Tắt đèn kể chuyện ma (Tập 1)

Chương 6- part 2


Đọc truyện Tắt đèn kể chuyện ma (Tập 1) – Chương 6- part 2

 2
 
Những thi thể cương cứng xuất hiện trong các câu chuyện thời nhà Thanh cũng chính là chữ “cương” trong hai chữ “cương thi” như các triều đại trước, hình dáng bên ngoài đã thay đổi trở thành con quỷ đầy vẻ ghê sợ. “Mặt mũi xấu xí, đen đúa như thịt cá sấy, hai con mắt thì sâu hoắm vô cùng đáng sợ.” (Theo Viên Mai trong Tử bất ngữ, cuốn mười ba, Cương thi cầu thực.) Đây đều là diện mạo của những thi thể cương cứng, những “mĩ nữ nơi lầu son gác tía” mới được khai quật gần đây, ước tính số lượng vàng ngọc châu báu được chôn theo vô cùng lớn. Nhưng cũng có thuyết cho rằng, những thi thể khô cứng này mỗi khi xuất hiện vào nửa đêm làm chuyện hại người thường thay đổi diện mạo, do đó mà nảy sinh truyền thuyết kể về những “Cương thi dạ phì trú sấu[13]”:
 
Theo lời Du Thương Thạch tiên sinh: Phàm những xác chết đợi khi màn đêm buông xuống thì hiện lên cướp bóc, tướng mạo trông béo tốt, đầy đặn chẳng khác gì người bình thường, nhưng đến khi trời sáng, mở nắp quan tài mới biết người nằm đó dáng vẻ gầy gò, khắc khổ như kẻ ăn mày, chỉ còn da bọc xương. Đem đốt còn nghe thấy tiếng khóc hu hu vọng lại. (Theo Tử bất ngữ, quyển hai mươi tư.)
 
[13] Những xác chết cương cứng ban đêm thì béo, ban ngày thì gầy.
 
Không biết Du tiên sinh đã phải quan sát tỉ mỉ qua biết bao nhiêu thi thể cương cứng hết ban ngày rồi tới ban đêm để có thể đúc kết được những kết luận như thế. Nhưng dù sao thì “nhất gia chi ngôn”, kết luận mang tính chủ quan ấy cũng không thể tránh khỏi những ý kiến trái chiều. Trong các ghi chép còn lại từ triều đại nhà Thanh, người ta cũng bàn luận khá nhiều về những thi thể cương cứng kiểu như vậy. Hình dạng của những “cương thi” trong các ghi chép ấy hoàn toàn không có chút gì được xem là cố tình tâng bốc, hơn nữa trong đó đa phần đều là hình hài ma quỷ hiện lên với những bộ lông tóc màu sắc không giống nhau. Ví như trong Tử bất ngữ, quyển hai mươi ba, Cương thi bão Vi Đà: “Bện khắp cơ thể là một lớp lông mao màu trắng toát như loài chuột khoác lên mình bộ lông ánh bạc, lộ rõ trên khuôn mặt là hai con mắt thâm đen, ở giữa lồi lên hai con ngươi xanh biếc phản chiếu những quầng sáng lập lòe, lấp lánh.” Trong Duyệt vi thảo đường bút ký, quyển bảy có đoạn viết: “Lông mao trắng toát khắp cơ thể, hai con mắt ánh đỏ như chu sa, ngón tay cong lại như làm dấu hình móc câu, hàm răng chìa ra bên ngoài như dao cạo.” Rõ ràng những thi thể cương cứng chính là những thây ma, những quỷ dạ xoa vô cùng lợi hại vẫn thường vơ vẩn bay lượn khắp đó đây. Đớn Liên Phân trong Ly biêm hiên chất ngôn, quyển hai, Cương thi tam sắc có đề cập đến: “Sự thay đổi hình hài của một thi thể cương cứng có thể thấy qua một vài hình ảnh như: tóc tai dựng ngược, mặt mày dữ tợn, răng cái thụt cái thò chen nhau mọc.” Trong Tử bất ngữ, quyển mười hai, Phi cương cũng dẫn ra một câu chuyện, ở vùng Vân Sơn xuất hiện một xác chết đã cương cứng, có thể bay lượn trong không trung, bắt người qua lại, đặc biệt là trẻ em làm thức ăn.
 
