáo.
Đến giữa con hẻm thì anh gặp Bates. “Cậu làm cái quái gì ở đây vậy?” anh ta thốt lên.
“Anh đã nói là anh muốn tôi trình bày lại những gì đã xảy ra, vậy tôi đang ở đây thôi.” Bates liếc nhìn tay Web. “Bắt tay vào thôi, Perce. Mỗi phút đều giá trị.”
Xuất phát từ chính điểm chiếc Chevy Suburban đã thả họ xuống, Web bắt đầu đi lại hành trình của đội mình. Với mỗi bước chân tiến gần về phía mục tiêu, Web càng cảm thấy cơn giận dữ và tủi hổ của mình lớn dần lên. Những thi thể đã được dọn đi; nhưng vết máu thì không. Ngay cả trận mưa rào xối xả cũng không thể rửa sạch những vết máu đặc quánh. Trong tâm tưởng, Web hình dung lại tất cả những hành động mà anh đã thực hiện, những cảm xúc mà anh đã trải qua.
Một nhóm kỹ thuật viên đang tháo dỡ những ụ súng máy bị phá hủy, chốc chốc họ lại nhặt ra những mẩu hoặc mảnh vỡ nhỏ có thể dùng làm bằng chứng điều tra. Những người khác đang sục sạo khắp trên sân, người thì quỳ gối xuống sàn bê tông săm soi, người thì lom khom tìm kiếm nhặt nhạnh đủ thứ, hy vọng tìm ra được câu trả lời từ những vật linh tinh rải rác khắp sân. Web nhìn họ làm việc với ánh mắt hoài nghi. Gần như chắc chắn một trăm phần trăm là trên những mảnh vỡ và thân súng bị phá hủy còn lại kia sẽ chẳng có dấu vân tay nào hết. Kẻ đã sắp đặt vụ phục kích kỳ công đến dường này thì chắc hẳn phải là kẻ cực kỳ ranh ma và thận trọng.
Anh lặng lẽ bước qua những vũng máu như thể đang rón rén luồn lách giữa những ngôi mộ của đồng đội, mà thực ra cũng có khác gì đâu?

“Những ô cửa sổ này đã được sơn đen kịt để không ai có thể nhìn thấy những khẩu súng được bố trí trong này cho đến khi chúng bắt đầu nhả đạn. Không thể nhìn thấy ánh nắng phản xạ trên nòng súng, không gì sất”, Bates nhận xét.
“Thật vui khi biết chúng ta bị chơi bởi những tay chuyên nghiệp” Web cay đắng trả lời.
“Cậu làm ăn được đấy.” Bates chỉ vào một khẩu súng máy đã nát vụn.
“Khẩu SR75 nào cũng làm được như vậy thôi.”
“Đây là những khẩu súng máy loại mini, quân dụng, kiểu Gatling sáu nòng, gắn trên giá ba chân, chân đế súng được bắt vít xuống sàn nhà để cố định vị trí. Có cả hộp tiếp đạn và băng truyền đạn gắn kèm đây với 4000 viên mỗi khẩu. Tốc độ bắn được điều chỉnh cố định ở mức 400 phát/phút, mặc dù tốc độ bắn tối đa là 8000 phát/phút.”
“Bốn trăm là quá đủ rồi. Và có tám khẩu cả thảy. Có nghĩa là trong vòng sáu mươi giây có đến 3200 viên nã vào anh rồi. Tôi biết vậy vì có một viên nẩy ra cách tôi có vài phân.”
“Với tốc độ bắn chậm như vậy thì những khẩu súng này có thể bắn được lâu hơn.”
“Đúng thế.”
“Súng hoạt động bằng điện, còn đạn mà chúng sử dụng là đạn xuyên giáp.”
Web lắc đầu chán nản. “Các anh đã tìm thấy thiết bị khởi động chưa?”
Bates dẫn anh qua một tường gạch ở phía bên kia con hẻm mà Web vừa đi xuống. Đó là một tòa nhà đứng vuông góc với tòa nhà chung cư là mục tiêu ban đầu và chính là nơi đặt một nửa số súng máy đã hủy diệt đội Charlie, trừ Web. Ngay giữa ban ngày, cũng phải căng mắt mới nhìn rõ khu vực tối tăm này.
