Đọc truyện Tarzan 2: Trở Lại Rừng Già – Chương 17: Thủ lĩnh da trắng
Thấy người đàn ông lực lưỡng cầm dao lao vào mình, tên lính gác đứng sững người như gặp phải một bóng ma. Hắn sợ tới mức quên mất rằng hắn đang có súng trong tay rồi cứ há hốc mồm quên cả kêu cứu. Đến khi sực tỉnh, ý nghĩ đầu tiên của hắn là phải trốn thoát khỏi bộ ngực căng phồng lấp loáng ánh lửa trước mặt hắn. Nhưng hắn chưa kịp chạy, Tácdăng đã áp sát tới nơi. Kêu cứu thì đã muộn mất rồi. Bàn tay rắn rỏi của Tácdăng đã chộp lấy cổ hắn và quật ngã hắn xuống đất. Hắn vùng vẫy điên cuồng nhưng hoàn toàn vô nghĩa. Những ngón tay cứng như gọng kìm cứ mỗi lúc một xiết sâu vào cổ họng tên lính. Mắt hắn trợn trừng, đờ đẫn rồi cổ họng phì ra một hơi thở nặng nhọc. Khi Tácdăng buông tay thì tên lính đã tắt thở.
Tácdăng vác tên lính lên vai và nhặt luôn khẩu súng. Chàng tiến đến gốc cây gần hàng rào, bám cành cây vượt ra ngoài. Sau lưng chàng, khu làng vẫn vang lên tiếng ngáy đều đặn của bọn Ả rập.
Việc làm đầu tiên của chàng trên ngọn cây là tháo băng đạn và vài thứ quân dụng của tên lính. Chàng đặt xác tên lính xuống một chạc cây rồi quay lại quan sát khu làng. Trông thấy mái nhà mà tên tướng cướp ẩn náu hôm trước, Tácdăng giương súng nhằm thẳng vào cửa sổ, bóp cò. Trong nhà vang lên tiếng la hét hoảng loạn. Tácdăng bật cười.
Sau tiếng súng của chàng, khu làng náo động một lát rồi đột nhiên im bặt. Tácdăng chưa hiểu ra sao thì đã thấy bọn Ả rập và Mãn Châu chạy túa ra khỏi ngôi nhà như đàn ong vỡ tổ. Rõ ràng là bọn giặc chạy ra ngoài vì hoảng sợ nhiều hơn là giận dữ. Tai họa hôm trước làm chúng chưa hết kinh hoàng. Lúc này, tiếng súng nã vào cửa sổ giữa đêm khuya lại làm thức dậy trong lòng chúng mối dự cảm về một bất hạnh khó lòng tránh nổi. Tới khi thấy tên lính gác mất tích, chúng càng hoảng hốt, chĩa súng ra ngoài cổng làng, chúng bắn như đổ đạn.
Lợi dụng tiếng súng ầm ĩ của kẻ thù, Tácdăng xiết cò hai lần. Bọn giặc không nghe thấy tiếng súng của Tácdăng. Chúng chỉ thấy đột nhiên có tên lăn đùng ra đất. Bọn Ả rập và bọn Mãn Châu bắt đầu nghi ngờ lẫn nhau. Chỉ lát sau bọn Ả rập nổi khùng nổ súng vào lưng những tên Mãn Châu hoảng loạn đào ngũ, bỏ trốn ra rừng.
Chờ một lúc cho tiếng súng thưa dần, Tácdăng thét lên một tiếng. Bọn cướp quay lại phía có tiếng thét. Bỗng chúng trông thấy từ trên ngọn cây gần đó rơi xuống một xác người. Xác tên lính gác rơi xuống đất làm bọn chúng sợ thét lên, bỏ chạy tứ tung. Bóng tên lính gác giang tay giang chân bay xuống đất chẳng khác gì bóng một con đại bàng hạ cánh. Bọn Mãn Châu hoảng hồn chạy tháo thân ra khu rừng đốn rồi lẩn vào rừng rậm. Chúng thấy khu làng mà chúng đang chiếm đã trở nên nguy hiểm. Không một tên cướp nào đủ gan tiến lại gần vật rơi. Tácdăng biết rằng khi bọn cướp biết rõ cái vật rơi là gì, thể nào chúng cũng nổi khùng, mở những đợt tiến công truy quét. Chàng quyết định rút lui và tiến về hướng nam, hướng có khu căn cứ địa.