Những “cương thi” đáng sợ và độc ác như vậy hầu như chưa xuất hiện trong các tiểu thuyết, ghi chép trước triều đại nhà Thanh. Nghe nói sự độc ác của những xác chết cương cứng này còn phân loại ở nhiều cấp độ khác nhau, căn cứ vào sự khác biệt hiển thị qua màu sắc của lông và tóc. Do màu sắc lông mao các loại cương thi không giống nhau cho nên lại có cách gọi tên căn cứ vào màu sắc để phân biệt như “bạch cương”, “hồng cương”… Từ Côn trong Độn trai ngẫu bút, quyển hạ, thuần túy miêu tả một loại xác chết được gọi là “bạch cương”. Du Phương Hàn trong Cao tân ngọc trai tạp trước đã nói rõ hơn về vấn đề này:

 
Bỗng nhiên bên ngoài cửa sổ xuất hiện một người, mặt trắng, toàn thân cháy màu đỏ lửa, nhìn vào bên trong cười đùa một cách hể hả. Một lát sau, người đó nhảy nhót đi vào, bước đến ngã lăn trên chiếc giường nhỏ hẹp, tay với màn, vặn vẹo cái đầu nhô lên hạ xuống cho dịch não tràn ra rồi lại chảy ngược vào trong đầu, hai bàn tay thọc xuống phần bụng, chộp lấy dạ dày, rồi lại nhảy nhót đi ra… Trong màn “biểu diễn” khủng khiếp ấy, may mắn thay xác chết đó vẫn còn giữ được vẻ mặt trắng toát, toàn thân cháy đỏ, nếu không cảnh tượng ấy không biết sẽ còn có sức chấn động ghê gớm đến đâu.
 
Hình hài “bạch cương” trong câu chuyện dẫn ra trên đây mới chỉ là giai đoạn đầu của xác chết được gọi là “hồng cương”, vậy mà đã lợi hại, độc ác như thế, nếu từ trắng mà chuyển thành đỏ thì sự hung dữ của những thi thể cương cứng còn tăng lên bội phần. Lúc đó thì đến cả thiên lôi từ trên trời được phái xuống trấn áp có lẽ cũng đành bất lực. Trong Tử bất ngữ, quyển chín, Quật trúng kỳ báo có liệt kê ra mấy loại “cương thi”, trong đó xác chết cương cứng có màu tím được gọi là “tử cương” không hề chứa sắc đỏ trên thi thể. Rất có thể đó là những sự vật đồng loại nhưng được gọi tên khác nhau, hoặc màu đỏ trên thi thể cương cứng ấy đã chuyển sang sắc tím, phát triển lên trạng thái cao hơn theo thời gian. Và mức độ phát triển cao nhất của các loại “cương thi” phải kể đến là “lục cương[14]”. Tử bất ngữ, quyển mười, có nói tới loại “cương thi” có “lớp lông màu xanh rất kỳ quái”. Trong Hữu đài tiên quán bút ký, quyển bốn, Túy trà chỉ quái của Lý Khánh Thần, quyển hai, có đoạn nói về “hạn bạt” đều nhắc tới loại xác chết “lục cương” kỳ lạ này. Mắt đỏ rực như lửa cháy, toàn cơ thể phủ một lớp lông màu xanh kỳ quái, chỉ với diện mạo ấy đã khiến người đọc hình dung ra vẻ khủng khiếp của loại “cương thi” đáng sợ này. Nhưng miêu tả một cách tỉ mỉ hơn, thì những hình nhân bằng giấy hay tượng đất nặn xuất hiện ở miếu Thành Hoàng, hay vào mỗi dịp “tam tiết” (tết Đoan Ngọ, tết Trung Thu, tết Nguyên Đán) còn kém xa về hình hài xác chết cương cứng về độ hung tợn và bạo ngược của nó. Vẻ khủng khiếp của “lục cương” tất nhiên vẫn không thể vượt quá phạm vi tưởng tượng của con người. Trong các loại thi thể cương cứng còn phải kể đến một loại khác nữa, đó chính là “hắc cương”. Loại này được ghi chép trong Tử bất ngữ, quyển hai, Tần trung mộ đạo với tên gọi là “hắc hung”, có lẽ đó là một cách gọi khác của người vùng Tây Bắc Trung Quốc:
 
Thời nhà Tần, dưới lớp đất rất dày, phải đào tới ba mươi lăm trượng vẫn chưa tìm thấy mạch nước ngầm. Chim phượng từng đàn bay về phía tây, nơi đây còn có phong tục kỳ lạ: Người chết không được đem chôn mà phải phơi ra giữa đồng, đến khi máu thịt phân hủy hết mới được đem chôn, nếu không sẽ gặp phải điều ác. Những thi thể chưa phân hủy mà đã đem chôn, nhiễm phải khí đất, ba tháng sau toàn thân mọc đầy lông mao, bạch giả biến thành bạch hung, hắc giả biến thành hắc hung, chuyên đi gieo rắc tội ác trong nhân dân.
 
