Đọc truyện Tầng Đầu Địa Ngục – Chương 20
Iosif Vissarionovich, xin cho lại chúng tôi án tử hình
Gần như trên cõi đời này không có ai dám mơ đến chuyện gọi gã bằng cái tên Sasha – trừ Đại Lãnh tụ ra, tất cả mọi người đều gọi gã bằng tên Aleksandr Nikolayevich – cũng ít ai dám gọi gã bằng cái tên dài ấy ngay trước mặt gã. “Poskrebychev gọi” có nghĩa là “Ổng gọi”, hoặc “Lãnh tụ gọi”, và “Poskrebychev ra lệnh” có nghĩa là “Ổng ra lệnh”, hoặc “Lãnh tụ ra lệnh”.
Aleksandr Nikolayevich Poskrebychev giữ chức vụ Bí thư Trưởng Đặc biệt của Stalin đã hơn mười lăm năm. Thời gian đó là một thời gian dài, và những người không được biết rõ con người thật của Poskrebychev thường ngạc nhiên vì sau từng ấy năm ở cạnh nhà độc tài, đầu của gã vẫn còn nguyên ở trên hai vai. Nhưng sự bí mật thật là đơn giản. Trong tâm hồn, anh chàng Thú y sĩ ở miền Penza là một tên đầy tớ hầu vặt, và chính bản chất đầy tớ ấy đã bảo đảm an ninh cho Poskrebychev. Ngay cả sau khi gã đã được ban cấp bậc Trung tướng, được là nhân viên của Trung ương Đảng Bộ và giữ chức vụ Chánh ủy Sở Kiểm soát mật Nhân viên Trung ương Đảng Bộ, Poskrebychev vẫn tự coi gã là một cái gì nhỏ hơn cả con số không ở trước mặt Lãnh tụ Tối cao. Linh tính đa nghi của Stalin không bao giờ phát giác được sự nghi ngờ hoặc ý muốn chống đối ở Poskrebychev.
Nhưng khi gã tiếp xúc với hạ cấp, anh đầy tớ trán hói có vẻ khờ khạo ấy có đủ khả năng để tự làm cho gã trở thành quan trọng ghê gớm. Với những kẻ dưới quyền gã, Poskrebychev nói vào điện thoại nhỏ đến nỗi người nghe phải áp chặt ống nghe vào tai để có thể hiểu gã nói gì. Đôi khi người ta cũng có thể nói đùa với gã về những vấn đề lặt vặt nhưng không một ai dám hỏi thẳng gã: “Hôm nay ở đó ra sao?”. Ngay cả đến cố con gái của Lãnh tụ cũng không bao giờ được biết rõ tình hình ở đó ra sao? Mỗi lần cô gọi điện thoại tới hỏi thăm, cô chỉ được cho biết mơ hồ: “Người hoạt động” hoặc “Người tĩnh dưỡng”… tùy theo Poskrebychev có nghe thấy tiếng chân của người hay không.
Đêm nay Poskrebychev nói với Abakumov:
“Iosif Vissarionovich đang làm việc. Người có thể tiếp ông. Người bảo ông chờ.”
Gã cầm chiếc cặp da của Abakumov, đưa y vào phòng đợi và bỏ y ngồi một mình ở đó.
Và cũng như mọi lần Abakumov không dám hỏi câu hỏi mà y cần hỏi nhất: “Hôm nay tinh thần Lãnh tụ ra sao?” Y ngồi trong phòng đợi và nghe tiếng trái tim đập mạnh.
Người đàn ông vạm vỡ, to lớn, khoẻ mạnh này vẫn đứng cứng người ra vì sợ mỗi lần y đến gặp Stalin để báo cáo y hệt như những công dân trong thời gian phát động những cuộc bắt bớ tập thể khi nghe tiếng chân người rầm rập lên cầu thang ban đêm. Trước hết hai vành tai y lạnh như đá vì sợ, sau đó biến thành rát như lửa bị đốt. Và trong những giờ kinh khủng ấy, Abakumov kinh hoàng nghĩ đến chuyện Lãnh tụ có thể nghi ngờ cả đến những sự kiện nhỏ nhất. Tỉ dụ như Stalin không thích thấy ai thò tay vào túi trước mặt mình. Vì vậy trước khi tới đây Abakumov đã cẩn thận chuyển hết ba cây bút vẫn dắt trong túi áo ngực bên trong của y ra hết túi áo ngoài, lát nữa đây y sẽ cần dùng đến chúng để ghi những chỉ thị của Lãnh tụ.
Những chỉ thị thường ngày được truyền xuống cho Abakumov từ Beria, nhưng mỗi tháng một lần nhà Cai trị Tối cao muốn đích thân gặp để kiểm soát kẻ mà người trao cho trách nhiệm bảo vệ an ninh cho chế độ do người lãnh đạo.
Những cuộc hội kiến dài hàng giờ đồng hồ này là cái giá đắt mà Abakumov phải trả để đổi lấy những sức mạnh uy quyền mà y mơ ước. Y chỉ sống và chỉ hưởng thụ cuộc đời trong khoảng thời gian ở giữa hai cuộc hội kiến. Mỗi lần đến gặp Stalin xong, khi yên ổn ra về, Abakumov thơ thới hân hoan nhưng càng gần đến ngày phải đi gặp vị chúa tể y càng lo sợ. Tất cả những dây thần kinh đều chùng xuống, hai tay y lạnh giá và mỗi lần đưa cái cặp da mang theo Poskrebychev, y lại hoang mang không biết lát nữa đây y có còn được cầm lại nó hay không. Y cúi đầu như đầu trâu trước cánh cửa văn phòng của vị chúa tể trước khi bước vào đó với cảm nghĩ đen tối là không biết y có còn được ngẩng đầu cao để đi ra khỏi đây hay không.
Stalin làm cho người ta khiếp sợ bởi vì một lỗi lầm nhỏ trước mặt y có thể là lỗi lầm của cả một đời, lỗi lầm đó dù nhỏ cũng có thể làm nổ ra một trận lôi đình với hậu quả ghê gớm không ai có thể lường trước được. Stalin làm người ta khiếp sợ bởi vì y không bao giờ chấp nhận những lời xin lỗi. Y cũng không bao giờ mở miệng kết tội, ánh mắt cọp vàng của y chỉ sáng rực lên và đôi mắt y chỉ khép nhỏ hơn đôi chút – và như vậy là trong óc y, sự kết tội đã thành hình, những trừng phạt đã được quyết định, nhưng người bị kết án vẫn không hay biết gì hết. Nạn nhân ra về để rồi nửa đêm bị nhân viên mật vụ đến bắt đi, bị bắn chết vào lúc mờ sáng ở một nơi nào đó.
