Bạn đang đọc Tay súng cuối cùng: Chương 19
Web lái chiếc Crown Vic dọc con phố mẹ anh từng sống trước kia. Đó là một khu dân cư tàn tạ, cũ kỹ, những tiềm năng ngày nào không bao giờ trở thành hiện thực, và sức sống đã từ bỏ khu này từ lâu. Mặc dù vậy, khu vực này, cách đây ba mươi năm còn bị coi là vừng nhà quê, vẫn nằm kẹt cứng giữa một vùng ngoại ô đông đúc, với diện tích đô thị mỗi ngày một nới rộng hơn, nơi những người làm công ăn lương thức dậy vào bốn giờ sáng hàng ngày để kịp đến văn phòng lúc tám giờ. Có lẽ chỉ cần dăm năm nữa, một công ty phát triển đô thị nào đó sẽ mua lại tất cả những ngôi nhà xập xệ này, ủi phẳng chúng đi để lấy mặt bằng xây dựng những khu nhà cao cấp mới từ đống tro tàn của quá khứ.
Web bước ra khỏi chiếc Crown Vic và nhìn quanh. Charlotte London từng là một người già neo đơn sống ở đây, và ngôi nhà cũ của bà, bất chấp những cố gắng của Web, trông cũng xiêu vẹo chẳng kém gì những ngôi nhà xung quanh. Hàng rào trước cửa nhà đã han rỉ hết hàng cọc sắt và có thể đổ sụp bất kỳ lúc nào. Hàng hiên lớp tôn của ngôi nhà đã võng xuống vì nước đọng và thời gian, với những vết ố không thể nào rửa sạch.
Cây phong cô độc trước cửa nhà đã chết khô, những chiếc lá vàng úa từ mùa trước vẫn xào xạc buồn bã mỗi khi có làn gió đơn côi đâu đó thổi qua. Cỏ trước nhà mọc um tùm vì đã lâu Web cũng không đến để đẩy máy xén cỏ. Đã bao nhiêu năm Web vật lộn và cố gắng đến mức phi thường để giữ gìn sự tươm tất cho ngôi nhà nhưng cuối cùng anh đã phải đầu hàng vì mẹ anh chẳng mấy quan tâm đến việc chăm lo nhà cửa và vườn tược Giờ thì bà cũng không còn nữa, Web nghĩ lúc nào đó anh sẽ phải bán ngôi nhà đi; ngay lúc này anh không muốn giải quyết chuyện đó, cũng có thể là không bao giờ.
Web vào trong nhà và nhìn quanh. Ngay sau khi mẹ mất, anh đã đến đây. Ngôi nhà là một mớ lộn xộn, đúng như khi bà còn sống. Anh đã mất cả ngày dọn dẹp ngôi nhà và kết quả là thu gom được đến hơn một tạ rác đủ loại. Rồi Web vẫn phải duy trì hệ thống điện, nước, và thoát nước hoạt động bình thường ngay cả sau khi mẹ mất. Không phải vì anh tính đến khả năng một ngày nào đó anh sẽ về sống ở đây, nhưng có gì đó khiến anh không thể dứt áo bỏ đi hẳn được. Giờ thì anh đứng đây, kiểm tra lại các căn phòng, tất cả vẫn sạch sẽ, chỉ trừ đôi chỗ bám bụi và mạng nhện. Anh ngồi xuống, kiểm tra đồng hồ, bật ti vi xem một tập phim truyền hình rẻ tiền, chương trình bỗng nhiên bị gián đoạn nhường chỗ cho bản tin. Hóa ra đây là cuộc họp báo của FBI mà anh đã biết. Web nhổm người về phía trước để điều chỉnh âm thanh và hình ảnh cho rõ nét.
Anh há hốc miệng nhìn Percy Bates xuất hiện trên bục. Buck Winters lẩn đi đằng chết tiệt nào rồi nhỉ? Web tự nhủ. Bates đang điểm lại những nét chính trong sự nghiệp huy hoàng của Web ở FBI, kết hợp với những hình ảnh hào nhoáng ghi lại cảnh Web đang nhận đủ các loại huân chương và phần thưởng, từ các nhân vật cao cấp của Cục và thậm chí của chính Tổng thống. Bates nói về sự kiện đẫm máu trong khoảng sân và nhấn mạnh lòng can đảm cũng như sự lì lợm của Web khi anh đương đầu với những khẩu súng máy khủng khiếp kia.
