Đọc truyện Tây Du Ký – Chương 69: Tôn Hành Giã ban đêm hiệp thuốc Châu Tử vương trong tiệc luận yêu
Bá quan đồng hỏi rằng:
– Khi nãy thần tăng coi mạch nói Bệ Hạ đau chứng song điểu thất quần, nghĩa làm sao vậy?
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Chứng ấy như con chim trống và con chim mái ở chung một chổ, rủi bị bão tố, hai con lạc hai nơi, trông không thấy mái thì buồn hiu, mái không thấy trống cũng cú rủ, ấy là bịnh phiền não, như con chim lạc bầy.
Bá quan đồng khen rằng:
– Thiệt hay lắm! Chẳng những là thầy thần, thiệt đáng kêu bằng sãi thánh!
Khi ấy có quan Thái y hỏi rằng:
– Thần tăng đoán bịnh nhận chứng nhằm rồi, bây giờ hốt tháng chi mà điều trị?
Tôn Hành Giả nói:
– Không biết thang chi, thấy vị nào muốn hốt thì hốt.
Thái y nói:
– Thuốc có tám trăm tám vị, người có bốn trăm bốn chứng. Người đau một bịnh cùng hai, lẽ đâu thấy vị nào thì dùng vị nấy?
Tôn Hành Giả nói:
– Thuốc chẳng luận thang bài, coi vị nào đáng dùng thì hốt. Vậy thì Thái y đem đủ mặt thuốc cho ta lựa vị mà gia giãm.
Thái y không dám cãi, liền sai quân khiêng tám trăm vị thuốc và đồ chế thuốc ra quán Hội đồng.
Tôn Hành Giả mời thầy ra quan chế thuốc.
Tam Tạng mới đứng dậy, xãy thấy quan nội thị vào truyền chỉ rằng:
– Xin thần tăng để pháp sư ngủ trong đền nầy một đêm, đợi Bệ Hạ uống thuốc mạnh rồi sẽ tạ ơn, và ghi điệp cho pháp sư, sắm se loan hộ tống.
Tam Tạng kinh hãi nói rằng:
– Ðồ đệ ôi, chắc là ta ở cầm chưn đó, như mạnh thì tử tế, xe kiệu đua đi, nếu không khá thì ta chẳng còn tánh mạng. Ngươi phải xem xét cho kỹ càng.
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Sư phụ đừng lo làm chi, hãy ngủ cho khỏe, để làm lấy tiếng cho mà coi!
Nói rồi từ giã Tam Tạng đi về quán Hội đồng.
Bát Giới nghinh tiếp cười mà nói rằng:
– Sư huynh, tôi biết anh rồi; không dốc lòng đi thỉnh kinh, quyết buôn bán mà không vốn? Nay thấy chốn nầy đông đảo, coi bộ dể mần ăn nên kiếm cớ mà khiu tiệm thuốc.
Tôn Hành Giả nói:
– Trị bịnh vua mạnh, thì lo đi thỉnh kinh; ai tính khui tiệm bán thuốc?
Bát Giới nói:
– Tám trăm tám vị, anh hốt hết bao nhiêu? Còn thuốc vặt cũng bằng hai tiệm.
Tôn Hành Giả nói:
– Ai hốt cho hết bấy nhiêu thuốc, bất quá dùng ít vị mà thôi. Song gạt thái y đem đủ mặt thuốc đặng chúng nó không biết mình dùng vị nào, là cố ý giấu bài thuốc kẻo chúng biết.
Xảy thấy quan mời ăn cơm, ba anh em ăn uống xong rồi thì trời đã tối.
Tôn Hành Giả sai quân đem ít cây đèn sáp.
Ðến nửa đêm thiên hạ ngủ hết, Bát Giới nói:
– Ðại ca chế thuốc chi thì làm phức đi cho rồi, tôi buồn nghủ lắm!
Tôn Hành Giả nói:
– Ngươi lấy một lượng đại hoàng đem đâm cho thiệt nhỏ.
Sa Tăng nói:
– Vị đại hoàng là thuốc hàn lương, uống vào thì tả; e bịnh đau lâu yếu lắm, chẳng khá nên dùng?
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Vị ấy phá đàm xổ độc, không hề gì đâu.
