Đọc truyện Tây Du Ký – Chương 11: Xuống Âm Ti, Thái Tôn huởn sanh Ði dâng dưa, Lưu Toàn gặp vợ
Nói về vua Thái Tôn thấy vía đi dạo, ra khỏi lầu Ngũ Phụng. Thấy vua ngự thỉnh vua đi săn; Thái Tôn theo dõi một hồi binh gia đâu mất, còn một mình giữa đồng nội, không biết ngõ mà đi, sợ hết hồn hết vía.
Xảy nghe tiếng kêu lớn hét rằng:
– Tâu Hoàng đế đi lại ngỏ nầy.
Vua Thái Tôn ngó ngoái, thấy người ấy đội mão thẻ ngang, buộc đai da tây tay cầm hốt ngà, mặc áo địa rộng, quì bên đường mà nói rằng:
– Tôi rước trễ, xin Bệ Hạ tha tội tôi.
Vua Thái Tôn hỏi:
– Vậy chớ khanh là ai đó?
Người ấy tâu rằng:
– Khi tôi sống phò vua trước, làm Tri huyện Từ châu; sau lên chức Thị Lang bộ Lễ, tôi họ Thôi tên Giác, nay thác xuống Âm Phủ làm chức Phán quan. Nguyên hôm trước tôi có thấy việc rồng ma đi cáo, nên biết bữa nay có Bệ Hạ xuống đây, tôi mới tiếp giá.
Vua Thái Tôn đở dậy mà nói rằng:
– Cám ơn thầy có công rước Trẫm, mà Ngụy Trưng lại có gởi phong thơ cho thầy đây, may gặp tình cờ.
Nói rồi đưa phong thơ cho Thôi Giác.
Thôi Phán quan tiếp thơ mà đọc, trong thơ nói như vầy:
Thơ gởi cho:
Quan Ðại Ðô Án là anh họ Thôi xem rõ,
Nhớ xưa làm bạn, hình dạng như thường,
Sau cách âm dương, vắng lời dạy dỗ,
Cảm tình chẳng rõ, cho thấy chiêm bao,
Mới hay anh chức trọng quyền cao,
Hiềm vì nổi kẻ u người hiển,
Nay Thánh Hoàng hầu kiện,
Nhờ huynh trưởng nghĩ tình,
Có phương chi cho đặng huờn sinh,
Nhờ ơn ấy cầm bằng tái tạo.
Em bạn là Ngụy Trưng cúi dâng.
Thôi Phán quan xem thơ mừng mà nói rằng:
– Quân nhân Tào họ Ngụy thiếp chém Rồng Bạch tôi cũng hay rồi, lại nhờ ơn đỡ đầu con cháu tôi trên dương thế, nay gởi thơ cậy tôi như vậy, mà Bệ Hạ còn lo làm chi? Sao sao tôi cũng lo cho Bệ Hạ huờn sinh mà trị nước.
Vua Thái Tôn nói cám ơn, xảy thấy cặp Ðồng tử áo xanh, kẻ cầm phướn, người cầm lộng kêu rằng:
– Vua Diêm vương cho thỉnh Hoàng Ðế.
Vua Thái Tôn đi theo Thôi Phán quan và hai tên Ðồng tử, ngó thấy trước cửa thành, treo một tấm bảng dài đề bảy chữ vàng rằng:
U Minh địa giới quỷ môn quan,
Nghĩa là: Tối mờ cõi đất cửa hồn ma.
Ðồng tử áo xanh rung cây phướn mà dắt vua.
Thái Tôn vào khỏi cửa thành, ngó thấy hồn anh là Kiến Thành, hồn em là Nguơn Kiết đồng ré lên rằng:
– Thế Dân xuống đó, Thế Dân xuống đó.
Bên thì Nguơn Kiết, bên thì Kiến Thành áp lại níu hồn Thái Tôn mà đòi thường mạng, hồn Thái Tôn đánh không khỏi, bị hai quỷ kéo lôi.
Thôi Phán quan kêu quỷ sứ nanh bạc mặt xanh nạt Nguơn Kiết, Kiến Thành chạy hết.
