Tầng Đầu Địa Ngục

Chương 41


Đọc truyện Tầng Đầu Địa Ngục – Chương 41

Buổi sáng hành quyết

Trong Viện Mavrino, giờ này cũng là giờ ăn sáng và uống trà.

Không có sự kiện gì báo trước ngày hôm nay sẽ là một ngày có những chuyện đặc biệt xảy ra. Buổi sáng, Trung úy Shusterman tỏ ra nghiệt ngã với việc bắt mọi tù nhân phải dậy hết sau 6 giờ, nhưng đó là chuyện thường xảy ra. Bên ngoài trời lạnh, mặt sân và lối đi nằm dưới một lớp đá trơn trợt. Không ai muốn ra khỏi phòng. Vài tù nhân đi ra sân nhưng họ trợt ngã, đi không được, nên lại kéo nhau vào nhà tù. Trong phòng ngủ, nhiều người còn ngồi trên giường, bỏ thòng chân xuống sân, không ai sốt sắng ra khỏi giường. Họ ngồi đó gãi, ngáp, buồn rầu trêu chọc nhau hoặc nhạo báng chính số phận khốn nạn của họ. Họ kể cho nhau nghe những giấc mộng của họ trong đêm vừa qua – việc kể lại cho nhau nghe những giấc mộng là một trò giết thì giờ thú vị của tù nhân.

Hoàn toàn không có sự kiện gì báo cho những tù nhân trong Viện Mavrino biết rằng trong buổi sáng hôm nay sẽ có cuộc thuyên chuyển tù nhân ra khỏi Viện.

Sáng nay, Sologdin vẫn đi ra sân bổ củi như mọi sáng. Suốt đêm qua, anh đã mở hé cánh cửa sổ mặc dù trời lạnh, và sáng nay, trước khi ra khỏi phòng anh đã mở lớn cánh cửa sổ.

Rubin, nằm trên chiếc giường sát ngay khung cửa sổ này, không nói một tiếng với Sologdin. Đêm qua, anh vào giường muộn và suốt đêm, anh trằn trọc vì mất ngủ. Anh khổ sở vì gió lạnh từ cửa sổ lùa vào nhưng anh nhất định không thốt ra nửa tiếng phản đối. Anh bận cả áo dạ để nằm ngủ, anh đội mũ nỉ có vành che kín hai tai, trùm mền kín từ đầu đến chân. Nằm co quắp trong giường, không dậy ăn sáng, bất kể những lời thúc giục của Shusterman và những tiếng động trong phòng, Rubin cố gắng một cách tuyệt vọng kéo dài giờ ngủ.

Potapov, người xung phong đi ra sân, là người đến bàn ăn sáng trước nhất. Anh đã uống trà, làm giường và ngồi trên giường đọc báo. Trong thâm tâm, anh nóng ruột mong đến giơ lên phòng làm việc. Hôm nay, anh sẽ thử dùng một bộ phận cơ khí anh vừa làm xong hôm qua.

Món ăn sáng hôm nay là món cháo kê. Nhiều tù nhân chê cháo kê nên không đến bàn ăn sáng.

Gerasimovich ngồi lại rất lâu trong phòng điểm tâm, anh cẩn thận xúc từng muỗng kê nóng đưa lên miệng.

Nerzhin bước vào gian phòng ăn tương đối vắng hơn mọi sáng, số người ngồi ăn sáng nay không đầy nửa số ghế, chàng gật đầu chào Gerasimovich và ngồi xuống một bàn riêng, ăn ngon lành.


Ăn sáng xong, Nerzhin trở về giường chàng, và trong khoảng thời gian mười lăm phút còn được tự do buổi sáng, chàng nằm dài trên giường, nhìn lên trần nhà.