Nói rồi bảo Sa Tăng lấy một lượng bả đậu lột vỏ rồi lấy khăn gói lại, dầm cho rút hết dầu, rồi cũng đâm ra rây cho nhỏ.
Bát Giới nói:
– Bả đậu tánh nóng có dầu, xổ mạnh bằng mười đại hoàng; chắc không nên dùng.
Tôn Hành Giả nói:
– Hiền đệ chưa rõ, chớ vị ấy lấy dầu hết thì bớt độc, phải dùng nó mà xổ mới hạ ra vật tích lâu năm, hãy chế cho mau ta còn dùng tá sứ nữa.
Giây phút Sa Tăng, Bát Giới đem hai vị lại hỏi rằng:
– Sư huynh còn chế chừng mấy vị nữa?
Tôn Hành Giả nói:
– Ðủ rồi, đủ rồi.
Bát Giới nói:
– Làm thầy thuốc như anh mang tội bằng mười ăn cướp, vì tám trăm tám vị, mỗi vị ba cân, mà anh dùng cho chủ uống có hai lượng thuốc ỉa!
Tôn Hành Giả nói:
– Hiền đệ lấy chén nầy, cạo nửa chén lọ nghẹ chảo.
Bát Giới hỏi:
– Lấy lọ nghẹ làm chi?
Tôn Hành Giả nói:
– Ấy là bá thảo sương trị bịnh huyết hay lắm!
Bát Giới y lời cạo lọ nghẹ đem lại tán nhỏ rồi rây, Tôn Hành Giả đưa chén, bảo Bát Giới rằng:
– Ngươi đem chén nầy tại chỗ tàu ngựa mình, hứng nửa chén mã niếu.
Bát Giới hỏi:
– Hứng vật ấy làm chi?
Tôn Hành Giả nói:
– Dùng nó mà hồ thuốc.
Sa Tăng cười rằng:
– Anh ôi, tôi thuở nay chưa từng thấy ai hồ thuốc bằng nước đái ngựa, giống nó tanh hôi lắm, người yếu lì vị nghe hơi thì buồn mữa, lại uống bả đậu đại hoàng thì trên ẩu dưới tả, không phải dễ đâu!
Tôn Hành Giả nói:
– Ngươi không biết hay sao, con ngựa nầy không phải ngựa thường, vốn thiệt là rồng bạch, nếu uống nước đái nó chắc mạnh khỏe tức thời.
Bát Giới nghe nói, xách chén hứng cả buổi không đặng chút nào. Liền chạy lại nói với Hành Giả rằng:
– Anh ôi, khoan lo trị bịnh quốc vương, để cho thuốc con ngựa đã, vì nó bí đái rồi!
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Ðể ta xem thử.
Nói rồi lại hứng đặng nửa chén, coi tợ như nước vàng mới chảy ra.
Bát Giới khen rằng:
– Chà! Thứ vậy mà cũng quý.
Khi ấy Tôn Hành Giả hiệp thuốc, vô đặng ba hườn, đựng trong cái hộp nhỏ, rồi anh em đi ngủ với nhau.
Rạng ngày vua Châu Tử rán lâm triều, mời Tam Tạng ra mắt, rồi sai quan đến Hội đồng lấy thuốc.
Tôn Hành Giả bảo Bát Giới đưa cái hộp cho các quan.
Các quan hỏi:
– Thuốc ấy tên chi?
Tôn Hành Giả nói:
– Thuốc ấy là ô kim đơn.
Các quan hỏi rằng:
– Sắc nước chi mà uống với nó?
Tôn Hành Giả nói:
– Thuốc nầy có hai cách dùng, uống thứ nào cũng được. Thứ nhứt sau vật nầy sắc lấy nước mà uống với nó.
Bá quan hỏi:
– Chẳng hay sáu vật chi?
Tôn Hành Giả nói:
1. Cức con quạ đương bay.
2. Nước đái cá chài.
3. Phấn dồi mặt của bà Tây vương mẫu.
4. Tro trong lò Bát quái ông Lão quân.
5. Khăn củ của Ngọc hoàng xé ba miếng.
6. Dùng năm sợi râu rồng.
Sáu vật ấy sắc lấy nước mà uống với thuốc nầy thì mạnh.