Hồn Thái Tôn đi khỏi ước vài dặm đường, thấy đền đài lợp ngói xanh, lầu đài rực rỡ, hồn Thái Tôn đang ngó, xảy nghe tiếng ngọc len ken, mùi hương bát ngát, hai cặp xách lồng đèn đi trước, mười vua Minh chúa ra tiếp rước Thái Tôn.
Hồn Thái Tôn khiêm nhường quá chừng không dám đi trước, mười vua nói:
– Bệ Hạ là vua mười cõi Dương thế, còn chúng tôi là vua cõi Âm ti, nên anh em tôi cung kính Bệ Hạ là thiệt tình, xin đừng ké né.
Hồn Thái Tôn nói:
– Trẫm có tội vào hầu dưới bệ, đâu dám luận người qủy âm dương.
Ðồng vào tới đền Sum La, ngồi như chủ khách nói chuyện một lát, rồi vua Nhứt Ðiện là Tần Quảng vòng tay mà hỏi rằng:
– Ma Rồng ở sông Kinh đi cáo rằng: “Bệ Hạ hứa cứu rồi lại giết đi, là vì cớ nào vậy? Hồn Thái Tôn nói rằng:
– Trẫm chiêm bao thấy rồng cầu cứu thiệt có hứa lời, chẳng ngờ tội đáng hành hình về phần Ngụy Trưng xử trãm. Trẫm đòi Ngụy Trưng vào đánh cờ với trẫm, Ngụy Trưng xuất vía mà chém Long Vương; ấy là Ngụy Trưng có phép hay mà cũng tại Long vương đáng tội chết, chớ trẫm có sai giết ở đâu, sao vu oan mà kiện trẫm? Mười vua trả lời rằng:
– Con rồng ấy hồi mới đầu thai, chúng tôi cũng rõ định số của nó là sau chết về tay Ngụy Trưng, chúng tôi có hay trước, ngặt nó cáo mãi, nên phải vời Bệ Hạ xuống đối nại cho ba cõi công đồng, chớ chúng đã cho nó đi đầu thai hồi sớm, nay nhọc công Bệ Hạ ngự đến xin tha tội trước hồn.
Nói rồi sai Thôi Phán quan đem bộ tử ra tra coi Bệ Hạ còn trị vì mấy kỷ.
Thôi Phán quan vâng lệnh vào soạn bộ mấy vua các nước mà coi lén trước đi, thấy đề rằng:
– Vua Thái Tôn nước Ðại Ðường ngồi ngôi mười ba năm mãn số.
Thôi Phán quan xem thấy thất kinh, lấy viết chấm mực thêm hai ngang vô chữ nhứt, khi trước nhứt thập tam niên (mười ba năm). Bây giờ thành tam thập tam niên (ba mươi ba năm). Rồi ôm bộ ấy ra trình, mười vua xem thấy số ba mươi ba năm thì thất kinh mới hỏi rằng:
– Chẳng hay Bệ Hạ lên ngôi nay đã mấy mươi năm rồi?
Hồn Thái Tôn nói:
– Trẫm lên ngôi mới đặng mười ba năm.
Mười vua mừng mà nói rằng:
– Bệ Hạ yên lòng chẳng can chi mà ngại. Số còn sống đặng hai mươi năm nữa mới già, nay đối nại đã rồi, cho đưa hồn về nhập xác.
Hồn Thái Tôn nói:
– Tôi đội ơn.
Mười vua sai Thôi Phán quan và Châu Thái úy đua về.
Hồn Thái Tôn đứng dậy, bái tạ mười vua và hỏi thăm rằng:
– Chẳng hay nội trong cung trẫm, có ai tới số chăng?
Mười vua nói:
– Hết thảy đều bình an, song e em gái Bệ Hạ vắn số.
Hồn Thái Tôn nói:
– Trẫm về Dương thế không biết lấy chi mà tạ ơn vua, xin dâng dưa hấu lấy thảo. Mười vua nói:
– Dưới nầy các thứ dưa đủ hết, còn thiếu một thứ dưa hấu mà thôi.