Sự im lặng và cái nheo mắt của vị chúa tể biểu lộ tình trạng đáng sợ nhất. Nếu Stalin nổi giận quát mắng, nếu người ta bị y nhổ vào mặt, giẫm lên chân, chửi rủa thô tục, người ta vẫn còn hy vọng được sống, vì cơn giận đó sẽ tiêu tan. Abakumov sẽ mừng rỡ nếu được Stalin chửi rủa, vì chửi y như thế tức là Stalin vẫn còn hy vọng rằng y có thể sửa đổi và vẫn để cho y giữ trách vụ y đang giữ.
Trong những giây phút kinh hoàng trước mặt Stalin, đôi khi Abakumov cũng hiểu rằng y đã trèo quá cao. Nếu y ở dưới hàng thấp hơn, y sẽ ít bị nguy hiểm hơn. Stalin thường tỏ ra dễ tính, vui vẻ với những người ở xa y, những người cả đời chỉ được gặp y một lần, nhưng khi người ta đã được gần Stalin rồi, người ta không còn có thể tự rút lui được nữa.
Người ta chỉ còn có thể chết. Cái chết của chính mình. Hoặc…
Trước mặt Stalin, Abakumov luôn luôn run rẩy vì sợ vị chúa tể sẽ khám phá ra được một tội lỗi gì đó ở y.
Trong vài ngày qua, Abakumov đã ăn không ngon, ngủ không yên vì cuộc hội kiến này. Y lo sợ cái tội mà y đã phạm ở nước Đức trước đây có thể đến tai vị chúa tể.
Y từng làm giàu ở Đức quốc. Ở đoạn cuối cuộc đại chiến thế giới thứ hai, Abakumov giữ chức Tổng Giám đốc cơ quan SMERSH kiêm Sở Phản gián Mặt trận, phạm vi quyền lực của y bao trùm toàn thể quân đội. Khi ấy có một thời gian các binh sĩ Nga hành quân trên đất Đức được tha hồ cướp bóc, vơ vét tiếng của dân Đức. Để đánh một đòn quyết liệt tối hậu xuống nước Đức đang chiến bại, Stalin áp dụng đòn độc của Hitler là cho phép binh sĩ cướp bóc, chấp thuận cho toàn thể binh sĩ được quyền gửi đồ cướp được từ mặt trận về nhà riêng. Quyết định này đặt căn bản trên sự biết rõ tâm trạng người lính chiến của Stalin, nếu y là người lính, y cũng nghĩ như thế: Chiến đấu cho quê hương, tổ quốc, dân tộc là một lý tưởng cao đẹp, rất nên – chiến đấu và hy sinh cho Stalin lại càng cao đẹp hơn nữa – xong khi đòi hỏi người lính phải liều mạng trong lúc chiến tranh sắp kết liễu, người ta cần phải cấp cho người lính một động lực thúc đẩy nào đó mạnh hơn, thực tế hơn, hấp dẫn hơn. Vì vậy y cho phép mỗi người lính hành quân trên lãnh thổ Đức mỗi tháng được gửi từ mặt trận về nhà 20 ký đồ vật không phải kiểm soát, mỗi sĩ quan được gửi về 50 ký, mỗi tướng lãnh được gửi về 100 ký. Quyết định cho phép gửi đồ về nhà đó tỏ ra đúng, vì người lính không phải vất vả mang theo những món đồ họ lấy được trên khắp các mặt trận, hành lý của họ không bao giờ quá nặng và do đó họ vẫn tấn công được, họ còn hăng hái tấn công để chiếm những đất mới, lấy những đồ vật mới. Được phép gửi đồ về nhà như thế, những quân xa vẫn còn được dùng để chở lính chứ không đầy ắp những đồ vật.
Trong số những người tiến sang lãnh thổ Đức có quyền cướp đồ và gửi đồ về nhà, những kẻ trong cơ quan SMERSH có nhiều điều kiện để vơ vét nhất. Bọn này cũng ở trên mặt trận nhưng luôn luôn ở ngoài tầm súng của địch, không sợ bị phi cơ địch tấn công, họ ở những nơi mà cán bộ hành chánh, bọn công an chưa kịp tới. Những sĩ quan SMERSH lại hoạt động bí mật. Không ai dám kiểm soát những quân xa được niêm phong của họ, họ có quyền xung công những tài sản lớn của địch để giữ cho chính phủ và họ tha hồ chiếm công vi tư. Từng đoàn quân xa, từng đoàn tàu, từng đoàn phi cơ chuyển đồ của SMERSH từ mặt trận về. Các sĩ quan ấp úy chỉ cần tinh khôn một chút là có thể gửi về cả ngàn ký, sĩ quan cấp tá có thể gửi về cả chục ngàn ký và Abakumov gửi về cả triệu ký.
Abakumov hiện có nhiều vàng, y gửi số vàng này ở Thụy Sĩ nhưng y cũng biết rõ hơn ai hết là số vàng lớn này vẫn không thể cứu được y thoát chết nếu y mất chức Tổng trưởng Bộ An ninh. Vàng bạc không còn giá trị gì cả khi người ta đã bị mất đầu. Trong cơn say sưa vơ vét tài sản của những ngày chiến tranh gần kết liễu ấy Abakumov không thể điềm nhiên khoanh tay nhìn bọn sĩ quan thuộc cấp thi nhau gửi đồ về nhà cho vợ con chúng, y đặc phái những đội đặc biệt đi tìm đồ vật quý giá. Y ngẩn ngơ xuất thần trước hai va ly đừng đầy dây thắt lưng da. Y cũng bị làn sóng tham lam ấy cuốn đi.
Nhưng cái tài sản vơ vét được đó cũng là một tai họa cho Abakumov. Nó vô du nguyện đối với y và lúc nào y cũng sợ tội trạng của y bại lộ. Thực ra chẳng có ai dám tố cáo Tổng trưởng Bộ An ninh nắm quyền sinh quyền sát trong tay nhưng nếu vị chúa tể biết tội đó thì tình hình khác hẳn. Nếu Abakumov gửi những vật quý ấy về cho Beria hay Stalin thì không sao, nhưng y lại giấu đi làm của riêng. Đó là một tội trạng không thể tha thứ được. Nhiều lúc Abakumov hối hận vì đã quá tham lam nhưng bây giờ muộn quá mất rồi.