Các quan lắc đầu than rằng:
– Sáu món ấy nhơn gian không có, biết đâu mà tìm! Xin ông nói cách nào cho dể kiếm.
Tôn Hành Giả nói:
– Uống với vô căn thủy.
Các quan cười rằng:
-Cái đó dễ kiếm.
Tôn Hành Giả hỏi rằng:
– Làm sao mà dễ dử vậy?
các quan nói:
– Tục lệ thuở nay cầm chén xuống giếng hoặc xuống sông, múc nước đừng cho nhỏ xuống đất rồi xếp mặt trở về, chẳng nên ngó lại, đem nước cho người bịnh uống, gọi là nước vô căn.
Tôn Hành Giả nói:
– Nước dưới sông trong tiếng, đều có căn gốc luôn luôn, trừ ra hứng nước mưa nửa chừng mới thiệt là vô căn thủy.
Các quan nói:
– Như vậy cũng dễ, đợi trời mưa sẽ hứng nước uống thuốc.
Nói rồi từ giả đem thuốc về dưng.
Vua Châu Tử xem thuốc, mừng rở phán hỏi rằng:
– Thuốc nầy hiệu là chi?
Các quan tâu rằng:
– Thần tăng gọi là ô kim đơn, dùng nước vô căn mà uống.
Vua Châu Tử truyền cung nhơn múc nước.
Bá quan tâu rằng:
– Thần tăng nói vô căn thủy không phải nước giếng nước sông. Ðợi trời mưa hứng nước thinh không mà uống mới đặng.
Vua Châu Tử truyền đạo sĩ đảo vỏ, các quan vưng chỉ vội vã lui ra.
Khi ấy Tôn Hành Giả ở trong quán, nói với Bát Giới rằng:
– Trời lúc nầy không mưa, lấy chi cho vua uống thuốc? Thấy Vua ở đại hiền đức thiệt cũng khá thương. Vậy thì ta với ngươi giùm một đám mưa cho có nước!
Bát Giới hỏi:
– Bây giờ mới giúp làm sao?
Tôn Hành Giả bảo Bát Giái, Sa Tăng đứng hai bên, làm hai vị sao Tã phụ, Hửu bậc.
Tôn Hành Giả làm phép niệm chú, giây phút phía Ðông nỗi một vừng mây đen bay tới, nghe tiếng kêu thinh không rằng:
– Ðại Thánh, có Ðông hãi long vương Ngao Quãng ra mắt.
Tôn Hành Giả nói:
– Nếu vô sự chẳng dám thỉnh người, nay xin mưa một đám lấy nước vô căn cho vua uống thuốc.
Long vương nói:
– Ðại Thánh không nói trước cho tôi hay, tiểu long đi mình không, biết mưa làm sao cho đặng?
Tôn Hành Giả nói:
– Chẳng cần mưa lớn làm chi, miễn có nước đủ uống ba hườn thuốc.
Long vương nói:
– Như vậy thì để cho tôi phun vài búng nước miếng cho người uống thuốc mà thôi.
Tôn Hành Giả mừng rở nói rằng:
– Ðặng như vậy càng hay lắm! Hãy giúp sức cho mau?
Long vương bay đến thành vua phun nước miếng hóa đám mưa nhỏ.
Bá quan mừng rở khen rằng:
– Bệ Hạ có phước lắm, nên gặp trời mưa.
Vua Châu Tử mừng quá, truyền chỉ đồng hứng nước cho đông, hiệp lại cho đủ uống.
Bá quan và các con mái, mối người bưng hai cái chén, đưa lên trời đồng hứng nước mưa.
Long vương cứ mưa ngay hoàng cung, gần một giờ mới tạnh, rồi lui về biển Ðông.
Khi ấy bá quan và các cung nhân hứng đặng mỗi người một ít, trút chung lại hơn ba chén nước mưa; đem dưng cho vua uống thuốc.
Vua Châu Tử uống một hườn thuốc hết một chén nước, uống ba hườn hết ba chén, không bao lâu thắm thuốc, sôi bụng rầm rầm!
Xổ hơn năm lần mới hết.
Cung nhơn đem cháo cho vua ăn, rót nước trà thơm cho vua uống; rồi để nằm dựa giường rộng.