[14] Xác chết cương cứng có màu xanh.
 
Cách gọi tên trắng, đỏ, xanh, đen này rõ ràng đều căn cứ vào màu sắc trên cơ thể và bộ mặt “cương thi”, nhưng màu sắc ấy ở đây đều không phải dùng để chỉ màu da mà là để chỉ màu lông trên cơ thể con người[15]. Cho nên hai chữ “mao cương” trong cách nói của Viên Mai chính là để chỉ màu sắc lông mao trên cơ thể những những xác chết cương cứng, phân biệt với những “cương thi” tương tự nhưng không có lông. Vì vẫn còn không ít những câu chuyện có đề cập đến những thi thể cương cứng nhưng không có lông, cho nên những thi thể cương cứng này rõ ràng khả năng tu luyện của chúng còn chưa đạt, không thể cho là hại người được. Nhưng ngoài những loại “mao cương” kể trên, tất nhiên còn có những loại lông vũ được gọi là “phi cương”. Trong Hữu đài tiên quán bút ký, quyển bốn, có ghi lại một loại “cương vân”: “Nửa phần thân trên mọc lên loại lông giống lông thú, nửa phần thân dưới mọc lên loại lông giống lông chim.” Tử bất ngữ, quyển mười hai, cũng có đoạn nói về “phi cương” như sau: “Có thể bay được trong không trung, cơ thể như trẻ con vậy.” Ngoài những điều kể trên, xác chết cương cứng còn có loại có trọng lượng tương đối nhẹ được phân thành “du thi, mật thi, ba loại xương cốt không phân hóa[16]”, còn có thuyết về “can kỷ tử[17]”. Tất cả những thứ “cương thi” được coi là bạo ngược, hung ác được liệt ra trên đây đều là sản phẩm của triều đại nhà Thanh suốt gần một trăm năm gây dựng. Chính sự thực này lại khiến con người rất khó lý giải được nguyên do tồn tại của nó. Nhưng từ kết quả thu thập được thì các thi thể cương cứng mặc dù hầu hết đều bị coi là độc ác và đáng sợ, nhưng cũng cần phân biệt cái gì là chủ yếu trong tính cách ác độc, hung hãn của nó. Chính điều này lại phải căn cứ vào đặc điểm bộ lông trên cơ thể chúng. Hơn nữa thân thế, lai lịch của các loại “cương thi” lại là một câu đố mà có lẽ căn cứ vào đây cũng có thể lý giải được phần nào.
 

[15] Trong Động linh tiểu chí của Quách Tắc Vân có ghi chép: ở ngã tư đường Tây Tà, Bắc Kinh có một ngôi nhà bị ma ám, dưới gầm giường có hai xác chết, toàn thân bao bọc bởi một lớp lông mao màu vàng kim. Có lẽ những xác chết này đã tu luyện đến một thứ hạng nhất định nào đó, chỉ có điều ta chưa biết đó là thứ hạng nào mà thôi.
 
[16] Theo Viên Mai, Viết tiếp tử bất ngữ, quyển năm.
 
[17] Tức con hoẵng khô. Theo Viết tiếp tử bất ngữ, quyển bốn.
 