Một lúc sau, một tên Ả rập rón rén quay trở lại. Hắn phát hiện ra rằng cái vật rơi từ trên cây xuống đất vẫn nằm nguyên giữa lối mòn. Khi lật mặt cái xác ra, hắn nhận ra đó chính là tên lính gác mất tích. Đúng như Tácdăng dự đoán, ngay sau đó bọn cướp đã tụ tập quanh cái xác rồi chĩa súng lên lùm cây, nơi Tácdăng đã ngồi, bắn như vãi đạn.
Khi thấy tên lính gác chết vì cổ họng tím lịm dấu tay, bọn cướp rất hoảng. Hóa ra hàng rào của làng chẳng có gì là an toàn, kẻ thù có thể vào làng tấn công bằng hai bàn tay trắng. Riêng bọn Mãn Châu cuồng tín thì tin rằng nỗi bất hạnh này chỉ là sự nhắc nhở và cảnh báo bước đầu của thần linh. Bọn Ả rập giải thích, thuyết phục mãi nhưng bọn Mãn Châu vẫn không tin.
Một số tên Mãn Châu bỏ chạy vào rừng vẫn không thấy quay trở lại. Số còn lại không chạy trốn chỉ vì bọn chủ hôm trước đã hứa với chúng là sẽ chuẩn bị rút khỏi làng, quay về tổ quốc. Chúng có bị chỉ huy đối xử tàn nhẫn thì vẫn còn hơn là chết trong tay kẻ thù.
Sáng sớm hôm sau, khi Tácdăng cùng các chiến binh da đen quay về khu rừng đốn chuẩn bị tấn công thì bọn cướp đang sửa soạn rút khỏi làng. Bọn lính Mãn Châu phải khênh vác ngà voi. Tácdăng trông thấy bật cười. Chàng biết rằng buộc ngà voi kiểu ấy chúng không thể đi xa được. Nhưng ngay lúc đó, chàng cảm thấy trước mặt có điều gì không lành sắp xẩy ra. Hóa ra có mấy tên đầy tớ của bọn Ả rập đang thắp đuốc. Thắp đuốc giữa ban ngày? Chúng định đốt làng chăng?
Nấp vào một tán cây cao, cách xa hàng rào, Tácdăng khum tay lên miệng, kêu to bằng tiếng Ả rập:
– Không được đốt nhà! Nếu đốt, chúng tao giết hết.
Tácdăng kêu gọi vài lần. Bọn Ả rập giương súng về phía có tiếng kêu, do dự. Mấy tên đầy tớ nói gì đó với nhau rồi vứt mấy nắm củi thông vào đống lửa. Nhưng một tên Ả rập chạy lại, nhặt một bó đuốc rồi xăm xăm tiến tới một ngôi nhà gần đó. Rõ ràng là hắn định đốt.
Tácdăng giương súng qua khe lá, chàng ngắm thật chính xác rồi xiết cò. Kẻ đốt nhà ngã vật ra đất chết. Trông thấy thế, bọn Mãn Châu đang còn cầm đuốc vội vứt đi chạy nhào vào rừng. Bọn Ả rập điên lên, giương súng bắn để chặn lại. Dường như sự bướng bỉnh của bọn Mãn Châu đã làm cho bọn Ả rập phát khùng. Chúng ngửa mặt về phía rừng rậm thề rằng chúng sẽ trở lại và sẽ san phẳng cả làng trước khi lên đường.
Làn khói phát ra từ nòng súng của Tácdăng vẫn chưa tan hết. Bọn Ả rập giương súng đổ đạn về phía lùm cây vương khói súng rồi chạy ra truy tìm kẻ khiêu khích. Tất nhiên, Tácdăng không dại. Sau khi nổ súng tiêu diệt kẻ đốt nhà, chàng đã nhảy xuống rồi lại chạy sang một gốc cây khác cách xa đó, leo lên ngọn cây quan sát tiếp.
– Vứt ngà voi xuống! Người chết rồi thì không còn dùng được ngà voi – Tácdăng lại đưa tay lên làm loa kêu gọi.
Chàng vừa dứt lời, mấy tên Mãn Châu hất vội bó ngà voi trên lưng xuống đất. Thật là quá đáng! Bọn Ả rập tham lam và hà tiện không thể chịu đựng được điều đó. Chúng chửi rủa thậm tệ rồi vung báng súng thúc vào ngực mấy tên Mãn Châu hèn nhát. Chúng dọa sẽ giết ngay kẻ nào dám vứt ngà voi khỏi lưng. Chúng từ bỏ ý định hủy diệt khu làng nhưng chúng không thể trở về mà không có ngà voi. Không có ngà voi đem về thì thà chết còn hơn!