Hồn Thái Tôn nói:
– Trẫm về tới sai người dâng xuống tức thì.
Nói rồi giã từ dời gót.
Châu Thái úy cầm cây phướn dẫn hồn đi trước, Thôi Phán quan hộ giá theo sau, hồn Thái Tôn ra khỏi đền, rồi coi không phải đường cũ, nói với Phán quan rằng:
– Ngõ nầy có khi sái thì phải?
Thôi Phán quan nói:
– Không sái đâu, đường xuống Âm phủ khi xưa trở về không đặng, nay đưa Bệ Hạ đi về ngỏ nầy một là cho thấy việc Âm phủ; hai là dễ đi hơn.
Hồn Thái Tôn đi theo được ít dặm đường, ngó thấy một hòn núi cao, mây đen mù mịt, hồn Thái Tôn hỏi:
– Núi chi đó?.
Thôi phán quan nói:
– Ấy là núi Bố Âm.
Hồn Thái Tôn thất kinh nói rằng:
– Núi như vậy trẫm đi sao được.
Thôi phán quan nói:
– Xin Bệ Hạ đừng ngại, chúng tôi bảo hộ, không có hề chi.
Hồn Thái Tôn vừa đi vừa run lặp cặp, qua khỏi núi ấy, rồi đi ngang qua mười mấy dãy nhà, đi tới đâu cũng nghe tiếng khóc vang tai, quỷ ma ghê gớm.
Hồn Thái Tôn lấy làm lạ mà hỏi rằng:
– Chẳng hay các cửa nầy là sở chi đó?
Thôi Phán quan nói:
– Ấy là mười tám tầng địa ngục (cửa rạc).
Hồn Thái Tôn hỏi:
– 18 cửa ngục ấy ấy hành những tội gì?
Thôi Phán quán nói rằng:
Xin Bệ Hạ nghe tôi nói:
– Ngục rút gân, ngục u tù, ngục hang lửa, bởi vì khi còn sống làm dữ dư ngàn tội, thác xuống vào trong mấy ngục nầy. Ngục cưa hai, ngục kéo lưỡi, ngục lột da, bởi vì chẳng thảo, chẳng ngay, không tiết hạnh, miệng hiền lòng độc, đọa vào đây, ngục cối xay, ngục cối đá, ngục xe cán, bởi vì mất lẽ công bình làm khuất lấp, nói gian nói dối, hại người ngay. Ngục nước đá, ngục mổ xẻ, ngục rút ruột bởi vì lường thăng trào đấu hay làm thiếu, mua cân già bán cân non, mắc tội vào ngục nầy. Ngục vạt dầu, ngục tăm tối, ngục ngục núi đao, bởi vì dữ tợn hung hăng hay hiếp đáp, co đầu rút cổ thảm như vây. Ngục ao máu, ngục mãn đời, ngục máu cân, bởi vì giết người lấy của làm mưu độc, hại vật làm hàng tội nặng thay, mắc đọa ngàn năm không thoát khỏi, chìm sâu trong kiếp khổ đời đời, ngày kêu trời đất không ai cứu, héo ruột khô gan ủ mặt mày.
Người đời chớ khá ở tà tây
Thần qủy công bình tự thuở nay
Làm dữ đến sau đều trả quả
Kẻ thời gặp sớm kẻ thời chầy.
Hồn Thái Tôn nghe nói, lòng sợ hãi hùng, đi một hồi lâu gặp quỷ cầm phuớn quỳ dựa lộ mà nói rằng:
– Tôi là kẻ giữ cầu đến rước.
Phán quan biểu quỳ chờ dậy, cẫn hồn vua đi trên cầu vàng, hồn Thái Tôn lên cầu rồi, thấy bên kia có một cái cầu bằng bạc, bèn hỏi Phán quan rằng:
– Những người gì được đi cầu?
Thôi Phán quan nói:
– Những người hiền lành trung hiếu, ngay thẳng công bình, thì có quỷ phướn dẫn qua cầu.