Quanh chàng, các bạn tù bàn tán rì rào về số phận của Ruska – Ruska là một tù nhân trẻ bị tố cáo vì tội âm mưu trốn khỏi Viện, người tố cáo Ruska là một tù nhân làm gián điệp cho ban quản đốc, rõ hơn là làm chỉ điểm cho hai sĩ quan an ninh Shikin và Myshin – Đêm qua, Ruska không về ngủ và những tù nhân biết rằng người tù trẻ tuổi này đã bị nhốt trong một phòng giam ở gần văn phòng của Thiếu tá Shikin.

Họ bàn tán đến chuyện có thể nào “hai mươi lăm năm cải huấn” của Ruska có thể bị chuyển thành “hai mươi lăm năm cấm cố” hay không? Những nhà tù đặc biệt gồm toàn những xà lim nhỏ để giam cấm cố tù nhân được xây dựng nhiều trong năm qua và án tù cấm cố mỗi ngày một nhiều.

Giữa tiếng cười ồ của mọi người, Rubin tung mền ngồi dậy. Các bạn tù cười Rubin vì anh bận cả áo nỉ và đội mũ che kín tai để ngủ. Rubin không bao giờ giận dữ khi thấy người khác cười mình. Anh lột cái mũ nỉ ra khỏi đầu nhưng vẫn bận áo nỉ, anh yêu cầu người bạn tù đứng gần bình trà rót cho anh một ly. Ngồi trên giường, với bộ râu tóc rối, anh ăn bánh, uống nước trà. Và trước vẻ ngái ngủ biến hẳn trên mặt anh, Rubin đã chăm chú vào những trang tiểu thuyết của Upton Sinclair. Sáng nay, Rubin ở trong trạng thái tinh thần u sầu hết sức.

Trong Viện, những hoạt động của buổi sáng đang diễn ra liên tục. Trung úy Shusterman bước vào phòng, lớn tiếng nói chung cho tất cả mọi người:

“Chú ý… Tù nhân được thông báo để biết rằng từ hôm nay trở đi, sau bữa tối, sẽ không một ai còn được vào nhà bếp để xin nước nóng. Cũng không ai được làm rộn sĩ quan trực về chuyện nước nóng”.

Pryanchikov nhảy từ trên giường xuống, anh hỏi như gào lên:

“Lệnh của ai vậy?”

“Lệnh của Viện trưởng!” Shusterman đáp.


“Lệnh này ra từ bao giờ?”

“Hôm qua”.

Pryanchikov nắm chặt bàn tay và giơ nắm tay lên đấm đấm về phía trần phòng như anh kêu gọi trời, đất làm chứng cho anh:

“Không thể được, chuyện này không thể xảy ra được” – anh tức giận nói – “Tối thứ Bảy, chính Tổng trưởng Abakumov hứa với tôi là sẽ có nước nóng để pha trà ban đêm cho chúng ta. Chuyện này không hợp lý chút nào. Chúng ta phải làm việc đến nửa đêm mà”.

Một tràng cười của các tù nhân nổi lên đáp lời Pryanchikov.

“Vậy thì đừng làm việc đến nửa đêm nữa, có gì phải thắc mắc”.

Người nói câu trên là tù nhân Dvoyeysov.

Shusterman giải thích:

“Không có tiền trả lương cho người nấu bếp ban đêm”.


Rồi Shusterman mở một bản danh sách ra đọc. Y chỉ mới nói hai tiếng “Chú ý…”, tất cả mọi tù nhân trong phòng đã im lặng để nghe. Họ linh cảm được rằng họ sắp được nghe một chuyện quan trọng.

Shusterman lớn tiếng:

“Chú ý… Những người có tên dưới đây sẽ không phải đi làm việc ở Viện sáng nay… Những người có tên dưới đây chuẩn bị ngay để di chuyển. Trong phòng này: Khorobrov, Mikhailov, Nerzhin, Syemushin. Bốn người hãy mang trả tất cả những đồ được Viện phát ngay bây giờ…”

Shusterman bước ra khỏi phòng.

Như trong một cơn lốc, bốn người vừa được đọc tên được tất cả mọi anh em trong phòng xúm xít bao quanh.