Abakumov đến vào lúc 2 giờ 30 sáng tới 3 giờ 30 sáng y vẫn còn đi đi lại lại quanh quẩn ở phòng đợi, hai bàn tay ướt đẫm mồ hôi nắm quyển sổ mới tinh y mang theo để ghi chỉ thị, sự hồi hộp mỗi lúc được tăng mạnh hơn trong y, hai vành tai y bắt đầu bỏng cháy. Đêm nay, đặc biệt là đêm nay, Abakumov ước mong Stalin sẽ hỏi đến giàn máy điện thoại đặc biệt và y chưa nghĩ được lời nói dối nào cho xuôi cả.
Nhưng cánh cửa gỗ dày đã mở, nhưng chỉ mở hé. Poskrebychev từ trong thò đầu ra, giơ tay vẫy y. Abakumov bước vào, cố gắng đi cho thật nhẹ. Không dám mở cánh cửa lớn hơn, y lên tấm thân hộ pháp của y qua khe cửa. Chưa qua hẳn cửa, y đã hỏi vào:
“Kính chào Iosif Vissarionovich, cho phép tôi được vào.”
Vì quá hấp tấp y đã quên hắng giọng trước từ bên ngoài. Giọng nói của y khàn khàn nghe thiếu âm thanh trung thành.
Stalin bận bộ áo khuy vàng chói và nhiều huy chương trên ngực, nhưng không có cầu vai đang ngồi viết ở bàn. Viết xong hàng chữ Stalin mới ngẩng lên chiếu đôi mắt cú vọ nhìn người vừa văn phòng.
Người không nói gì cả.
Một dấu hiệu xấu. Người không nói nửa tiếng.
Người lại cúi xuống viết.
Abakumov đóng cánh cửa sau lưng lại nhưng không dám tiến lên khi chưa nhận được một cái gật đầu hoặc một cử chỉ cho phép đến gần. Y đứng đó người hơi cúi về đằng trước, hai tay để xuôi bên mình, nụ cười chào mừng kính cẩn nở trên môi. Hai tai y như bị lửa đốt.
Abakumov từng đến cả hai văn phòng của Lãnh tụ – văn phòng chính thức để làm việc ban ngày và căn phòng nhỏ ban đêm này.
Văn phòng chính thức ở trên lầu rộng lớn hơn nhiều, sáng sủa hơn, có ánh nắng và nhiều cửa sổ như mọi cửa sổ, có những tủ sách trong xếp đầy những quyển sách bìa màu ghi lại những tư tưởng của nhân loại cùng những nền văn minh do loài người tạo được kể từ ngày trái đất có loài người. ở đó trên bức tường cao có bức hình được Lãnh tụ ưa thích nhât, trong hình Lãnh tụ bận bộ quân phục Thống chế mùa đông. Ở đó có nhiều ghế lớn ghế nhỏ, đi văng, bàn vuông, bàn tròn. Đó là nơi Lãnh tụ tiếp những phái đoàn ngoại giao hoặc mở hội nghị. Đó cũng là nơi Lãnh tụ ngồi chụp hình.
Ở đây, trong nhiều văn phòng ban đêm này, đồ vật không có nhiều, không có hình treo trên tường và những ô cửa sổ đều nhỏ xíu. Bốn kệ sách thấp kê sát vào những tấm vách lát gỗ và một bàn viết kê ở cuối phòng. Góc phòng đối diện với bàn viết kê một giàn máy hát và một giá đựng đĩa hát. Ban đêm Stalin thích nghe lại những bài diễn văn của chính y được thâu vào đĩa.
Abakumov kính cẩn cúi mình và chờ đợi.
Stalin vẫn tiếp tục viết. Y viết với sự nhận thức là những dòng chữ này sẽ đi thẳng vào lịch sử. Ánh đèn đặt bàn chỉ chiếu sáng những trang giấy, những bóng đèn giấu trong tường trên cao chỉ soi lờ mờ. Stalin không viết luôn tay, thỉnh thoảng y ngừng viết và đưa mắt nhìn lên trần, hoặc nhìn vào tường, hoặc nhìn Abakumov với vẻ mặt như khó chịu vì sao gã này lại đứng đó. Nhiều lúc Stalin ngừng viết, nghiêng tai như đang nghe như một tiếng gì đó mặc dù trong phòng không có qua một tiếng động nhỏ.
Không ai biết vì sao, lúc nào, từ bao giờ Stalin bắt đầu có thái độ chỉ huy này? Mỗi cử chỉ nhỏ nhặt của y đều mang ý nghĩa, một hiệu lệnh. Ngày xưa chú Koba – ở miền Caucase người ta gọi Stalin bằng cái tên ấy – chắc cũng giơ tay, cũng nhíu mày, cũng nhìn người ta y như bây giờ nhưng ngày xưa những cái đó chẳng làm cho ai kính sợ, không ai nhìn thấy những mệnh lệnh nằm trong những cử chỉ ấy. Chỉ sau khi số người bị bắn chết lên tới một con số nào đó người ta mới bắt đầu nhìn thấy ở những cử chỉ này những ý nghĩa ghê gớm của chúng. Người ta thấy chúng là những mệnh lệnh, những quyết định, những cảnh cáo, những hài lòng hoặc bất mãn. Và nhận thấy mọi người nhận thấy như thế về mình, Stalin tự nhận xét y, và y cũng thấy trong cử chỉ, trong mắt nhìn của y có những ý đe dọa ngầm, y tìm cách kết thúc chúng, do đó mỗi ngày những cử chỉ của y càng ảnh hưởng mạnh hơn đến những người quanh y.
Sau cùng Stalin nghiêm khắc nhìn Abakumov. Y ra lệnh bằng tẩu thuốc gắn trên miệng cho biết Abakumov được ngồi trên chiếc ghế nào.
Abakumov run lên, đi tới và ngồi xuống – nhưng y chỉ ngồi mớm trên mép ghế để có thể đứng dậy được ngay khi cần đến.
“Sao?”
Stalin miệng hỏi, tay xếp lại những tờ giấy trên bàn.
Giây phút chờ đợi đã đến.
Đây là lúc Abakumov biết y phải nắm lấy cơ hội đừng để vuột mất, y phải nói, nói nhiều, nói liên tiếp để cho Lãnh tụ không còn đủ thì giờ đặt câu hỏi. Y hắng giọng và bắt đầu nói, giọng y, đúng với giọng để báo cáo, không lên bổng xuống trầm, nó đều đều, trơn tru, như học trò đọc bài. (Sau đó Abakumov có thể tự sỉ nhục y vì thái độ quỵ lụy, khiếp nhược quá đáng của y trước mặt Stalin, nhất là những lời hứa bừa bãi của y, nhưng y không biết rằng Nhà Độc tài còn càng có vẻ lạnh nhạt với y chừng nào, càng không đòi hỏi gì ở y, y càng sốt sắng phơi bày gan ruột, càng hứa hẹn nhiều và càng ngày y càng rơi sâu xa hơn trong vực thẳm khiếp nhược và hèn hạ.)