Một lát sau đội quân ăn cướp lục tục rời khỏi khu làng. Bọn đày tớ Mãn Châu vẫn phải còng lưng dưới những bó ngà voi. Nhìn đoàn người chở hàng, bọn chủ Ả rập đã nghĩ tới những đống tiền vàng nhận được từ các lâu đài của hoàng gia. Đội quân ăn cướp đi về phương bắc, quay về đất nước của chúng. Dù sao thì chúng cũng đã được đền đáp công sức sau bao ngày mệt mỏi và căng thẳng. Kẻ chết thì không thể sống lại đòi phần. Kẻ sống phải được chia tiền. Điều hiển nhiên đó đến thánh Ala của chúng cũng không phản đối.
Bọn cướp vác ngà voi đi dọc bờ sông Cônggô. Xung quanh chúng vẫn vang lên tiếng suối róc rách của đại ngàn. Thú vẫn kêu, chim vẫn hót. Nhưng chúng có biết đâu rằng trên cái đất nước xa lạ và hoang dã này có một người da trắng xuất quỷ nhập thần, khi anh đã bất bình thì không bao giờ từ bỏ ý định trừng phạt.
° ° °
Dưới sự chỉ huy của Tácdăng, các chiến binh da đen đã mai phục tại những đoạn rừng rậm. Bọn Ả rập đi được vài dặm đường thì cái điều mà chúng lo sợ đã diễn ra. Từ các bụi cây, thỉnh thoảng lại có vài mũi lao phóng ra. Gần như chẳng có mũi lao hoặc phát tên nào trượt mục tiêu. Bọn Ả rập không lần nào nổ súng kịp thời. Bởi vì những mũi lao bay ra từ một khoảng cách khá xa, nên khi chúng phát hiện ra có bóng người thấp thoáng thì đạn của chúng chỉ làm rách lá rừng. Bọn cướp rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan. Những tên lính vác ngà voi thỉnh thoảng lại ngã vật ra đất. Mũi lao cắm vào ngực chúng chắc như đóng cọc. Bọn chủ Ả rập rất vất vả. Bởi vì đã có tên Mãn Châu đang bước thì hất bó ngà voi trên vai xuống rồi cắm cổ chạy tuốt vào bụi rậm như một con thỏ bị đuổi. Những bó hàng của bọn Mãn Châu bị chết và chạy trốn lại chất thêm lên vai những tên còn sống, làm chúng phải lê từng bước.
Thế là một ngày đã trôi qua. Một ngày đối với bọn Ả rập là một cơn ác mộng, đối với các chiến binh của thủ lĩnh Oadiri có nghĩa là ngày chiến thắng đã nhích lên một bước.
Khoảng nửa đêm, bọn Ả rập lập một trại nghỉ bên cạnh bờ sông. Đến gần sáng thì chúng nghe tiếng súng nổ xé tai. Mấy tên lính gác đã lăn ra chết. Bọn Ả rập biết rằng, với lối tấn công này, bộ lạc da đen sẽ tiêu diệt chúng tới người cuối cùng mới chịu dừng tay. Trong khi đó, chúng khó lòng bắt được một người da đen. Không những thế, cứ một buổi sớm, trước khi lên đường, bọn chủ Ả rập lại phải chia số ngà voi của những tên bị chết, đặt tiếp lên lưng những kẻ còn sống. Bọn khuân vác cứ mỗi ngày một đi chậm lại như đàn ngựa bị bong móng. Ban ngày chúng chết vì cung, tên, giáo mác phóng từ xa. Ban đêm bọn lính gác bị bắt cóc hết đứa này tới đứa khác.
Đến ngày thứ tư, bọn chủ Ả rập đã phải xử tử hình hai tên lính khuân vác vì tội trái lệnh, không chịu mang thêm số ngà voi của mấy tên lính bị chết. Vừa lúc đó, từ trong rừng sâu lại vang lên tiếng gọi của đối phương:
– Hỡi những người Mãn Châu! Ngày hôm nay các người sẽ chết hết nếu vẫn bám theo bọn Ả rập. Bọn chủ Ả rập rất độc địa, tham lam. Các người đang có súng trong tay, tại sao lại không dùng? Tiêu diệt chúng đi! Chúng tôi sẽ giúp các người trở về với vợ con. Vứt ngà voi xuống mà thanh toán bọn Ả rập. Nếu không, các người sẽ chết!
Tiếng kêu vừa dứt, cả đoàn cướp đứng sững lại như hóa đá. Bọn chủ Ả rập nhìn bọn Mãn Châu. Bọn Mãn Châu nhìn nhau. Chúng có vẻ chờ đợi xem ai sẽ là người đầu tiên dũng cảm ra tay. Bọn Ả rập còn khoảng ba mươi đứa. Bọn Mãn Châu có khoảng hơn một trăm người. Tất cả đều có vũ khí. Cả bọn khuân vác vẫn có súng trên lưng.