Hồn Thái Tôn ngó thấy bên nọ có một cái cầu, dưới sông sóng máu lao xao, trên mang gió lung vùn vụt, nghe tiếng người khóc kể, ghê gớm dùng mình.
Hồn Thái Tôn hỏi:
Cầu ấy tên chi?
Thôi Phán quan nói:
– Tên là cầu Nại Hà (không biết làm sao) như Bệ Hạ về Dương gian, phải thuật chuyện cái cầu này cho rõ.
Bề mặt hơn ba ngón, bề dài mấy trăm tầm, cầu cao trăm thước có dư, sông thảm ngàn trùng không xiết, trên không tay vịn, dưới có quỷ hờ, bên cầu thần tướng dữ dằn, dưới nước tội nhân lặn hụp, trên mé treo nguyên đồ áo tím quần hồng, dưới sông chững gái xằng chửi cha mắng mẹ, chó bằng đồng rắn bằng sắt giành ăn thây, nước là máu, sóng là dòi, dợn xao lấp mặt.
Hồn Thái Tôn thấy càng thảm thiết, theo Phán quan qua khỏi cầu vàng, đi một hồi lâu đến thành Uổng Tử (thác oan) nghe tiếng nói sạo sự rằng:
– Lý Thế Dân tới đó, Lý Thế Dân tới đó.
Và nghe tiếng kêu oan hỡi oan.
Hồn Thái Tôn nghe kêu run lên rét rét, xảy thấy bầy quỷ cụt đầu, cụt tay, xốc tới đón đường níu hồn Thái Tôn mà đòi thường mạng.
Hồn Thái Tô hoảng, quên xưng trẫm, cứ nói xin thầy cứu tôi, xin thầy cứu tôi, miệng thì nói, tay thì níu Phán quan mà núp.
Thôi phán quan nói:
– Tôi không quyền cai trị những ma vô chủ, biết cứu làm sao? Ấy là hồn oan sáu mươi bốn cõi xưng hùng, bảy mươi hai đảng ăn cướp chết chưa tới số, không ai bắt hồn cho đầu thai nên họ vô thành Uổng Tử mà ở làm ma thương ma đói, không gạo không tiền, Bệ Hạ phải bố thí ít nhiều, tôi nói giùm mới được.
Hồn Thái Tôn nói:
– Trẫm đi mình không xuống đây, tiền đâu cho có.
Thôi phán quan nói:
– Trên Dương gian có một người hay gởi tiền bạc xuống đây, Bệ Hạ viết giấy mượn đở một kho, có tôi bảo lãnh, đặng phân phát cho lũ ma đói thì mới êm.
Hồn Thái Tôn hỏi:
– Người ấy tên chi?
Thôi Phán quan nói:
– Người ấy họ Tướng tên Lương ở Khai Phong, tại đất Hà Nam. Tướng Lương có gởi mười ba kho bạc tại đây, Bệ Hạ tạm mà thí cho cô hồn, rồi về Dương gian trả cho Tướng Lương cũng được.
Hồn Thái Tôn mừng lắm, viết giấy xong rồi, đưa cho Phán quan mượn tạm một kho, cậy Thái úy chia cho oan hồn Uổng Tử.
Thôi Phán quan nói lớn rằng:
– Chúng bây lãnh vàng mà chi dụng, để cho Hoàng đế đi về, bởi số Ngài còn sống lâu lắm. Ta vâng lệnh mười vua mà đưa hồn ngài nhập xác, đặng ngài làm chay lớn chi siêu độ chúng bây, bây không được cản ngăn mà sanh sự nữa.
Các quỷ Dạ Xoa lãnh bạc mà lui.
Phán quan biểu Thái úy rung cây phướn dẫn hồn dắt Thái Tôn ra khỏi thành Uổng Tử.
Ra tới đường bằng phẳng đi qua một đỗi xa, đi tới 6 đường luân hồi thấy đông đảo lắm, những là bục thàn tiên đấu chiếu hào quang; vì quan tước lưng mang đai ngọc, thầy tu, kẻ thế, thú chạy, chim bay, người nghèo, kẻ giàu, bầy yêu, lũ quỷ, tốp nào theo đàng ấy, cứ theo 6 ngã mà đi.