Trong những cuộc báo cáo ban đêm này cuả Abakumov, Stalin có vẻ chú trọng nhất đến tình trạng những nhóm chống đối được phát giác. Abakumov biết như thế và trọng tâm bản báo cáo của y đặt vào việc phát giác những nhóm chống đối. Đêm nay y báo cáo với nhà độc tài về nhóm sĩ quan chống đối chế độ trong Trường Võ bị Frunze. Y có thể nói nhiều và nói vào chi tiết vụ này.
Nhưng thoạt đầu, y trình bày những thắng lợi, những tiến triển như ý, khách quan – chính y cũng không biết chắc những thắng lợi, tiến bộ này có thật hay chỉ là những chuyện bày đặt do bọn thuộc viên báo cáo lên y – đa số những tiến bộ này nằm trong kế hoạch ám sát Tito. Y nghiêm trọng báo rằng một trái bom nổ chậm sẽ được đặt dưới du thuyền của Tito trước khi du thuyền này rời bến đưa Tito đến hải đảo Brioni.
Stalin ngẩng đầu lên, đưa tẩu thuốc tắt vào miệng, hút vài hơi không có khói. Người không tỏ vẻ gì là chú ý đến âm mưu này nhưng Abakumov cũng đủ thông minh và đủ biết về người để biết rằng y đã nói đúng vào chuyện phải nói.
“Còn Rankovich? Stalin hỏi.”
“Thưa, Tito, chúng ta sẽ lo cho bọn Rankovich, cả tên Kardel, tên Moja Pijade… Cả bọn chúng sẽ tan xác. Việc đó sẽ xảy ra vào cuốn mùa xuân năm nay.”
(Trái bom nổ chậm được nói là sẽ giết Tito trên nguyên tắc cũng làm tan xác cả thủy thủ đoàn của chiếc du thuyền, nhưng Abakumov không đề cập gì đến chuyện và Người Bạn Thân Nhất của Các Thủy Thủ cũng không hỏi gì đến.)
Nhưng ngay lúc này người đang nghĩ gì trong lúc người ngậm tẩu thuốc tắt trên miệng, nhìn mà như không thấy vào bộ mặt kính cẩn của Abakumov qua đầu mũi khoằm của Người?
Tất nhiên là lúc đó Người không nghĩ đến sự kiện Đảng đã công khai lên tiếng không chấp nhận, không sử dụng những hành động khủng bố cá nhân. Chính người nữa, người cũng từng tuyên bố là không bao giờ người dùng đến thủ đoạn khủng bố. Trong lúc nhìn bộ mặt no đủ, đôi má phị và đỏ hồng của gã đàn ông hãy còn trẻ ngồi trước mặt, người bận nghĩ đến cái chuyện vẫn làm người suy nghĩ mỗi khi người nhìn một tên dưới quyền.
Ý nghĩ thứ nhất của người luôn luôn là câu hỏi: Tên này đáng cho mình tin đến chừng nào?
Và ý nghĩ thứ hai là: Đã đến lúc mình phải thanh toán tên này chưa?
Stalin biết rõ tội trạng của Abakumov trong chiến tranh, biết Abakumov rất giàu và gửi tài sản ở ngoại quốc, nhưng chưa thấy cần trừng phạt y. Stalin không bất mãn vì chuyện Abakumov làm giàu cho cá nhân y, trái lại là khác, nhà độc tài thích dùng những tên tham lam như thế. Bọn tham lam bao giờ cũng dễ sai khiến hơn, dễ trừng phạt hơn nữa. Những kẻ không tham, không cần gì cả luôn luôn là bọn khó trị. Stalin đã chán ngấy những kẻ cam phận chịu nghèo. Lý tưởng của những kẻ chịu nghèo này là một cái gì Stalin không bao giờ hiểu.
Tuy vậy Stalin cũng vẫn không thể tin được Abakumov. Đa nghi là bản tính của Iosif Djugashvili. Không tin ai hết là phương châm xử thế của Stalin.
Người không tin cả bà mẹ đẻ ra người. Người không tin ở vị Chúa Trời mà người từng cúi đầu dưới chân trong suốt mười một năm trời khi người còn trẻ. Sau đó, người không tin những đồng chí cùng đảng với người, nhất là những kẻ giỏi nói, nói hay. Người không tin ở bọn nông dân trừ trường hợp họ bị cưỡng bách lao động và năng suất của họ được kiểm soát chặt chẽ. Người không tin bọn công nhân trừ khi năng suất của họ có tiêu chuẩn và thời hạn nhất định phát đạt được. Người không tin bọn trí thức: Bọn này luôn luôn chống đối và phá hoại. Người không tin bọn tướng lãnh và binh sĩ: Bọn này chỉ chịu chiến đấu vì sợ những tiểu đoàn trừng giới và những giàn súng máy bắn bở ở hậu tuyến. Người không tin những người thân. Cả vợ người, những tình nhân của người, cũng không được người tin. Người không tin con cháu. Và luôn luôn những sự kiện xảy ra cho người thấy rằng người không tin như vậy là đúng.
Trong suốt cuộc đời đa nghi ấy, Stalin chỉ tin có một người, một người mà thôi, một người có thể là bạn tri kỷ cũng có thể là kẻ thù bất đội trời chung. Một mình trong số những kẻ tử thù của Stalin, trước sự nhìn xem đầy hồi hộp, kích động của toàn thế giới, người ấy đã quay mặt lại với Stalin, đã long trọng mời Stalin làm bạn.
Và Stalin đã tin người đó.
Người đó là Adolf Hitler.
Stalin đã ngồi yên nhìn ngắm một cách thích thú khi quân đội của Hitler chiếm Ba Lan, Pháp quốc, Bỉ quốc, khi những đoàn phi cơ của Hitler bay đen kịt trên nền trời Anh quốc, Molotov sợ hãi bay về từ Bá Linh. Những sĩ quan tình báo tới tấp báo cáo Hitler đang tập trung quân đội để mở mặt trận miền Đông. Hees bay sang Anh quốc. Churchill khuyến cáo Stalin về một trận tấn công vào lãnh thổ Nga sắp xảy ra. Mọi người la hoảng chiến tranh sắp đến, Đức sắp tấn công Nga. Bọn đàn bà đi chợ bàn tán về chiến tranh. Riêng một mình Stalin vẫn thảnh thơi vô tư lự.