Cung nhơn xách thùng phẩn ra xem, thấy đàm nhớt nhiều lắm, hôi hám khác thường, lại đồ nếp đặc và lợn cợn.
Cung nga vào tâu lại như vậy.
Vua Châu Tử nghe tâu mừng rở, rán rút ăn cơm.
Giây phút mình mẩy nhẹ nhàng, tình thần mạnh mẻ, đội mão mặc áo đi đến điện Văn huê, liền quỳ lạy Tam Tạng.
Tam Tạng kinh hãi đáp lễ, vua Châu Tử viết thiệp thỉnh thần tăng, Sa Tăng và Bát Giái, Tức thì truyền dọn tiệc chay, vua Châu Tử mời bốn thầy trò ngồi tiệc.
Lại rót rượu đưa cho Tam Tạng. Tam Tạng chắp chay tau rằng:
– Tôi giữ theo ngủ giái cấm nên cử rượu, xin cho tệ đồ uống thế cho tôi.
Vua Châu Tử đưa rượu cho Hành Giã. Tôn Hành Giả uống cạn chén.
Vua Châu Tử rót một chén nửa.
Tôn Hành Giả cũng làm luôn, vua Châu Tử rót nữa và phán rằng:
– Xin làm luôn một chén tam bão.
Tôn Hành Giả uống rốc.
Vua Châu Tử rót một chén nửa, cười và phán rằng:
– Xin làm luôn chén tử quý.
Khi ấy Bát Giới thấy vua đãi một mình Hành Giả, nóng họng nói lớn rằng:
– Bệ Hạ uống thuốc ấy, công tôi quyết rất nhiều, vả lại có mã…
Tôn Hành Giả nghe Bát Giới nói tới chữ mã, sợ nói lậu chữ mã niếu, liền bưng chén rượu thứ tư đưa cho Bát Giái.
Bát Giới uống rượu rồi làm thinh.
Vua Châu Tử phán hỏi rằng:
– Thần tăng nói trong lễ thuốc có mã gì? Sao nữa nín đi, không nói luôn thể?
Tôn Hành Giả lẹ miệng nói hớt lên rằng:
– Trong bài thuốc có vị mả đậu linh, sư đệ tôi không biết giấu phương hay, muốn nói lậu bài thuốc.
Vua phán hỏi rằng:
– Vị mả đậu linh trị chứng chi?
Quan Thái y tâu rằng:
– Vị mả đậu linh mát mà không độc, trị suyển tiêu đàm trừ ứ huyết, chánh mặt thuốc trị ho.
Vua Châu Tử cười và phán khen rằng:
– Dùng vị ấy hay lắm!
Vua Châu Tử đãi Bát Giới ba chén rượu rồi đãi Sa Tăng cũng y số, rồi ăn tiệc một hồi.
Vua Châu Tử lại rót một chén rượu lớn dưng cho Hành Giả.
Tôn Hành Giả tâu rằng:
– Xin Bệ Hạ hãy ngồi để tôi rót tôi uống cũng đặng.
Vua Châu Tử phán rằng:
– Thần tăng ơn nặng bằng non, quả nhơn đền chẳng hết, xin nhậm chén nầy rồi trẫm sẽ nói.
Tôn Hành Giả đáp rằng:
– Chuyện chi xin Bệ Hạ nói cho rành, bần tăng mới dám uống.
Tôn Hành Giả xưng bần tăng trúng cách lắm, vua Châu Tử phán rằng:
– Quả nhơn có bịnh lo sợ, hơn hai năm nay, nhờ thần tăng cho uống thuốc linh mà lành bịnh.
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Khi tôi mới thấy Bệ hạ, cũng biết bịnh lo sợ, song chưa rõ lo sợ việc chi mà sanh bịnh?
Vua Châu Tử than rằng:
– Lời xưa nói: Việc xấu trong nhà, chẳng khá cho người ngoài biết! Song Thần tăng là người ơn của quả nhơn, nên không lẽ nói giấy.
Tôn Hành Giả nói:
– Có chuyện chi xin nói chớ khá ngại lòng?
Vua Châu Tử phán rằng:
– Thần tăng đi đến đây đà cách mấy nước?
Tôn Hành Giả nói:
– Trải qua năm sáu nước rồi.
Vua Châu Tử phán hỏi rằng:
– Vợ của vua các nước, kêu bằng chức chi?