Bọn Ả rập xúm lại quanh tên tộc trưởng vốn là kẻ chỉ huy trực tiếp đám lính Mãn Châu khuân vác. Tên tộc trưởng lẩm bẩm gì đó. Trong khi noí, hắn vẫn không rời mắt khỏi đám lính khuân vác bên cạnh. Ngón tay hắn cũng không rời cò súng. Đột nhiên sau lưng hắn, một tên Mãn Châu hất bó ngà voi xuống đất giương súng bắn vào đám chủ Ả rập.
Trong chớp mắt cuộc nội chiến bùng nổ. Bằng đạn dược, báng súng, dao găm bọn cướp nhảy xổ vào nhau như bầy thú. Bọn Ả rập cụm dần thành một đám. Chúng lùi dần, lùi dần. Sức chống cự của chúng mỗi lúc một yếu ớt. Một lát sau bọn lính Mãn Châu lại có thêm đồng minh. Từ các ngọn cây rậm rạp xung quanh, những trận mưa tên đã đổ lên đầu quân Ả rập. Những chiến binh da đen đã nhanh chóng kết thúc trận nội chiến. Bọn Ả rập bị tiêu diệt không còn một mống.
Trận chiến kết thúc. Từ trong rừng rậm lại vang lên tiếng nói của Tácdăng:
– Các người phải mang ngà voi trả về làng cũ. Chúng tôi sẽ không quấy phá các người.
Bọn lính Mãn Châu tỏ ra băn khoăn. Rõ ràng là chúng không muốn quay trở lại. Chúng đã vất vả mấy ngày đường mới tới được nơi này. Chúng bàn bạc với nhau một lát rồi một tên bước lại gần lùm cây Tácdăng nấp.
– Ai đảm bảo tính mạng cho chúng tôi? – Tên lính Mãn Châu hướng vào lùm cây hỏi to.
– Các người nghe rồi đấy, – Tácdăng trả lời – Chúng tôi đã hứa với các người rồi. Nếu các người không đem trả lại của cải cho chúng tôi, các người sẽ bị tiêu diệt hết.
– Ông là ai? – Tên lính hỏi tiếp – Ông là người Ả rập phải không? Tại sao ông nói tiếng Ả rập? Ông định đánh lừa chúng tôi phải không? Cho chúng tôi nhìn mặt, chúng tôi sẽ trả lời.
Tácdăng cầm ngọn mác bước ra ngoài vài bước.
Bọn Mãn Châu há mồm kinh ngạc. Trước mắt chúng là một người da trắng châu Âu cao to lừng lững. Lần đầu tiên trong đời, chúng trông thấy một người da trắng. Thân hình cao lớn và những bắp cơ cuồn cuộn của người rừng khiến bọn Mãn Châu mất hết tự tin.
– Các người có thể tin tôi – Tácdăng nói – Nếu các người làm theo yêu cầu của tôi, khuân trả ngà voi về làng, các người sẽ được đối xử tử tế. Còn nếu các người vứt lại, tiếp tục đi, chúng tôi sẽ vẫn “hộ tống” các người như mấy ngày qua. Các người đã làm máu của bộ lạc này chảy nhiều rồi.
Nhớ lại ba ngày hành quân căng thẳng, đẫm máu vừa qua, bọn Mãn Châu buộc phải đồng ý. Chúng bảo nhau cất ngà voi lên lưng rồi lặng lẽ quay trở lại khu làng. Suốt dọc đường chúng biết là chúng đang đi dưới sự giám sát của những đôi mắt ẩn hiện trong kẽ lá.
Tới chiều ngày thứ ba, chúng đã bước vào cổng làng. Những người sống sót của bộ lạc đổ ra cổng. Phải rất vất vả Tácdăng mới ngăn chặn được dân làng. Vừa trông thấy bọn lính Mãn Châu họ đã muốn xông vào cắn xé. Tácdăng phải giải thích cho họ hiểu rằng những người Mãn Châu là những người nô lệ của bọn Ả rập. Họ cũng trọng danh dự, thực hiện theo lời chàng đã hứa. Vì vậy không thể phản bội lời hứa. Máu đổ chỉ làm bẩn đất rừng.
Đêm ấy bọn Mãn Châu gửi lại súng ống trong làng rồi kéo nhau ra bìa làng tìm chỗ ngủ.