Stalin tin tưởng ở Hitler.
Lòng tin ấy, chỉ còn thêm chút nữa, là làm cho Stalin mất đầu.
Sau lần tin người duy nhất ấy, Stalin hoàn toàn không tin bất cứ ai, không bao giờ còn tin ai.
Abakumov có thể tỏ ra cay đắng vì tình trạng không được tin cẩn ấy, nhưng y không dám. Theo y, Stalin đã hành động không đứng đắn khi cho gọi Petro Popivod, gã nhà báo khù khờ ấy đến để ra chỉ thị mở chiến dịch báo chí đả kích Tito, Stalin không nên từ chối trao công tác ám sát Tito cho những đặc viên của Abakumov đã khổ công tuyển chọn chỉ vì lý lịch của bọn này không mấy minh bạch. Lẽ ra Stalin phải tin mới phải. Kế hoạch ám sát Tito mà y đang báo cáo đây là do chính Stalin đặt ra. Do đó y không thể biết chắc được kết quả sẽ ra sao nhưng y vẫn cứ phải trả lời về sự thành công hay thất bại của kế hoạch.
Nhưng Abakumov cũng biết rõ tình hình ông chủ của y. Y biết người ta không nên làm việc hết cho mình Stalin, không nên trổ hết tài ba, bản lãnh với Stalin. Stalin không chấp nhận thất bị nhưng cũng không chấp nhận cho người khác thành công. Người khác càng thành công rực rỡ chừng nào càng bị Stalin thù ghét và càng sớm chết chừng ấy. Sự thành công của người khác làm cho Stalin cảm thấy giá trị cùng tài ba của mình kém đi. Không ai khác có quyền thành công trừ Stalin. Với Stalin, chỉ có Stalin mới có thể thành công mà thôi.
Vì vậy, mặc dù luôn luôn tỏ ra cố gắng tận tình, Abakumov thực sự chỉ làm nửa vời – tất cả mọi người khác cũng đều như thế.
Như ông vua Midas trong truyện Ngụ ngôn Thần thoại sờ tay vào vật gì là vật đó biến ra vàng, Stalin làm cho tất cả biến thành tầm thường.
Nhưng đêm nay Abakumov thấy rằng nét mặt Stalin có vẻ tươi lên khi nghe y báo cáo. Trình bày xong những chi tiết về kế hoạch ám sát Tito, Abakumov chuyển ngay sang nhóm chống đối ở Trường Võ bị Frunze, rồi đến nhóm chống đối ở Trường Thần học, y nói liên tiếp, nói tới tấp. Y tránh không nhắc đến hai tiếng điện thoại và tránh nhìn cả vào chiếc máy điện thoại để cho Lãnh tụ khỏi nhớ đến.
Nhưng Stalin đang nhớ…. Ngay lúc đó người đang nhớ đến một chuyện gì đó và chuyện ấy có thể là giàn máy điện thoại đặc biệt. Trán người nhăn lại vì nhiều nếp răn và gân mũi người chun lại. Người chiếu cặp mắt sắc nhìn vào mặt Abakumov (ông Tổng trưởng làm ra vẻ thẳng thắn, lương thiện) nhưng rồi người không nhớ được. Ý nghĩ mơ hồ trôi tuột đi trong óc người. Rồi những nếp nhăn trên trán người mờ đi.
Stalin thở dài, nhồi thuốc vào tẩu và đốt hút.
“À,” người đã nói với việc thở ra làn khói đầu tiên. Người đã nhớ, nhưng mà là nhớ một chuyện khác chứ không phải chuyện người muốn nhớ lại hồi nãy. “Gomulka bị bắt chưa?”
Mới đây Gomulka đã bị cách chức và lập tức rơi ngay vào vực thẳm.
“Thưa, đã”
Abakumov nói ra như người vừa trút được gánh nặng, y nhô người trên ghế (việc bắt Gomulka đã được báo với Stalin, chắc là người chỉ hỏi để kiểm soát). Bắt người là công tác dễ nhất trong những công tác mà Bộ An ninh phải làm.
Ấn một nút điện trên bàn Stalin bật sáng đèn phòng. Những bóng đèn điện trong tường sáng lên. Stalin đi xa bàn viết và với tẩu thuốc thả khói sau lưng, bắt đầu đi đi lại lại trong phòng. Abakumov hiểu rằng cuộc báo cáo của y đã đến lúc Lãnh tụ ra chỉ thị. Y mở quyển sổ ghi mới tinh để trên lòng và rút viết máy ra chờ sẵn. Lãnh tụ ưa thấy những chỉ thị của mình được cẩn thận ghi lại.
Nhưng Stalin đi tới chỗ đặt giàn máy hát đĩa rồi đi trở lại, vừa đi vừa hút thuốc, không có câu nào. Người như đã hoàn toàn quên Abakumov. Khuôn mặt có làn da xám, điểm những vết sẹo đậu mùa của Stalin nhăn lại trong một cố gắng nhớ lại thiểu não. Khi người đi ngang mặt Abakumov, y nhìn thấy hai vai người gù xuống làm chón có vẻ thấp hơn, nhỏ bé hơn. Và – mặc dù Abakumov vẫn sợ hãi gạt bỏ những ý nghĩ tương tự ra ngay khỏi óc, vì sợ có thứ máy móc bí mật nào giấu trong tường ghi nhận được chăng – khi nhìn thấy Lãnh tụ gù xuống như thế, Abakumov nghĩ rằng người chưa chắc đã sống được nổi mười năm nữa. Người sắp chết. Abakumov mong mỏi cái chết của người đến thật nhanh. Tất cả những người sống gần Lãnh tụ đều thầm nghĩ rằng sau khi người chết, họ sẽ được sống một đời tự do, dễ dãi và sung sướng.
Stalin cảm thấy khó chịu nhiều vì sự quên lãng này. Người vừa nhờ rằng có một chuyện gì đó cần hỏi Abakumov nhưng không sao nhớ ra đó là chuyện gì. Bộ óc của người dường như đã từ chối không chịu làm việc. Trong cơn bất lực, Stalin không biết phải ra lệnh cho phần óc nào làm việc để có thể nhớ lại.
Bỗng dưng Stalin ngẩng đầu nhìn lên bức tường. Người vừa nhớ lại một chuyện, nhưng chuyện này vẫn không phải là chuyện người cần nhớ. Chuyện nhớ lại đó có liên hệ đến Viện Bảo tồn Cách mạng. Ở Viện này từng xảy ra một vụ làm cho người khó chịu.