Những người tù bỏ những ly nước trà, bỏ những mẩu bánh ăn dở để xúm lại quanh những người sắp phải ra đi. Với tổng số hai mươi lăm người trong phòng ngủ này, số bốn người phải ra đi là một tỷ lệ quá cao. Tất cả mọi người cùng nói một lúc, những giọng nói nghẹn ngào, những giọng nói buồn rầu, những giọng nói giận dữ chen lẫn nhau. Có những người lắc đầu, có những người đấm ngực, có những người run rẩy vì giận. Cảnh phòng ngủ lúc đó là một cảnh lẫn lộn những buồn rầu, lo âu, giận hờn, khuất phục, chịu đựng và muốn nổi loạn. Bỗng Rubin đứng cao lên mặt giường, anh giơ hai tay lên, la lớn:

“Sáng nay là một sáng đáng ghi nhớ của Viện Mavrino… Buổi sáng hành quyết…!”

°

Cuộc di chuyển là một khúc quanh trong dòng đời của tù nhân, nó cũng quan trọng và quyết định như vết thương đối với một người lính. Vết thương có thể nhẹ hoặc nặng, có thể sẽ lành hoặc làm cho người lính chết, người tù có thể bị di chuyển đi xa hoặc gần, đi đến chỗ không mấy khổ hơn hoặc đi đến chỗ chết.

Khi người ta đọc những hồi ký về những nhà giam khổ sai ghê gớm nhất được Dostoyevski viết lại, người ta phải ngạc nhiên khi thấy ở đấy những tù nhân được sống êm đềm biết là chừng nào. Trong những nhà giam được tả trong hồi ký tù đày của Dostoyevsky, cả mười năm không có quá một lần di chuyển tù nhân.

Người tù sống ở một chỗ, quen thuộc với những bạn tù, quen thuộc với việc làm mỗi ngày của mình, quen thuộc cả với những kẻ có quyền giam giữ, kiểm soát mình. Dù không muốn thu thập tư sản, người tù đó cũng dần dần có những vật sở hữu của riêng y: y có thể có một cái va-li bằng vải từ bên ngoài gửi vào, hoặc một va-li bằng plastic do một bạn tù nào đó chế tạo, hoặc do chính y làm lấy, y có một khung hình trưng hình vợ y hoặc hình con gái y. Y có một đôi giày vải mềm để đi ban đêm và cất giấu ban ngày để tránh bị tịch thâu, y có thể có thêm một cặp quần lót, hoặc một đôi giày cũ phải trả lại ban quản đốc nhưng y lén giữ lại được. Y có thể có một bộ kim chỉ riêng, một lố nút áo riêng. Lúc nào y cũng có thuốc lá để hút.


Nếu y chịu khó, y có thể có được một gói bột đánh răng và thỉnh thoảng y chà răng cho trắng. Y sưu tập được một tập thư do người thân của y gửi vào tù cho y, có được một hai quyển sách riêng, nhờ khéo léo và đổi chác, y có thể đọc được hết những quyển sách riêng của những tù nhân khác.

Nhưng cuộc di chuyển là một tai họa đánh vỡ tan cuộc sống yên ổn tạm bợ đó của người tù – tai họa đến như tiếng sét, luôn luôn bất ngờ, không bao giờ đến trước để nạn nhân kịp chuẩn bị, tai họa đến vào những lúc nạn nhân không ngờ nhất – chỉ tới phút cuối cùng, người ta mới chịu báo cho nạn nhân biết y bị di chuyển. Người ta vội vã xé nhỏ những bức thư của thân nhân. Nếu y được đưa đi bằng xe vận tải, loại xe dùng để chở bò tới lò thịt, nhân viên áp giải tù sẽ cắt hết nút quần, nút áo của y và vứt gói bột chà răng, gói thuốc lá của y đi vì những thứ đó có thể dùng để ném vào mắt họ trong trường hợp tù nhân vượt ngục. Nếu người tù được đưa đi bằng loại xe Stolopyn nhỏ, bọn giải tù sẽ làm gãy góc va-li của y vì thùng chứa đồ trong xe quá nhỏ, khung hình trong va-li sẽ bị gãy. Dù đi bằng xe vận tải hay xe Stolopyn, họ sẽ tịch thâu những cuốn sách của tù nhân, vì luật cấm tù nhân không được quyền mang sách báo theo khi di chuyển, tịch thâu cây kim khâu vì cây kim này có thể dùng đâm người giải tù, những món đồ dư thừa không được khai báo của người tù sẽ bị vứt lại.