 
3
 
Những tài liệu mà chúng tôi có trong tay đại để có thể tổng hợp, phân tích như vậy. Tác giả của những ghi chép này ngoài Lý Khánh Thần, tác giả của Túy trà chí quái là người Thiên Tân ra, còn lại về cơ bản đều là người phương Nam. Hơn nữa các câu chuyện về “cương thi” chỉ có không đến mười truyện có nguồn gốc từ phương Bắc, số còn lại hết thảy đều là sáng tác từ phương Nam, mà đặc biệt tập trung ở vùng Dương Châu, Nam Kinh và xung quanh khu vực Thái Hồ. Đây đều là những địa phương có kinh tế tương đối kém phát triển, nhiều sông ngòi, khí hậu ẩm ướt, gắn liền với những làng nghề sản xuất quần áo và vật dụng sinh hoạt hằng ngày, đặc biệt là nghề thuộc da, những việc có liên quan đến sự sinh trưởng của “lông” vốn chẳng lạ lùng gì với người dân nơi đây. Thực ra ở phương Bắc, nhiều vùng cũng có kiểu thời tiết mưa dầm, ẩm ướt, theo thường lệ cũng sẽ xuất hiện hiện tượng như vậy, cho nên ở đây chúng tôi cũng có câu chuyện nói về “loại thời tiết ẩm ướt gây cảm giác khó chịu là điều kiện lý tưởng để lông tóc trên cơ thể con người mau chóng sản sinh”. Như vậy, đến đây, một vấn đề khác lại được đặt ra là: Vậy thì những xác chết cương cứng có khả năng mọc lông tóc nữa không? Có điều với những mỹ nữ thể xác đã khô cứng thông thường không còn hy vọng có thể mọc lại lông tóc, nhưng với những thi thể mới được chôn cất, thể xác còn chưa phân hủy khi được chôn sâu xuống lòng đất, lông tóc vẫn có điều kiện tiếp tục sinh sôi. Tôi không được trực tiếp thực hành, cũng không có cơ hội tận mắt chứng kiến tất cả những điều này, do đó chỉ có thể hình dung sự việc qua tưởng tượng mà thôi. Nhưng từ thời nhà Minh đến thời nhà Thanh đã có không ít những nhân tài uyên bác lên tiếng khẳng định vấn đề này, thậm chí còn được kiểm nghiệm trên thực tế. Như vậy có thể thấy bắt đầu từ triều đại nhà Thanh, trong dân gian xuất hiện phong tục đào mả, hơn nữa đối tượng đào bới chủ yếu là những ngôi mộ mới được chôn cất không lâu.

 
Như vậy chủ đề câu chuyện được dẫn ra là một hủ tục lâu đời về “Những xác chết cương cứng hóa thành hạn bạt[18]. Thần hạn hán vì sự sinh tồn của vạn vật mà luôn phải lánh mình ở những nơi xa xôi. Thuyêt văn giải tự có nói tới hạn bạt, hạn quỷ, trong đó có đoạn ghi chép: “Thần nắng, thần hạn hán cũng từ những thây ma bị phơi nắng khô cháy mà ra. Như vậy thần và quỷ chỉ khác nhau ở cách gọi mà thôi”. Tuy nhiên, “hạn thần” hay “hạn quỷ” từ thời cổ đại cũng có nhiều cách lý giải khác nhau. Theo những cách hiểu quen thuộc hoặc đó là thiên nữ nữ bạt, nữ thần hạn hán trong các thời đại hoàng đế xa xưa, hoặc hiểu theo cách hiểu trong Thần dị kinh – Nam hoàng kinh thì như thế này: “Phương Nam có người dài hai đến ba tấc, cơ thể trần