Vụ này xảy ra năm 1937, nhân lễ Kỷ niệm Cách mạng lần thứ Hai mươi. Đó là thế gian Đảng đang bận rộn với việc diễn tả lại lịch sử, đem lại cho những sự kiện lịch sử một ý nghĩa mới. Năm ấy Stalin đến Viện Bảo tồn Cách mạng xem người ta có để ở đó vật nào phản cách mạng hay không. Trong một căn phòng rộng – cũng là căn phòng bày giàn máy Tivi người vừa đứng lại coi hai hôm trước đây – Stalin nhìn thấy khi vừa đặt chân vào hai bức họa chân dung lớn treo ở bức tường trước mặt. Đó là chân dung của Zhelyabov và Perovskaya 1. Hai khuôn mặt này hồn nhiên, hiên ngang, và họ như la lớn với tất cả những ai bước vào phòng:
“Giết tên độc tài!”
Stalin, bị tia nhìn của họ đánh trúng như hai viên đạn, đứng sững lại, khúc khắc ho. Rồi ngón tay của Stalin đưa lên, điểm điểm vào hai tấm chân dung.
Lập tức hai đấm họa đó được mang đi.
Cùng lúc đó di vật thứ nhất của cuộc Cách mạng – những ảnh vụn còn lại của chiếc xe ngựa của Nga Hoàng Alexander Đệ nhị – được mang đi khỏi Cung điện Kshesinskaya.
Từ ngày đó và ngay ngày đó, Stalin ra lệnh xây những hầm bí mật và những nhà riêng để ở khắp nơi. Người mất cái thích sống trong những khu đông dân cư ở thành phố để về sống trong căn nhà nhỏ ở vùng ngoại ô hiu quạnh này với bọn vệ sĩ, hầu cận thân tín nhất.
Càng làm mất cuộc sống của người chừng nào, Stalin càng lo âu, sợ hãi về cuộc sống của chính mình. Người nghĩ ra nhiều biện pháp tinh vi để đề phòng ngay cả bọn lính có nhiệm vụ canh gác bảo vệ an ninh cho người, như việc những binh sĩ đến gác chỉ được biết trước phiên gác của mình một tiếng đồng hồ, binh sĩ gác được tuyển từ khắp các đơn vị và được thay đổi luôn luôn để tránh những cuộc âm mưu. Người tự vẽ lấy những tòa nhà đường đi rắc rối như những mê cung, những tòa nhà có ba hàng rào bao quanh, có những khung cổng thông thẳng với nhau. Và người có nhiều phòng ngủ ngay trong một nhà, ngay cả bọn hầu cận cũng không thể biết trước đêm nay người sẽ vào ngủ ở phòng nào.
Với Stalin, những biện pháp đề phòng ấy không phải là triệu chứng của sự khiếp nhược. Đó chỉ là những việc hợp lý cần làm. Giá trị cá nhân của người vô giá. Nhưng có nhiều kẻ khác vẫn không biết như thế. Để cho đồng đều tất cả Stalin ra lệnh cho tất cả lãnh tụ lớn nhỏ dù ở bất cứ đâu cũng phải đề phòng như thế: Người cấm họ không được vào nhà vệ sinh nếu không có vệ sĩ đi theo, ra lệnh cho họ mỗi khi di chuyển phải có ba chiếc xe hơi giống hệt nhau chạy nối đuôi nhau
Đêm nay, chợt nhớ lại hai bức họa chân dung, Stalin dừng lại ở giữa phòng, quay lại nhìn Abakumov và múa tẩu thuốc trong không khí:
“Đồng chí đã làm những gì để bảo vệ an ninh cho những lãnh tụ Đảng?”
Nghiêng đầu hẳn về một phía, người nheo mắt nhìn vị Tổng trưởng của người với vẻ hiểm độc.
Với quyển sổ ghi mở trên lòng, Abakumov ngồi thẳng lưng, mặt nhìn lên Lãnh tụ – y không đứng lên, cũng không múa tay, vì y biết Stalin thích thấy những thuộc viên ngồi im, y nói ngay vào những vấn đề y không hề chuẩn bị tới đây để nói. Với Stalin, người được hỏi phải trả lời ngay và rõ ràng, đích xác, người coi do dự là một bằng chứng tội trạng mà người nghi ngờ có ở kẻ được người hỏi.
“Iosif Vissarionovich,” Abakumov nói bằng cái giọng xúc động của kẻ trung thành mà bị chủ nghi oan, “đó chính là lý do sự hiện diện của chúng tôi, tất cả Bộ chúng tôi, chúng tôi phải ngày đêm lo gìn giữ an ninh để Lãnh tụ có thể yên tâm suy nghĩ đến những biện pháp dẫn đường cho dân tộc.”
Stalin nói đến “an ninh của những lãnh tụ Đảng” nhưng Abakumov hiểu rằng Stalin chỉ muốn nói đến cá nhân mình và chỉ muốn nghe câu trả lời liên can đến mình.
“Mỗi ngày tôi đều kiểm soát, bắt giam, tầm nã, thẩm vấn không biết bao nhiêu là vụ…”
Với cái đầu vẫn nghiêng như con gà gãy cổ, Stalin vẫn chăm chú nhìn thẳng xuống mặt Abakumov:
“Vẫn còn những tên âm mưu ám sát, phá hoại sao? Bộ chúng vẫn chưa sợ hay sao? Lãnh tụ hỏi.”
Abakumov thở dài như người đang cay đắng nhất đời:
“Tôi rất muốn thưa là chúng đã sợ, đã hết dám. Nhưng sự thật là vẫn còn. Chúng tôi bắt được những võ khí giấu ở trong bếp, ở cả các chợ.”
Stalin nhắm một mắt lại, mắt kia mở và sáng lên sự hài lòng.
Lãnh tụ phán:
“Vậy là tốt. Việc đó chứng tỏ là các anh có làm việc.”
Abakumov không còn có thể ngồi trước mặt Lãnh tụ vĩ đại của y lâu hơn nữa, y nhổm dậy, nhưng y vẫn không đứng thẳng người, y cúi khom khom để cho đầu y khỏi cao hơn đầu lãnh tụ:
“Nhưng kính thưa Chủ tịch, chúng tôi không bao giờ để cho những âm mưu đó có thể thành hình, chúng tôi bóp nát chúng khi chúng mới nhen nhúm. Chúng chỉ mới có ý định là đã bị chúng tôi bắt rồi. Chúng tôi diệt chúng theo tinh thần Điều luật số 19.”