Cũng ngay trong đêm ấy, dân làng mở hội mừng chiến thắng và chọn thủ lĩnh mới. Sau cái chết của Oadiri, người chỉ huy bộ lạc chính là Tácdăng. Điều đó ai cũng biết. Không kịp chọn thủ lĩnh thay thế, nhưng dân làng đã nghe theo mệnh lệnh của Tácdăng. Chính chàng đã dẫn dắt họ thoát khỏi cuộc chiến bại để rồi từng ngày tiến tới chiến thắng cuối cùng. Suốt trong những ngày qua, mọi người đã phó thác số phận của bộ lạc cho Tácdăng mà không băn khoăn gì tới việc lựa chọn thủ lĩnh.
Các chiến binh ngồi thành vòng tròn quanh đống lửa. Họ bàn tán về chiến công của từng người trong mỗi trận đánh rồi quay sang bàn bạc về việc chọn người thay thế Oadiri.
– Bởi vì Oadiri đã chết mà không để lại một đứa con trai nào, – Busuli lên tiếng – cho nên người xứng đáng kế vị chính là người đàn ông cừ khôi mà chúng ta đã biết. Ông ấy khác màu da, nhưng chính ông ấy đã đưa dân làng thoát khỏi họa ngoại xâm và chiến thắng chỉ bằng cung tên, giáo mác này thôi.
Nói xong, Busuli giương cao ngọn mác và bắt đầu vừa nhảy vừa cất tiếng hát, xung quanh Tácdăng.
Hây, hây, hây!
Một bầy Ả rập Ngã dưới chân chàng
Thủ lĩnh của làng Không còn ai khác
Hây! Hây! Hây!
Các chiến binh xung quanh đống lửa vui vẻ kéo tay nhau đứng dậy. Họ kết thành vòng tròn vây quanh Tácdăng và hát theo Busuli. Vũ khúc ngẫu hứng của họ biểu lộ thái độ đồng tình với sự lựa chọn của Busuli. Một lát sau những người đàn bà xung quanh cũng nhảy vào vòng tròn vừa vỗ tay vừa nhảy theo những người đàn ông. Nhịp điệu của vũ khúc mỗi lúc một rộn rang, dồn dập. Tácdăng vẫn ngồi giữa vòng tròn nhảy múa.
Những tiếng thét man dại vang lên mỗi lúc một to. Đám phụ nữ hát hết bài này sang bài khác. Đám đàn ông vừa nhảy vừa múa giáo trên đầu. Thỉnh thoảng họ lại nghiêng người đâm mũi giáo xuống đất. Thoạt đầu, Tácdăng còn ngồi im, mỉm cười quan sát. Một lát sau, dường như đã bị thôi miên, Tácdăng bật dậy, hòa mình vào vòng người nhảy múa. Giữa những tấm lưng trần màu gỗ mun lấp loáng trong ánh lửa, cơ thể Tácdăng nổi bật hẳn lên. Chàng say sưa la thét, tay vung ngọn mác, tay vung cánh cung. Những dấu vết cuối cùng của nền văn minh đã bị giũ sạch. Tácdăng đã trở lại với con người tự nhiên của rừng già nguyên thủy. Cuộc sống tự do đã trở lại với chàng. Niềm vui của chàng hòa cùng niềm vui chung của những người da đen bất khuất. Chàng bằng lòng nhận ngôi thủ lĩnh. Theo tục lệ của làng, chàng được gọi là Oadiri, tức là kế thừa cái tên gọi vinh quang của người thủ lĩnh trước chàng.
Nếu như Onga đơ Côngđơ trông thấy Tácdăng lúc này, liệu cô có nhận ra cái chàng trai tuấn tú, lịch sự đã có lần làm cô say đắm hay không? Còn Gian Potơrova nữa! Liệu cô có yêu nổi vị thủ lĩnh của làng người da đen mông muội đang trần như nhộng, nhảy múa giữa những người cũng trần như nhộng này không? Trung úy Ácnốt đâu rồi? Liệu trung úy có nhận ra người mà mình cùng sánh vai vào các nhà hát và các câu lạc bộ sang trọng ở Pari hay không? Và còn Hội đồng quý tộc của Anh quốc nữa. Có vị huân tước nào đủ can đảm chỉ tay vào người đàn ông cắm lông chim trên đầu, bụng chỉ che một mảnh da báo mà quả quyết rằng: “Đây là huân tước Grâyxtâu của nước Anh”?
Tácdăng vẫn la hét trong vòng người nhảy múa tưng bừng đến điên dại. Chàng có biết đâu rằng, trên một con thuyền buồm lênh đênh giữa Đại Tây Dương, người con gái mà chàng yêu dấu đêm đêm vẫn thầm gọi tên chàng.