Sau đó là hình ảnh Web nằm trong bệnh viện, mặt quấn băng kín mít.
Hình ảnh này khiến Web bất giác giơ tay lên sờ vào vết thương cũ của mình. Anh vừa cảm thấy tự hào vừa cảm thấy bị rẻ rúng. Đột nhiên anh thầm ước, giá như Bates không nảy ra ý tưởng này. Chương trình “xúc tiến hình ảnh” này sẽ chẳng làm thay đổi được gì trong suy nghĩ của mọi người. Nó chỉ làm anh thấy dễ bị tổn thương hơn. Chắc chắn cánh báo chí sẽ không tha cho anh, họ sẽ buộc tội Cục đã bao che cho nhân viên của mình. Và xét theo góc độ nào đó thì có lẽ thế thật. Anh không nén nổi tiếng thở dài chán nản. Anh không nghĩ mọi chuyện còn có thể tồi tệ hơn, nhưng hóa ra anh đã nhầm. Anh tắt ti vi, ngồi lặng người, mắt nhắm nghiền. Trong giây phút mơ màng, anh cảm thấy như có người đang đặt tay lên vai mình, nhưng thực ra chẳng có ai hết. Hình như điều này luôn xảy ra mỗi lần anh về đây; dường như mẹ anh vẫn hiện hữu đâu đó.
Mãi đến lúc qua đời Charlotte London vẫn giữ nguyên mái tóc dài chấm vai, theo thời gian đã ngả từ màu vàng óng, quyến rũ thành màu bạch kim sang trọng. Da mặt bà dường như vẫn không có một nếp nhăn vì bà bị dị ứng ánh mặt trời nên suốt đời lúc nào cũng phải che kín mặt. Bà có chiếc cổ thon dài, thanh nhã, hơi gợn lên một đường cơ nhỏ khi chạm vai. Web tự hỏi không biết đã có bao nhiêu người đàn ông bị mê hoặc bởi đường cong kỳ ảo đó. Hồi còn là một cậu bé, Web đã có những giấc mơ kỳ lạ về người mẹ trẻ trung, quyến rũ của mình mà đến tận bây giờ anh vẫn còn thấy hổ thẹn.
Mặc dù nghiện ngập và ăn uống vô tội vạ, mẹ anh vẫn không hề tăng thêm cân nào suốt bốn mươi năm, vóc người vẫn thon thả, quyến rũ như thời còn con gái. Ngay cả ở tuổi năm mươi chín, mỗi khi tỉnh táo và trang điểm gọn gàng, Charlotte London vẫn làm cho người ta phải sững sờ.
Đáng buồn là lá gan của bà đã đầu hàng quá sớm. Ngoài điều đó ra thì hầu hết phần còn lại của bà lẽ ra vẫn còn có thể thách thức sự tàn phá của tuổi tác thêm một thời gian nữa. Không chỉ xinh đẹp, mà chính vẻ duyên dáng và sự thông minh của bà mới là điều quyến rũ nhất. Nhưng những cuộc trò chuyện giữa bà và con trai thì phải nói thẳng là kỳ quặc. Mẹ anh không bao giờ xem ti vi. Bà thường bảo, “Người ta gọi nó là chiếc hộp ngu ngốc cũng đúng thôi. Mẹ thà đọc Camus, hoặc Goethe, hoặc Jean Genet. Genet làm người ta phải vừa khóc vừa cười mà không hiểu tại sao, vì thực ra chẳng có gì đáng cười trong những tác phẩm của Genet cả. Chủ đề sáng tác của ông ấy là sự suy đồi, trụy lạc. Toàn là những khổ đau, thống khổ. Hầu hết là mang tính tự truyện.”