“Tốt, tốt lắm.”
Stalin ra hiệu cho Abakumov ngồi xuống, người không thú vị gì khi thấy tên hộ pháp ấy đứng sừng sững trước mặt.
“Như vậy tức là đồng chí nhận thấy có sự bất mãn trong quần chúng?”
Abakumov lại thở dài và trả lời như tiếc hận:
“Dạ. Tôi nhận thấy có một thiểu số nào đó. “
Y rất muốn nói là: Không, hết thảy quần chúng đều hài lòng, mọi người đều sung sướng. Nhưng nếu nói như vậy Bộ An ninh của y còn bày ra để làm gì?
“Đồng chí nhận xét đúng đấy,” Stalin gật đầu. “Chỉ vì thế mà các người ở Bộ An ninh còn có việc mà làm. Có nhiều người nói với tôi rằng không còn ai bất mãn nữa, tất cả mọi người đều hài lòng.”
Tới đây Lãnh tụ nở một nụ cười mỉa mai:
“Nói như thế là mù tịt về chính trị. Bọn kẻ thù cả chúng ta có thể luôn miệng nói…đồng ý, tán thành, chúng có thể hoan hô ta nhưng đó là chúng giả dối, đó chỉ là chúng ẩn nấp trong những cái vỏ. Trong lòng chúng vẫn chống đối. Chừng năm phần trăm? Đúng không, hay là tám phần trăm?”
Stalin đặc biệt kiêu hãnh vì khả năng nhận thức sâu sắc của mình, khả năng tự chỉ trích và sáng suốt nhất định mọi việc. Người cũng tự cho mình là Lãnh tụ không ưa mình.
Abakumov trở thành can đảm hơn, đôi vành tai y không còn bỏng rát nữa:
“Thưa Chủ tịch, sở dĩ còn tình trạng ấy là do lỗi của chúng tôi. Chúng tôi chưa làm tròn bổn phận.”
Stalin không công nhận nhưng cũng không phủ nhận lời nhận tội đó. Người gõ nhẹ tẩu thuốc lên thành đĩa gạt tàn:
“Còn bọn trẻ? Đồng chí thấy sao?”
Những câu hỏi theo nhau đến với Abakumov như những lưỡi dao nhọn. Y phải làm sao hóa giải được những lưỡi dao ấy mà không bắt lấy cũng không được né tránh. Chỉ một câu trả lời bậy là hỏng hết. Nếu y trả lời: “Bọn trẻ có tinh thần tốt. Bọn trẻ hăng hái, bọn trẻ không có gì đáng trách”, đó là y ngu ngốc, y mù tịt về chính trị, nếu y trả lời: “Bọn trẻ bậy bạ, lười biếng, bọn trẻ chống đối”, đó là y không tin tưởng ở tương lai. Abakumov làm một cử chỉ bằng tay và không nói gì cả.
Stalin cũng không chờ đợi y trả lời. Người nói bằng một giọng biết chắc chắn, biết đúng:
“Chúng ta cần phải chú ý hơn nữa đến bọn trẻ. Phải đặc biệt nghiêm khắc với những lỗi lầm của bọn trẻ.”
Abakumov chợt nhớ và hí hoáy viết.
Stalin như bị lôi cuốn, bị thôi miên vì những ý nghĩ của chính mình. Đôi mắt sáng lên một thứ ánh sáng như mắt cọp ban đêm. Stalin nhồi thuốc vào tẩu và đi đi lại lại trong phòng:
“Chúng ta phải gia tăng việc kiểm soát tinh thần bọn sinh viên. Không những chỉ cần diệt từng cá nhân mà thôi, phải diệt cả nhóm. Chúng ta phải sử dụng đến tối đa những biện pháp trừng phạt mà luật pháp cho phép ta – hai mươi lăm năm tù chứ không phải là mười năm. Mười năm tù – đó là chúng đi học chứ không phải là đi tù. Bọn thiếu niên có thể được hưởng án mười năm nhưng tên nào có râu là phải tù hai mươi lăm năm. Chúng nó còn trẻ, chúng nó có thể sống sau đó.”
Abakumov viết như máy. Bánh xe đầu tiên trong một guồng máy vĩ đại vừa được quay.
“Đã đến lúc phải chấm dứt những tiện nghi trong những nhà giam chính trị phạm. Chúng đi tù chứ không phải chúng đi nghỉ mát. Beria cho tôi biết những gói thực phẩm vẫn còn được phép gửi từ ngoài vào những nhà giam chính trị phạm. Đúng không?”
“Chúng tôi sẽ chấm dứt ngay tình trạng ấy. Chúng tôi sẽ cấm. Tuyệt đối cấm.”
Abakumov với một giọng đau đớn trong khi tay y vẫn viết. Lẽ ra y phải biết chấm dứt tình trạng đó trước, y phải cấm từ trước.
“Đó là lỗi của chúng tôi. Xin tha lỗi cho chúng tôi.”
“Biết bao nhiêu lần tôi đã giải thích kỹ những gì phải làm cho các người? Đã đến lúc các người phải hiểu. Đừng có bất cứ cái gì cũng chờ tôi ra lệnh.”
Người khiển trách nhưng người không giận dữ. Người dịu dàng khuyên răn vì người biết rằng Abakumov sẽ hiểu, sẽ làm được việc. Đã lâu lắm rồi Abakumov mới lại được đấng Từ phụ dạy bảo như thế. Y đã hết hẳn sợ hãi. Bộ óc y hoạt động như bộ óc của một người thường trong một trường hợp rất thường, với những điều kiện thường. Và vấn đề từ lâu đã ám ảnh y, làm cho y khổ sở như cục xương mắc nghẹn trong cổ họng, giờ đây được diễn tả thành lời.
Khuôn mặt sáng lên Abakumov nói:
“Thưa, chúng tôi hiểu. Cuộc đấu tranh giai cấp sẽ được đẩy mạnh hơn nữa. Nhưng thưa chủ tịch, xin chủ tịch xét lại cho, tay chúng tôi bị trói chặt vì việc bãi bỏ án tử hình. Chúng tôi như những kẻ lao đầu vào tường từ hai năm rưỡi nay. Bây giờ chúng tôi không còn được quyền công khai xử tử những tên đáng phải chết nữa. Chúng tôi phải giết chúng. Không có ngân khoản nào để thanh toán tiền công cho những người làm việc ấy. Việc trả tiền trở thành rắc rối. Các trại tập trung, những nhà giam không còn làm cho họ sợ nữa. Chúng tôi cần có án tử hình. Xin cho lại chúng tôi án tử hình!”