Tôn Hành Giả nói:
– Bà lớn xưng là chánh cung, bà thứ xưng là tây cung, bà nhỏ xưng là tam cung, hoàng tử xưng là đông cung.
Vua Châu Tử phán rằng:
– Nước trẫm kêu khác hơn một chút, chánh cung gọi là Kim thánh cung, tây cung gọi là Ngọc thánh cung, tam cung kêu là Ngân thánh cung. Nay còn có Ngọc thánh cung và Ngân thánh cung mà thôi?
Tôn Hành Giả hỏi rằng:
– Vậy chớ Kim thánh cung đi đâu?
Vua Châu Tử khóc mà phán rằng:
– Cách mặt đã ba năm rồi!
Tôn Hành Giả hỏi rằng:
– Vì cớ nào mà cách mặt?
Vua Châu Tử phán rằng:
– Ba năm trước trong tiết đoan dương, trẫm và nội cung đồng ra vườn ngự ngồi trong Hải lưu đình mà coi ghe đua, trẫm đương ăn bánh mà uống rượu, xảy đâu trận gió thổi tới, một con yêu hiện xuống, xưng là Thại thái Tuế, ở núi Kỳ lân, động Giải trại, thiếu một vị phu nhơn, hỏi thăm ra Kim thanh cung khuynh thành quốc sắc, phải dưng ra cho mau, bằng không trước ăn thịt quả nhơn, sau ăn hết bá quan và giết hết bá tánh. Trong lúc ấy, trẫm vì nước thương dân, túng phải dưng Kim thánh cung cho nó; Thại thái Tuế liền bắt đi. Bởi cớ đó quả nhơn lo sợ mà phát bịnh, những bánh nếp không tiêu, và ngày đêm sầu thảm gần ba năm bịnh càng thêm mãi, nay nhờ uống thuốc của Thần tăng, tả bốn năm lần, ra hết đồ tích tụ, nên khỏe mạnh như xưa; thiệt là Thần tăng cứu mạng trẫm.
Tôn Hành Giả nghe nói vui mừng, uống cạn chén rượu, rồi cười và hỏi rằng:
– Như vậy thì Bệ Hạ bấy lâu vì lo sợ ấy mà sanh bịnh, nay gặp lão Tôn mới thuyên giảm, đã dứt bịnh rồi. Chẳng hay Bệ Hạ muốn đem Kim thánh cung về nước hay chăng?
Vua Châu Tử rơi lụy phán rằng:
– Trẫm không ngày nào đêm nào mà chẳng thương nhớ Kim thánh cung, ngặt không ai trừ đặng con yêu ấy; lẽ nào không muốn Kim thánh cung về nước
Tôn Hành Giả nói:
– Ðể Lão Tôn bắt con yêu ấy cho mà coi?
Vua Châu Tử liền quì xuống lạy mà nói rằng:
– Bằng thần tăng cứu đặng Kim thánh cung về nước, thì trầm bằng lòng dắt Tam cung và gia quyến ra ở ngoài thành làm dân, giao hết giang san nhường ngôi cho thần tăng làm hoàng đế.
Khi ấy Bát Giới đứng một bên, thấy như vậy nín không đặng, liều cười hả hả mà nói rằng:
– Bệ Hạ quên thể thống, vì một hoàng hậu, đành bỏ sự nghiệp mà quỳ lạy thầy chùa.
Tôn Hành Giả liền đỡ Vua Châu Tử dậy, mà hỏi rằng:
– Chẳng hay con yêu ấy từ khi đem Kim thánh cung về động, sau nó còn tới nửa hay không?
Vua Châu Tử phán rằng:
– Từ ngày Ðoan ngủ năm ấy, nó bắt Kim thánh cung rồi, qua tháng mười nó lại tới bão dưng hai nàng cung nga hầu hạ; trẫm phải dưng hai người cho nó. Ðến tháng ba năm ngoái, nó đến bão dưng hai nàng nứa, trẫm cũng y lời; qua tháng bãy nó cũng đòi hai nàng nửa! Tháng hai năm nay nó cũng mới đòi hai người, cũng nói đòi về hầu hạ Kim thánh cung! Trẫm dưng hết thảy tám nàng cung nga, không biết tháng nào đòi thêm nửa!