Và như vậy là người tù bị di chuyển mất hết những vật sở hữu hiếm hoi, nghèo nàn của y, mất hết bạn hữu, y chắp hai bàn tay không sau lưng và đi thẳng – chỉ cần y bước trệch sang bên cạnh một bước là nhân viên giải tù nổ súng ngay – giữa những con chó dữ và những người gác, y leo lên xe.

Đôi khi, người tù được đưa ra nhà ga xe hỏa để lên toa xe bít bùng, loại toa tàu chở súc vật, để đi đến một nơi nào đó mà y không được báo trước. Đôi khi, bạn có dịp nhìn thấy những người tù này ở sân ga, họ bó gối ngồi xổm ở một góc sân ga chờ lên tàu, và bạn quay mặt nhìn đi chỗ khác. Bạn sợ viên sĩ quan an ninh chỉ huy cuộc chuyển tù này nhìn thấy, nghi là bạn có liên hệ gì đó đến bọn tù và kéo bạn vào phòng thẩm vấn.

Bọn tù được đưa lên toa xe, và toa xe này sẽ được nối liền với toa chở thư, hai bên toa kín mít, họ mang những kỷ niệm, những ký ức, những hy vọng và sợ hãi đi theo họ trên con đường sắt dài thăm thẳm.

Họ đi đâu? Họ không được biết. Cái gì chờ đợi người tù ở cuối cuộc du hành này? Một mỏ đồng? Một xưởng chặt cây trong rừng thẳm hoặc một nông trại ở một miền hoang vu, nơi họ thỉnh thoảng có dịp được ăn lén vài trái su, trái bắp. Người tù sẽ bị phù thũng hay tê liệt sau những tháng đầu lao động vất vả hay y sẽ may mắn được gặp người quen, được trao cho làm những việc đỡ vất vả như gác kho, quét xưởng, lao công bệnh viện, hoặc may mắn hơn nữa, thư ký bàn giấy lo việc giấy tờ, sổ sách? Y có được ban quản đốc cho phép gửi thư báo cho thân nhân biết địa chỉ mới của y hay không? Hay gia đình y sau khi bặt tin y, sẽ nghĩ rằng y đã chết?

Cũng có thể, người tù sẽ không đi hết cuộc đi này. Trong một toa xe chở súc vật kín mít, đi trong nhiều ngày, nhiều đêm, y có thể chết vì bệnh kiết lỵ hoặc vì đói, vì kiệt sức: y không được ăn trong sáu ngày. Hoặc bọn giải tù có thể đánh y bằng búa vì trong bọn y có kẻ âm mưu trốn đi. Khi xe ngừng và cửa xe mở, bọn giải tù đạp những xác tù cứng đơ lăn ra khỏi toa xe như những khúc gỗ.

Những chuyến xe hỏa chở tù sơn màu đỏ phải mất một tháng rưỡi mới tới Sovetskaya Gavan.

Xin Chúa cho những kẻ không tới nơi được yên nghỉ ngàn đời!

Mặc dù những nhân viên ở Viện Mavrino đã tỏ ra dễ dãi với những kẻ ra đi – họ cho phép tù nhân phải di chuyển được mang theo dao cạo mặt tới nhà tù mới – những câu hỏi trên đây vẫn đè nặng trên trái tim hai mươi người tù được lệnh chuẩn bị di chuyển trong buổi sáng thứ Ba ấy.

Với những người này, cuộc sống tự do một nửa, cuộc sống không bị đày đọa, hành hạ quá đỗi của những tù nhân được làm việc trong những Viện khoa học đã chấm dứt.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.