truồng, hai mắt ở mãi trên đỉnh đầu, đi lại như bay, xưng danh là thần hạn hán, hễ nơi nào gặp đại hạn là đất đai lại đỏ ngầu cả mấy nghìn dặm.” Nhưng thần hạn hán và thi thể của người chết có liên quan gì đến nhau? Vào thời nhà Minh, những vùng đất thuộc phương Bắc như Sơn Đông, Hồ Bắc, Hồ Nam… mỗi năm thường xuyên xảy ra hạn hán, người dân những nơi này vẫn chỉ vào những thây ma mới chôn cất mà cho rằng chúng chính là thần hạn hán, bèn hò nhau đến đào mả, lôi xác phanh thây người đã chết, trong dân gian gọi đó là “đả hạn cốt thung[19]”. Nhưng ngược lại, không phải thi hài nào cũng đều trở thành thần hạn hán, chỉ có những xác chết “mao cương” có khả năng mọc ra lông trắng mới có thể làm việc ấy. Hàng ngàn dặm khô hạn đến cháy đỏ hóa ra đều là do cái thứ xấu xa bên trong mồ mả ngấm ngầm giở trò quấy phá, vì thế cho nên nó mới bị trừng phạt. Tuy nhiên, với những nấm mồ mới được chôn cất cũng nên điều tra tỉ mỉ, không thể cứ mở quan tài xem xét, nhìn ngắm thi hài một cách đơn giản, qua quýt là được, nhất định phải mời những chuyên gia hiểu biết đến tìm hiểu, đó cũng chính là những pháp sư, thầy mo ở ngay tại địa phương đó, với hiểu biết và kinh nghiệm vốn có, họ dễ dàng thu hẹp phạm vi điều tra. Ư Thận Hành thời nhà Minh, trong tác phẩm Cốc san bút chủ, quyển mười bốn, có ghi lại như sau: “Vào những đêm khuya, lấy lửa soi vào những nấm mộ ấy, nếu như thấy trên mộ có ánh hào quang phát ra thì chứng tỏ bên trong mộ chính là “mao cương”. Nhưng với mỗi nấm mộ, các thầy mo lại có cách thức và thủ đoạn tiến hành khác nhau. Thời nhà Minh, Tạ Triệu Chiến trong Ngũ tạp trở có nêu: “Chỉ có mộ của trẻ em mới có thể là nấm mộ có “mao cương”. Cách hiểu này có lẽ xuất phát từ chính quan niệm về hình ảnh thần hạn hán trong truyền thuyết miêu tả, chỉ cao khoảng hai đến ba tấc, vì thế chỉ có hình hài của một đứa trẻ mới tương xứng như thế. Nhưng nguyên nhân chủ yếu ở đây có lẽ là đào bới những nấm mộ của trẻ em so với đào bới nấm mộ của cha mẹ hay người thân của chúng ít bị phản đối, ngăn chặn hơn. Tất nhiên khi tiến hành luôn gặp phải những hành động phản đối, cấm đoán, do đó bao giờ cũng phải làm công tác giáo dục tư tưởng, thuyết phục họ phải biết lấy “đại cục” làm trọng, hơn nữa cần phải nói rõ cho họ hiểu, thi thể của người chết nằm dưới mồ lúc này đã bị thần hạn hán nhập vào nên linh hồn của quý công tử hay tiểu thư đều vô can, vì thế không ảnh hưởng đến danh tiếng của gia tộc, càng không thể ghi vào gia phả của dòng họ v.v… Nhưng đối với những kẻ cố chấp không chịu nghe theo, cũng không thể kéo dài cái luận điệu “nhẹ nhàng, cung kính” ấy được, lúc đó thường thường sẽ “nhưỡng thành vũ đầu[20]”, lại tạo ra một số loại thi thể mới:
 