Abakumov van xin với tất cả sự chân thành, y đặt hai tay trước ngực và ánh mắt tràn đầy hy vọng, nhìn lên khuôn mặt khô khan của Lãnh tụ.
Dường như là Stalin mỉm cười – mỉm cười nhưng không để lộ, chỉ hàng ria là rung động. Và người nói thản nhiên, thông cảm:
“Tôi biết. Tôi đã suy nghĩ nhiều về chuyện ấy.”
Kỳ diệu, tuyệt vời. Người biết tất cả mọi việc, người suy nghĩ đến tất cả mọi vấn đề. Ngay cả trước khi người khác hỏi đến, người đã biết. Người như một vị thánh sống, như bậc đại giác, đại trí tuệ, người biết trước ý nghĩ của kẻ khác.
“Sẽ có ngày tôi trả lại cho các người án tử hình. Cũng không lâu lắm đâu.” người nhìn thẳng ra trước mặt với vẻ suy tư, như người đang nhìn vào tương lai. “Việc đó sẽ là một biện pháp giáo dục tốt.”
Quả thật người đã suy tư nhiều lắm về vấn đề này. Trong vòng hai năm trở lại đây người đã khổ tâm nhiều với việc thi đua xây dựng xã hội với Tây phương. Người từng tin tưởng rằng con người không đến nỗi quá tồi tệ, quá sa đọa.
Quan niệm sau đây là đặc tính của người: Loại trừ, tẩy chay cho đi đày, bỏ tù chung thân vẫn chưa đủ để đối phó với những kẻ bị người coi là thành phần nguy hiểm. Chỉ có cái chết, chỉ có giết đi mới có thể trừ tiệt được tai họa tận gốc. Và khi mí mắt người rung động, án lệnh áng lên trong mọi người là án tử hình. Bao giờ cũng là án tử hình.
Ở kích thước của người không thể có tội nào nhẹ hơn là tội phải chết. Không có sự trừng phạt nào thấp hơn là phải giết.
Từ khoảng không sáng rỡ mắt người đang nhìn, người chuyển đôi mắt về bộ mặt nở nang của Abakumov và bỗng dưng, mắt người nheo lại, đe dọa:
“Anh không sợ anh là người thứ nhất sẽ bị bắn sao?”
Người không nói lớn tiếng “bắn”. Người để nó rơi nhẹ qua vành môi như đó là một tiếng cố ý bắt người nghe phải đoán.
Nhưng tiếng đó xoáy vào da thịt Abakumov như một luồng gió mạnh. Vị Lãnh tụ anh minh và duy nhất đứng đủ xa tầm tay của Abakumov và chăm chú nhìn vào mặt y xem phản ứng của y với câu hỏi đùa này ra sao.
Không dám đứng lên nhưng cũng không còn dám ngồi, Abakumov nửa đứng nửa ngồi, toàn thân y lom khom trên cặp giò đang run.
“Iosif Vissarionovich, nếu tôi đáng bị…. Nếu cần…”
Stalin nhìn, thông cảm sâu sắc. Ngay lúc này, óc người đang nghĩ trở lại sự thắc mắc hồi nãy: Đã đến lúc mình cần thanh toán tên này chưa? Từ lâu rồi người vẫn sử dụng thâm độc tuyệt vời là: Trước hết khuyến khích kẻ khác làm tới, và sau đó, chờ đúng lúc, kết tội kẻ khác đã đi quá mức, làm quá trớn. Người từng áp dụng thủ đoạn này nhiều lần và lần nào cũng hữu hiệu, cũng thành công. Như vậy nghĩa là đến một lúc nào đó nhất định Abakumov cũng sẽ phải chịu chung số phận với những kẻ bị trừng phạt.
“Đúng lắm,” Stalin nở nụ cười đầy thiện cảm như để ca ngợi Abakumov. ” Khi nào anh đáng bị, chúng tôi sẽ bắn anh.”
Người lại ra hiệu cho Abakumov ngồi xuống, người suy nghĩ một lúc rồi bằng một giọng ấm áp, thân thiện mà Tổng trưởng Bộ An ninh chưa từng bao giờ được nghe thấy người nói:
“Abakumov. Anh sắp có nhiều việc phải làm. Chúng ta sẽ phát động một chiến dịch thanh trừng cũng lớn rộng như năm 1937. Trước một cuộc chiến tranh lớn, một cuộc thanh trừng lớn là cần thiết.”
“Nhưng thưa Chủ tịch,” đây là lần thứ nhất Abakumov dám thốt ra tiếng “nhưng”, “Chủ tịch nghĩ rằng chúng tôi đã ngừng thanh trừng tụi kẻ thù hay sao?”
“Anh gọi đó là thanh trừng ư? Bậy. Thanh trừng đâu phải là việc bắt bớ lẻ tẻ mỗi ngày vài chục tên. Rồi anh sẽ thấy, chúng ta phải củng cố tổ chức, kiện toàn nội bộ. Anh sẽ có thêm nhân viên, thâm ngân khoản. Đủ thứ. Tôi sẽ không từ chối anh bất cứ cái gì.”
Rồi người buông thả Abakumov bằng câu:
“Xong rồi, đi đi…”
Abakumov không biết rõ là y đi bằng hai chân hay y bay ra khỏi văn phòng, qua phòng đợi, đỡ cái cặp da trong tay Poskrebychev và ra khỏi nhà. Không những là y còn được sống yên lành trong một tháng trời nữa mà thôi, cuộc hội kiến đêm nay dường như là đã mở đầu một kỷ nguyên rực rỡ mới trong đời y, dường như y vừa được Lãnh tụ tỏ ý tin cẩn và thương mến hơn ai hết.
Lãnh tụ có nói đến chuyện bắn y – nhưng đó chỉ là Lãnh tụ nói đùa.
— —— —— —— ——-
1 Zhelyabov và Perovskaya là hai người sinh viên trẻ tuổi đã tình nguyện ôm bom đi ám sát Nga hoàng Alexander Đệ nhị. Hành động này mở đầu cho cuộc Cách mạng của dân Nga chống lại chế độ quân chủ. Zhelyabov và Perovska ya cùng nhiều người khác trong nhóm sau đó bị bắt và bị xử tử. Khi ôm bom từ bên đường chạy ra ném vào xe của Nga Hoàng. Hai người trẻ tuổi trên đây hô lớn câu: “Giết tên độc tài”.
Alexander Đệ nhị, Nga Hoàng, trị vì từ năm 1855 đến 1881.