Web quỳ gối xuống và nhận ra cái mà anh nhìn thấy trước mặt là một thiết bị lade. Trên bức tường đã được đục sâu một ô để đặt đầu phóng lade và bộ phát điện. Ô gạch này được đục khá sâu nên sau khi đặt vào hầu như không thể nhìn thấy bộ phát điện được nữa. Những đội viên đội bắn tỉa không thể nào xác định được thiết bị này từ vị trí phục kích của mình, ngay cả khi họ chủ động tìm kiếm nó chăng nữa, hoặc nếu họ đã nhận được tin tình báo đề cập đến một thiết bị kiểu này. Đường chiếu của tia lade là ngang đầu gối và rõ ràng là tia sáng này đã chiếu qua khoảng sân sau khi được kích hoạt.
“Tia sáng bị gián đoạn, và thế là bộ phát điện tự động kích hoạt súng nổ, hết một băng đạn lại ngưng vài giây cho đến khi bắn hết sạch. Anh bàng hoàng nhìn xung quanh. “Thế chẳng may có chó hoặc mèo hoặc ai đó vô tình đi qua đây và chặn mất tia lade trước khi chúng ta đến thì sao?”
Vẻ mặt của Bates cho thấy anh ta cũng đã cân nhắc khả năng này rồi. “Tôi nghĩ người quanh đây thì kiểu gì cũng được cảnh báo kín đáo là tránh xa. Nhưng chó và mèo thì lại là chuyện khác. Do vậy tôi nghi là bộ phát tia lade kia được kích hoạt từ xa.”
Web đứng dậy. “Vậy là chúng đợi đến khi chúng ta gần vào đến nơi mới kích hoạt tia lade. Có nghĩa là kẻ đó phải ở gần đây.”

“Hừm, hắn nghe thấy các cậu đến, hoặc hắn được thông báo về điều đó. Hắn chờ cho đến khi các cậu rẽ qua ngõ phố rồi nhấn nút điều khiển từ xa trước khi cao chạy xa bay.”
“Chúng tôi không nhìn thấy mống nào trong sân cả, và kính nhìn đêm tầm nhiệt của tôi cũng không phát hiện ra nguồn nhiệt 37,5 độ C nào hết.”
“Có thể là chúng trốn trong tòa nhà mục tiêu, hay trong bất kỳ tòa nhà chết tiệt nào xung quanh đây. Chúng chỉ việc thò thiết bị điều khiển ra khỏi cửa sổ, nhấn nút và úm ba la biến.”
“Vậy mà đội bắn tỉa và đội Hotel không nhìn thấy gì?”
Bates lắc đầu. “Đội Hotel khẳng định họ chẳng trông thấy gì cho đến khi thằng bé mang mẩu giấy của cậu lại.”
Nghe nhắc đến đội Hotel, Web lại nhớ dấn Paul Romano và càng thêm chán nản. Có lẽ giờ này Romano đang ở Quantico ([15]) và bô bô với mọi người rằng Web đã lấy cớ là bị động kinh để bao biện cho sự hèn nhát của mình khiến cả đội thiệt mạng.
“Thế còn Whiskey? X quang? Họ phải nhìn thấy gì đó chứ,” Web nói, ám chỉ những tay súng bắn tỉa bố trí trên mái nhà.
“Họ nhìn thấy gì đó, nhưng hiện tại tôi không muốn nói đến chuyện này.”
Bản năng của Web cho anh biết là không nên đề cập thêm. Những tay bắn tỉa còn nói gì được nữa? Rằng họ nhìn thấy Web đã chùn tay để cả đội lao lên tấn công, rằng anh đã nằm úp mặt xuống đất khi cả đội bị quét rụng như lá? “Thế còn DEA ([16])? Họ ở cùng với đội Hotel mà. Ngoài ra họ còn có cả một đội dự phòng nữa.” Web và Bates nhìn nhau hồi lâu trong lặng lẽ, và cuối cùng Bates lắc đầu.
Xưa nay FBI và DEA vẫn luôn hục hặc. Theo suy nghĩ của Web thì DEA cũng giống như một cậu em trai nghịch ngợm thích đá chân anh mình cho đến khi ông anh tức quá ra tay thì cậu em lại bỏ chạy và kêu la ầm ĩ.
“Mẹ kiếp, tôi nghĩ chúng ta sẽ phải chấp nhận thực tế đó cho đến khi có gì mới mẻ,” Web cay đắng nhận xét.
“Có lẽ vậy. Lúc đó các cậu có ai mang khí tài nhìn đêm không?”
Ngay lập tức Web hiểu lôgic của câu hỏi này.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.