Trên đất Yên, Tề suốt bốn, năm tháng trời ròng rã không có lấy một giọt mưa, người dân nơi đây cho rằng vùng đất này bị ma quỷ trấn giữ, ắt phải đào lên mà đốt thì mới mong mưa xuống. Người ta cho rằng ma quỷ thường trá hình vào những nấm mộ chôn trẻ em mới chết, nên thường chỉ vào những nhà có trẻ em mới chết mà ám chỉ ma quỷ. Những người khác thì hùa nhau đến đào mả, hành hạ thi thể người chết. Trong khi đó, người nhà lại cực lực phản đối, chống lại hành động đánh đập dã man. Thường xuyên lôi nhau lên công đường rồi làm đơn kiện tụng, thật là việc đáng cười[21]!
 
[18] Hạn bạt: tức thần hạn hán.
 
[19] Tức là để đẩy lùi hạn hán cần đánh gãy xương người chết. Theo Minh Hoàng Vĩ, trong Bồng song loại ký, quyển hai.
 
[20] Ủ lâu thành ra đồng ý.
 
[21] Theo Ngũ tạp trở, quyển một.
 

Nhưng nếu như chỉ đào mộ chôn những đứa trẻ coi như là đã “khống chế” được tình hình, vậy thì giả dụ mộ của những đứa trẻ đào lên mà tình trạng hạn hán vẫn chưa được giải quyết, thái độ của người dân trở nên “phẫn nộ”, lúc đó hậu quả sẽ nghiêm trọng đến mức nào? Do vậy, ngay cả những ngôi mộ mới được chôn cất cũng cần phải xem xét kỹ lưỡng, “Làm gì cũng phải làm cho tới cùng”, không đào ra được thi thể mọc lông kia thì không được ngừng tay. Hơn nữa, ngay cả trong trường hợp xấu nhất, nếu đào mãi mà vẫn ẩn thì nếm thử trong đó có thứ gì ngòn ngọt, thì chính là đã tìm thấy dấu hiệu của “mao cương”. Kết quả này cũng có thể là nấm mộ mới chôn nên không được may mắn cho lắm, thậm chí ngay cả những thứ chôn theo thi hài người chết trong mộ tự nhiên cũng không cánh mà bay. Vì thời đó đã có người phát hiện ra, ngay cả những phần tử được coi là đứng đầu trong cuộc vận động “đả hạn cốt thung[22]” ấy thực chất cũng xen lẫn những tư lợi cá nhân, không đơn giản chỉ là lấy danh nghĩa việc công để mưu lợi cá nhân, tranh thủ vơ vét một số của cải có giá trị, mà như trong Bồng song loại ký đã chỉ rõ: “Những kẻ xảo quyệt thường cầu hạn hán để báo thù riêng.” Một số phần tử đứng đầu lại rất hay kích động, lôi kéo, xúi giục, tập hợp tới ngàn vạn người cùng vào cuộc, ra sức đổ thêm dầu vào lửa làm âu thuẫn giữa các bên càng trở nên gay gắt. Đối mặt với nhóm người đang trong cơn phẫn nộ, quá khích, trên người còn mang theo cả vũ khí, hễ ai đến gần là lập tức bị chĩa mũi nhọn vào đả kích, trừ khi tự biến mình thành “hạn cốt thung” mới thôi. Vào những năm Hoằng Trì trị vì đã phái cử quan Ngự sử có hiểu biết đến tìm hiểu sự việc và tấu trình lên triều đình nghiêm cấm những hành động nguy hại này, “Phải có hành pháp để trừng trị kẻ cầm đầu nhóm người gây rối, bắt chúng phải chỉ rõ ràng lai lịch, quê quán những kẻ tay sai còn lại để bắt giữ (Cách làm này vẫn thường được gọi là “sung quân phát phốt”). Cái gọi là “bắt giữ” ở đây chỉ là một cách nói giữ thể diện mà thôi, trên thực tế thì căn bản vẫn không thể khống chế được họ.
 
[22] Đào mả đánh gãy xương người chết.
 
Bất luận là phung phí của cải cũng được, để lộ ra ngoài nỗi uất ức cá nhân cũng tốt, nhưng trên danh nghĩa mà nói, một số hành vi bạo ngược của những kẻ mông muội cũng có lý do chính đáng của nó. Lý do đó xuất phát từ hai chữ “kháng hạn[23]” mà ra. Những hành động bạo lực đấu tranh với hạn hán mặc dù nhận được không ít sự kháng cự, nghiêm cấm từ phía quan phủ, nhưng đối với những người nông dân hằng ngày phải đỏ mắt nhìn tình cảnh hạn hán kéo dài đến tuyệt vọng thì những mệnh lệnh cấm đoán ấy dường như cũng chỉ là một tờ giấy vô nghĩa, ngay cả trong khoảng thời gian phải thi hành kỷ cương phép nước chẳng qua cũng chỉ là một hình thức “kỳ phong sảo tập[24]” mà thôi. Trước tình hình ấy, quan phủ ở một số địa phương lại thi hành chính sách “làm ngơ có điều kiện”, như Nhàn Trai Thị trong Dạ đàm tùy lục, quyển hai, có ghi lại một chuyện xảy ra ở vùng ngoại ô Bắc Kinh, quan phủ nơi đây quy định, nếu người dân đào thấy xác chết “mao cương”, nhất định phải báo lại cho quan phủ, sau khi xác minh rõ ràng thân thế mới được đem đi hỏa thiêu. Những quy định “ràng buộc” như vậy chẳng khác gì thừa nhận tính hợp pháp của hành động dã man đào mả hành hạ người đã chết. Ở thời đại vốn được coi là “vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn” mà còn như vậy, thì làm sao có thể tưởng tượng được sau triều đại nhà Minh, khi pháp trị đã ngày một suy yếu thì làm cách nào để khống chế được tình hình đào mả đả thần không ngừng leo thang? Một trong những nguyên nhân dẫn đến các cuộc khởi nghĩa lớn của nông dân cuối thời Minh một phần liên quan đến tình hình hạn hán kéo dài nơi đây. Tôi nghĩ sự việc này bắt đầu từ chính một số phần tử nổi loạn ở địa phương đã lợi dụng việc đào mả đả thần để mở màn cho những cuộc nổi dậy có quy mô sau đó.
 
[23] Chống lại hạn hán.
 
[24] Dùng ngọn gió thổi thoảng qua để dập tắt ngọn lửa lớn.
 
 
 


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.