Hồn Thái Tôn hỏi rằng:
– Giống gì đó vậy?
Thôi Phán quan nói:
– Bệ Hạ thông minh nghe nói qua thì nhớ, sau về Dương thế thuật lại mà răn đời. Chỗ nầy gọi là 6 đàng đi đầu thai. Người tu hành công quả thì về đàng Tiên. Người ngay vua thì về đàng Sang. Người có hiếu thì về đàng Phước. Kẻ công bình thì về đàng Người, kẻ có đức thì về đàng Giàu. Ðứa hung dữ thì về đàng Quỷ, hay là đàng Vật. Vậy thì 6 đàng ấy là đàng Tiên, đàng Sang, đàng Phước, đàng Giàu, đàng Người, đàng Vật. Mà Bệ Hạ đi về đàng Sang.
Hồn Thái Tôn gật đầu bước tới, Thôi Phán quan đưa đến cửa đàng Sang, lạy vua mà nói rằng:
– Chỗ nầy là chỗ đầu thai. Tôi xin đi về, để Châu thái úy đưa một đổi nữa.
Hồn Thái Tôn rằng:
– Nhọc công thầy đưa xa lắm.
Thôi Phán quan nói:
– Bệ Hạ về Dương thế phải làm chay lớn cho siêu những hồn oan, sao sao cũng nhớ, nếu dưới Âm phủ không tiếng vang siết, thời trên Dương thế có phước thái bình, như có việc chi chẳng lành, phải chừa cải, đời nầy người ở hiền hậu, thời đời sau cơ nghiệp lâu dài.
Hồn Thái Tôn từ giã Phán quan đi theo Thái úy bước vô cửa, thì Thái úy thấy một con ngựa thắng rồi mời Thái Tôn lên ngựa, còn Thái úy dìu đở hai bên.
Ngựa chạy như tên bắn, đến mé sông, thấy cặp cá chày vàng giở trên mặt nước.
Hồn Thái Tôn ngó thấy dừng ngựa coi mê.
Thái úy nói:
– Bệ Hạ đi chút nữa, vô thành cho kịp giờ.
Hồn Thái Tôn cứ làm thinh coi mãi, Thái úy nắm hai giò mà nói lớn:
– Không chịu đi, đợi chừng nào nữa.
Nói rồi xô xuống ngựa, nhào dưới sông một cái đùng, ấy là xô nhập vào xác đó.
Còn nội trào văn võ và Hoàng Hậu, Ðông cung Thái Tử đồng nhóm tại đền Bạch Hổ mà khóc than bên linh cửu vua Thái Tôn, nhiều ông luận bàn tôn Ðông cung tức vị. Ngụy Trưng nói:
– Khoan đã các ông, đợi nội ngày nay thì vua sống lại.
Hứa Kĩnh Tôn cải rằng:
– Thừa Tướng nói sai lắm, từ xưa rằng: “Nước đổ khó hốt đầy, người thác đâu sống lại, ông nói chi lời huyễn như vầy”.
Ngụy trưng nói:
– Chẳng dấu chi thầy, tôi hồi nhỏ có học phép tiên, bói khoa linh lắm, làm sao Bệ Hạ cũng sống lại mà thôi.
Ðương cải lẩy với nhau, xảy nghe tiếng la lớn trong quan tài rằng:
– Ngộp nước chết đi, ngộp nước chết đi.
Làm các quan văn võ hết hồn, Hoàng Hậu, Cung phi vỡ mật lánh xa linh cửu, chẳng dám lại gần.
Nhờ có Từ Mậu Công ngay thẳng, Ngụy thừa tướng anh hùng, Huất trì Cung dạng gan, Tần Thúc Bảo lớn mật, áp lại bên linh cửu đứng vây.
Tần Thúc Bảo và Huất Trì Cung kêu lớn mà nói rằng:
– Bệ Hạ còn nói chuyện chi xin nói chúng tôi biết, đừng có làm ma quàng mà nhát bá quan.