“Vâng. Đúng rồi, Genet, Goethe,” Web đã nhiều lần tranh luận với mẹ. “Thì cũng toàn là dân G ([40]) hết, giống con thôi.” Mẹ anh chưa lần nào hiểu câu nói đùa này.
“Nhưng nhiều lúc họ mới quyến rũ và sâu lắng làm sao – thậm chí phải nói là gợi tình mới phải.”
“Sao lại thế được?” anh đã nghi ngờ.
Suy đồi và trụy lạc , Web đã thở dài. Lúc ấy anh chỉ muốn nói với mẹ rằng trong đời mình anh đã chứng kiến nhiều biểu hiện của suy đồi và trụy lạc đủ khiến Jean Genet nếu còn sống cũng phải chết nghẹn. Anh muốn nói huỵch toẹt với mẹ rằng những tội ác xấu xa đó không phải chuyện đùa, bởi biết đâu một ngày nào đó sẽ có kẻ đầy “suy đồi và trụy lạc” xuất hiện trên ngưỡng cửa và kết liễu đời bà bằng bạo lực. Tuy nhiên, cuối cùng anh lại im lặng. Mẹ anh thường tạo cho anh một cảm giác ngần ngại, mơ hồ.
Ngay từ bé Charlotte London đã được coi là một thần đồng, khiến người lớn phải sững sờ vì trí thông minh siêu việt của mình. Bà vào đại học khi mới mười bốn tuổi và giành được bằng cử nhân văn học Mỹ của trường Wellesley, tốt nghiệp gần như thủ khoa. Bà thành thạo bốn ngoại ngữ. Sau khi tốt nghiệp đại học, Charlotte đã một mình đi du lịch vòng quanh thế giới suốt gần một năm, Web biết, vì anh đã xem ảnh và đọc nhật ký hồi đó của bà. Mà đó là thời kỳ phụ nữ đâu có dám làm những việc động trời như thế. Thậm chí bà còn viết một cuốn sách kể về những chuyến phiêu lưu của mình, đến tận bây giờ vẫn có nhiều người tìm đọc. Tên sách là London Times (Những trải nghiệm của London). London là tên thời con gái của bà, và mẹ anh đã lấy lại cái tên này sau khi người chồng thứ hai của mình qua đời. Sau khi ly dị người chồng đầu tiên, tức là cha Web, bà đã đệ đơn lên cơ quan tư pháp để đổi lại họ anh từ Sullivan sang thành London theo họ mình. Web chưa bao giờ mang họ của người cha dượng vì mẹ anh không đồng ý. Tính bà là vậy. Và đến tận bây giờ anh vẫn không hiểu tại sao anh lại có một cái tên kỳ quặc đến thế, vì chữ Web chỉ có đúng một chữ b. Anh đã tra lên tra xuống cây gia phả đằng ngoại nhưng vẫn không tìm được câu trả lời. Thậm chí mẹ anh còn thẳng thừng từ chối trả lời Web khi anh hỏi ai là người đã đặt tên cho anh.
Hồi Web còn bé, bà đã kể với anh hầu hết những gì bà trải qua và chứng kiến trong những cuộc phiêu lưu thời thanh niên, và anh đã coi đó là những câu chuyện tuyệt vời nhất mà anh từng được biết. Và anh đã muốn được cùng bà thực hiện những cuộc phiêu lưu như thế, để được viết cuốn sách của riêng anh, chụp ảnh người mẹ xinh đẹp và táo bạo của mình trên nền một thác nước hoang sơ ở Italy, hoặc trên đỉnh núi phủ tuyết trắng xóa của Thụy Sĩ, hay trong một quán cà phê ngoài trời giữa Paris hoa lệ.
Người mẹ xinh đẹp và cậu con trai bảnh bao chinh phục cả thế giới dưới chân mình là giấc mơ lớn nhất của anh thời thơ ấu. Nhưng sau đó bà đã tái hôn với bố dượng của Web và những giấc mơ đó sớm tàn lụi.