Tôn Hành Giả hỏi rằng:
– Nó tới thường thường như vậy, Bệ Hạ có sợ hay không?
Vua Châu Tử phán rằng:
– Trẫm thấy nó tới hoài nên sợ lắm, lại e nó hại mình, nên tháng tư năm ngoái, trẫm sai Công bộ cất cái lầu tị yêu, hể nghe gió thổi đùng đùng thì biết nó tới, trẫm dắt gia quyến vào lầu mà trốn.
Tôn Hành Giả nói:
– Vậy thì Bệ Hạ dắt Lão Tôn xem lầu tị yêu ra thể nào?
Vua Châu Tử gặc đầu, dắt Tôn Hành Giả ra khỏi tiệc; các quan cũng đứng dậy.
Bát Giới nổi giận nói lớn rằng:
– Ðại ca không biết phải quấy chẳng ngồi uống rượu với bá quan, bày đặt đi coi lầu làm chi cho lở dở tiệc rượu.
Vua Châu Tử biết Bát Giới còn mê ăn, truyền dọn hai tiệc ngoài lầu tị yêu, Bát Giới mới hết cằn nhằn nửa.
Vua Châu Tử đi trước, bốn thầy trò và bá quan theo sau, đến sau vườn hoa, chẳng thấy lầu đài chi hết.
Tôn Hành Giả hỏi rằng:
– Lầu tị yêu ở đâu?
Nói chưa dứt lời, xãy thấy hai ông Thái giám lấy hai cây đòn gánh sơn đỏ, lại chổ đất trống xeo tấm đa vuông lên coi, hình như giở nắp.
Vua Châu Tử chỉ miệng hang và phán rằng:
– Lầu tại chỗ đó, bề sâu ba mươi thước, cất chín căn đền, trong lầu có đựng bốn lu dầu phộng làm bốn ngọn đèn chong, tối ngày sáng đêm không dám tắt. Hể trẫm nghe gió lớn thì xuống lầu tị yêu, có người ở trên khiêng nắp đá đậy lại.
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Thiệt con yêu ấy không quyết lòng hại Bệ hạ, nếu nó quyết hại thì trốn như vậy có khỏi nó đâu!
Nói chưa dứt lời, xãy nghe ngọn gió ở phía Nam thổi qua vo vo, cát bay bụi dậy, bá quan kinh hãi đồng trách rằng:
– Hòa Thượng nầy miệng ăn mắm ăn muối nên nói rất linh, nhắc tới yêu tinh thì yêu tinh tới.
Vua Châu Tử hoảng hồn, bỏ Hảnh Giả chun đại xuống hang.
Tam Tạng cũng chun theo nữa, bá quan cũng trốn sạch trơn.
Bát Giái, Sa Tăng cũng muốn chạy theo nửa.
Tôn Hành Giả tay mặt nắm Bát Giái, tay trái kéo Sa Tăng, mà nói rằng:
– Hai em đừng sợ, chúng ta hãy đón nó mà coi thử con yêu gì.
Bát Giới gở tay không đặng, nên phải đứng lại.
Giây lâu thấy trên mây hiện ra một con yêu.
Tôn Hành Giả ngó thấy rồi hỏi rằng:
– Hai đưa bây biết mặt nó không?
Bát Giái, Sa Tăng đều nói:
– Không biết.
Tôn Hành Giả nói:
– Nó giống con quỷ Tiêu diện kim tinh, là mọi giữ cửa của ông Ðông Nhạc.
Bát Giới nói:
– Không phải đâu, quỷ thuộc khí âm, tới đỏ đèn nó mới dám hiện, bây giờ gần đứng bóng, lẻ nào quỷ dám hiện hình, dầu cho thiệt yêu quỷ cũng không biết đằng vân, cho nó biết làm gió đi nửa, bất quá là gió con trốt mà thôi, lẻ nào làm gió lớn hung như vậy, hoặc khi nó là Thại Thái Tuế đó chăng?
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Nếu vậy thì hai đưa bây đứng đây mà đợi, đặng ta đi hỏi nó thử coi.
Nói rồi nhảy lên mây mà đón.
Thiệt là:
Giúp nước cứu vua đà trước mạnh,
Ra tài trừ quỷ đặng sau an.