Ngụy Trưng nói:
– Chẳng phải hồn ma đâu, ấy là Bệ Hạ sống lại đó, mau mau lấy búa bứt néo, cạy nắp săng lên.
Dở ra rồi thấy vua ngồi nhắm mắt, mà miệng còn nói:
– Ngộp nước chết đi, ai vớt Trẫm đó.
Từ Mậu Công và Ngụy Trưng đở dậy mà nói rằng:
– Bệ Hạ sống lại rồi, không hề gì đâu, có chúng tôi hộ giá.
Vua Thái Tôn mở con mắt mà nói rằng:
– Trẫm khốn nạn quá, mới chạy khỏi hồn ma dưới Âm phủ, lại bị té sông chết trôi. Các quan nói:
– Bệ Hạ có té sông ở đâu.
Vua Thái Tôn phán rằng:
– Trẫm nói dối hay sao, trẫm đương cưỡi ngựa tới mé sông, mãi coi cặp cá chày vàng giở dưới sông, bị Châu Thái úy bất nhân xô Trẫm xuống nước, may chớ không chết đi còn gì.
Ngụy Trưng nói:
– Bệ Hạ chưa tỉnh. Mau đòi ngự y vào hốt thuốc cho định tâm thần. Uống vài hớp nước thuốc rồi lần lần ăn cháo ăn cơm biết đủ việc.
Từ hồi băng hà đến khi sống lại, đã trọn ba ngày đêm.
Bữa đó tối rồi, các quan xin vua ngủ sớm cho khỏe, bá quan ai nấy về dinh.
Rạng mai văn võ bỏ hết đồ tang, mặc điều đỏ vào đền chầu chực.
Vua Thái Tôn cũng khỏe, vội vả lâm triều.
Các quan văn võ quỳ tâu rằng:
– Chẳng hay Bệ Hạ chiêm bao thấy những điều chi, mà bèn lâu mới tỉnh?
Vua Thái Tôn đọc hết việc đi hầu tra dưới Âm phủ, cho các quan nghe, lại nói:
– Khi trẫm từ giả mười vua Thập điện, có hứa sự dâng dưa hấu mà tạ ơn, từ ra khỏi đền Sum La, thấy những tội nhân dưới Âm phủ, là loài chẳng thảo chẳng hay, không lễ không nghĩa, hoài huởn lúa gạo, lường gạt người ta, giạ già giạ non, cân cao ân thấp, tham dâm ở dối, làm dữ hại người, các tội ấy đều bị xay giả nấu dầu, xẻ cưa đốt xác, cả muôn cả triệu, xem thấy cũng thương. Ði ngang qua thành Uổng Tử là thành chứa quỷ thác oan, bị lũ cô hồn đón Trẫm, nhờ Thôi Phán quan bảo lãnh, mượn một kho vàng bạc của Tướng Lương mà phân phác cho lũ oan hồn đặng chúng nó tránh đường Trẫm đi về mới đặng. Thôi Phán quan dặn Trẫm, về Dương thế làm chay lớn, cho siêu rỗi cô hồn.
Các quan nghe rõ đầu đuôi, ai cũng mừng rỡ, vội chạy công văn cho các quan tỉnh biết, đặng dâng sớ mà mừng, vua lại xuống chiếu chỉ những tù tội nhẹ đều tha. Có hơn 400 tù xử tử, tha về xứ một năm, đặng thăm viếng cha mẹ anh em chồng vợ, và gởi gấm nhà cửa xong rồi, đúng một năm phải tựu mà chịu tội.
Lại xuất tiền bạc bố thí cho kẻ đói và con nít mồ côi.
Lại thả 3 ngàn 6 trăm cung nga ra ngoài cho kiếm đôi bạn.
Từ ấy trong ngoài đều mến đức.