Web mở choàng mắt và đứng dậy. Anh bước xuống tầng hầm. Một lớp bụi dầy che khắp mọi nơi, và Web không sao thấy bóng dáng cái mà anh đang tìm kiếm đâu cả. Anh quay lên nhà và đi xuống cuối bếp. Web mở cửa hậu và nhìn ra cái gara nhỏ bé, xếp đủ thứ đồ linh tinh và cả chiếc Plymouth Duster cổ lỗ sĩ của mẹ anh. Web có thể nghe rõ tiếng bọn trẻ đang hò hét, chơi đùa gần đó. Anh nhắm mắt và gục đầu vào khung cửa khi những tiếng la hét đó lặng đi. Trong tâm trí Web vẫn còn vẹn nguyên hình ảnh quả bóng được ném vụt đi, những sải chân còn non nớt hối hả guồng theo, cậu bé Web hồi đó chỉ nghĩ rằng cậu sẽ chết nếu không bắt được quả bóng. Anh hít hít không khí, mùi gỗ ám khói trộn lẫn với mùi thơm ngọt ngào của cỏ vừa cắt mùa thu. Dường như không gì có thể tuyệt vời hơn thế, nhưng đó cũng chỉ là một mùi hương, không bao giờ kéo dài lâu được. Và rồi con người ta bao giờ cũng bị némbịch trở lại thực tại của cuộc sống phũ phàng. Mà anh đã nhận ra rằng, cuộc sống chẳng lúc nào là phũ phàng tạm thời cả.
Trong ký ức của anh, cậu bé Web đang guồng chân chạy mỗi lúc một nhanh hơn. Trời tối dần và anh biết mẹ sắp gọi anh vào. Không phải để ăn tối, mà là chạy qua nhà hàng xóm hỏi xin thuốc lá cho bố dượng. Hoặc là ba chân bốn cẳng chạy ra cửa hàng tạp phẩm Foodway của khu với vài đô la lẻ và một câu chuyện buồn cho ông già Stein, người chủ cửa hàng có tấm lòng thật hào phóng và thoáng đạt. Lúc nào cậu bé Web cũng đang hộc tốc chạy xuống Foodway. Lúc nào cũng nghêu ngao bài hát Ireland có lời rất buồn mà mẹ đã dạy cho cậu.Mẹ đã học bài hát này ở đâu, sao nó buồn thế? Web đã hỏi bà. Nhưng cũng như nguồn gốc của tên anh, bà chẳng bao giờ nói cho anh câu trả lời.
Web vẫn nhớ như in hình ảnh ông già Stein mập ú, với cặp kính lão to đùng, chiếc áo len đan tay cũ kỹ và chiếc tạp dề trắng gọn gàng đang chìa tay ra nhận những đồng đô la nhàu nát từ “Webbie” London, ông lão vẫn thích gọi anh như vậy. Rồi ông giúp Web chọn thực phẩm cho bữa tối, và thậm chí là cả bữa sáng nữa. Những túi rau quả, tất nhiên, bao giờ cũng nhiều hơn hai đô la mà anh đưa, nhưng ông già chưa bao giờ phàn nàn một lời về giá cả. Nhưng không phải chuyện gì ông cũng kín kẽ như vậy.
“Cháu bảo mẹ đừng có uống nhiều như thế,” ông gọi với theo Web khi anh chạy vụt về nhà, mang theo hai túi rau to đùng. “Và cháu nhớ nói với thằng chồng quỷ quái của bà ấy là Chúa sẽ giáng sấm sét lên đầu hắn vì những tội lỗi mà hắn đã gây ra, nếu như không sớm thì muộn cũng có người trừng phạt hắn. Và giá mà Chúa ban cho ta vinh dự đó. Đêm nào ta cũng cầu nguyện điều đó xảy ra, Webbie. Cháu nhớ nói với mẹ như thế, và cả hắn nữa!” Ông Già Stein đã phải lòng mẹ Web, cũng như tất cả những người đàn ông khác trong vùng, cả những người đã có vợ và những gã trai tân. Có lẽ người đàn ông duy nhất không hề phải lòng Charlotte Church lại chính là người đàn ông bà đã cưới làm chồng.
Anh lên tầng và lặng nhìn đoạn cầu thang gấp đi lên gác xép được bố trí giữa hành lang. Đây mới chính là nơi mà anh phải bắt đầu cuộc tìm kiếm của mình, tất nhiên là phải thế, nhưng anh không hề muốn bước chân lên đó. Cuối cùng anh cũng với tay kéo sợi dây, hạ chiếc thang gỗ xuống và bước lên. Anh bật đèn, ánh mắt lướt nhanh qua những góc tối của căn phòng. Web hít thêm một hơi nữa rất dài và tự nhủ rằng những kẻ hèn nhát ngu xuẩn sẽ chẳng bao giờ làm được trò trống gì cho đời, còn anh là một lính đặc nhiệm của HRT, to lớn và can đảm, lại có cả một khẩu chín ly đã nạp đạn trong bao. Anh bước hẳn vào trong gác xép và cố ép mình dành cả một tiếng đồng hồ sau đó xem lướt qua những dấu ấn của quá khứ mà anh từng trải qua.
Những cuốn niên giám của trường vẫn còn đây với hình ảnh nhưng cô bé và cậu bé vụng về, ngượng ngập cố tỏ ra người lớn trước tuổi, để rồi chỉ và năm nữa qua đi là họ lại tuyệt vọng muốn quay lại thời thơ dại đã vĩnh viễn rời xa. Anh cũng tỉ mẩn ngồi căng mắt dịch lại những dòng lưu bút nguệch ngoạc trên cuốn niên giám của các bạn học, trong đó họ đã vạch ra những kế hoạch vĩ đại cho tương lai của mình – theo Web biết thì chẳng có bất kỳ kế hoạch hay ước mơ nào trong đó trở thành sự thật, kể cả chính bản thân anh. Cả chiếc áo khoác in tên đội bóng bầu dục của trường và chiếc mũ bảo hiểm của anh vẫn còn nằm nguyên trong hộp. Đã có thời anh nhớ chi tiết đến từng vết trầy xước trên chiếc mũ đó. Giờ thì Web thậm chí còn không nhớ anh đã mặc áo số bao nhiêu khi còn chơi trong đội. Vẫn còn đó những cuốn sách giáo khoa cũ rích và vô dụng, những cuốn nhật ký bên trong chẳng có gì ngoài những hình vẽ mà anh nguệch ngoạc bằng đôi bàn tay uể oải mỗi khi buồn chán. Đôi bàn tay uể oải của anh. Trong một góc phòng là một giá treo quần áo, với những thứ trang phục có tuổi đời đến cả bốn thập kỷ nằm phủ bụi, mốc meo và thủng lỗ chỗ. Có cả những chồng đĩa nằm lăn lóc. Những chiếc hộp đựng đầy thẻ cầu thủ bóng chày và bóng bầu dục lẽ ra bây giờ phải giá trị bằng cả một gia tài nếu Web không lấy chúng làm đích tập phóng phi tiêu và bắn đạn hơi. Vài phụ tùng han rỉ của một chiếc xe đạp mà Web chỉ nhớ lờ mờ là anh đã từng sở hữu, cạnh đó là gần chục chiếc đèn pin đã hỏng. Thậm chí cũng còn nguyên một bức tượng nhỏ bằng đất sét mà mẹ anh đã nặn, rất đẹp; nhưng nó đã bị bố dượng anh quăng quật quá nhiều lần nên bức tượng không chỉ mất cả hai tay mà còn sứt cả tai và mũi.
Đó là một phút hồi tưởng thật buồn về một gia đình bình thường, và quả thực là rất bình thường xét theo nhiều nghĩa.
Đúng lúc Web định bỏ cuộc, thì đột nhiên anh tìm thấy nó.
Chiếc hộp nằm dưới một chồng sách hồi học đại học của mẹ anh – những tác phẩm của các triết gia cổ đại, những nhà văn, nhà tư tưởng đã chết từ đời nảo đời nào. Web lướt nhanh qua những món đồ trong hộp. Thế là quá đủ để khởi đầu rồi. Anh chỉ đáng bị xem là một điều tra viên ngu dốt nếu không lần ra được gì từ chúng. Web ngạc nhiên nhận ra là mặc dù anh đã lớn lên trong ngôi nhà này, nhưng từ trước đến nay anh chưa bao giờ để ý đến chiếc hộp. Nhưng có lẽ nguyên nhân là hồi đó anh đâu có đi tìm nó.