Lại ngự chế lời khuyên dỗ, treo bảng khắp xứ mà dạy dân, lời ngự chế trong bảng như vầy:
Âm dương rộng rãi, nhật nguyệt hằng chiếu mọi nơi,
Bờ cõi lộng khơi, trời đất không dung đảng vạy
Ðộc lòng bày kế, mang tai cũng nội đời này,
Hay thí ít cầu, đặng phước hóa chờ kiếp khác
Ngàn lời dối trá, chi bằng giữ phận thiệt thà,
Muôn mối tham lam, khó sánh theo bể cần kiệm
Lòng lo làm phước, lựa là rán sức xem kinh?
Ý muốn hại người, có phải hoài công đọc sách.
Cả và thiên hạ ai thấy lời ngự chế cũng cảm động mà làm lành.
Vua Thái Tôn lại treo bảng rao khắp mọi nơi, ai chịu xuống Âm phủ mà dâng dưa thì lãnh bảng.
Vua lại xuất một kho vàng bạc, sai Ngạc Quốc công là Huất Trì Kỉnh Ðức (Cung) đến khai phong phủ mà trả cho Tướng Lương.
Bây giờ nói qua Lưu Toàn là người nhà giàu ở Quảng Châu, vợ là Lý Túy Liên, tính người khẳng khái, Lý Túy Liên lấy trâm vàng mà bố thí cho thầy sãi.
Lưu Toàn bắt lỗi vợ, nói cũng nhiều điều:
– Sao không giữ phận đàn bà bêu đòi ra cửa, lại đem vật trang sức (nữ trang) mà cho người.
Lý Túy Liên tức mình thắt cổ mà chết, bỏ lại một trai, một gái khóc chèo chẹo tối ngày.
Lưu Toàn tức mình mới lãnh bảng đi dâng dưa cho khuất con mắt.
Khi vua Thái Tôn ngự, thấy Lưu Toàn lãnh bảng vào chầu, tình nguyện dâng dưa dưới Âm phủ.
Vua Thái Tôn truyền cho Lưu Toàn ra quán Kim Ðình, đầu đội cặp dưa hấu, trong tay áo đựng giấy tiền vàng bạc, rồi uống thuốc độc mà chết.
Hồn Lưu Toàn đội dưa xuống Âm phủ, nói cùng quỷ xứ rằng:
– Vâng lệnh Hoàøng đế đi xuống dâng dưa.
Quỷ xứ dắt vào đền Sum La mà ra mắt Diêm chúa.
Hồn Lưu Toàn nói:
– Hoàng đế dạy tôi dâng cặp dưa cho Bệ Hạ mà tạ ơn.
Mười vua khen rằng:
– Vua Thái Tôn có đức nên nói chẳng sai lời.
Khen rồi hỏi tên họ người dâng dưa, Lưu Toàn tâu rằng:
– Tôi họ Lưu tên Hoàng, dân ở Quảng Châu, bởi vợ tôi là Lý Túy Liên thắt cổ mà chết, bỏ hai đứa con dại kêu khóc ngày đêm nên tôi tức mình bỏ của bỏ con, mà đi dâng dưa cho gặp vợ.
Vua Diêm vương truyền lệnh dẫn hồn Túy Liên ra mắt, cho gặp mặt chồng.
Lại truyền Phán quan đem bộ ra xem, thấy số vợ chồng Lưu Toàn sau thành Tiên hết thảy, mới sai quỷ sứ quờn hồn cả hai.
Quỷ sứ tâu rằng:
– Lý Túy Liên chết đã ba tháng, thây đã rả rời, huờn hồn sao đặng.
Vua Diêm vương nói:
– Ðường ngự muội Lý Ngọc Anh nay đã mãn số. Vậy thì mượn xác thế vào.
Quỷ sứ vâng lới dẫn hai hồn đem về Dương thế.
Quỷ sứ vâng lệnh Diêm vương dẫn hai hồn đi khỏi Âm phủ lên đến Trường An, đem hồn Lưu Toàn xô vào quán Kim Ðình là chỗ xác, rồi đem hồn Lý Túy Liên vào thành vua.
Ngó thấy em gái vua Thái Tôn là Lý Ngọc Anh té xuống, liền bắt hồn đi, rồi xô hồn Lý Túy Liên vào xác.