Bỗng anh giật nảy mình và trừng trừng nhìn vào góc phòng trước mặt. Đó là nơi tối tăm, u ám nhất phòng, anh có cảm giác vừa nhìn thấy vật gì đó chuyển động. Bàn tay anh đã lần xuống báng súng từ bao giờ.
Web căm ghét căn phòng này. Căm ghét! Cho dù anh cũng không hiểu tại sao. Một căn gác xép khốn kiếp.
Anh mang chiếc hộp ra xe và trên đường về nhà nghỉ Web dùng điện thoại di động của mình để gọi cho Percy Bates. “Anh làm giỏi lắm, Perce. Hôm nay đúng là một ngày trọng đại. Nhưng có chuyện gì với lão khọm già Bucky vậy?”
“Winters quyết định rút lui vào phút cuối cùng.”
“Phải rồi. Đề phòng trường hợp tôi lại sa vào một mớ bung bét mới. Và thế là ông ta đẩy nó cho anh.”
“Thực ra tôi đã tình nguyện khi thấy ông ấy ngần ngại.”
“Anh rất tốt với tôi, Perce, nhưng anh sẽ không bao giờ thăng tiến được trong Cục đâu, nếu anh cứ làm những việc đúng đắn như thế này.”
“Tôi quan tâm đếch gì.”
“Có thêm manh mối gì không?”
“Chúng tôi đã lần ra xuất xứ của những khẩu súng máy. Bị đánh cắp từ một căn cứ quân sự ở Virginia. Cách đây hai năm. Nói chung là còn rất mông lung, nhưng tôi sẽ lần ra bằng được tất cả những gì ẩn sau vụ này.”
“Có tung tích gì của Kevin Westbrook không?”
“Không. Cũng chưa có nhân chứng nào xuất hiện cả. Có vẻ như tất cả dân sống ở khu đó đều câm điếc hết rồi.”
“Tôi đoán thế nào anh cũng đã thẩm tra những người sống cùng với Kevin. Có biết thêm gì không?”
“Không nhiều lắm. Họ cũng không biết nó ở đâu. Như tôi đã nói, thằng bé cũng chẳng mặn mà gì với nơi đó, lúc nào có thể là nó trốn đi.”
Web thận trọng cân nhắc những từ anh nói sau đó. “Vậy là không có ai yêu thương thằng bé sao? Không có bà già hay bà ngoại nào ở đó à?”
“Có một bà già. Chúng tôi đoán bà ta là mẹ ghẻ của mẹ Kevin thì phải. Bà ta cũng không nói cụ thể về mối quan hệ của mình với thằng bé. Nghe thì cứ tưởng là dễ, nhưng vớ vào những gia đình rổ rá cạp lại mà xem, phức tạp phát kinh. Bố thì đi tù, mẹ thì chết hoặc bỏ đi, anh trai chết, chị đi làm gái đứng đường, thế là bọn trẻ bị quẳng hoặc tha lôi hết chỗ này đến chỗ khác, chỉ cần tìm được người trông có vẻ khả kính một chút, thường là những ông bà già. Có vẻ như bà ta cũng thực lòng lo lắng cho thằng bé, nhưng bà ta cũng rất dè dặt. Tất cả người dân khu đó đều hốt hoảng, dè dặt.”
“Perce, anh có thực sự nhìn thấy Kevin trước khi nó mất tích không?”
“Tại sao anh lại hỏi vậy?”
“Tôi đang cố xác định lại quãng thời gian giữa lúc tôi nhìn thấy nó lần cuối cùng và khi nó mất tích.”
“Quãng thời gian. Chết thật, giá mà tôi cũng nghĩ đến chuyện đó,” Bates kéo dài giọng, giễu cợt.
“Thôi nào, Perce. Tôi không hề có ý định chõ mũi vào công việc của ai đâu, nhưng tôi đã cứu mạng thằng nhóc đó nên tôi muốn tìm hiểu cho rõ ràng thôi.”
“Web, cậu có biết là khả năng thằng nhóc đó còn sống là rất mong manh. Cho dù kẻ bắt cóc nó có là ai chăng nữa thì chúng cũng không định tổ chức tiệc sinh nhật ở Chuck E. Cheese ([41]) cho nó đâu. Chúng tôi đã lùng sục tất cả những nơi có thể. Hồ sơ nhận dạng và tìm kiếm thằng bé đã được thông báo đến tất cả các bang lân cận, thậm chí đến tận biên giới Canada và Mexico. Nhiều khả năng chúng đã ở lại trong thành phố cùng thằng bé.”
“Nhưng nếu nó làm việc cho anh trai thì rất có thể nó vẫn an toàn. Tôi muốn nói tôi biết Big F là một thằng con hoang khốn kiếp thật, nhưng chẳng lẽ hắn lại khử cả em trai mình sao? Thôi nào.”
“Tôi đã chứng kiến vô khối trường hợp còn tồi tệ hơn, và cả cậu cũng vậy.”
“Nhưng anh có gặp Kevin không?”
“Không, tôi không trực tiếp gặp Kevin. Nó đã biến mất khi tôi đến rồi. Đấy, cậu hài lòng chứ?”
“Tôi đã nói chuyện với những người của HRT có nhiệm vụ trông nom thằng bé lúc đó. Họ nói là đã chuyển thằng bé cho hai nhân viên mặc plet của Cục.”
Web quyết định không nhắc lại lời kể của Romano rằng thực ra chỉ có một người chắc chắn có liên quan đến việc này, vì anh muốn nghe xem Bates nói thế nào.
“Chắc chắn là cậu cũng sẽ phải ngạc nhiên là tôi cũng thẩm tra họ rồi và kết quả cũng là những gì họ nói với cậu thôi.”
“Họ không biết tên hai đặc vụ đó. Anh có biết gì không?”
“Tất cả vẫn còn quá sớm.”
Web quyết định vứt toẹt cái vẻ ngoài nhã nhặn của mình. “Không, không còn sớm nữa đâu, Perce. Tôi đã làm loại công việc của anh nhiều năm rồi và tôi biết quy trình điều tra là thế nào. Nếu như anh không thể nói cho tôi biết tên của hai người mặc plet đó, thì tức là chúng không phải người của FBI. Điều đó có nghĩa là hai kẻ mạo danh đã lọt vào trong hiện trường vụ án của FBI, hiện trường vụ án của anh đấy, và xoáy đi một nhân chứng quan trọng. Biết đâu tôi có thể giúp anh.”
“Đó chỉ là giả thuyết của cậu thôi. Hơn nữa tôi không muốn và cũng không cần sự giúp đỡ của cậu.”
“Anh định nói là tôi sai à?”
“Tôi định nói là cậu hãy biến mẹ nó ra khỏi cuộc điều tra của tôi cho rảnh. Đấy, tôi muốn nói thế đấy.”
“Nhưng họ là đồng đội của tôi, mẹ kiếp!”
“Tôi hiểu, nhưng nếu tôi mà phát hiện ra cậu đang làm gì, tự mình dò hỏi, hay lần theo các manh mối thì cậu không xong với tôi đâu. Hy vọng là tôi nói rõ quan điểm của mình rồi chứ.”
“Tôi sẽ gọi lại cho anh khi tôi phá xong vụ này.” Web tắt máy và thầm rủa mình đã làm hỏng mất quân bài cuối cùng của mình trong Cục. Anh đã tử tế và tế nhị hết mức rồi, nhưng có vẻ như Bates cứ thích chơi trò úp úp mở mở. Anh ta lại còn tưởng Web chỉ gọi điện đến để cám ơn mình vì buổi họp báo chắc!
———
[40] Nguyên văn là “G-men”: Web muốn nói là tên những tác giả đó đều bắt đầu bằng chữ “G” còn anh là một “G-man” theo nghĩa “Government-man” – tức là công chức nhà nước.
[41] Tên một công ty dịch vụ chuyên tồ chức tiệc sinh nhật và các hoạt động giải trí cho trẻ em rất nổi tiếng ở Mỹ.